TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

– Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu –
(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Ðường
Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 – TL 1998

***

QUYỂN THỨ 25

Nhiếp tụng ba trong biệt môn sáu:

Dũng kiện dữ bảo khí,
Diệu Quang lan nhã trung,
Nhân năng hoạt khai tửu,
Bất độ tổn chúng thủ.

* Một thời, Phật ở trong giảng đường Lầu Cao, bên bờ hồ Di Hầu, thành Quảng Nghiêm. Có nhiều Bà-la-môn, trưởng giả tụ họp lại một nơi cùng nhau nghị luận: “Sa-môn Kiều Ðáp Ma đam mê các dục và chúng Thanh-văn cũng rất tham lam”.

Khi lời này được nói lên, đang ngồi giữa mọi người, nghe những lời đối đáp của mọi người xong, trưởng giả Dũng Kiện lên tiếng:

– Việc này chưa biết hư thật, tôi đề nghị quý vị nên chính mắt chứng nghiệm về đức Ðại sư Thế Tôn thiểu dục hay đa dục, về chúng Thanh văn cũng như vậy.

Về đến nhà, sau khi kiểm soát lại hết vật dụng bằng vàng bạc, trưởng giả đến gặp Thế Tôn, lạy sát hai chân thăm hỏi sức khỏe rồi ngồi qua một bên.

Sau khi giảng dạy diệu pháp làm cho trưởng giả lợi ích hoan hỷ, Thế Tôn im lặng.

Bước ra khỏi chỗ ngồi, bày vai bên phải, chắp tay hướng về Phật, trưởng giả bạch:

– Xin Thế Tôn từ bi cùng chúng Bí-sô đến nhà con nhận bữa cúng dường nhỏ mọn vào sáng ngày mai.

Ðức Phật im lặng nhận lời. Biết Phật đã nhận lời, trưởng giả từ tạ ra về.

Trưởng giả cũng đến thỉnh các ngoại đạo:

– Sáng mai, con thỉnh Phật và chúng Tăng về nhà thọ thực, các Ngài nên đến đấy cùng dùng bữa.

Trưởng giả lại đến các Bà-la-môn cư sĩ trong thành, báo với họ:

– Tôi đã thỉnh Phật, Tăng và các ngoại đạo dùng bữa tại nhà vào sáng mai. Các vị có thể đến cùng nhau tùy hỷ cúng dường Phật và Tăng.

Ngay đêm ấy, trưởng giả chuẩn bị các món ăn uống thơm ngon thượng hạng cả loại cắn và nhai. Vào sáng sớm, bố trí chỗ ngồi, xếp đặt bồn nước, cây chà răng, bột rửa, những vật cần dùng xong, trưởng giả sai sứ đến bạch Phật:

– Thức ăn đã sẳn sàng, thưa Ngài đến giờ.

Vào sáng sớm, Phật cùng Thánh chúng mặc y bưng bát đến nhà trưởng giả, cùng ngồi vào tòa đã dọn sẳn.

Trưởng giả cùng các Bà-la-môn cư sĩ đem những mâm đựng chén bát xinh đẹp … bằng vàng, bạc, lưu-ly, pha-lê đặc biệt, muốn dọn lên cho Phật cùng Tăng.

Phật bảo A Nan Ðà:

– Ông hãy đến bảo các Bí-sô rằng đây là ý trưởng giả muốn thử nghiệm nên dọn bốn loại mâm đựng vật quý; các ông không nên thọ.

Tôn giả Khánh Hỷ làm theo lời Phật. Nghe dạy, không một vị Bí-sô nào thọ vật ấy cả.

Thấy vậy, trưởng giả dùng đồ vật bằng đỏ trắng đựng thức ăn thơm ngon thượng hạng, tự tay cúng dường làm cho mọi người no đủ.

Sau khi thọ thực, xỉa răng, súc miệng, thu dọn bát xong, trưởng giả trải một chiếu thấp, ngồi trước Thế Tôn.

Phật thuyết pháp làm cho ông ta được lợi ích hoan hỷ và đọc kệ hồi hướng bố thí rồi từ giã ra về.

Bấy giờ các ngoại đạo cùng làm việc phi pháp, không giữ uy nghi, ngồi lộn xộn không theo thứ tự. Trưởng giả bảo người giữ cửa:

– Thấy các ngoại đạo mang các v?t dụng quý như vàng, bạc, lưu ly, pha lê ra cửa, nên lấy lại. Nếu họ nói rằng trưởng giả cho ta, thì bảo họ rằng đưa cho ông trong lúc ăn chứ không cho luôn. Nếu họ không trả thì giữ lại đánh và giật vật ấy lại.

Trưởng giả đem bốn mâm đựng vật quý đưa cho ngoại đạo. Họ liền lớn tiếng đòi hỏi như đưa ta mâm vàng … hay bảo đưa ta vật bằng bạc … cùng nhau gây loạn, cạnh tranh giận dữ nỗi lên, đánh nhau bằng gậy, bằng tay, đấm đá nhau, nhục mạ lẫn nhau, thật là khó coi. Thấy vậy, trưởng giả biểu hiện sự tức giận, khiến cho họ yên tịnh và dọn thức ăn. Sau khi ăn, họ mang các vật ấy ra cửa.

Bị giữ cửa ngăn lại, họ bảo:

– Trưởng giả cho ta, vì sao ngươi giữ lại?

Ðáp:

– Chỉ đưa cho trong khi ăn chứ không cho luôn, hãy để lại mới được đi.

Họ không để lại, người giữ cửa liền đánh, cùng nhau cãi lẫy, tiếng ồn ào vang tận ra ngoài. Nghe tiếng vang dậy, tất cả dân cư nam nữ lớn nhỏ trong thành đều vân tập đến.

Trưởng giả bảo mọi người:

– Các vị có thấy sự khác nhau giữa Phật và Tăng với chúng ngoại đạo không?

Ðáp:

– Chúng tôi thấy.

Trưởng giả nói:

– Phật và Thánh chúng thiểu dục tri túc, ngược lại ngoại đạo dùng pháp luật xấu ác dụ dỗ nhau.

Thấy vậy, đối với đức Phật và Tăng chúng mọi người càng kính trọng và tăng lòng tin thêm lên. Trong nhóm nếu có người không tin hay nữa tin nữa ngờ, nay cũng phát sinh tín tâm với Phật và Tăng.

Về đến trú xứ, rửa chân xong, sau khi an tọa giữa đại chúng như thường lệ, đức Phật bảo các Bí-sô:

– Hạnh thiểu dục có ích lợi lớn như vậy, thế nên Bí-sô không nên ăn uống trong vật đựng quý báu bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Ai ăn như vậy bị tội vượt pháp. Nếu là bậc ly dục thì tùy theo ý của thí chủ.

Khi đến Thiên thượng hay Long cung, do sức phước nghiệp của chúng nên vật đựng thức ăn toàn bằng vàng quý báu không có các vật thường khác, các Bí-sô phàm phu sợ phạm giới nên không dám ăn, đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

– Nếu nơi ấy không tìm được vật dụng khác, họ dọn vật dụng bằng vàng quý báu thì được phép dùng không nên nghi sợ.

* Phật tại thành Thất La Phiệt. Trong thành có một trưởng giả giàu có nhiều của cải đời sống sung túc như vua Tỳ Sa Môn, lấy vợ chưa bao lâu đã có thai. Từ hôm ấy, thân hình người vợ sáng đẹp, khác với lúc trước. Ðầy đủ tháng, bà ấy sinh một bé gái thân hình xinh đẹp, ai cũng thích nhìn, tướng mạo hoàn mỹ xinh đẹp. Vào ngày sinh, trong phòng rực sáng như ánh mặt trời, tiếng đồn về điềm tốt này truyền khắp cả thành phố xóm làng. Mọi người bàn nhau:

– Có trưởng giả … sinh một con gái dung nhan đặc biệt, nhìn thấy đều ưa, thân hình đầy đặn. Vào ngày sinh, trong phòng rực sáng như ánh mặt trời. Hằng ngày, có ngàn vạn người với ý tò mò đến nhà trưởng giả để xem việc lạ này.

Bấy giờ ở phương khác có một tướng sư tiên đoán giỏi, nghe việc lạ này nên đến xem. Xem xong, nhìn khắp bốn phía, ông ta bảo mọi người:

– Quý vị biết không, bé gái này đầy đủ tướng mạo trên đời không có, chuẩn theo sách tướng thì nó sẽ ân ái với năm trăm đàn ông.

Mọi người nói:

– Xem tướng mạo đặc biệt này, với năm trăm người chưa đủ là kỳ lạ.

Khắp nơi xa gần đều nghe lời tiên đóan của tướng sư, mọi người tranh nhau đến xem đông như nêm, huyên náo cả đường phố.

Ðủ 21 ngày, trưởng giả tổ chức đại hội vui mừng, mời hết thân tộc đến đặt tên cho con gái. Mọi người hỏi nên đặt tên gì cho cô bé này. Họ đều nói ngày sinh cháu bé trong phòng chiếu sáng như ánh mặt trời, nên đặt tên là Diệu Quang.

Trưởng giả sai tám bà nhũ mẫu cùng nhau nuôi dưỡng cô bé … nói rõ như những nơi khác. Ðến khi khôn lớn, nhan sắc cô ta rất xinh đẹp diễm lệ tuyệt thế, học tập đủ các loại kỹ nhạc sáo đàn, hình dáng rực rỡ uy nghiêm, lụa là thơm ngát, ở riêng trong phòng tươi sáng tỏa khắp như là thiên nữ trong vườn Diệu Hoa, ngắm hình dung đặc biệt này thật là đáng yêu, rực rỡ hiếm có trên đời. Giả sử tiên nhân ẩn cư, những người ly dục mà trông thấy cô ta, vẫn phát sinh tâm ái dục. Huống chi những đàn ông niên thiếu tích chứa phiền não từ vô thủy, dâm dục mạnh mẽ sao không mê hoặc được. Người cha cùng với gia nhân ngày đêm phòng thủ nghiêm nhặt không rời khỏi mắt.

Bấy giờ, thái tử, đại thần của vua Thắng Quang nước Kiều Tát La và vương tử của các nước khác đều đến cầu hôn nhưng đều rút lui xấu hổ không vừa lòng khi biết lời tiên đoán của tướng sư, Diệu Quang sẽ hành dục với năm trăm người. Nhưng trong ngoài khắp nơi có rất nhiều người lén nhìn vào nhà qua cửa, cửa sổ. Tuy có phòng thủ nhưng khó cấm chế họ. Thấy vậy, Trưởng giả sợ gây họa trong nhà nên trong tâm không yên, suy nghĩ: “Con gái ta đã lớn, dù gặp người không tương xứng đến hỏi cũng gã cho rồi”. Mọi người sợ mang tiếng nên chẳng ai cưới cả. Thấy không ai hỏi đến, trưởng giả buồn bã khổ não sinh bệnh, thân hình gầy ốm.

Trong thành có một trưởng giả giàu có nhiều tài sản, kết hôn chưa bao lâu thì vợ chết, lại tìm vợ khác lần thứ hai cho đến lần thứ bảy cũng đều chết hết. Do đời trước ông ta làm vợ chết sớm nay bị ảnh hưởng nghiệp ác ấy lưu lại. Người đương thời gọi tên ông là Giết-vợ. Trưởng giả Giết-vợ không thể sống cô độc muốn tìm vợ khác nên đến những nhà có con gái để cầu hôn.

Cha mẹ các cô ấy bảo:

– Chẳng lẽ tôi lại muốn giết con gái mình hay sao?

Ông ta lại toan tính, cầu hôn các quả phụ. Họ đều đáp:

– Chẳng lẽ chúng tôi muốn tự sát hay sao?

Trưởng giả tìm phụ nữ khắp nơi nhưng không được nên không còn tâm mong cầu cưới vợ nữa mà đến sống chung với các vị Sa-môn ngoại đạo và đủ các hạng người phạm hạnh nhưng lại suy nghĩ: “Cha ta trước đây là Ô Ba Sách Ca của đức Phật, nay phiền gì lại theo ngoại đạo. Ta nên đến cộng trú với đệ tử Phật, bước đầu thân cận cúng dường, cuối cùng sẽ xuất gia.

Thấy ông ta thường đến rừng Thệ Ða, người bạn cũ hỏi:

– Bạn thường vào chùa, cầu xuất gia phải không?

Ðáp:

– Hiện nay tôi ở một mình coi như đã xuất gia, phiền gì phải cầu nữa!

Ðược hỏi vì sao, ông ta đáp:

– Sau khi vợ chết, tôi lại cưới vợ hai, ba cho đến vợ thứ bảy cũng chết. Người đời đặt tên tôi là Giết-vợ, đều do nghiệp ác đời trước đã gây. Tôi nghĩ rằng cha tôi trước đây quy y Phật, nay còn đi đâu nữa nên phát tâm đến với chúng Bí-sô.

Người bạn nói:

– Tuy biết như vậy nhưng đối với việc vợ con là đạo lý cần phải vẹn toàn, nếu không con cái dòng dõi sẽ bị đoạn tuyệt vậy nên phải tìm kiếm những kẻ tầm thường khác.

Ðáp:

– Tôi phải làm gì đây, vì những nhà được cầu hôn đều nói rằng chẳng lẽ họ muốn giết con gái hay sao?

– Nếu như vậy sao không hỏi các quả phụ?

Ðáp:

– Khi được cầu hôn, họ nói rằng chẳng lẽ tôi tự sát hay sao!

– Như vậy sao đến cầu hôn với cô gái đẹp Diệu-Quang?

Ðáp:

– Tướng sư tiên đoán cô ta sẽ quan hệ với năm trăm người, chẳng lẽ làm cho nhà tôi trở thành nhà dâm nữ mà tất cả đàn ông đều từ bỏ hay sao?

– Bạn có tín tâm, ai lại tự tiện vào nhà trừ khi Bí-sô đến thăm viếng. Bạn nên dạm hỏi.

Ðáp:

– Chắc là họ không chịu gả cho tôi.

– Họ cũng đang lo rầu hoặc sẽ gả cho.

Trưởng giả liền đi đến nhà kia. Trông thấy, người cha cô gái reo lên:

– Xin chào, ông muốn tìm gì?

Ðáp:

– Ước nguyện trong lòng, chưa dám nói ra.

Người cha:

– Nói đi có hại gì?

Ðáp:

– Muốn xin cưới Diệu Quang làm vợ.

Cha nói:

– Ðồng ý.

Trưởng giả tổ chức lễ cưới lớn, xe ngựa rước dâu đưa cô gái về nhà rồi giao hết chìa khóa trong nhà cho vợ mới, bảo rằng:

– Hiền thủ! Trước đây gia đình anh quy y Tam Bảo, lấy đó làm phước điền không tín ngưỡng nơi khác. Em hãy tùy lúc đích thân cúng dường.

Ðáp:

– Lành thay! Em sẽ làm theo.

Khi ấy, hằng ngày trưởng giả thỉnh các Bí-sô đến nhà thọ thực. Ðích thân Diệu Quang cúng dường nên khi thấy Bí-sô nào hình dung tuấn tú tướng mạo siêu phàm thì ghi nhớ trong lòng.

Bấy giờ, trưởng giả có việc cần đi ra ngoài, bảo vợ:

– Hiền thủ! Tta có việc cần, phải đến chỗ … em phải thường xuyên cúng dường phước điền không được gián đoạn.

Ðáp:

– Xin vâng.

Ðến gặp các Bí-sô, trưởng giả thưa:

– Con có việc cần đi đến nơi khác, cầu xin các Thánh giả hằng ngày đến nhà con thọ thực.

Ðáp:

– Chúc ông bình an, chúng tôi sẽ đến.

Sau khi trưởng giả ra đi, Bí-sô đến nhà. Thấy chồng không có nhà, Diệu Quang biểu hiện thái độ lẳng lơ trước các Bí-sô.

Thấy như vậy, sau khi thọ thực, trở về chùa, các Bí-sô bàn nhau:

– Các vị biết không, tướng tội lỗi đã hiện ra, giờ phải làm sao?

Một người nói:

– Sáng mai ta không đến, họ làm gì được!

Người khác nói:

– Ta là người khất thực hãy đi khất thực.

Mọi người đáp:

– Lành thay!

Sáng mai, không một Bí-sô nào đến nhà. Sau khi xong việc, trưởng giả trở về nhà, hỏi Diệu-Quang:

– Thánh giả phước điền thường đến đây thọ thực không?

Ðáp:

– Chỉ đến một ngày, sau đó không đến nữa.

Trưởng giả suy nghĩ:

– Hay là cô này biểu hiện tướng trạng khiêu dâm trước các vị thánh giả làm cho họ sợ tội lỗi nên không đến.

Ông ta đến chùa, ân cần thỉnh lại. Họ đáp:

– Chúng tôi là người khất thực nên giữ pháp bình thường.

Bạch:

– Thánh giả! Con đã tự hiểu, không còn sợ sinh ra lỗi lầm như trước.

Ðược Bí-sô nhận lời, trưởng giả làm lễ ra về.

Hôm khác, Bí-sô đến nhà thọ thực. Sau khi đưa Diệu Quang trong phòng rồi đóng cửa lại, chính tay trưởng giả dâng thức ăn.

Khi Bí-sô đang thọ thực, trong phòng Diệu Quang sinh những vọng tưởng phân biệt … thánh giả … chân thon như vậy, thánh giả … eo lưng, ngực, cổ, mặt, mắt, cho đến đỉnh đầu như vậy. Do chú ý với vọng tưởng như vậy nên sinh tâm rất luyến ái làm cho lửa dục bốc ra thiêu đốt trong ngoài, toàn thân xuất mồ hôi, sinh khí thoát hết nên qua đời.

Sau khi thọ thực, súc miệng rửa tay xong, các Bí-sô tụng kệ chú nguyện rồi ra về.

– Nàng hãy ra ngoài cùng dùng cơm với ta. Trưởng giả mở cửa phòng gọi Diệu Quang nhưng cô ta vẫn im lìm không lên tiếng vì đã qua đời.

Vào phòng, thấy cô ta nằm lăn dưới đất, cho là đang ngủ muốn gọi dậy nên lấy tay lay động, trưởng giả mới hay đã chết. Ông ta khóc lóc sầu thảm bảo người nhà:

– Ta là hạng người bạc phước nhất, ngọc nữ như vậy bỗng nhiên bỏ đi. Hãy báo bên ngoại thân là con gái họ đã mất.

Ðến nơi, thân thuộc đều khóc lóc, đấm ngực áo não, tự đập xuống đất, mắng chưởi trưởng giả, kéo dài như vậy cho đến chiều tối. Họ dùng vải ngũ sắc liệm thây chết đặt lên xe tang đưa vào rừng.

Bấy giờ, cách rừng không xa có năm trăm tên giặc, trộm cướp nơi khác đến trú tại đây. Trên đường, có một người thấy trại bọn cướp nên suy nghĩ: “Mỹ nữ Diệu Quang đã chết, thân tộc gần xa cùng đưa vào rừng, đừng để bọn giặc nhân đó làm bậy. Ta mau đến báo cho họ biết”.

Ðến rừng, ông ta báo:

– Cách đây không xa, có năm trăm tên cướp sắp đến nơi này. Quý vị mau tránh đi chớ để chúng gây hại.

Nghe báo như vậy, xếp đặt đầy đủ tang nghi, sai người hộ vệ,thân tộc buồn bã gạt lệ cùng kéo nhau vào thành.

Khi bọn giặc đến bìa rừng, người phòng thủ bỏ trốn mất. Bọn giặc trông thấy vật tang lễ trang trí rực rỡ, cùng nhau đến xem đều kinh ngạc, giở y phục ra xem thấy dung nhan cô ta tuy chết nhưng vẫn đoan trang như còn sống. Thấy dung nhan cô ta không khác còn sống nên bọn cướp bàn nhau: “Cô gái này xinh đẹp xưa nay chưa từng thấy, tìm kiếm thật xa cũng khó gặp được”.

Sinh tâm nhiễm ô, họ cùng nhau làm việc phi pháp với thây chết, góp năm trăm tiền vàng đặt bên cạnh rồi đi.

Ðến sáng hôm sau, khắp nơi đều nghe Diệu Quang tuy chết, thi hài vẫn tư thông với năm trăm người lấy được năm trăm tiền vàng.

Nghe như vậy, các Bí-sô đều nghi ngờ, thưa hỏi Ð?c Phật:

– Tiền thân Diệu Quang từng làm nghiệp gì mà thân thể xinh đẹp rực rỡ, vào ngày sinh trong phòng chiếu sáng. Tuy chết, tử thi còn tư thông với năm trăm người được năm trăm tiền vàng.

Thế Tôn dạy:

– Này các Bí-sô! Tiền thân Diệu Quang gây nghiệp cuối cùng phải chịu, khi quả báo chín không ai thay thế … cho đến đọc bài kệ như trước.

Các ông nên biết, trong Hiền Kiếp này, khi loài người sống hai vạn tuổi, có Ðức Phật Ca Diếp Ba ra đời, đầy đủ mười hiệu, trú trong rừng Thi Lộc thuộc Bà La Ny Tư. Trong thành này, có vua hiệu Ngật Lật Chỉ là đại pháp vương, an ổn giàu vui không có giặc trộm … nói rộng như các nơi khác. Khi duyên hóa độ đã mãn như củi hêùt lửa tắt, Thế Tôn vào Vô dư y cảnh giới Niết-bàn vi diệu. Bấy giờ vua và mọi người cúng dường trọng thể di thân của Phật. Sau khi hỏa thiêu, họ thu lấy xá lị, xây tháp ngang dọc một Du-thiện-na, cao nữa Du-thiện-na.

Có cư sĩ nữ thấy tháp uy nghi nên sinh tín ngưỡng lấy gương sáng treo vào bánh xe trên tháp, phát nguyện:

– Nguyện con đời sau sinh đến nơi đâu, từ thân cũng phát ra ánh sáng rực rỡ như ánh mặt trời.

Này các Bí-sô:

– Cư sĩ nữ ngày xưa, nay là Diệu Quang. Do năng lực ngày xưa treo gương phát nguyện nên nay được quả báo thân như nhật quang, khi sinh ánh sáng chiếu khắp cả phòng. Lại nữa nên biết, tuy cô ấy chết rồi mà thân còn giao hội với năm trăm người được năm trăm tiền vàng. Các ông nên nghe về nhân duyên này.

– Ngày xưa, ở Ba La Nại Tư có vua tên Phạm Thọ là đại pháp vương … như trước. Trong thành có một dâm nữ tên là Hiền Thiện dung nhan xinh đẹp ai cũng thích nhìn. Trước đây, em vợ vua có tư thông với cô ta.

Có năm trăm mục đồng vào trong vườn cây chơi đùa, bảo với nhau:

– Trong vườn này, chúng ta đã chơi đủ các cách rồi chỉ chưa cùng giao hội với thiếu nữ, nên kiếm về đây.

Mọi người khen phải. Muốn tìm ai đây, họ đều đồng ý Hiền Thiện nên đến bảo cô ta:

– Thiếu nữ, hãy đến vườn cây cùng nhau hoan lạc.

Ðáp:

– Có ngàn đồng tiền vàng, tôi sẽ cùng đi, bằng không thì thôi.

– Hãy lấy năm trăm, sau khi hoan lạc sẽ giao đủ năm trăm nữa. Mục đồng nói.

Ðáp:

– Tùy ý.

Sau khi nhận năm trăm tiền vàng, cô gái bảo bọn kia đi trước, trang điểm hương hoa y phục xong sẽ đi sau.

Họ đi rồi, cô gái suy nghĩ: “Nếu ta quan hệ với năm trăm người kia, làm sao sống nổi, đã đưa năm trăm tiền việc này phải tính sao đây?”

Cô ta mưu tính:

– Em vợ vua từng có giao tình với ta, nếu nhờ cậy chắc được cứu giúp.

Sau khi tính vậy, cô ta sai tỳ nữ đến gặp vị kia nói:

– Em vô ý nhận năm trăm tiền vàng để hoan lạc với năm trăm người. Nếu tư thông với năm trăm người chắc em khó sống nổi. Nếu không đi, em sẽ bị phạt tiền vàng gấp bội. Trước đây, em rất vừa ý ngài, có cách gì để cứu cho thóat khỏi.

Sau khi được nô tỳ cho biết, dựa thế lực của vua, em vợ vua làm cho cô ta không phải đi cũng không hoàn lại tiền.

Bấy giờ, trên đời không có Phật, chỉ có bậc Ðộc-giác xuất thế thương kẻ nghèo nàn, sống dưới gốc cây, được gì ăn nấy, trên thế gian chỉ có ruộng phúc này.Vị Ðộc-giác này du hóa nhân gian đến Balanytư tìm nơi tịch tịnh để an trú, thấy năm trăm người tụ tập một chỗ. Họ thấy Tôn giả thân tâm an tịnh khác hẳn người thường, cho rằng đây là chân phúc điền thật khó được gặp, nên phải cúng dường để trồng nhân trong tương lai, cùng nhau tính toán, dọn món ăn uống thơm ngon đặt đầy bát, chí thành dâng lên Thánh nhân.

Thông thường vị Ðộc-giác không thuyết pháp chỉ hiện thân tướng làm cho mọi người phát thiện tâm, liền bay lên hư không hiện các thần biến, từ thân trên dưới lửa nước phun ra sáng rực. Thấy thần thông, phàm phu liền sinh kính tín, toàn thân nằm dài xuống đất như đại thọ ngã, làm lễ thượng nhân kia, phát nguyện rộng lớn:

– Chúng con đích thân cúng dường phước điền chân thật này, đem thiện căn này làm cho được cùng giao hội với dâm nữ Thiện Hiền dù là tử thi cũng trả năm trăm tiền.

Bí-sô nên biết, Thiện Hiền ngày xưa nay là Diệu-Quang. năm trăm người ngày xưa, nay là năm trăm tên cướp. Do cúng dường bậc Thánh giả, lại do sức phát nguyện nên lưu chuyển sinh tử trong năm trăm đời thường đưa năm trăm tiền cùng làm việc phi pháp. Cho đến ngày nay, dâm nữ Diệu Quang tuy đã chết, họ vẫn đưa năm trăm tiền cho thây chết để cùng làm việc xấu.

Thế nên các ông phải biết, gây nghiệp ác không ai chịu thay thế … cho đến nói kệ như trước. Các ông nên bỏ nghiệp đen và tạp, nên tu tập nghiệp thuần trắng, nên học như vậy.

Các Bí-sô nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Bấy giờ, Thế Tôn suy nghĩ rằng đến gia đình như vậy, khi thọ thực có những tai hại cho các Bí-sô như thế, nên bảo họ:

– Diệu Quang có những vọng tưởng với các Bí-sô đến nỗi bỏ mạng. Thế nên các ông không nên đi đến những nhà như vậy mà nhận cúng dường của họ để sinh ra lỗi lầm. Bí-sô nào đến gia đình như vậy để sinh lỗi lầm, bị tội vượt pháp.

Ðức Phật tại Vương-xá, một Bí-sô kia tu tập thiền định nên thường đến A Lan Nhã để thực hành. Có ma nữ sinh tâm phi pháp thỉnh Bí-sô hưởng thụ. Bí-sô không nhận lời.

Ma nữ nói:

– Thánh giả, nếu không được thụ hưởng, tôi sẽ gây bất lợi cho ngài.

Ðáp:

– Ðại tỷ, tôi là người trì giới, làm sao chị gây việc bất lợi được.

Ngay trước Bí-sô, ma nữ nói ra những lời khó chịu. Từ đó về sau thường theo rình khuyết điểm của Bí-sô.

Một hôm, Bí-sô ngồi chỗ vắng dùng y trùm thân, bỗng nhiên ngủ quên. Thấy vậy, ma nữ nghĩ rằng đây chính là lúc ta báo oán, nên vác Bí-sô lên lầu, chỗ vua Thắng Quang ở. Trong lúc vua đang ngủ, ma nữ liền ném Bí-sô trên người vua. Bị đánh thức, vua hỏi:

– Ai đó?

Ðáp:

– Tôi là sa môn.

Hỏi:

– Sa môn nào?

Ðáp:

– Thích-ca tử.

Vua hỏi:

– Vì sao thánh giả đến đây?

Bí-sô đem sự việc nói với vua.

Vua hỏi:

– Sao lại cư trú ở nơi nguy hiểm như vậy, nếu con chưa phải là Phật tử thì ngài đã không còn tính mệnh rồi và làm cho thánh giáo bị phá hoại.

Nghe như vậy, vị này đành im lặng trở về nói với các Bí-sô. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật.

Ðây là do các Bí-sô cư trú nơi nạn xứ đáng sợ nên có lỗi như vậy. Sau khi suy nghĩ, Phật bảo các Bí-sô:

– Ðại vương Anh Thắng chê bai rất đúng. Thế nên các Bí-sô không được cư trú chổ nạn xứ như thế. Ai cư trú như vậy, bị tội vượt pháp.

* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô bị mụt nhọt. Thầy thuốc đến thấy như vậy nên phá ra nhưng có việc đi gấp nên không bó thuốc kịp làm cho Bí-sô bị đau đớn. Thấy vị này đau đớn, các Bí-sô bảo nhau:

– Các cụ thọ, ai biết điều trị nên làm cho vị ấy hết khổ.

Có Bí-sô trẻ tuổi điều trị cho vị kia.

Bấy giờ y vương suy nghĩ: “Vừa rồi ta phá mụt nhưng không bó thuốc vậy nên đến làm”.

Ông ta đến nói: “Tôi đã phá mụt nhưng chưa đặt thuốc”.

Ðáp:

– Ðã làm.

Hỏi:

– Ai làm?

Ðáp:

– Bí-sô trẻ tuổi.

Sau khi xem xét, biết là thuốc tốt nên y vương bảo:

– Vào ngày khác nếu không có tôi thì nên làm như vậy.

Ðáp:

– Vừa rồi tôi tùy nghi tạm làm theo cách này nhưng đức Thế Tôn chưa cho phép.

– Thế Tôn đại bi tất cho phép làm.Y vương nói.

Bí-sô bạch Phật, Phật dạy:

– Này các Bí-sô, nếu có người giỏi về thuốc nên để họ điều trị, nhưng ở chỗ khuất chớ cho người tục thấy. Nếu nơi trống trải, bị tội vượt pháp.

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Có các tịnh tín Bà-la-môn cư sĩ đến chùa hỏi Bí-sô:

– Con có bệnh như vậy nên uống thuốc gì và ăn gì?

Các Bí-sô, người không biết y học thì không đáp được, người giỏi y học cũng sợ phạm tội nên không trình bày ra, làm cho những người thế tục kia buồn bã trở về. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

– Nếu Bí-sô nào giỏi về y học nên chỉ bày cho họ, không phạm.

* Duyên xứ như trước. Sau khi Thế Tôn hiện thần biến chiến thắng ngoại đạo làm trời người vui mừng, những phi nhân ở bên ngoài tùy theo chỗ ở của mình như thành phố xóm làng hay tại trung gian của thế giới đều đến thành Thất La Phiệt. Ðại sư Thế Tôn và đại chúng ở nơi khác đến thường được Thiên long, Dược-xoa, vua Thắng-Quang chúa nước Kiều Tát La, phu nhân Thắng Man, phu nhân Hành Vũ, cư sĩ Tiên Thọ, cư sĩ Cố Cựu, Tỳ Xá Khư mẹ Lộc Tử cùng nhau cúng dường thức ăn và y phục, làm cho những người ở nơi khác đến cũng được đầy đủ.

Bấy giờ các phi nhân đều sinh tham đắm nên ở lại nơi này không về chỗ cũ. Phi nhân nào có dục tâm thì biến hóa giống hình dáng của chồng để hành dục với vợ họ, sinh ra trai gái tay chân đầu mặt giống hình phi nhân, khác với người thường. Có đứa mắt đỏ đen hoặc đầu to thân hình ngắn hoặc tóc xanh lè hoặc xen tạp màu vàng. Thấy vậy, người mẹ rất kinh hoàng đem đứa bé bỏ ở chỗ hiểm vắng. Trông thấy con mình, phi nhân cha truyền sức sống vào. Có đứa khi mới sinh giống với hình người nhưng khi lớn lên hiện ra tướng phi nhân nên cũng bị mẹ chúng vứt bỏ như trước. Khi quỷ cha gặp chúng liền nuôi dưỡng cho thành người.

Thấy như vậy, Lục chúng bảo nhau:

– Này Nan Ðà, Ô-Ba Nan Ðà, những tên Bát Ðen trộm môn đồ của ta. Nuôi dưỡng nên người, chúng liền đưa đi. Chúng ta thu góp môn đồ như vậy như vậy làm cho bọn Bát Ðen không thể dụ dỗ được.

Vào sáng sớm, Ô-Ba Nan Ðà mặc y mang bát vào thành khất thực, trên đường gặp người tóc vàng nên suy nghĩ: “Hình dáng như vậy không phải là hạng bọn Bát-Ðen nhận nuôi dưỡng, nếu họ xuất gia ta sẽ độ cho”.

Ðến gặp người kia, Ô-Ba Nan Ðà hỏi:

– Hiền thủ, người là con nhà ai?

Ðáp:

– Tôi không nhà cửa chỉ có một mình.

Hỏi:

– Nếu như vậy, sao không xuất gia?

Ðáp:

– Tôi là người tóc vàng, ai lại cho tôi xuất gia để làm thầy vua.

– Hiền thủ, giáo pháp của Ðức Ðại sư lấy từ bi trên hết. Nếu đồøng ý, ta sẽ làm thầy cho người xuất gia.

Rất vui mừng, người ấy theo vào chùa được xuất gia và thọ cận viên.

Sau vài ngày dạy bảo phép tắc cho họ, Ô-Ba Nan Ðà bảo:

– Hiền thủ! Há không nghe rằng nai không nuôi nai, đất đai thành Thất La Phạt rộng lớn là nơi hoạt động của cha, nên khất thực nuôi thân để sinh sống.

Hôm sau, vị tân Bí-sô mặc y bưng bát vào thành khất thực. Khi mang thức ăn ra cúng dường thấy Bí-sô ấy, người phụ nữ đấm ngực la lên:

– Ông là loại người tóc vàng mà ai lại cho xuất gia vậy!

Ðáp:

– Ô Ba Nan Ðà là thân giáo sư của tôi.

Họ nói:

– Trừ hành động ác của vị ấy ra, ai lại gây ra việc tai hại trong giáo pháp của Thế Tôn!

Những kẻ bất tín ở đường phố thôn phường cùng nhau chê bai:

– Sa môn Thích tử làm việc phi pháp độ cả loại tóc vàng xuất gia.

Bí-sô bạch Phật. Do các Bí-sô độ người như vậy xuất gia nên gây ra lỗi lầm, thế nên Bí-sô không nên độ tóc vàng xuất gia. Phật nghĩ vậy và bảo các Bí-sô:

– Người thế tục chê bai rất đúng. Thế nên Bí-sô không nên phá hủy phép tắc của mọi người mà cho họ xuất gia. Ai làm như vậy bị tội vượt pháp.

Như lời Phật dạy không cho xuất gia những loại như vậy. Bí-sô không biết thế nào là phá hủy phép tắc của mọi người. Phật dạy có hai trường hợp xấu ác phá hủy phép tắc của mọi người. Một là chủng tộc, hai là hình tướng. Chủng tộc là thuộc gia đình giòng họ hạ tiện bần hàn tầm thường, làm thuê mướn, ăn uống không đủ, hoặc Chiên-đà-la, Bốc-yết-sa làm cây, làm tre, giặc y phục, nấu rượu, thợ săn … gọi là chủng tộc xấu ác. Hình tướng là tóc vàng xanh đỏ trắng hoặc tóc như lông voi, hoặc không tóc, hoặc đầu thô to dài, đầu lừa, đầu heo, đầu chó, tai như bàng sinh, không tai, mắt có các bệnh như vàng đỏ quá lớn hay quá nhỏ …, mắt mù tai điếc, răng bị bệnh hay không răng, bị hoạn, hai căn, hạ bộ bị phong, không căn, thân thể quá thô kệch hay quá nhỏ, gầy ốm, màu da đáng sợ, tay chân không đủ, các bệnh ghẻ lở, những trường hợp như vậy bị Ðại tiên ngăn không cho độ cận viên.

Như có kệ tụng:

Ngươi trong pháp Tối thắng,
Thọ thi-la đầy đủ,
Thường chí tâm phụng trì,
Khó được thân đầy đủ,
Ðoan chính để xuất gia,
Bậc thanh tịnh viên cụ.
Lời chân thật nói ra,
Tri kiến Ðấng Chánh-giác .

Khi ấy Ô-Ba Nan Ðà đem số tóc vàng kia bán cho trẻ làm đồ chơi. Phật dạy:

– Ai bán tóc bị tội Tốt-Thổ-La-Ðể-Dã.

Tụng thứ tư trong biệt môn sáu:

Ðà sách đẳng tam đồng,
Vong do tự tinh vấn,
Ðại thần thông đại dược,
Ðao tử hạ thiên cung.

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Cụ thọ Ô-Ba Ly có hai cầu-tịch. Một người tên Ðà Sách Ca, người kia tên Ba-Lạc Ca. Hai người này rất thân thiết hòa thuận với nhau.

Người này bảo người kia:

– Bạn nên thọ Cận viên đi, tôi sẽ phục vụ cho thân giáo sư và bạn không để thiếu thốn.

Nghe như vậy, người kia cũng nói như thế. Hai người đều giúp đỡ trông nom hỗ trợ nhau nên không ai chịu thọ cận viên trước cả.

Cụ thọ Ô-Ba Ly thưa Thế Tôn:

– Ðại đức! Một Thân-giáo-sư, một Bình-giáo-sư, một Yết-ma-sư được phép cho hai đệ tử cùng thọ cận viên một lần không?

Phật dạy:

– Ðược.

Hỏi:

– Hai người này, ai lớn hơn?

Ðáp:

– Bằng nhau.

Hỏi:

– Ðược phép ba người cùng thọ một lần không?

Ðáp:

– Ðược.

Hỏi:

– Ba người này ai lớn hơn?

Ðáp:

– Bằng nhau.

Hỏi:

– Ðược phép cho bốn người cùng thọ một lần không?

Phật dạy:

– Không được.

Hỏi:

– Vì sao?

Ðáp:

– Không được chúng làm yết-ma cho chúng, không hợp lý. Nếu ai cố làm như vậy bị tội vượt pháp.

Hỏi:

– Thế Tôn! Nếu những người ấy thọ giới một lần thì không có ai lớn nhỏ. Làm sao lễ kính và làm tri sự, nhận vật lợi dưỡng?

Phật bảo Ô Ba Ly:

– Những người này không nên lạy nhau; nếu làm tri sự hoặc nhận vật lợi dưỡng, tùy theo người khác sai và lĩnh thọ vật họ trao.

* Duyên xứ như trước. Ô-Ba Ly thưa hỏi Thế Tôn:

– Ðại đức! Trong đời tương lai, con người dễ quên, niệm lực suy kém không biết Thế Tôn thuyết kinh điển nào, chế học-xứ nào, ở địa phương thành phố xóm làng nào; trường hợp này phải làm sao?

Phật dạy:

– Tại Ðại Chế Ðể ở sáu thành lớn là nơi Như Lai trú lâu nhất, nói những nơi ấy không phạm.

Hỏi:

– Nếu quên các hiệu vua thì phải nói thế nào?

Phật dạy:

– Vua thì nói Thắng Quang, trưởng giả thì Cấp Cô Ðộc, Ô-Ba Tư Ca thì Tỳ Xá Khư … nên biết như vậy.Ðối với nơi khác thì tùy theo vua hay trưởng giả ở đó mà nói.

Hỏi:

– Nếu nói về nhân duyên sự việc về trước, nên nói nơi nào?

Ðáp:

– Tùy lúc mà nói Bà-La Ny Tư, vua hiệu Phạm Thọ, trưởng giả tên Tương Tục, Ô-Ba Tư Ca tên Trưởng Tịnh.

Hỏi:

– Ðối với kinh điển không thể ghi nhớ, làm sao thọ trì?

Phật dạy:

– Nên ghi trên lá giấy để đọc tụng thọ trì.

    Xem thêm:

  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 27 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 28 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 11 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 23 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 22 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 07 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 32 - Luật Tạng
  • Tỳ Nại Da - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 08 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 20 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 30 - Luật Tạng
  • Luật Tứ Phần – Phần 3: Tăng Sự – Chương 6. Y - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 31 - Luật Tạng
  • Luật Tứ Phần – Phần 4: Tạp Pháp – Chương 5. Điều Độ - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 37 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 36 - Luật Tạng
  • Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Hàm Chú Giới Bổn - Luật Tạng
  • Pháp Thức Căn Bản Của Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ Tì Nại Da Về Việc Xuất Gia - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 21 - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 18 - Luật Tạng