Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413, có thuyết cho là 350-409): âm dịch tiếng Phạn là Cứu Ma La Thập (究摩羅什), Cưu Ma La Thập Bà (鳩摩羅什婆), Câu Ma La Đổ Bà (拘摩羅耆婆), gọi tắt là La Thập (羅什), . dịch là Đồng Thọ (童 壽), người gốc nước Quy Tư (龜兹, thuộc vùng Sớ Lặc [疏勒], Tân Cương [新疆]), một trong 4 nhà dịch kinh vĩ đại của Trung Quốc. Cả cha mẹ ông đều tin thờ Phật theo hạnh xuất gia; lúc nhỏ La Thập đã thông mẫn, năm lên 7 tuổi theo cha nhập đạo tu tập, rồi đi du học khắp xứ Thiên Trúc (天竺), tham cứu khắp các bậc tôn túc nổi tiếng đương thời, nghe rộng và ghi nhớ kỹ, nên tiếng tăm vang khắp. Sau đó ông trở về cố quốc, nhà vua trong nước tôn kính ông làm thầy. Vua Phù Kiên (扶堅) nhà Tiền Tần nghe đức độ của ông, bèn sai tướng Lữ Quang (呂光) đem binh đến rước ông.
Lữ Quang chinh phạt miền Tây giành thắng lợi, rồi đến nghênh đón La Thập về kinh, nhưng giữa đường nghe Phù Kiên qua đời, bèn tự xưng vương ở Hà Tây (河西), do đó La Thập phải lưu lại Lương Châu (涼州) 16, 17 năm. Mãi cho đến khi Diêu Dư (姚輿) nhà Hậu Tần tấn công dẹp tan nhà họ Lữ, La Thập mới có thể đến Trường An (長安) được. Lúc bấy giờ là năm thứ 5 (401) niên hiệu Long An (隆安) nhà Đông Tấn. Diêu Dư bái ông làm Quốc Sư, thỉnh ông đến trú tại Tiêu Dao Viên (逍遙園), cùng với Tăng Triệu (僧肇), Tăng Nghiêm (僧嚴) tiến hành công tác dịch kinh. Từ đó về sau, vào tháng 4 năm thứ 5 (403) niên hiệu Hoằng Thỉ (弘始) nhà Hậu Tần, La Thập bắt đầu dịch Trung Luận (中論), Bách Luận (百論), Thập Nhị Môn Luận (十二 門論), Bát Nhã (般若), Pháp Hoa (法華), Đại Trí Độ Luận (大智度論), A Di Đà Kinh (阿彌陀經), Duy Ma Kinh (維摩經), Thập Tụng Luật (十頌律), v.v. Có nhiều thuyết khác nhau về số lượng kinh luận do ông phiên dịch. Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集) cho là 35 bộ, 294 quyển. Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋教錄) là 74 bộ, 384 quyển. Từ khi Phật Giáo được truyền vào Trung Hoa, số lượng kinh điển Hán dịch ngày càng tăng nhiều, tuy nhiên lối dịch phần nhiều không thông suốt, văn chương khó hiểu, chẳng nhất trí với nguyên bản. Riêng La Thập thì vốn thông hiểu nhiều ngôn ngữ ngoại quốc, cho nên nội dung phiên dịch của ông hoàn toàn khác xa với các dịch bản trước đây, văn thể tuy giản dị nhưng súc tích, rõ ràng. Suốt đời La Thập đã đem tất cả năng lực của mình để phiên dịch các kinh điển Đại Thừa thuộc hệ Bát Nhã, cùng với những luận thư của học phái Trung Quán thuộc hệ Long Thọ (龍樹), Đề Bà (提婆). Những kinh điển Hán dịch của ông có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự phát triển Phật Giáo ở Trung Hoa.
Sau nầy Đạo Sanh truyền Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận về phương Nam, kinh qua Tăng Lãng (僧 朗), Tăng Thuyên (僧詮), Pháp Lãng (法朗), cho đến Cát Tạng (吉藏) nhà Tùy hình thành hệ thống Tam Luận Tông, và thêm vào Đại Trí Độ Luận (大智度論) để thành lập học phái Tứ Luận. Ngoài ra, Kinh Pháp Hoa (法華經) do ông phiên dịch đã tạo nhân duyên cho Thiên Thai Tông ra đời; Thành Thật Luận (成實論) là điển tịch trọng yếu của Thành Thật Tông; A Di Đà Kinh (阿彌陀經) cũng như Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (十住毘婆沙論) là kinh luận sở y của Tịnh Độ Tông. Bên cạnh đó, Di Lặc Thành Phật Kinh (彌勒成佛經) giúp cho tín ngưỡng Di Lặc phát triển cao độ; Phạm Võng Kinh (梵綱經) ra đời làm cho toàn Trung Quốc được truyền Đại Thừa giới; Thập Tụng Luật (十頌律) trở thành tư liệu nghiên cứu quan trọng về Luật học. Môn hạ của La Thập có Tăng Triệu (僧肇), Đạo Sanh (道生), Đạo Dung (道融), Tăng Duệ (僧叡), Đàm Ảnh (曇影), Tăng Đạo (僧導), v.v. Ông được kính ngưỡng như là vị tổ của Tam Luận Tông. Vào năm thứ 9 (413, có thuyết cho là năm thứ 5 [409]) niên hiệu Nghĩa Hy (義熙), ông thị tịch, hưởng thọ 70 tuổi.
(Trích Tiểu Sử Chư Vị Cao Tăng)
Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva)
Cưu Ma La Thập tiếng Hán dịch là ‘Đồng Thọ’, có nghĩa là tuy tuổi nhỏ mà đức hạnh lão luyện. Danh Cưu Ma La Thập vốn là Cưu Ma La Kỳ Bà. Vì tên của người Tây Vực đa số thường dùng danh tự của cha mẹ. Cha của Ngài tên là Cưu Ma Đàm, và bà mẹ tên là Kỳ Bà, nên hợp lại hai tên, thành Cưu Ma La Kỳ Bà. Tổ tiên của Ngài vốn cư trú ở nước Thiên Trúc, gia tộc đời đời thường làm cao quan trong triều đình. Ông nội của Ngài làm tể tướng, tên là Đạt Đa, tánh tình hào phóng, lỗi lạc siêu quần, được quốc dân kính trọng. Cha của Ngài, Cưu Ma Đàm, thông minh mà lại có đức độ. Lúc sắp kế thừa ngôi Tể Tướng, ông bèn nhượng từ mà xuất gia, đi hướng về phía đông nam, vượt qua ngọn Thông Lãnh, để đến nước Quy Từ (Kuchar). Lúc Cưu Ma Đàm chưa vào biên cảnh nước Quy Từ, quốc vương đã nghe danh của ông là từ bỏ vinh hoa phú quý để xuất gia tu đạo, nên khởi tâm cung kính vô biên, bèn ra đến tận biên thùy nghinh tiếp, rồi tôn ngưỡng làm quốc sư. (Các vương quốc ở Tây Vực vì tôn kính chư sa môn, nên thường có phong tục là tôn làm quốc sư.)
Quốc vương có một người em gái, tên là Kỳ Bà, lứa tuổi đôi mươi, tài hoa sắc xảo, thông minh mẫn tiệp, đọc qua kinh thư một lần liền hiểu rõ, nghe qua một lần liền thuộc nhớ. Trên mặt bà có một nốt ruồi son, mà các ẩn sĩ thường bảo đó là tướng lành, sẽ sanh được quý tử. Thế nên, chư quốc vương tranh nhau mang lễ vật cầu hôn, mà bà không vừa ý. Song, vừa thấy Cưu Ma Đàm, bà ta bèn chịu làm vợ. Quốc vương biết ý của cô em, nên cưỡng ép Cưu Ma Đàm thành hôn với bà ta. Cưới nhau chẳng bao lâu, họ sanh ra được ngài Cưu Ma La Thập. Lúc ngài Cưu Ma La Thập còn nằm trong bào thai, bà Kỳ Bà có nhiều khả năng lạ thường. Từ lúc mang thai ngài Cưu Ma La Thập, trí huệ và thần ngộ liễu giải của bà ta vượt hơn người thường. Nghe đại tùng lâm Tước Lê có nhiều vị danh tăng đắc đạo, bà cùng với các phụ nữ dòng vương gia quý tộc, và các ni sư tu hành đắc đạo, đến nơi đó thiết lễ trai tăng, thỉnh pháp nghe kinh. Đại tùng Lâm Tước Lê vốn ở tại nước Kiền Đà La (Gandhara); nơi đó có một tháp tự nổi tiếng là Tước Ly Phù Đồ. Đang lúc nghe kinh, bà ta tự thông hiểu ngôn ngữ Thiên Trúc, và đối với bao vấn đề khó khăn, đều đối đáp không do dự. Người người đều lấy làm kỳ lạ. Một vị A La Hán tên là Đạt Ma Cù Sa, bảo:
– Đây là điềm báo ứng rằng bà ta nhất định đang mang thai một vị đại trí huệ. Xưa kia, khi tôn giả Xá Lợi Phất còn nằm trong bụng mẹ, đã từng khiến cho mẫu thân được biện tài vô ngại.
Ngài Cưu Ma La Thập xuất sanh vào khoảng năm 340; sau khi Ngài ra đời, mẫu thân không thể biết được tiếng Thiên Trúc. Thời gian sau, mẹ Ngài phát tâm xuất gia, nhưng cha Ngài không cho phép. Chẳng bao lâu, bà ta sanh thêm một người con trai, tên là Phất Sa Đề Bà. Lần nọ, nhân dịp ra ngoài thành du ngoạn, bà thấy nơi nghĩa địa xương cốt bày la liệt khắp nơi, bèn thâm cảm nhân sanh khổ, không, vô thường, nên quyết chí xuất gia. Bà nguyện rằng nếu không xuống tóc làm ni, thì đoạn tuyệt ăn uống cho đến chết. Cứ như thế trải qua sáu ngày, hơi thở bà dần dần kiệt quệ. Cha Ngài thấy tâm bà ta đã quyết chí, nên đáp ứng lòng mong cầu của bà ta, mà cho phép xuất gia, nhưng bà vẫn không tin; mãi đến khi được người khác cạo tóc cho, bà mới chịu ăn uống trở lại. Sau đó, bà liền vào chùa, thọ giới và học pháp thiền. Từ đó, bà tu hành tinh tấn không chút giải đãi, nên mau chóng chứng sơ quả Tu Đà Hoàn.
Lúc được bảy tuổi, ngài Cưu Ma La Thập cũng theo mẹ đi xuất gia, và lại theo thầy bổn sư, đọc tụng kinh thư. Mỗi ngày, Ngài đọc thuộc một ngàn câu kệ. Mỗi câu kệ có ba mươi hai chữ. Tổng cộng là ba mươi hai ngàn chữ. Thầy bổn sư của Ngài lại thường đưa cho kinh điển A Tỳ Đàm, và chỉ giải thích sơ qua thôi, mà Ngài liền thông đạt, không gặp trở ngại. Vì thế, thần đồng Cưu Ma La Thập học thuộc hết kinh luận Tỳ Đàm.
Vì mẹ Ngài xuất thân từ dòng vương gia, nên người nước Quy Từ cúng dường bà ta rất thâm hậu. E sợ việc này ảnh hưởng đến sự chuyên tâm tu hành, nên chẳng bao lâu bà ta dẫn Ngài đi sang nước khác. Lúc chín tuổi, Ngài theo bà mẹ vượt sông Tân Đầu để đến nước Kế Tân. (Ngài Phật Đồ Trừng xuất thân tại nước Quy Từ, rồi qua nước Kế Tân tu học. Đó là phong tục thông thường vào đương thời. Nước Kế Tân vốn là nơi mà thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ rất được thạnh hành. Hậu bán thế kỷ thứ tư, có rất nhiều tăng sĩ mang kinh điển nguyên thủy và luận học của Nhất Thiết Hữu Bộ từ nước Kế Tân truyền vào Trung Thổ, điển hình là ngài Tăng Già Đề Bà mang kinh Tăng Nhất A Hàm, kinh Trung A Hàm, luận A Tỳ Đàm Bát Kiền Độ, luận A Tỳ Đàm Tâm. Ngài Đàm Ma Da Xá mang luận Xá Lợi Phất A Tỳ Đàm. Ngoài ra, ngài Phất Nhã Đa La và Ti Ma La Xoa mang quyển Thập Tụng Luật. Ngài Phật Đà Gia Xá mang Tứ Phần Luật và kinh Trường A Hàm. Khoảng giữa năm 400, ngài Phật Đà Bạt Đà La truyền dịch kinh Hoa Nghiêm và kinh Tân Vô Lượng Thọ. Năm 411, ngài Đàm Vô Sấm truyền dịch kinh Đại Bát Niết Bàn và các bộ kinh Đại Thừa khác. Do đó, có thể xét đoán là thời gian ngài Cưu Ma La Thập sang nước Kế Tân, kinh điển Tiểu Thừa và kinh điển tân Đại Thừa đã được lưu truyền rộng rãi.)
Nơi đó, có một danh tăng cao đức là Bàn Đầu Đạt Đa (Bandhudatta), vốn là em của vua nước Kế Tân, học vấn thâm sâu, tâm lượng bao dung rộng rãi, tài trí bác học, thật hiếm có trong đương thời. Pháp sư Bàn Đầu Đạt Đa vốn là vị tổ thứ bốn mươi chín tiếp nối theo truyền thống của thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Đối với ba tạng kinh luật luận và chín bộ, đều thông suốt liễu đạt tường tận. Từ sáng đến trưa, tay viết cả ngàn câu kệ. Từ trưa đến tối, cũng có thể học thuộc cả ngàn bài kệ. Thanh danh vang lừng khắp các vương quốc ở Tây Vực. Người người đều tôn xưng là bậc đại học giả.
Khi đến nước Kế Tân, ngài Cưu Ma La Thập liền lễ bái tín phụng, và theo pháp sư Bàn Đầu Đạt Đa học tập kinh kệ như Tạp Tạng, Trung A Hàm, Trường A Hàm, v.v… Ngài Cưu Ma La Thập cũng có thể học thuộc bốn trăm ngàn chữ trong một ngày. Pháp sư Bàn Đầu Đạt Đa thường khen ngợi thiên tư thần tuấn của ngài Cưu Ma La Thập, nên thanh danh chóng sớm truyền đến tai quốc vương nước Kế Tân. Do đó, quốc vương nước Kế Tân thỉnh ngài Cưu Ma La Thập vào cung, rồi chiêu tập các luận sư ngoại đạo, để cùng nhau tranh tài biện luận. Thấy ngài Cưu Ma La Thập tuổi nhỏ, nên lúc chưa bắt đầu tranh luận, các luận sư ngoại đạo khinh dễ xem thường, hiển lộ qua những lời lẽ vấn đáp. Ngài không lộ chút sợ sệt. Mỗi lần đưa ra câu nào, đều khiến đối phương không thể tìm được phương cách nào để bài bác. Hồi sau, luận sư ngoại đạo đều tâm phục khẩu phục. Qua buổi tranh luận đó, quốc vương nước Kế Tân lại càng hậu đãi Ngài, nên cúng dường thâm hậu, và sai năm đại tăng cùng mười sa di đến chùa phục dịch hầu hạ Ngài.
Năm mười hai tuổi, bà mẹ dẫn Ngài trở về nước Quy Từ. Trên đường, họ đi ngang qua núi Bắc Sơn ở nước Đại Nhục Chi, gặp một vị A La Hán. Vừa thấy ngài Cưu Ma La Thập, vị A La Hán kia bèn biết đây chẳng phải là phàm nhân, nên bảo với bà mẹ:
– Bà nên lo lắng kỹ càng chú tiểu sa di này. Nếu đến năm ba mươi lăm tuổi mà không phá giới, thì có thể hưng long đại pháp, cứu độ vô số chúng sanh, đồng với tổ Ưu Ba Cúc Đa không khác. Ngược lại, sẽ không thành tựu được gì, mà chỉ là một pháp sư tài trí thù thắng bình thường.
Lần nọ, đến nước Sa Lặc (Kashgar), thấy một bình bát của Phật, Ngài bèn để lên đầu, rồi khởi tâm suy nghĩ:
– Quái lạ ! Bình bát này hình thể thật to, mà để lên đầu lại không cảm thấy nặng ?
Niệm đó vừa khởi lên, thì Ngài cảm thấy bình bát nặng trĩu vô cùng. Lúc bà mẹ hỏi nguyên do, Ngài bèn đáp:
– Chỉ vì con khởi tâm phân biệt bình bát nặng nhẹ.
(Trong quyển Tây Vức Ký, ngài Đạo An viết: “Nước Sa Lặc có tượng Phật Mộc Dục, làm bằng gỗ chiên đàn, từ phương tây đem đến, để nơi cung điện mà cúng dường”.
Y cứ vào đây thì thấy rằng giữa thế kỷ thứ tư, Phật giáo đã được truyền vào nước Sa Lặc, nên quốc vương mới có tượng Phật Mộc Dục để cúng dường tại hoàng cung. Đầu thế kỷ thứ năm, sa môn Trí Mãnh đã từng sang đó để lễ bái Thánh tích. Quyển ‘Xuất Tam Tạng Ký Tập’ thứ mười lăm ghi: “Lại nữa, tại nước đó, thấy bình bát của Phật màu sắc xanh tím, bốn bề sáng lạn. Thầy Trí Mãnh dâng hoa cúng dường, đảnh lễ phát nguyện rằng nếu bình bát có linh ứng, thì có thể nặng và có thể nhẹ. Phát nguyện xong, thầy Trí Mãnh bèn nâng bình bát lên, rồi từ từ cảm thấy bình bát nặng trĩu, không thể cầm nổi, nên phải đặt xuống. Đang lúc đặt xuống thì thầy Trí Mãnh cảm thấy bình bát lại nhẹ đi”.
Tín ngưỡng tôn sùng bình bát của Phật được lưu truyền rộng rãi từ Thiên Trúc cho đến các nước ở Tây Vức. Thế nên, chính tự thân ngài Cưu Ma La Thập thể nghiệm được sự linh ứng về bình bát của Phật.)
Năm đầu lưu trú tại nước Sa Lặc, ngài Cưu Ma La Thập học thông luận A Tỳ Đàm, luận Lục Túc, kinh Tăng Nhất A Hàm, và hiểu rõ thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ.
Nước Sa Lặc có một vị tam tạng pháp sư, tên là Hỷ Kiến, nghe qua thanh danh của ngài Cưu Ma La Thập, vị nầy liền bảo quốc vương nước đó:
– Xin quốc vương chớ khinh thường chú tiểu sa di đó, mà hãy cung thỉnh vào triều giảng kinh thuyết pháp, thì sẽ được hai việc lành: Thứ nhất, chư sa môn của nước ta, khi nghe những lời thuyết pháp của vị sa di đó, sẽ tự cảm thấy không bì kịp, nên nhất định sanh tâm hổ thẹn, nỗ lực tu hành. Thứ hai, quốc vương nước Quy Từ nhất định sẽ hiểu rõ là nước chúng ta hậu đãi tôn trọng Cưu Ma La Thập cũng là biểu hiện sự tôn trọng nước Quy Từ. Nếu được như thế, thì hai nước sẽ bang giao hòa thuận.
Nghe lời của pháp sư Hỷ Kiến, quốc vương nước Sa Lặc đáp ứng sự yêu cầu, nên thiết lập đại pháp hội, lễ bái và cung thỉnh ngài Cưu Ma La Thập thăng tòa giảng kinh Chuyển Pháp Luân. Quốc vương nước Quy Từ nghe tin này, bèn sai sứ đem lễ vật sang hậu tạ, khiến tình giao hảo của hai nước càng thêm khắng khít.
Tuy là bậc thần đồng, nhưng Ngài không lấy đó làm tự mãn, mà thường chú trọng vào việc nghiên cứu ba tạng nội điển, tức kinh điển nguyên thủy Phật giáo và học luận thuyết Nhiết Thiết Hữu Bộ, rồi tiến thêm một bước nữa là nghiên cứu ngoại tích luận lý cổ điển như luận Vệ Đà Hàm Đa, Tứ Vệ Điển, luận Ngũ Minh (thanh minh, công xảo minh, y phương minh, nhân minh, nội minh), âm dương toán số, y thuật, thiên văn chiêm bốc, đoán việc kiết hung.
Tại Sa Lặc, ngài Cưu Ma La Thập theo sa môn Tu Lợi Da Tô Ma (Surya-Soma) học pháp Đại Thừa. Quyển ‘Bách Luận Tự Sao’ viết: ỀSa môn Tu Lợi Da Tô Ma vốn là hoàng tử nước Sa Lặc, xuất gia tu học theo giáo pháp Đại ThừaỂ.
Bàn về phương diện giáo pháp, lập trường của giáo lý Tiểu Thừa và Đại Thừa hoàn toàn khác hẳn. Ngài Cưu Ma La Thập vốn tu theo giáo Tiểu Thừa, nhưng từ lúc gặp được sa môn Tu Lợi Da Tô Ma và thường qua lại thân mật, thì tầm nhìn về pháp Đại Thừa được khai mở. Ban đầu, để giáo hóa, sa môn Tu Lợi Da Tô Ma đến trước cửa phòng của ngài Cưu Ma La Thập mà cố ý đọc to kinh A Nậu Đạt, với ý nghĩa tất cả đều là không. Xa xa vọng nghe được lời kinh này, nên sáng hôm sau ngài Cưu Ma La Thập bèn hỏi sa môn Tu Lợi Da Tô Ma:
– Bạch Thầy ! Hôm qua Thầy đọc kinh gì vậy ?
Sa môn Tu Lợi Da Tô Ma bảo:
– Đó là kinh Đại Thừa.
– Nghĩa lý thế nào ?
– Bàn về tất cả đều không.
– Mọi việc trước mắt đều là thật có, vậy sao gọi là không ?
– Nếu mắt mà xem thấy có vật, thì Ta hỏi vậy chứ có vật nào tồn tại dài lâu ?
– Còn lại tính chất của cái thấy.
– Nếu cái thấy là tánh chất tồn tại, thì sao không tự thấy con mắt của mình ? Lại nữa, con mắt do một cực vi trần hay nhiều cực vi trầnẠ hợp thành ? Nếu bảo do một cực vi trần hợp thành, thì cái thấy cũng là một cực vi trần. Nếu không thể thấy được một cực vi trần thì đương nhiên là không thể thấy được nhiều cực vi trần. Ngoài ra, nếu cực vi trần có hình tướng thì nó phải đầy đủ tánh chất rộng lớn hay nhỏ hẹp. Tuy nhiên, nếu nó là rộng lớn thì không thể là cực vi trần được. Không đầy đủ tánh chất rộng lớn nhỏ hẹp thì làm sao gọi là có hình tướng được ?
Nghe qua lời này, ngài Cưu Ma La Thập không thể đối đáp được, nên lặng thinh. Dùng lý luận của thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, ngài Cưu Ma La Thập cho rằng nhãn cănẠ là pháp trần thật có. Sa môn Tu Lợi Da Tô Ma đáp rằng nhãn căn vốn do duyên hợp mà thành, chẳng phải thật có. Đây là sự tranh luận giữa thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và Không Quán. Ngài Cưu Ma La Thập từ từ liễu ngộ lý lẽ pháp Đại Thừa, nên tự than:
– Xưa kia học theo pháp Tiểu Thừa, thường chẳng biết có vàng bên trong, mà chỉ cho đồng thiếc là quý.
Nhờ đó, ngài Cưu Ma La Thập bắt đầu theo sa môn Tu Lợi Da Tô Ma học kinh luận Đại Thừa như Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận, v.v… Từ đó, ngài Cưu Ma La Thập hoàn toàn chuyển hướng về pháp Đại Thừa, và xem đó là sự trọng yếu của việc tu hành.
Thời gian sau, Ngài theo người mẹ đến rặng núi Thiên Sơn của nước Ôn Túc (Ush), nằm về phía bắc của nước Quy Từ. Tại nước đó, có một đạo sĩ biện tài vô ngại, danh vang lừng khắp các nước lân cận. Lần nọ, ông ta đánh trống, tuyên bố với mọi người:
– Hễ có ai biện luận thắng được Ta, thì Ta sẽ cắt đầu để xin tạ tội.
Nghe lời này, Ngài bèn đến biện luận với ông ta. Kết quả đạo sĩ đành tự nhận là bị thua, nên lễ bái quy y Ngài. Từ đó, thanh danh của Ngài vang lừng khắp các vương quốc ở Tây Vực, khiến vua Quy Từ phải tự thân đến nước Ôn Túc cung thỉnh Ngài trở về bổn quốc. Vào lúc đó, Ngài thường đăng đàn giảng kinh. Các bậc thạc học uyên bác bốn phương đều chiêm tâm ngưỡng phục.
A Kiệt Da Mạt Đế, tức công chúa nước Quy Từ, xuất gia làm ni, tụng đọc kinh điển, thâm đạt thiền quán, chứng nhị quả A La Hán, rồi vân tập đại chúng, cung thỉnh Ngài giảng giải nghĩa thâm áo của kinh Phương Quảng. Do đó, Ngài đăng tòa thuyết pháp, xiển dương lý ‘tất cả đều không có ngã thể’ và ấm giớiẠ ‘chỉ là giả danh, chẳng thật có’. Đại chúng nghe những lời này đều vui mừng tán thán.
Năm hai mươi tuổi, ngài Cưu Ma La Thập theo sa môn Ti Ma La Xoa (Vimaraksa), một vị kiệt xuất về luật học, thọ đại giới cụ túc tại hoàng cung. Sa môn Ti Ma La Xoa vốn là người nước Kế Tân, nhưng lại qua nước Quy Từ để hoằng dương Luật Tạng, nên học giả bốn phương đều canh cánh đua nhau theo học. Ngài Cưu Ma La Thập theo sa môn Ti Ma La Xoa mà học Thập Tụng Luật.
Sau này, mẹ ngài nói với vua Bạch Thống của nước Quy Từ:
– Quốc gia sắp bị suy vong. Tôi phải rời chỗ này.
Bà lại hỏi ngài Cưu Ma La Thập:
– Việc truyền kinh điển Phương Đẳng cùng các kinh điển Đại Thừa sang Đông Độ, đa phần nhờ vào con ! Tuy nhiên con sẽ không được lợI lạc gì cả, vậy thì phải làm sao ?
Ngài thưa:
– Đạo Bồ Tát là làm lợi ích cho tha nhân, phải quên đi chính mình. Đạo pháp nếu được lưu truyền, khiến người người lãnh hội khai ngộ, thì dẫu thân có thọ khổ dầu sôi lửa bỏng, vẫn không hối tiếc.
Khi đến Thiên Trúc, bà ta lại chứng được tam quả A La Hán (tức quả A Na Hàm).
Lần nọ, cư trú tại chùa Tân Tự ở nước Quy Từ, Ngài định mở kinh Phóng Quang Bát Nhã ra đọc tụng, thì ác ma đến quấy phá, khiến kinh văn đều biến thành tờ giấy trắng. Thấy mình bị ác ma quấy nhiễu, Ngài vẫn kiên quyết không chuyển tâm, cứ việc tụng đọc, nên cuối cùng ác ma phải thối lui, và kinh văn hiện ra trở lại. Lần khác, đang đọc kinh điển Đại Thừa tại đại tùng lâm Tước Lê, Ngài chợt nghe trong chùa có tiếng bảo:
– Ngài là một vị đại trí huệ, vậy sao còn đọc tụng kinh thư ?
Ngài bảo:
– Nầy tiểu quỷ ! Hãy mau đi chỗ khác. Tâm Ta kiên cố như đại địa, chẳng có gì làm chuyển động.
Do nhờ vận dụng trí quán Bát Nhã mà lập trường tu hành của Ngài không thối chuyển dẫu gặp ma sự.
Hai năm kế, Ngài vẫn lưu trú tại nước Quy Từ để tụng đọc kinh điển Đại Thừa, cùng nghiên cứu giáo nghĩa thâm sâu áo diệu. Vua nước Quy Từ thiết lập tòa sư tử, trải lụa kim tuyến lên tòa ngồi, rồi cung thỉnh Ngài đăng đàn thuyết pháp. Ngài bảo:
– Thầy của Ta chưa lãnh hội yếu chỉ kinh điển Đại Thừa. Ta muốn tự thân qua đó để thuyết pháp giáo nghĩa Đại Thừa, nên không thể lưu lại ở đây lâu được.
Ngẫu nhiên thay, vì nghe thanh danh của ngài Cưu Ma La Thập, và biết vua nước Quy Từ tín phụng Phật pháp, nên sa môn Bàn Đầu Đạt Ma không quản đường xa vạn dặm đến nước Quy Từ. Lúc vị sa môn này vào hoàng cung, vua nước Quy Từ hỏi:
– Tại sao Đại Sư lại lặn lội đến vương quốc của Trẫm ?
Sa môn Bàn Đầu Đạt Ma đáp:
– Có hai lý do: Thứ nhất, tôi nghe rằng đệ tử của mình là Cưu Ma La Thập đã đại triệt ngộ. Thứ hai, vì nghe rằng Đại Vương hộ trì hoằng dương Phật pháp, nên tôi không quản đường xá xa xôi mà đến quý quốc.
Nghe thầy bổn sư đến, rất hợp với ý nguyện, nên tâm Ngài vui mừng vô ngần. Biết rằng trước kia thầy mình không tin kinh Đức Nữ Vấn, nên Ngài bèn giảng lại bộ kinh này, để xiển dương đạo lý nhân duyên đều ‘huyễn giả và không thật’ cho thầy bổn sư nghe. Vị thầy bổn sư vốn theo giáo lý Tiểu Thừa, không biết do duyên cớ gì mà người đệ tử lại tín phụng pháp quán “Tánh Không” của Đại Thừa. Do đó, nghe ngài Cưu Ma La Thập giảng xong, vị thầy bổn sư hỏi:
– Nơi giáo nghĩa Đại Thừa, ngươi thể nghiệm được việc gì, mà lại tôn sùng như thế ?
Ngài nói:
– Nghĩa lý Đại Thừa thâm sâu, thuyết minh đạo lý tất cả đều là không. Giáo nghĩa Tiểu Thừa, vì thường bị kẹt trên danh tướng, nên phần nhiều vẫn còn bị hạn chế.
– Ngươi bảo tất cả đều là không. Luận điệu này thật đáng sợ ! Còn xả bỏ vật chi thì còn có tồn tại, sao lại thích nơi không không. Ví như kẻ si cuồng muốn cầu thợ, dệt cho một tấm lụa mỏng. Khi dệt xong, người thợ bèn đưa cho gã xem. Gã bảo rằng lụa vẫn còn thô, chưa được nhu nhuyến, vì vẫn còn thấy hình tướng. Người thợ dệt tức giận, chỉ tay lên trời bảo rằng đó là tấm vải nhu nhuyễn nhất. Kẻ si cuồng hỏi rằng tại sao không thấy được. Thợ dệt bèn đáp là vì quá nhu nhuyễn nên không thể thấy. Nghe lời này, gã si cuồng vui mừng cảm phục. Ngươi nói không không, cũng giống như thế.
Ngài vẫn kiên quyết, dẫn trích kinh điển, không từ mệt nhọc mà giải thích cho vị thầy bổn sư nghe. Suốt một tháng tranh luận về giáo nghĩa Đại Thừa, cuối cùng vị thầy bổn sư thâm hiểu triệt ngộ những lời giảng dạy của Ngài. Do đó, sa môn Bàn Đầu Đạt Đa trịnh trọng đảnh lễ ngài Cưu Ma La Thập mà bảo:
– Ta là thầy dạy giáo nghĩa Tiểu Thừa của ngươi. Ngươi là thầy dạy giáo nghĩa Đại Thừa của Ta.
Các quốc vương ở Tây Vực, vì bái phục tôn sùng, nên mỗi lần Ngài thăng tòa thuyết pháp, họ đều quỳ ngay bên cạnh tòa giảng.
Đương thời, nước Quy Từ là nơi cứ điểm của Phật giáo Tiểu Thừa. Hai sa môn người Tàu là Tăng Thống và Đàm Sung cầu bản giới luật tỳ kheo ni từ sa môn Phật Đồ Thiệt Di, một vị cao tăng trưởng lão, thống lý bốn đại tùng lâm như Vân Mộ Lam, Tân Tự, Tân Lam, Tăng Già Lam; tổng cộng có hơn ba trăm năm mươi tăng sĩ. Tất cả giới học giả kinh A Hàm đều y theo trưởng lão Phật Đồ Thiệt Di mà tu học. Đương thời, tại đó còn có các đại tùng lâm lớn như: Đạt Mộ Lam (có 170 tăng sĩ), Bắc Thượng Chí Lê Lam (có 50 tăng sĩ), Kiếm Mộ Vương Tân Lam (có 60 tăng sĩ), Thấp Túc Vương Lam (có 70 tăng sĩ). Quốc vương cũng tự cho xây đại tùng lâm Tân Tăng Lam, có khoảng chín mươi tăng sĩ. Đây là nơi mà ngài Cưu Ma La Thập thường trú ngụ. Ngoài ra, còn có các ni viện như A Lệ Lam (180 ni cô), Luân Nhã Thiên Lam (50 ni cô), A Lệ Bạt Lam (30 ni cô). Các tỳ kheo ni ở ba ni viện này đa số đều là các phụ nữ dòng vương thất đến tu hành, và họ đều thọ giới từ trưởng lão Phật Đồ Thiệt Di. Quy chế tu hành trong các ni viện rất nghiêm cẩn, khắc khổ. Tỳ kheo ni phải giữ giớI tinh nghiêm. Mỗi ba tháng các tỳ kheo ni đều phải thay đổi nơi cư trú. Khi ra ngoài phải có ba người đồng hành. Nếu ra ngoài mà không có ai đồng hành thì sẽ bị đuổi ra khỏi ni viện.
Ngài Phật Đồ Trừng cũng đã từng qua nước này tu học. Sa môn Bạch Thi Lê Mật Đa cũng đem kinh điển Mật giáo từ nơi đây sang Trung Quốc.
Xưa kia, ngài Cưu Ma La Thập cũng vốn là đệ tử của sa môn Phật Đồ Thiệt Di. Hậu bán thế kỷ thứ tư, kinh điển Đại Thừa như kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma Cật, kinh A Di Đà, cùng giáo lý Không Quán phát triển mau chóng mạnh mẽ do công của ngài Cưu Ma La Thập truyền vào, sau khi đã tu học tại nước Sa Lặc. Được nghe những lời giảng giải của ngài Cưu Ma La Thập, sa môn Phật Đồ Thiệt Di bèn tin nhận nghĩa lý Đại Thừa. Thế nên, giữa ngài Cưu Ma La Thập và sa môn Phật Đồ Thiệt Di cũng có mối quan hệ ‘vừa là thầy, và vừa là học trò’.
Sau khi Ngài đến Cô Tạng thì giáo nghĩa Đại Thừa ở nước Quy Từ dần dần suy yếu; vì không có ai xiển dương, nên giáo nghĩa Tiểu Thừa chiếm lại ưu thế. Pháp sư Đạt Ma Bạt Đà (dịch là Pháp Hiền), người nước Quy Từ, thiên tánh thông minh, thông đạt hết ba tạng kinh điển, biết rất nhiều ngôn ngữ ngoại quốc, nhưng lại cho rằng pháp Tiểu Thừa là cao siêu tối cực, nên tự sanh ngã mạn, phỉ báng kinh điển Đại Thừa. Bấy giờ sa môn Tu Lợi Da Tô Ma (vị thầy dạy giáo Đại Thừa của ngài Cưu Ma La Thập), từ nước Sa Lặc sang đến Quy Từ diễn giảng kinh Pháp Hoa, và chiết phục được Đạt Ma Bạt Đà, quy hướng về Đại Thừa. Sau này, vì thiếu danh tăng Đại Thừa, mà chư sa môn Tiểu Thừa giới luật tinh nghiêm, từ nước Kế Tân thường qua nước Quy Từ truyền pháp, nên dần dần toàn quốc đều kính phụng giáo lý Tiểu Thừa.
Đương thời, ở Trung Thổ, chính nhằm lúc Ngũ Hồ mười sáu nước, và Tiền Tần Phù Kiên có oai thế hùng mạnh. Trong giới Phật giáo quốc nội, Phù Kiên đã từng nghe qua thanh danh của ngài Đạo An tại Tương Dương, nên sau này thỉnh mời về Trường An hoằng pháp.
Niên hiệu Kiến Nguyên thứ mười ba (377), vào tháng giêng, có quan thái sử quán sát tinh tượng, dâng tấu bẩm với Phù Kiên:
– Tại nước ngoài, tinh tú hiện nơi vùng hoang dã, chắc có vị đại đức trí huệ, và trong tương lai sẽ qua Trung Thổ, phò trợ quốc gia.
Phù Kiên bảo:
– Ta nghe rằng tại Tây Vực có ngài Cưu Ma La Thập. Điềm lành như thế, chính là vị đó.
Lần nọ, vua nước Tiền Đô là Xa Sư và em của vua nước Quy Từ là Hưu Mật Đà, đồng vào triều tâu với Phù Kiên:
– Tây Vực có nhiều trân châu bảo quý, thỉnh cầu Đại Vương xuất binh bình định, khiến họ thần phục.
Theo quyển ‘Xuất Tam Tạng Ký Tập’ thứ tám, trong bài tựa về kinh Ma Ha Bát Nhã Bàn La Mật, ngài Đạo An viết rằng vua Tiền Đô là Xa Sư đến Trung Thổ vào tháng giêng, niên hiệu Kiến Nguyên thứ mười tám (382), và dẫn theo một vị quốc sư tên là Cưu Ma La Bạt Đề (Kumarabhadra), cùng triều cống một bộ Đại Phẩm có bốn trăm hai mươi ngàn lời, và hai mươi ngàn bài kệ.
Nghe theo lời của hai vị vương gia ngoại quốc, vào tháng chín năm 382, Phù Kiên phái kiêu tướng Lữ Quang thống lãnh bảy mươi ngàn quân sang xâm chiếm Tây Vực. Lúc Lữ Quang sắp xuất chinh từ Trường An, Phù Kiên tiễn Lữ Quang tại cung Kiến Chương, bảo:
– Đế vương thuận thiên mạng mà trị quốc, nên phải lấy lòng thương dân làm gốc. Sao lại có ý đồ tham vọng mà chinh phạt lân bang ? Trẫm lấy vương đạo làm yếu chỉ, nên vì ngưỡng mộ vị đạo nhân mà cho quân chinh phạt. Trẫm nghe rằng tại Tây Vực có kỳ nhân Cưu Ma La Thập, vị có khả năng thâm giải pháp tướng, hiểu rõ âm dương, tinh tú, khiến hàng học giả đều tôn sùng. Trẫm tự nghĩ đó là bậc hiền triết quý báu của quốc gia. Nếu phá được nước Quy Từ, hãy lập tức dẫn Cưu Ma La Thập trở về ngay.
Trước khi quân của Lữ Quang đến nước Quy Từ, ngài Cưu Ma La Thập bảo vua Bạch Thống:
– Vận nước đã đến hồi suy vi. Chẳng bao lâu sẽ có kẻ địch từ phương đông đến. Xin Đại Vương hãy cung kính đón tiếp họ, chớ nên giao tranh.
Vua Bạch Thống không chịu nghe lời Ngài, cứ dẫn quân ra nghinh chiến với Lữ Quang. Đến tháng chạp năm 383, Lữ Quang dẫn quân bao vây cung thành Quy Từ, nhưng chưa tiến vào. Vào tháng năm năm 384, vua Bạch Thống nhân cơ hội đó, cho người đi cầu cứu viện binh từ các nước lân cận như Sa Lặc, Ôn Túc, v.v… Tuy nhiên, vào tháng bảy năm 384, Lữ Quang xua quân vào thành, sát hại hàng vạn sanh linh. Vua Bạch Thống cũng bị tử trận. Quân Lữ Quang vào thành, thấy cung thành có ba tầng tròn và rộng như thành Trường An. Trong thành có cả ngàn tháp miếu. Cung thất của vua Bạch Thống tráng lệ nguy nga như cung điện chư thiên. Tiến chiếm thành xong, Lữ Quang lập em của vua Bạch Thống là Bạch Chấn lên ngôi. Thấy vị tăng sĩ mà Phù Kiên tôn sùng, tuổi tác còn trẻ, Lữ Quang vì không phải là Phật tử, chỉ có tánh thô lỗ hung tàn, nên cưỡng ép ngài Cưu Ma La Thập uống rượu, rồi bức bách lấy mỹ nữ trong cung, nhưng Ngài cự tuyệt. Thấy vậy, Lữ Quang bảo:
– Người có đức hạnh, không thể vượt qua cha mình. Cha của Hòa Thượng đã từng lấy vợ, vậy sao Hòa Thượng kiên trì không muốn lấy vợ ?
Nói xong, Lữ Quang lại ép uống rượu, rồi nhốt Ngài vào trong mật thất với mỹ nữ. Sau đó, Lữ Quang lại bắt Ngài cỡi trâu và cỡi ngựa điên, cùng dùng bao cách để làm nhục. Tuy nhiên, Ngài cố nhẫn chịu những sự hành hạ nhục mạ cay đắng, mà không khởi chút oán giận hay sợ sệt. Cuối cùng, thấy sự kiên trì giữ giới hạnh cùng nhẫn thọ bao cực hình của Ngài, khiến cho Lữ Quang phải cảm động ân hận, không còn gia hình thô bạo nữa.
Bình định xong nước Quy Từ, Lữ Quang không nghe tin tức gì về quốc nội, bèn khởi tâm nghi ngờ là trong nước có chiến loạn, nên lưu trú lại đó. Tuy vẫn còn giam giữ, nhưng dần dần Lữ Quang tín nhiệm Ngài. Tháng giêng năm 385, Lữ Quang triệu gia thần vào cung rồi hỏi coi có nên trở về bổn quốc hay không. Vì người muốn trở về chiếm đa số, nên Lữ Quang quyết định trở về đất Tàu. Tháng ba năm 385, Lữ Quang dẫn hơn hai mươi ngàn quân, cùng cướp bao gái đẹp, vàng bạc châu báu, kỳ điểu dị thú, tuấn mã, v.v… trở về đất Tàu. Đương thời, ngài Cưu Ma La Thập cũng bị bắt đi theo.
Từ miền sa mạc Tây Vực, đi về hướng đông, đường xá cheo leo nguy hiểm. Lần nọ, trên đường về, Lữ Quang dừng quân nghỉ ngơi tại dưới một chân núi. Khi ấy, Ngài bảo Lữ Quang:
– Không thể dừng lại nơi đây, vì rất bất lợi, mà phải dời quân lên phía trên núi.
Lữ Quang chẳng màng nghe lời của Ngài. Tối đến, mưa to ào ạt, nước trên núi tuôn xuống tràn ngập cả mấy mươi thước, khiến binh sĩ chết đuối cả ngàn người. Từ đó, Lữ Quang mới biết tài tiên tri của Ngài. Ngài lại bảo:
– Đây là chỗ vong mạng, hung xấu, chớ nên nán lại lâu, mà phải mau kíp trở về nước. Trên đường quyết sẽ gặp vùng đất phước.
Qua tai nạn kinh hồn, Lữ Quang chẳng dám không nghe lời của Ngài. Lữ Quang vừa đến Lương Châu, thì nghe tin Phù Kiên đã bị Dao Trường sát hại, nên ra lịnh ba quân mặc áo trắng, để tang ba tháng. Lữ Quang lại lập tức xua quân tiến chiếm Lương Châu, rồi tự xưng là hoàng đế Văn Chiêu, dựng nên nhà Hậu Lương, niên hiệu là Kiến Nguyên Thái An.
Tháng giêng năm 387, một trận cuồng phong nổi lên tại Cô Tạng. Ngài Cưu Ma La Thập lại bảo Lữ Quang:
– Đây là ngọn gió chẳng lành, chắc sẽ có mưu phản, nhưng sau sẽ tự nhiên bình định được.
Chẳng bao lâu, Lương Khiêm, Bành Hoàng liên tiếp phản loạn, nhưng Lữ Quang đều dẹp được. Bành Hoàng vốn là thái thú ở Trương Dịch, và là võ tướng theo Lữ Quang chiếm đánh Quy Từ. Năm 388, vào tháng ba, thái thú ở Võ Oai là Đỗ Tấn bị Lữ Quang giết hại. Kế đến, Lữ Quang đem các trung thần theo chinh phạt Tây Vực thuở xưa, ra chém hết.
Vào tháng hai năm 396, Lữ Quang chính thức lên ngôi, tự xưng là Thiên Vương, ban lịnh thi hành đại ân xá, đổi niên hiệu là Lân Gia, lập Thạch Thị làm hoàng hậu và con là Lữ Thiệu làm thái tử. Nghiễm nhiên có đầy đủ thể chế của một quốc gia độc lập. Năm 397, Lữ Quang lại đổi niên hiệu là Long Phi.
Đương thời, Nam Thành và Mông Tốn cùng suy tôn Đoạn Nghiệp làm vua tại Trường Dịch, lập nước Bắc Lương (397-439).
Sau này, Lữ Soạn đem năm mươi ngàn quân đánh nước Bắc Lương. Người đương thời đều bảo rằng quân của Đoạn Nghiệp vốn là quân ô hợp. Lữ Soạn nhất định sẽ thắng. Lữ Quang nhờ ngài Cưu Ma La Thập xem coi quân tình. Ngài bảo:
– Xem lần xuất binh kỳ này, chắc sẽ không thắng lợi.
Thật thế, quân của Lữ Soạn bị đại bại tại Hợp Ly, nên đành kéo quân về.
Lữ Quang có một vị quan trung thư giám là Trương Tư, vốn là người tài ba, tánh tình hòa nhã, có kiến thức rộng. Lần nọ, ông ta bị bịnh nặng, nên Lữ Quang bèn mời các vị danh y đến chữa trị. Một người ngoại quốc, tên là La Xoa, tự bảo rằng sẽ chữa được bịnh. Lữ Quang nghe thế, vui mừng ban thưởng phẩm vật. Biết La Xoa lừa bịp để lấy tiền, Ngài bảo Trương Tư:
– La Xoa chẳng có tài y thuật gì, chỉ lừa bịp lấy tiền. Mạng người ẩn tàng không rõ. Để Ta xem chiêm bốc coi mạng của ông như thế nào !
Nói xong, Ngài lấy dây tơ năm màu kết lại, đốt thành tro rồi bỏ xuống nước, bảo:
– Nếu tro nổi lên trên mặt nước, rồi kết lại thành hình dây tơ như khi trước, thì bịnh sẽ không lành !
Một lát sau, tro nổi lên, tụ lại thành hình dây tơ như trước. Như lời Ngài tiên tri, La Xoa không có cách gì để trị bịnh, nên trong vài ngày, Trương Tư qua đời.
Sau này, Lữ Quang bị bịnh mà chết. Thái tử Lữ Chiêu lên ngôi, nhưng là người ngu si. Lữ Soạn bèn giết Lữ Chiêu để lên ngôi, đổi niên hiệu là Hàm Ninh. Lữ Soạn tánh tình thô bạo, không thích đọc thư sách mà chỉ ham tửu sắc, lại hoang dâm vô độ, và thường thích đi săn bắn. Năm 399, trong nước có nhiều điềm lạ xuất hiện: Một con heo sanh ra heo con ba đầu; một con rồng từ giếng bay lên, nằm trước cung điện. Lữ Soạn cho đó là điềm lành, bèn gọi nơi đó là điện Long Phi. Kế đến, một con rồng đen từ cửa Cửu Cung ở Đương Dương bay lên, nên Lữ Soạn cho đổi Cửu Cung thành Cửu Long Hưng. Thấy những hiện tượng kỳ quái này, Ngài bảo Lữ Soạn:
– Gần đây rồng liên tiếp xuất hiện; heo yêu biểu hiện điềm kỳ dị. Rồng vốn thuộc khí âm, xuất nhập có thời tiết. Như nay đã thường xuất hiện, đây là điềm tai họa sẽ đến, chắc sẽ có mưu phản. Điện hạ hãy tự khắc kỷ tu đức, để xoay chuyển tâm trời, thì mới tránh khỏi tai họa.
Lữ Soạn không chịu nghe lời khuyên răn của Ngài. Lần nọ, đang lúc cùng với Ngài đánh cờ, Lữ Soạn ăn được một con cờ, bèn cười bảo:
– Chém được đầu của Hồ nô ! (người Tàu thường gọi người phương bắc hay Tây Vực là Hồ tộc).
Ngài bảo:
– Đầu của Hồ nô chém chẳng được, chỉ e rằng Hồ nô sẽ chém đầu người khác !
Ngài nói câu này có thâm ý, mà Lữ Soạn lại không hiểu. Nguyên vì Lữ Quang có người em là Lữ Bảo. Lữ Bảo có con là Lữ Siêu, mà tên lót của Lữ Siêu là Hồ Nô. Sau này, Lữ Siêu giết Lữ Soạn, rồi tôn người anh là Lữ Long lên làm vua. Khi đó, người người mới biết lời dự đoán của Ngài.
Tại Lương Kinh, Ngài làm cố vấn cho Lữ Quang và Lữ Soạn. Đối với năng lực thần dị, âm dương, bói toán, ngài Cưu Ma La Thập đều đồng có đủ tài như ngài Phật Đồ Trừng. Song, cha con Lữ Quang và Lữ Soạn không có tâm hoằng dương Phật pháp, nên Ngài không có cách chi để hành đạo.
Sau khi Lữ Thiệu mất, vợ là Trương Thị xuất gia làm ni. Vì Lữ Long khởi tâm tà muốn cưỡng bức, Trương Thị kiên quyết không chịu bị nhục, bèn nhảy từ lầu cao xuống đất mà tự sát, mà miệng vẫn còn tụng kinh điển. Việc này hiển thị rõ giáo đoàn Phật giáo vào đương thời còn tồn tại.
Đương thời, tại Bắc Lương, Mông Tốn lên ngôi, và rất sùng kính Phật pháp, nên Phật giáo rất được thạnh hành. Năm 421, nhân nhà Tây Lương bị diệt vong, Mông Tốn xua quân đến tiến chiếm, tới tận Đôn Hoàng.
Theo quyển ‘Ngụy Thư Thích Lão Chí’, từ đời Trương Quỹ (256-314), người Lương Châu đời đời tín phụng Phật pháp. Lương Châu vốn là con đường giao thông trọng yếu, nên rất nhiều vị sa môn từ Thiên Trúc hoặc các nước Tây Vực sang Trung Thổ, và thường đi ngang qua đó. Nơi ấy, hiển nhiên cũng là trục lộ giao thông của ngôn ngữ, tức là tiếng Thiên Trúc, tiếng Tàu, cùng các tiếng ở các nước tại vùng Trung Á đều được dùng trong việc giao tế. Thế nên, các sa môn từ Thiên Trúc hay Tây Vực đến đều có thể học tiếng Tàu để phiên dịch kinh điển; điển hình là ngài Đàm Vô Sấm ở đó ba năm để học tiếng Tàu, rồi phiên dịch kinh điển. Ngược lại, các sa môn người Tàu cũng có thể học ngôn ngữ Thiên Trúc hay Tây Vực trước khi qua đó để tu học. Thế nên, trong mười sáu năm bị cầm chân tại Lương Châu, ngài Cưu Ma La Thập dĩ nhiên là thông thạo tiếng Tàu, để chuẩn bị cho công cuộc phiên dịch kinh điển sau này.
Tại Trường An, ngưỡng mộ danh đức của Ngài, thầy Tăng Triệu (378-414), lặn lội đến nơi đó để học tập giáo nghĩa kinh điển.
Sau khi giết Phù Kiên, Dao Trường lên ngôi xưng đế tại Quan Trung. Nghe thanh danh của ngài Cưu Ma La Thập, nên Dao Trường mấy lần cầu thỉnh. Tuy nhiên, cha con Lữ Quang và Lữ Soạn thấy Ngài tài đức vẹn toàn, và e sợ Dao Trường mưu mô, nên không cho Ngài đến Trường An. Dao Trường mất, con là Dao Hưng lên kế vị.
Dao Hưng dùng đức mà trị dân, lại cực lực tôn sùng Tam Bảo. Ông thường lập các pháp hội cúng dường trai tăng, giảng kinh thuyết pháp, khiến Phật pháp được hưng thạnh khắp nơi, nên cứ trong mười người là có hơn năm người mộ đạo xuất gia. Tại Trường An vào lúc đó có hơn năm ngàn vị sa môn. Tăng sĩ tọa thiền có khoảng một ngàn. Tại Vĩnh Quý Lý kiến lập tháp thờ Phật. Trong nội cung thiết lập đài Bát Nhã.
Năm 401, vào tháng năm, Dao Hưng sai Dao Thạc Đức dẫn đại quân đánh Lữ Long. Đến tháng chín năm đó, Lữ Long thần phục Hậu Tần. Niên hiệu Hoằng Thủy thứ ba (401), vào ngày hai mươi tháng chạp, ngài Cưu Ma La Thập được vua Dao Hưng nghinh đón đến Trường An. Vua Dao Hưng lấy lễ của một vị quốc sư mà hậu đãi Ngài, lại thường vui vẻ cùng Ngài đàm luận suốt ngày mà không ngừng.
Tháng giêng năm 402, tại Tây Minh Các và Tiêu Diêu Viên, ngài Cưu Ma La Thập khởi công phiên dịch kinh điển.
Phật giáo từ thời Tiền Hán, Hậu Hán, Ngụy, Tấn, kinh điển từ từ được phiên dịch rất nhiều. Tuy vậy, các dịch giả như Chi Khiêm, Trúc Pháp Lan, v.v… thường dùng phương pháp ‘Cách Nghĩa’ (tức dùng các ngôn từ học thuật của đạo Nho, đạo Lão mà giải thích kinh điển Phật giáo) để phiên dịch kinh điển. Vì vậy văn nghĩa kinh điển không được rõ ràng.
Thấy việc này, vua Dao Hưng bèn cầu thỉnh ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh điển và nhuận sắc lại những bộ kinh đã được dịch. Ngài tụng thuộc rất nhiều kinh điển, lại đã từng nghiên cứu thật thấu triệt, và lại thông suốt tiếng Tàu, nên khiến cho công tác phiên dịch càng thuận lợi. Ngài xem qua những bộ kinh đã được dịch, phát hiện có rất nhiều chỗ sai lầm. Như đã bàn qua, các nhà dịch giả trước kia thường dùng quá nhiều danh từ thuật ngữ đạo Nho, đạo Lão nên làm mất đi ý chỉ căn bản của Phật pháp, lại cũng không tương ưng với nguyên bản chữ Phạn.
Nghe thanh danh của ngài Cưu Ma La Thập, các danh tăng khắp nơi đổ dồn về Trường An để học yếu chỉ Phật pháp cùng trợ giúp việc phiên dịch kinh điển, cả thảy hơn ba ngàn vị, như Tăng Triệu, Đạo Sanh, Đạo Dung, Tăng Duệ, Tăng Tuyển, Đạo Lưu, v.v… Trong số đó có bốn vị danh tăng được gọi là Quan Trung Tứ Thánh như ngài Đạo Sanh, Tăng Triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ. Các đệ tử của ngài Huệ Viễn như Huệ Quán, Huệ Ôn, v.v… cũng rời Lô Sơn mà đến Trường An để nghe Ngài thuyết pháp. Đương thời, hai trung tâm Phật giáo quan trọng nhất là Trường An, nơi ngài Cưu Ma La Thập cư trú, và Lô Sơn trụ xứ của ngài Huệ Viễn. Hai ngài Cưu Ma La Thập và Huệ Viễn thường gởi thư đàm luận về lý lẽ Phật pháp với nhau.
Tại Tiêu Diêu Viên, Ngài phiên dịch được kinh Tọa Thiền Tam Muội, A Di Đà, Hiền Thủ, Đại Phẩm Bát Nhã, Đại Trí Độ Luận, v.v… Lúc phiên dịch kinh Đại Phẩm Bát Nhã, ngài Cưu Ma La Thập dịch thẳng từ chữ Phạn, rồi vua Dao Hưng lấy bản dịch cũ để dò xét, khiến cho những chỗ bất đồng của tân dịch và cựu dịch được tương thông.
Vua Dao Hưng nhận thấy giáo lý đạo Phật thâm sâu, mà thường xiển dương đức hạnh thiện lương, xác thật là con thuyền thoát ly biển khổ. Do đó, ông tuyển trích ra từ chín bộ kinh, và chú tâm nơi lý mười hai nhân duyênẠ mà trước tác quyển ‘Thông Tam Thế Luận’, để hiển bày lý nhân quả hoàn toàn không sai. Vương công đại thần đều khen ngợi là tuyệt tác. Đại tướng quân Dao Hiển ở Thường Sơn, tả tướng quân Dao Sùng ở An Thành đều dốc lòng tín phụng Phật pháp, và thường thường cung thỉnh Ngài giảng kinh thuyết pháp tại Trường An Đại Tự. Do đó, thấy rõ tôn thất quần thần Hậu Tần đều tôn sùng Phật pháp.
Từ năm 401 đến năm 405, Ngài phiên dịch kinh điển tại Tiêu Dao Viện. Từ năm 406, Ngài qua Trường An Đại Tự, dịch được kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Hoa Thủ, Duy Ma Cật, Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, Thành Thật Luận, v.v…
Từ khi đến Trường An, Ngài luôn bận rộn trong công việc phiên dịch kinh điển.
Ngài Cưu Ma La Thập thấu triệt tâm tình người đời, tánh cách siêu quần, năng lực không ai bì kịp; bác ái nhân từ thuần hậu, nhu hòa nhã nhặn; hy sinh cuộc đời để dạy dỗ môn sinh. Hơn mười năm tại Trường An, Ngài luôn luôn tuyên dương tông chỉ Phật giáo Đại Thừa không mỏi mệt. Ngài lại cung thỉnh các vị thầy của mình như sa môn Ti Ma La Xoa và Phật Đà Da Xá đến Trường An để biểu lộ ân tình nồng hậu đối với các bậc sư trưởng. Thật là đầy đủ tư cách của bậc vĩ nhân.
Do đáp ứng lời thỉnh cầu của nhà vua và các quan triều, Ngài thường thăng tòa giảng kinh. Các vị cao đức danh tăng ở bốn phương vào đương thời thường đổ về Trường An để nghe Ngài giảng kinh thuyết pháp. Pháp sư Đạo Sanh, trụ trì chùa Long Quang, tuy đã ngộ tận ý nghĩa kinh điển, tâm thấu triệt mọi yếu chỉ, nhưng vẫn còn chỗ nghi ngờ về các kinh điển cựu dịch, nên không quản đường xa vạn dặm, đến Trường An cầu thỉnh Ngài chỉ dạy. Đại sư Huệ Viễn trụ trấn núi Lô Sơn, học quán thông các kinh điển, là bậc cự phách trong giới danh tăng, nhưng vẫn còn nhiều chỗ nghi ngờ, nên thường viết thơ cầu xin chỉ dạy.
Vua Dao Hưng thường nói với Ngài:
– Đại Sư thông minh có một không hai, tánh ngộ siêu tuyệt, thiên hạ không ai sánh bằng. Nếu một mai mất đi, chẳng phải làm hạt giống pháp bị đoạn tuyệt sao ?
Do đó, vua Dao Hưng đem mười mỹ nữ, ép Ngài thọ nhận, rồi sai người xây phòng riêng, cùng cúng dường thâm hậu. Vì vậy, mỗi lần giảng kinh, Ngài thường nói:
-Ví như hoa sen thanh tịnh xuất sanh từ trong bùn nhơ.
Hái được hoa rồi, chớ ném vào lại bùn nhơ !
Ngài hy vọng cảnh tỉnh những bậc tu hành rằng phải thận trọng chớ nên phá giới.
Trước lúc nhập tịch, Ngài triệu tập đồ chúng, bảo:
– Ta đã dịch hơn ba trăm quyển kinh luật luận. Chỉ trừ một bộ Thập Tụng Luật là chưa hoàn chỉnh, còn tất cả kinh điển khác đều bảo tồn bổn ý. Hy vọng các vị hãy lưu truyền những kinh điển đó cho hậu thế, để hoằng dương chánh pháp. Hiện tại, trước mặt mọi người, Ta phát lời thệ nguyện: Nếu những kinh điển do Ta phiên dịch đều không sai lầm, thì khi thiêu thân này, thì lửa không thể đốt cháy lưỡi của Ta.
Đời Hậu Tần, niên hiệu Hoằng Thủy thứ mười một (409), vào ngày hai mươi tháng tám, ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch tại Trường An. Nhục thân được đặt tại Tiêu Diêu Viên, rồi triều đình và tăng chúng y theo nghi thức nước Thiên Trúc mà hỏa táng. Sau khi thân đã cháy ra tro, đại chúng đều thấy lưỡi của ngài Cưu Ma La Thập vẫn còn nguyên vẹn. Điều này minh chứng cho lời thệ nguyện của Ngài khi xưa là phiên dịch kinh điển không sai lầm. Do đó, người đương thời đều xưng tán công nghiệp phiên dịch vĩ đại của Ngài.
Sau khi ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch, giáo đoàn ba ngàn đồ chúng dần dần tan rã, vì đã mất đi một đấng đạo sư. Luật sư Ti Ma La Xoa rời Trường An đến trú tại Thọ Xuân. Ngài Phật Đà Da Xá đã mãn nguyện, nên trở về nước Kế Tân. Pháp sư Đạo Sanh cũng qua Giang Nam. Phật Đà Bạt Đa La cùng đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập là Huệ Quán, đồng đến Lô Sơn. Tuy giáo đoàn tan rã, nhưng công nghiệp phiên dịch kinh điển của ngài Cưu Ma La Thập luôn sáng ngời bất diệt trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, và những tác phẩm nghiên cứu giảng giải của Ngài vĩnh viễn hoằng truyền hậu thế.
Kinh điển Đại Thừa đã từng được các nhà dịch giả như Chi Lâu Ca Sấm (Hậu Hán), Khương Tăng Hội, Chi Khiêm (Ngô-Tam Quốc), Trúc Pháp Hộ (Tây Tấn), phiên dịch rất nhiều. Tuy nhiên, các bản dịch phần lớn văn thể chưa hoàn chỉnh thành thục, và lời văn cũng chưa diễn đạt hết ý chỉ của kinh. Do đó, sau khi duyệt lại những bản dịch cũ, ngài Cưu Ma La Thập bèn hiệu đính, và dịch ra bản mới, nhờ đó mà danh của Ngài vang lừng trong lịch sử phiên dịch kinh điển.
Đương thời, Ngài được vua Dao Hưng ủng hộ, cùng biết bao môn hạ anh tài triết gia cống hiến công sức hỗ trợ tại các đạo tràng phiên dịch, nên mới thành tựu đại nghiệp phiên dịch kinh điển trong một thời gian ngắn. Tất cả đều nhờ tài năng cao siêu và oai đức của Ngài. Đối với ba tạng kinh luật luận Tiểu Thừa, từ nhỏ Ngài đã từng lưu học tại nước Kế Tân, rồi qua nước Sa Lặc học giáo lý Đại Thừa, nên tại nước Quy Từ đã từng thông suốt và thuộc nhiều kinh điển Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa. Mười sáu năm bị cầm chân tại Lương Châu, Ngài đã nỗ lực nghiên cứu học tiếng Tàu, nên đối với việc phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Tàu, thật dễ dàng. Theo quyển ‘Xuất Tam Tạng Ký Tập’, những kinh điển do Ngài dịch như sau: Tân Đại Phẩm (24 quyển), Tân Tiểu Đại Phẩm (7 quyển), Tân Pháp Hoa (7 quyển), Tân Hiền Kiếp (7 quyển), Hoa Thủ (10 quyển), Tân Duy Ma Cật (3 quyển), Tân Thủ Lăng Nghiêm (2 quyển), Thập Trụ (5 quyển), Tư-ích-nghĩa (4 quyển), Trì Thế (4 quyển), Tự Tại Vương (2 quyển), Phật Tạng (3 quyển), Bồ Tát Tạng (3 Quyển), Xưng Dương Phật Công Đức (3 quyển), Vô Lượng Thọ (1 quyển), Di Lặc Hạ Sanh (1 quyển), Di Lặc Thành Phật (1 quyển), Kim Cang Bát Nhã (1 quyển), Chư Pháp Vô Hành (1 quyển), Văn Thù Sư Lợi Vấn Bồ Đề (1 quyển), Di Giáo (1 quyển), Thập Nhị Nhân Duyên Quán (1 quyển), Bồ Tát A Sắc Dục (1 quyển), Thiền Pháp Yếu (2 quyển), Tọa Thiền Tam Muội (3 quyển), Tạp Thí Dụ (1 quyển, do tỳ kheo Đạo Lược sưu tập), Đại Trí Độ Luận (100 quyển), Thành Thật Luận (16 quyển), Thập Trụ (10 quyển), Trung Luận (4 quyển), Thập Nhị Môn Luận (1 quyển), Bách Luận (2 quyển), Thập Luật Tụng (61 quyển), Thập Tụng Tỳ Kheo Giới Bổn (1 quyển), Thiền Pháp Yếu (3 quyển).
Xưa kia, tại nước Quy Từ, Ngài đã từng theo luật sư Ti Ma La Xoa thọ giới. Sau này, khi đến Trung Thổ, luật sư Ti Ma La Xoa hỏi Ngài:
– Ngươi và đất Tàu thật có nhân duyên thâm trọng. Người theo Ngươi mà thọ pháp có được bao nhiêu ?
Ngài thưa:
– Kinh luật ở đất Tàu vẫn chưa hoàn bị. Các kinh luận mới đa số đều do con dịch ra. Ba ngàn đồ chúng thường theo con mà thọ pháp. Tuy nhiên, vì nghiệp chướng nặng nề, nên con không dám thọ nhận sự tôn kính của họ.
Đương thời, tại đạo tràng phiên dịch kinh điển, thường có ít nhất là năm trăm vị tăng hỗ trợ cho Ngài phiên dịch. Đôi khi lại có tám trăm vị; thậm chí khi phiên dịch kinh Tư-ích, tổng cộng có hơn hai ngàn vị tăng tham gia. Giữa những người đệ tử của Ngài, được tán dương là Thập TriếtẠ như: Tăng Triệu, Tăng Duệ, Đạo Sanh, Đạo Dung, Đàm Ảnh, Huệ Nghiêm, Huệ Quán, Đạo Tiêu, Đạo Thường, v.v… Đây là những vị tăng thường theo sát bên Ngài, hiệu đính kinh văn, nghe Ngài giảng kinh, cùng tham gia thảo luận. Từ năm 401 đến 409, giới Phật giáo tại Trường An đều chịu theo sự lãnh đạo của Ngài. Ngay cả sa môn Phật Đà Bạt Đà La nghiêm thủ giới luật, tu thiền định, phong cách vĩ đại tròn vẹn trong giới tu hành, mà không gieo sự ảnh hưởng lớn bằng giáo đoàn của Ngài, nên sau này qua ẩn cư tại Lô Sơn. Do đó, thấy rõ thế lực giáo đoàn của Ngài vào đương thời mạnh mẽ biết ngần nào. Năm 401, Ngài đến Trường An; đệ tử trẻ nhất là Tăng Triệu, hai mươi tuổi; đệ tử già nhất là Pháp Hòa, bảy mươi tuổi.
Người sau xưng tụng bốn đại đệ tử của Ngài là ‘Tứ Thánh’ như Tăng Triệu, Tăng Duệ, Đạo Sanh, Đạo Dung. ‘Bát Tuấn’ là Đạo Sanh, Tăng triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ, Đạo Bằng, Đạo Ảnh, Huệ Nghiêm, Huệ Quán. ‘Bát Tuấn’ cộng thêm Đạo Hằng, Đạo Tiêu thành ‘Thập Triết’. Trong những môn hạ anh tài tuấn tú, Đạo Sanh đã từng khởi xướng lý ‘Xiển Đề có Phật Tánh’; lý này tương đồng với lý lẽ trong kinh Niết Bàn. Đời Lưu Tống, hoạt động tại vùng Giang Nam là Huệ Quán, Huệ Nghiêm. Sáng lập Thành Thật Tông là Tăng Đạo. Sáng lập Tam Luận Tông là Tăng Sùng.
Môn đệ của ngài Cưu Ma La Thập
A. Ngài Đạo Sanh, thuyết đốn ngộ
Ngài Đạo Sanh vốn họ Ngụy, người Cự Lộc, cư ngụ tại Bành Thành, gia tộc trải qua bao đời làm quan trong triều. Cha làm quan huyện Quảng ThànhẠ, được bá tánh tôn sùng, và xưng tán là vị đại thiện nhân.
Đạo Sanh thuở nhỏ thông minh đỉnh ngộ, huệ giải như thần, ưu tú vượt phàm phu, nên được người cha hết sức thương mến. Sau này gặp được Trúc Pháp Thái (320-387) mà y theo xuất gia thọ giáo, tu tập Phật pháp.
Năm 365, niên hiệu Hưng Ninh thứ ba, Trúc Pháp Thái theo ngài Đạo An đến Tương Dương, rồi qua Kiến Khang ở Kinh Châu, khai đàn giảng kinh tại chùa Ngõa Quan. Đương thời, Giản Văn Đế (371-372) đang tại vị. Chùa Ngõa Quan được kiến thiết trong niên hiệu Hưng Ninh (363-365). Bấy giờ, chùa Ngõa Quan chỉ là một ngôi tháp đường. Trúc Pháp Thái đến đó, xây thêm tăng phòng, và xem địa thế mà kiến lập lại chùa chiền. Ngày Trúc Pháp Thái khai giảng kinh, cả ngàn người từ vùng Tam Ngô đổ đến để nghe thuyết pháp.
Từ khi bước vào cửa Phật, tài trí siêu bạt phi phàm của Đạo Sanh ngày càng hiển lộ. Đối với nghĩa lý thâm áo của kinh điển, Đạo Sanh tự nghiên tầm, khiến ngộ rõ lý lẽ. Năm mười lăm tuổi, Đạo Sanh ngồi dưới tòa nghe Trúc Pháp Thái giảng kinh, có khả năng liễu giải nội dung, rồi lại lên tòa giảng, cùng chư tăng và danh sĩ đương thời đàm luận; lời lẽ rắn chắc như châu ngọc. Năm hai mươi tuổi, thanh danh diễn giảng kinh điển vang xa các nơi, khiến vương công quý tộc vì ngưỡng mộ, không quản đường xa vạn dặm mà đến nghe pháp.
Đạo Sanh đãi người tiếp vật, ôn hòa cẩn trọng. Tánh tình trầm tĩnh, thâm tàng chí khí cường liệt. Lúc trẻ, Đạo Sanh đã từng lên núi Lô Sơn. Cảm thấy Phật pháp tinh thâm, nên quyết tâm ẩn cư nơi đó mà nghiên cứu giáo lý. Ngài thường tự bảo rằng phải hiểu rõ nghĩa lý kinh điển thì mới mong bước vào cửa Phật pháp, nên học hỏi xem xét tường tận các kinh điển.
Vào năm 391, ứng theo lời cầu thỉnh của Huệ Viễn, sa môn Tăng Già Đề Bà (Sanghadeva) đến núi Lô Sơn phiên dịch học thuyết A Tỳ Đàm của Tiểu Thừa. Nhân dịp đó, ngài Đạo Sanh cùng Huệ Viễn đến thân cận sa môn Tăng Già Đề Bà để học thuyết Nhất Thiết Hữu BộẠ. Sau bảy năm trú tại núi Lô Sơn, Đạo Sanh cùng với Tăng Duệ, Huệ Quán, Huệ Nghiêm, đồng đến Trường An, theo ngài Cưu Ma La Thập học giáo lý Bát Nhã của Đại Thừa. Vài năm sau, những khi cùng chúng tăng đàm luận, Đạo Sanh đều được họ xưng tán là bậc diệu khế thần cơ, tài trí phi phàm, khiến kẻ tăng người tục đều tôn kính. Tại Tiêu Diên Viên, Đạo Sanh cùng Đạo Dung tranh luận giáo nghĩa cả trăm lần. Đại chúng nghe những lời sắc bén của Đạo Sanh, đều tán thán, khâm phục bậc bác học tài trí.
Ngài Cưu Ma La Thập vừa nhập tịch, Đạo Sanh bèn trở lại Kiến Khang (Nam Kinh), trú tại chùa Thanh Viên. Ngôi chùa này vốn là hoa viên của hoàng hậu Trử Thị vào đời Đông Tấn, và được bà ta cho xây cất, nên mới có tên là Thanh Viên. Nơi chánh điện của chùa Thanh Viên, sau này bị sét đánh, rồi lại có rồng từ trong chùa mà bay lên trời, khiến chung quanh đều tỏa ánh sáng, nên chùa được đổi tên là Long Quang Tự. Đương thời, cư trú tại chùa Thanh Viên đều là các vị danh tăng.
Lần nọ, Tống Võ Đế mở yến tiệc đãi chư tăng. Để biểu thị lòng tôn kính, Tống Võ Đế đích thân vào bếp nấu nướng, mà quên đi giờ giấc. Qua giờ ngọ, buổi tiệc mới được khai mở. Theo giới luật là quá giờ ngọ thì sa môn không được dùng cơm. Vì vậy, đại chúng không ai dám dùng tiệc. Thấy vậy, Tống Võ Đế bèn nói:
– Mặt trời vừa đúng giữa trưa, chưa qua quá ngọ !
Tuy vậy, đại chúng vẫn y nhiên, không ai dám vi phạm giới luật. Đạo Sanh bảo:
– Mặt trời nằm trong bầu trời, mà nay trời (nhà vua theo quan niệm của người Tàu là Thiên Tử, tức là con trời) chỉ đúng giữa trưa, thì nhất định bây giờ là đúng vào giờ ngọ.
Nói xong, Đạo Sanh cầm bát mà ăn. Đại chúng nhìn nhau, rồi cũng vui vẻ y theo Đạo Sanh mà dùng cơm. Ai ai cũng tán thán Đạo Sanh cơ cảnh mẫn tiệp, thích ứng thời cơ mà xử lý sự tình. Các danh sĩ như Vương Hoằng Nhan Duyên, v.v… đều cung kính và ngưỡng mộ đạo phong của Ngài, nên thường đến thỉnh vấn Phật pháp. Vua Tống Văn Đế cũng thường qua lại với Ngài vì tôn sùng kính phục.
Duyệt xem lý đạo đã lâu, cuối cùng Ngài triệt ngộ được yếu chỉ của kinh điển vượt ngoài ngôn ngữ, nên tự than:
– Hình tượng nhờ biểu đạt tâm ý mà tồn tại. Ý niệm được khai mở rồi, thì nào cần đến hình tượng. Ngôn ngữ dùng để giảng giải nghĩa lý. Thể hội được nghĩa lý rồi, thì cần gì câu nệ vào hình thức ngôn ngữ. Từ khi Phật giáo truyền vào Trung Thổ, kinh điển được phiên dịch rất nhiều, mà mọi người hầu như chỉ chấp giữ nơi văn tự, nên ít có ai thấy rõ nghĩa lý viên dung của Phật pháp. Được cá rồi nên bỏ rọ, thì mới có thể khế hội liễu ngộ thật lý của Phật pháp.
Do đó, sau khi duyệt xem tất cả nội kinh ngoại điển, nghiên cứu kiểm thảo mối quan hệ nhân quả, cuối cùng Ngài viết ra luận lý ‘Hành Thiện Không Cầu Quả Báo’, ‘Đốn Ngộ Thành Phật’, và trước tác quyển ‘Nhị Đế Luận’, ‘Phật Tánh Đương Hữu Luận’, ‘Pháp Thân Vô Sắc Luận’, ‘Phật Vô Tịnh Độ Luận’, ‘Ứng Hữu Duyên Luận’, v.v…, đều tràn đầy bao lý lẽ, và tuôn trào những ý chỉ thâm sâu. Tuy nhiên, việc làm này dẫn khởi sự chống đối công kích liên tục của những người bảo thủ trên văn tự, vì hiềm rằng Đạo Sanh sửa đổi nghĩa lý kinh điển. Ngoài ra, còn một việc khiến Đạo Sanh bị tăng chúng đuổi ra khỏi kinh sư như sau:
Đương thời, kinh ‘Đại Bát Niết Bàn’ chưa được truyền đến phương nam, mà chỉ có sáu quyển ‘Nê Hoàn Kinh’ được truyền đến kinh sư. Sáu quyển thuyết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chỉ trừ hạng Nhất Xiển Đề (tức là đoạn hết tất cả thiện căn). Tuy nhiên, ngài Đạo Sanh sau khi nghiên cứu tinh tường, phân chiết tìm tòi trong các nghĩa lý của kinh văn, và thâm nhập vào nơi ẩn diệu, bèn đề xướng chủ trương ‘người Nhất Xiển Đề cũng có Phật tánh.’
Thuyết này lại bị các người theo phái cựu học chỉ trích, vì cho đó là tà thuyết làm mê hoặc thế nhân. Càng ngày lại càng có nhiều người chê bai và phẫn nộ vì học thuyết của Ngài. Người người đều nghĩ rằng chỉ việc tống khứ Đạo Sanh ra khỏi kinh thành thì mới ngưng được tà thuyết đó. Biết trong nhất thời không có cách nào để thuyết phục mọi người, nên trước đại chúng, ngài Đạo Sanh nghiêm chỉnh thần sắc, dõng dạc thệ nguyện:
– Chủ trương của tôi nếu có trái ngược với giáo nghĩa của kinh điển Phật pháp, thì tôi nguyện rằng hiện thân hiện báo, ngay tức khắc sẽ cảm bịnh cùi hủi. Thuyết của tôi, nếu hợp với chánh đạo, thì xin nguyện lúc xả báo thân này, sẽ thăng lên tòa sư tử.
Nói xong, Ngài bèn phủi y, rời khỏi kinh thành, đến núi Hổ Khâu ở phía đông nước Ngô. Trong mười ngày, thâu nạp hàng trăm đồ chúng. Theo quyển ‘Phật Tổ Thống Ký’ thứ hai mươi sáu, thì lúc trú tại núi Hổ Khâu, ngài Đạo Sanh giảng kinh Niết Bàn cho các tảng đá. Ngài thuyết rằng Nhất Xiển Đề cũng có Phật tánh, nên các tảng đá gật đầu. Câu chuyện này được gọi là ‘Đạo Sanh thuyết pháp, các tảng đá gật đầu’.
Trong mùa hè, chánh điện chùa Thanh Viên (nơi ngài Đạo Sanh cư trú xưa kia) đột nhiên bị sét đánh, rồi chợt có một con rồng từ trong đó mà bay vụt lên, biến mất trong hư không, nhưng nó vẫn còn lưu bóng tại vách tường phía tây của chùa. Do đó, tăng chúng đổi tên chùa là Long Quang. Bấy giờ có người bảo:
– Rồng đã bay khỏi, thì nhất định ngài Đạo Sanh đã đi xa.
Chẳng bao lâu, đến núi Lô Sơn, Ngài được tăng chúng trong núi rất kính phục tôn trọng. Kinh Đại Bát Niết Bàn sau này được truyền đến kinh sư do ngài Pháp Hiển mang bản văn chữ Phạn từ Thiên Trúc về, rồi được cả trăm chư đại đức sa môn, cùng nhau phiên dịch ra tiếng Tàu. Phiên dịch xong, người người mới biết rằng bộ kinh đó xác nhận là hạng Nhất Xiển Đề cũng có Phật tánh; lý lẽ này ứng hợp với chủ trương khi xưa của ngài Đạo Sanh.
Ngài Đạo Sanh bèn đem quyển kinh Niết Bàn mới được dịch ra giảng giải cho đại chúng. Tăng chúng ở kinh sư, biết học thuyết của ngài Đạo Sanh phù hợp với lời kinh, nên cung nghinh Ngài trở về chùa Long Quang mà thuyết pháp. Tựu chung, học thuyết ‘Nhất Xiển Đề có Phật tánh’ của ngài Đạo Sanh, được giới tăng sĩ chấp nhận trước khi Ngài nhập tịch khoảng hai năm.
Năm 434, tại chùa Đông Lâm ở Lô Sơn, Ngài lại soạn viết quyển ‘Pháp Hoa Kinh Sớ’. Vào mùa đông, Ngài lại thăng tòa thuyết pháp, thần sắc lặng lẽ, đức âm vang dội. Ngài lần lượt luận nghị, lý lẽ tuyệt diệu, khiến thính giả đều được pháp hỷ sung mãn. Thuyết pháp vừa xong, Ngài cầm cây phất tử ném xuống đất, rồi an tọa trên tòa, dung mạo nghiêm túc, nghiễm nhiên thị tịch, mà thần sắc nhất như bình thường, dạng trạng giống như nhập định. Điềm này ứng với lời thệ nguyện khi xưa của Ngài:
– Khi xả báo thân này, sẽ thăng lên tòa sư tử mà thị tịch.
Tin ngài Đạo Sanh nhập tịch vừa lan truyền, vô luận tăng sĩ hay người thế tục xa gần, đều cảm thương mến tiếc. Tăng chúng tại kinh sư, thâm tâm u hoài hổ thẹn, cảm phục học thuyết của ngài Đạo Sanh khi xưa. Sau này đồ chúng, an táng nhục thân của ngài Đạo Sanh tại núi Lô Sơn.
Ngài Đạo Sanh trước tác rất nhiều. Quyển ‘Xuất Tam Tạng Ký Tập’ ghi như sau: 1/ Duy Ma Cật Kinh Nghĩa Sớ (lúc soạn viết quyển Chú Duy Ma Cật Kinh, Tăng Triệu không những trích dẫn những lời giảng giải của ngài Cưu Ma La Thập, mà còn dùng lời chú giải của ngài Đạo Sanh về bộ kinh này); 2/ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Sớ (2 quyển. Trong Tích Tạng, quyển ‘Đại Thừa Tứ Luận Huyền Nghĩa’ có trích dẫn lời sớ sao của ngài Đạo Sanh về bộ kinh này); 3/ Nê Hoàn Kinh Nghĩa Sớ; 4/ Tiểu Phẩm Kinh Nghĩa Sớ; 5/ Thiện Bất Thọ Báo Nghĩa; 6/ Đốn Ngộ Thành Phật Nghĩa; 7/ Nhị Đế Luận; 8/ Phật Tánh Đương Hữu Luận; 9/ Pháp Thân Vô Sắc Luận; 10/ Phật Vô Tịnh Độ Luận; 11/ Ứng Hữu Duyên Luận; 12/ Niết Bàn Tam Thập Lục Vấn; 13/ Thích Bát Trụ Sơ Tâm, Dục Thủ Nê Hoàn Nghĩa; 14/ Biện Phật Tánh Nghĩa; 15/ Trúc Đạo Sanh đáp Vương Vấn nhất thủ, Trúc Đạo Sanh đáp Vương Hoằng Đốn Ngộ Nghĩa Chi Thư; 16/ Vấn Đạo Sanh chư đạo nhân Phật Nghĩa, Phạm Bá Luân; 17/ Chúng Tăng Thuật Phạm Vấn; 18/ Phạm Trọng vấn Đạo Sanh vãng phản tam thủ; 19/ Phó Quý phản đáp Phạm Bá Luân thư.
Theo luận ‘Pháp Thân Vô Sắc’, ngài Đạo Sanh viết: “Phật nếu có hình tướng, thì sẽ sanh khởi bao điều mâu thuẩn. Hình thể vốn vô thường. Nếu Phật có hình thể, thì Phật cũng bị vô thường, nên ngược với lý Phật là thường trụ. Lại nữa, nếu Phật có hình sắc, mà hình sắc thì giới hạn, nên Phật cũng bị giới hạn; điều này mâu thuẩn với lý lẽ Phật vô giới hạn. Ngoài ra, nếu sắc nương y nơi Phật, thì sắc phải không biến chuyển, vì Phật thường hằng bất biến. Có hình sắc tức phải có biến chuyển; đó là lẽ tất nhiên, nên chủ trương này không thể thành lập. Do đó, Phật vượt ngoài hình tướng, và phải là vô sắc”.
Bàn về luận ‘Phật Vô Tịnh Độ’, ngài Đạo Sanh viết: “Vì phương tiện quyền giáo, nhiếp thọ chúng sanh, nên mới dùng Tịnh Độ. Phật vốn không có thân; chỉ vì muốn biểu đạt qua ngôn ngữ nên mới gọi là Phật. Phật vốn không có cõi nước, chỉ vì phương tiện mà có Tịnh Độ, để khiến chúng sanh nương vào. Theo lập trường của đệ nhất nghĩa đế (chân lý tuyệt đói), Phật vốn không có cõi nước, lại cũng không có cõi Tịnh Độ tồn tại. Tịnh Độ là phương tiện, thì quả báo do hành thiện cũng là phương tiện”.
Theo luận ‘Thiện Vô Quả Báo, ngài Đạo Sanh viết: “Người xuất gia làm việc Phật sự vớI tâm vô vụ lợi, không cầu công đức; điều này mới biểu hiện lý vô vi; còn cầu lợi ích thì không có công đức. Lý này đồng với việc làm công đức vô lậu (công đức lành tuyệt đói). Làm việc lành nhưng không mong được lợI lạc thì công đức và quả lành mớI lớn lao”.
Tư tưởng ‘Hành Thiện Vô Công Đức’ của ngài Đạo Sanh cũng tương tự như câu đáp ‘Vô Công Đức’ của tổ Bồ Đề Đạt Ma cho vua Lương Võ Đế.
Về lý ‘Đốn Ngộ Thành Phật’, ngài Đạo Sanh viết: “Đốn ngộ là chỉ tận cùng cái ngộ không hai, tức phù hợp với lý bất nhị. Cái ngộ bất nhị, tức là chân lý bất khả phân biệt. Cái ngộ bất nhị là chân huệ (trí huệ chân thật) và không thể thấy được. Chân huệ này cùng với lý bất khả phân biệt (tâm không còn phân biệt) hợp thành, mà gọi là đốn ngộ. Kiến giảiẠ là ngộ. Văn giảiẠ là tín. Tín giảiẠ chưa hẳn chân thật. Phát ngộ thì tín liền rơi rụng. Đây là lý tự nhiên. Ngộ chưa phải thường sống vớI tự tánh, nên phải nương nhờ tín mà phát sanh theo thứ lớp. Tín phục Phật pháp nên được cảm ứng, rồi ngộ đến lúc đốn đoạn phiền não; khi đó tín trở nên vô dụng. Thập địa tứ quảẠ là quả vị mà thánh nhân thường thể nhập. Thánh nhân thường khuyên người tu hành khi gần ngộ đến thập địa tứ quả, thì phải tự cố gắng, tức sẽ đạt đến nơi đại ngộ.
Chân lý là tự nhiên, không làm, không tạo tác. Phật tánh bình đẳng, lặng lẽ thường chiếu. Vô vi tức là không ngụy vọng. Thường chiếu tức là không u ẩn mê muội. Đầy đủ chân huệ bất nhị thì phù hợp với lý bất khả phân biệt. Đột nhiên quán thông, như băng chợt tan thành nước, đó gọi là đốn ngộ. Tuy nhiên, đốn ngộ rồi cũng phải tiệm tu.
‘Biết rõ nhất niệm’ chỉ cho việc đại ngộ được nhất thiết trí (Phật trí, vô sư trí). Nhờ sự tiệm tu mà đắc được nhất thiết trí. Trước tiên, sự tu hành dựa nơi trực tâm, rồi đến điểm cuối cùng là đạt được nhất thiết trí. Nơi đây, thuyết minh rằng đạt được nhất thiết trí là đốn ngộ, mà sự tu hành phải do tiệm tu mới thành”.
B. Thầy Tăng Triệu, nhà lý giải tư tưởng Bát Nhã
Quyển ‘Triệu Luận’ của Tăng Triệu ảnh hưởng rất lớn đối với lịch sử tư tưởng Phật Giáo Trung Quốc. Tăng Triệu vốn là đệ tử tài ba của ngài Cưu Ma La Thập, và là vị đã lãnh hội chính xác về tư tưởng Không Quán của ngài Long Thọ.
Tăng Triệu sanh năm 385, vốn là người Kinh Bắc, đã từng theo học với ngài Cưu Ma La Thập hơn mười năm, và cũng từng tham gia vào công tác phiên dịch kinh điển tại Trường An. Lúc còn tại gia, vì nhà nghèo phải đi viết mướn cho người khác, nên đã từng duyệt xem đọc qua kinh sử, thông hiểu kinh thư cổ điển, ái mộ học thuật vi huyền, lại biết rõ tư tưởng Lão Trang. Đương thời, tư tưởng Lão Trang lan truyền khắp nơi. Thời niên thiếu, Tăng Triệu đã từng xem qua Đạo Đức Kinh của Lão Tử, nhưng chưa cảm thấy mãn ý nguyện. Tuy hiểu rõ, nhưng đạo ‘an tâm giải thoát’, vẫn chưa thông suốt:
– Trong quyển sách này, lời nghị luận thật đầy đủ, chính xác, khiến cho người tỉnh ngộ đôi chút. Tuy nhiên, việc thiết yếu là phải thuyết làm sao để tâm linh có được chỗ quy hướng cùng dẹp trừ gông cùm tâm niệm thế tục. Thế nên, nội dung trong bộ sách này chưa được xem là hoàn mỹ.
Đến lúc xem qua kinh Duy Ma Cật, bèn vui mừng vô ngần, nên cảm khái bảo:
– Đây mới biết chỗ quy hướng !
Nhờ cơ duyên đó mà Tăng Triệu phát tâm xuất gia. Tăng Triệu nghiên cứu về kinh Bát Nhã của ngài Đạo An, làm trọng tâm cho sự tu học, lại hiểu rõ kinh luật luận, nên tuy chỉ có hai mươi tuổi mà thanh danh đã vang khắp Trường An. Vì thiếu niên mà danh đã vang lừng, nên có người ganh tỵ, tìm đến Trường An cùng Tăng Triệu tranh biện. Tuổi tuy nhỏ, nhưng tư tưởng lại cao thâm, cùng biện tài hùng hồn, lưu loát. Trường An là chốn anh tài hội tụ, mà Tăng Triệu ra vào như chỗ không người.
Tuy thấm nhuần tư tưởng Lão Trang cùng kinh Duy Ma Cật, nhưng vừa nghe danh đức của ngài Cưu Ma La Thập tại Lương Châu, nên Tăng Triệu không quản đường xa muôn dặm, mà đến đó tu học vào năm 398. Khi đó, đối với giáo pháp Không Quán của ngài Cưu Ma La Thập, Tăng Triệu như đói mà gặp cỗ tiệc, nên hấp thụ mau chóng. Đối với Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận mà ngài Cưu Ma La Thập vừa dịch, thì anh tài Tăng Triệu tận lực tiếp thọ. Vì vậy, ngài Cưu Ma La Thập thường tán thán Tăng Triệu, là vị tăng trẻ tuổi tài ba siêu quần, và đạo học thành thục.
Khi ngài Cưu Ma La Thập được vua Dao Hưng thỉnh về Trường An, Tăng Triệu cũng đi về theo. Vua Dao Hưng ra lịnh cho Tăng Triệu và Tăng Duệ trú tại Tiêu Diên Viên để hỗ trợ cho ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh.
Xem qua những bản dịch cũ có những chỗ sai lầm, nên Tăng Triệu thường vấn hỏi ngài Cưu Ma La Thập; nhờ đó mà có sở ngộ. Đối với giáo lý của những tập luận do ngài Long Thọ và Đề Bà trước tác, Tăng Triệu đều tiếp nạp, và chuyên chú dồn mọi tâm huyết để tìm cầu lý giải chính xác của Bát Nhã và Không Nghĩa. Những giáo nghĩa này hoàn toàn khác với tư tưởng Lão Trang. Sau khi dịch xong kinh Đại Phẩm Bát Nhã, Bách Luận, Đại Trí Độ Luận, ngài Cưu Ma La Thập chú thích và giảng giải rõ ràng những bộ kinh luận đó. Nhờ vậy mà Tăng Triệu thừa thọ lý Bát Nhã và Đại Thừa Không Nghĩa, nên cảm khái phát tâm soạn ra từ các bài trước thuật, luận giải, mà viết quyển ‘Bát Nhã Vô Trí Luận’, để xiển dương lý Bát Nhã Không Nghĩa. Theo Tăng Triệu, Bát Nhã Không Nghĩa chính là lời dạy căn bản của Phật đà, và lý giải Bát Nhã chính là tư tưởng căn bản của Phật giáo. Quyển ‘Bát Nhã Vô Trí Luận’ cũng hiển thị lời dạy của ngài Cưu Ma La Thập về cốt tủy của triết học Không Quán. Quyển luận này dẫn dụng triết lý từ các kinh luận như: Phóng Quang Bát Nhã kinh, Đạo Hạnh Bát Nhã kinh, Duy Ma Cật kinh, cùng Bách Luận, v.v…
Cuối mùa hè năm 407, Đạo Sanh đem quyển ‘Bát Nhã Vô Trí Luận’ của Tăng Triệu vào núi Lô Sơn, rồi đưa cho Lưu Di Dân duyệt xem. Đọc xong, Lưu Di Dân tán thán:
– Nào ngờ trong tăng lữ lại có một người ‘Hà Yến’Ạ như vầy ?
Sau khi được Lưu Di Dân đưa cho xem quyển luận này, Huệ Viễn khen ngợi:
– Xưa nay chưa từng thấy ai có tài văn chương lỗi lạc như vầy !
Biết quyển luận này không phải tầm thường, nên ngài Huệ Viễn cùng với Lưu Di Dân nghiên cứu tường tận. Từ đó, Lưu Di Dân thường viết thơ gởi đến Tăng Triệu để hỏi han về những nghĩa lý của Bát nhã. Trong sáu năm cuối cuộc đời, nơi đạo nghiệp Tăng Triệu thường tinh tấn tu hành dẫu có nhiều bịnh hoạn, nên khiến Huệ Viễn rất tôn kính.
Dưới tòa của ngài Cưu Ma La Thập, Tăng Triệu được thừa thọ giáo nghĩa Không Quán của Long Thọ và Đề Bà, nên cảm kích bất tận. Ở Trường An, được bài ‘Niệm Phật Tam Muội Vịnh’ của Lưu Di Dân và bài ‘ Tam Muội Vịnh’ của ngài Huệ Viễn, Tăng Triệu bèn đáp lễ gởi đến cho họ quyển kinh Duy Ma Cật vừa dịch xong, lại có thêm lời chú giải. Huệ Viễn đã từng xem qua quyển ‘Bát Nhã Vô Trí Luận’ và quyển ‘Chú Thích Duy Ma Cật kinh’ của Tăng Triệu tặng cho, nên đối với giáo nghĩa Không Quán của ngài Cưu Ma La Thập, rất thâm hiểu.
Tăng Triệu nhập tịch vào lúc chỉ mới ba mươi mốt tuổi, tức năm 414.
Những tác phẩm do Tăng Triệu trước thuật như sau: Bát Nhã Vô Trí Luận, Bất Chân Không Luận, Vật Bất Thiên Luận, Niết Bàn Vô Danh Luận, Trượng Lục Tức Chân Luận, Duy Ma Kinh Chú, Duy Ma Kinh Tự, Trường A Hàm Kinh Tự, Bách Luận Tự, Đáp Lưu Di Dân Thư.
C. Tăng Duệ, Giáo Tướng Hình Thể Phân Tích Nguyên Thủy
Tăng Duệ người Trường Lạc ở Ngụy Quận, xuất gia từ thuở nhỏ. Năm mười tám tuổi làm đệ tử của pháp sư Tăng Hiền. Năm hai mươi hai tuổi, bác thông kinh luận. Lúc Tăng Lãng giảng kinh Phóng Quang, Tăng Duệ thường đề cử những câu hỏi để chất vấn và phê bình. Vì lý do này mà Tăng Lãng và Tăng Hiền kết tình pháp hữu. Tăng Lãng bảo Tăng Hiền:
– Tăng Duệ, đồ đệ của sư huynh, thật là thông minh tài trí !
Năm hai mươi bốn tuổi, Tăng Duệ xuất ngoại du phương cầu đạo. Khi đến vùng biên giới Tây Thục thì bị người bắt, và cưỡng ép đi chăn dê. Thương nhân thấy dáng dấp, nghi là sa môn, nên hỏi vấn ý nghĩa kinh điển. Từ Tây Thục, Tăng Duệ đến Vân Nam, qua Giao Chỉ (Việt Nam), rồi tiếp xúc với thương nhân mà theo họ đến nam Thiên Trúc. Nhờ vậy mà khả năng tri thức về tiếng Phạn rất kiệt xuất. Đến năm hai mươi bảy tuổi thì kết thúc cuộc sống du phương.
Năm hai mươi tám tuổi, Tăng Duệ đã từng đến dưới tòa của Đạo An tại Trường An, và giúp Đạo An nhuận bút bản dịch kinh Tứ A Hàm. Năm ba mươi ba tuổi, lúc nhà Tiền Tần bị diệt vong, cùng với sự nhập tịch của Đạo An, Tăng Duệ lánh nạn vào núi Lô Sơn, học phương pháp niệm Phật dưới tòa của Huệ Viễn.
Vào Lô Sơn chẳng bao lâu, nghe ngài Cưu Ma La Thập đã đến Trường An, nên Tăng Duệ tức tốc tìm đến cầu đạo. Tại Trường An, do Tăng Duệ cầu thỉnh, ngài Cưu Ma La Thập dịch quyển ‘Thiền Pháp Yếu’. Nhân cách Tăng Duệ cao tột, và kiến thức thâm sâu, khiến vua Dao Hưng cùng Dao Sùng phải tôn kính. Dao Sùng khen Tăng Duệ là bậc tùng bá của Nghiệp Vệ (vùng đất Ngụy Huyện, nơi Tăng Duệ xuất thân), còn vua Dao Hưng tôn xưng Tăng Duệ là vị thủ lãnh, và là ngọn cờ tiêu biểu của bốn bể. Lúc ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh Pháp Hoa, Tăng Duệ nhuận sắc, trau chuốt lời văn hoa mỹ.
Sau khi phiên dịch xong quyển ‘Thành Thật Luận’, ngài Cưu Ma La Thập bảo Tăng Duệ:
– Luận này có bảy chỗ để bẻ gãy lời văn Tỳ Đàm, mà chỉ vì văn luận phân biệt không rõ ràng. Nếu không cần hỏi Ta, mà có khả năng phân biện bảy chỗ đó, thì mới gọi là anh tài !
Tăng Duệ không chút nghi ngờ, đề xuất ra bảy chỗ đó rất dễ dàng, khiến ngài Cưu Ma La Thập khen ngợi:
– Ta chuyên dịch kinh điển, được ngươi lãnh hội hiểu rõ. Thật không tiếc công !
Tăng Duệ viết rất nhiều bài tựa cho các bộ kinh luận do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch, như: Tiểu Phẩm Kinh Tự (thứ tư), Pháp Hoa Kinh Hậu Tự (thứ chín), Tư-ích Kinh Tự (thứ mười một), Tỳ Ma La Cật Đề Kinh Nghĩa Sơ Tự (thứ mười bốn), Tự Tại Vương Kinh Hậu Tự (thứ mười lăm), Quan Trung Xuất Thiền Kinh Tự (thứ mười ba).
Sau khi ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch, Tăng Duệ từ từ hướng về pháp môn cầu vãng sanh qua cõi Tây Phương. Đến cuối đời Hậu Tần, do thời thế loạn ly, Tăng Duệ sang Giang Nam lánh nạn, lại theo học dưới tòa của Huệ Viễn tại Lô Sơn. Năm 416, Huệ Viễn nhập tịch, Tăng Duệ rời Lô Sơn, qua kinh đô Kiến Nghiệp ở Giang Nam, trụ trì chùa Điểu Y. Vào năm 420, lúc gần bảy mươi tuổi, Tăng Duệ thường giảng kinh thuyết pháp. Vua Nghị Khang ở Bành Thành ba lần khẩn thỉnh, Tăng Duệ mới nhận làm đồ đệ. Đáp lời cầu thỉnh của Tạ Linh Vận, Tăng Duệ viết quyển ‘Thập Tứ Âm Huấn’ để hiển bày sự đồng dị giữa tiếng Phạn và tiếng Tàu. Lúc ấy, Tăng Duệ cũng trước tác quyển ‘Dụ Nghi’.
Từ khi qua Lô Sơn, Tăng Duệ đã từng ước vọng vãng sanh qua cõi Tây Phương. Khi dự biết sắp lâm chung, Tăng Duệ vân tập đồ chúng, bảo:
– Bình sanh Ta thường thệ nguyện vãng sanh Tây Phương. Tự nghĩ ba nghiệp thân khẩu ý, chẳng bao giờ trái ngược với giới luật, nên nhất định sẽ được vãng sanh, chẳng có chút nghi ngờ. Xin đức đại từ (Phật A Di Đà) rũ lòng thương xót, tiếp độ con vãng sanh qua cõi Tây Phương để mãi mãi tiếp thọ chánh pháp !
Nói xong, bèn vào tăng phòng, đi tắm gội, rồi dâng hương lễ bái, chắp tay hướng về Tây Phương mà thị tịch. Ngày đó, trong tăng phòng của Tăng Duệ, có mây hương năm màu đột nhiên xông lên. Bấy giờ là năm 433; Tăng Duệ thọ tám mươi lăm tuổi.
Tư tưởng của Tăng Duệ được biểu hiện rõ ràng nhất qua quyển ‘Dụ Nghi’. Lúc làm môn hạ của ngài Cưu Ma La Thập tại Trường An, Tăng Duệ đã từng học tập nghĩa lý tinh túy của kinh Bát Nhã và Pháp Hoa. Ở tại Giang Nam, gặp quyển kinh Đại Bát Nê Hoàn (Niết Bàn) do ngài Pháp Hiển từ Tây Vực mang về, Tăng Duệ bèn nghiên cứu, so sánh sự quan hệ giữa ba bộ kinh Bát Nhã, Pháp Hoa và Nê Hoàn, rồi viết thành bộ luận ‘Dụ Nghi’ để đối đáp với những nghi vấn của các nhân sĩ. Ngoài ra, Trúc Pháp Độ do tín phụng giáo nghĩa Tiểu Thừa, nên thường bài bác những kinh điển Đại Thừa do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch. Huệ Đạo và Đàm Lạc chất vấn và phỉ báng kinh điển Đại Thừa như kinh Đại Phẩm Bát Nhã, kinh Pháp Hoa, v.v…, nên tại Trường An, phạm vô số tội, khiến bị đại chúng chỉ trích. Do phỉ báng kinh Niết Bàn tại Trường An và Bành Thành, nên lưỡi của Tăng Uyên bị cháy tiêu, mà tự nhận ra đó là quả báo của sự phỉ báng kinh điển. Tăng Uyên vốn theo Tăng Sùng học Thành Thật Luận và Tỳ Đàm, mà trở thành học giả của luận Thành Thật.
Thấy những sự bài báng kinh điển Đại Thừa, Tăng Duệ đau xót vô ngần. Hầu mong phò chánh dẹp tà, nên Tăng Duệ mới viết ra quyển luận ‘Dụ Nghi’ để xiển minh nghĩa lý của kinh Bát Nhã, Pháp Hoa và Nê Hoàn (tức Niết Bàn), mà đặc biệt chú trọng nhắm về kinh Nê Hoàn.
Vào thời ngài Cưu Ma La Thập, kinh Nê Hoàn chưa được phiên dịch, mà chỉ có kinh Pháp Thân, thuyết rõ các loại pháp thân của chư Phật. Ngài Cưu Ma La Thập bảo rằng chúng sanh nghe Phật thuyết là có chân ngã, và tất cả đều có Phật tánh, thì là đã đầy đủ lắm rồi !
Kinh Pháp Hoa chủ trương là thấy Phật tri kiến thì đều thành Phật, mà chưa chưa hiển thị lý tất cả chúng sanh sẽ thành Phật.
Kinh Đại Bát Nê Hoàn do ngài Pháp Hiển mang từ Thiên Trúc về đến Dương Đô, rồi vân tập hơn một trăm chư sa môn đại đức bác học mà phiên dịch. Kinh Nê Hoàn mang giáo nghĩa mới đến cho Phật giáo Trung Quốc: Phật tánh của tất cả chúng sanh đều tồn tại; tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Điều này, kinh Pháp Hoa chưa từng thuyết rõ ràng. Tăng Duệ chủ trương pháp thân trong kinh Pháp Thân tương đương với Phật tánh của kinh Nê Hoàn, mà viết ra quyển ‘Dụ Nghi’. Đối với sự phán xét trạch quyết về giáo tướng, bộ luận này có địa vị quan trọng trong sử Phật giáo Trung Quốc.
D. Thầy Đạo Dung
Đạo Dung là một trong bốn đại đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập. Theo quyển ‘Cao Tăng Truyện’ thứ sáu, Đạo Dung là người Lâm Lự ở Cấp Đô, xuất gia lúc mười hai tuổi, được vị thầy bổn sư ái mến tài năng, nên bảo học thuộc ‘Luận Ngữ’. Từ đó cho đến khi ba mươi tuổi, tùy tâm sở nguyện mà học tập nội điển cùng ngoại điển. Nghe ngài Cưu Ma La Thập đến Trường An, Đạo Dung liền đến dưới tòa mà học đạo. Ngài Cưu Ma La Thập giới thiệu Đạo Dung với vua Dao Hưng:
– Người này đặc biệt có chủng tử Thích Ca, thông minh siêu quần.
Vua Dao Hưng bèn thỉnh Đạo Dung vào Tiêu Diêu Viên để phụ tá việc phiên dịch. Do Đạo Dung khẩn thỉnh, ngài Cưu Ma La Thập dịch ra quyển ‘Bồ Tát Giới Bổn’. Lúc về già, ngài Cưu Ma La Thập dịch ra quyển Trung Luận, rồi được Đạo Dung diễn giảng, phân chiết văn chương, khiến ngôn ngữ phiên dịch được chỉnh tề thông suốt. Ngài Cưu Ma La Thập lại bảo Đạo Dung diễn giảng bộ kinh Pháp Hoa vừa được phiên dịch, và khen ngợi:
– Sự hưng thịnh của Phật pháp chính là nhờ kỳ nhân Đạo Dung này !
Đương thời, một người Bà La Môn từ Thiên Trúc sang Trường An, chuyên thích tranh luận với các sa môn người Tàu. Biết rõ rằng trừ Đạo Dung ra, trong môn đệ không ai là đối tượng có khả năng tranh luận với Bà La Môn này, nên ngài Cưu Ma La Thập bèn sai Đạo Dung đi tranh biện. Vì chưa từng xem qua sách vở của ngoại đạo, nên Đạo Dung nhờ người sao chép lại những kinh luận và lập đề của người Bà La Môn đó, rồi ghi nhớ trong tâm. Đạo tràng nghị luận được công khai cử hành dưới sự tham dự của vua Dao Hưng, công hầu, bá quan văn võ cùng tăng chúng tại Trường An. Bà La Môn kia biết lý luận của mình không sánh bằng Đạo Dung, nên khoe khoang là đã đọc qua nhiều kinh luận. Do đó, Đạo Dung cũng đề xuất ra danh số kinh điển sử học gấp ba lần số của Bà La Môn kia. Thấy vậy, ngài Cưu Ma La Thập bảo Bà La Môn kia:
– Chắc là ông chẳng biết đất Tàu có những nhà bác học như thế, mà khinh suất đường xa lặn lội đến đây tranh tài !
Bà La Môn kia tự hổ thẹn, nên cúi mình đảnh lễ Đạo Dung, cầu xin sám hối. Qua vài ngày sau, không ai biết rõ Bà La Môn kia đi đâu. Câu chuyện này hiển minh học lực và trí lực của Đạo Dung thật phi phàm.
Đạo Dung hầu cận ngài Cưu Ma La Thập khoảng mười lăm năm. Do thế cuộc biến chuyển và sau này vì ngài Cưu Ma La Thập đã nhập tịch, nên Đạo Dung rời Trường An để đến Bành Thành, vào lúc năm mươi tuổi. Nơi đó, Đạo Dung tiếp tục giảng kinh thuyết pháp, khiến thanh danh vang xa; hơn một ngàn người thường đến vấn đạo, và hơn ba trăm môn đồ thường thân cận học đạo. Năm bảy mươi bốn tuổi, Đạo Dung nhập tịch tại Bành Thành. Đạo Dung có viết sớ nghĩa kinh Pháp Hoa Đại Phẩm, Kim Quang Minh, Thập Địa, Duy Ma Cật, v.v…
Cao Tăng Truyện, quyển thứ tám viết: “Vào đương thờI, Phật giáo tại Trường An chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi đạo phong cao tột và những cống hiến lớn lao của Đạo Dung, Tăng Triệu, Đạo Hằng, Đàm Ảnh”.
E. Thầy Đàm Ảnh
Đàm Ảnh vốn là người ở phương bắc; tánh không giao đàm vớI người, chỉ an bần thủ chí tu học, thường giảng kinh Chánh Pháp Hoa và Quang Minh Bát Nhã (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch), mà thính chúng đạo tục có hơn ngàn người. Đến Trường An, Đàm Ảnh được vua Dao Hưng ân cần hậu đãi. Khi ngài Cưu Ma La Thập vào Trường An, thì Đàm Ảnh đến thân cận dưới tòa để học đạo, vào lúc sáu mươi tuổi (tuổi tác lớn hơn ngài Cưu Ma La Thập). Ngài Cưu Ma La Thập nói với vua Dao Hưng:
– Đàm Ảnh là một vị tăng tiêu biểu đức hạnh thanh tịnh cao vời.
Do đó, vua Dao Hưng bèn ra lịnh cho Đàm Ảnh vào Tiêu Diêu Viên để hỗ trợ việc phiên dịch kinh điển.
Lúc luận Thành Thật vừa dịch xong, Đàm Ảnh cùng ngài Cưu Ma La Thập hỗ tương vấn đáp tận cùng lý lẽ. Vì đã từng diễn giảng bộ kinh Chánh Pháp Hoa (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch), nên Ngài Cưu Ma La Thập vừa dịch xong kinh Tân Pháp Hoa, thì Đàm Ảnh bèn tận tâm tận sức hiệu đính bộ kinh này, và viết bốn quyển chú giải về nghĩa lý thâm sâu áo diệu. Theo truyện kể, Đàm Ảnh trực tiếp tham gia phiên dịch hoặc chú thích kinh luận như luận Thành Thật, Trung Luận, kinh Pháp Hoa.
Ngài Cưu Ma La Thập vừa nhập tịch, Đàm Ảnh bèn đến ẩn tu tại chùa Sơn Lâm, hầu mong giữ gìn khí tiết, nỗ lực tu hành, nên dẫu già mà tinh thần vẫn sung túc. Cuối cùng Đàm Ảnh nhập tịch vào năm bảy mươi tuổi.
Trong các đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập, không những có các nhà phiên dịch, chú giải ưu tú tuyệt luân, mà còn có những vị đầy đủ tài trí về chính trị như Đạo Hằng (346-417) và Đạo Tiêu.
G. Thầy Đạo Hằng và Đạo Tiêu
Đạo Hằng người Lam Điền. Lúc chín tuổi đã từng được ẩn sĩ Trương Trung tiên đoán:
– Thằng bé này có đủ đức tướng của bậc đại nhân. Ở thế tục thì sẽ làm đến bậc Tể Tướng, còn xuất gia thì sẽ làm vị cao tăng khiến Phật pháp được sáng lạn.
Thuở ấu niên, Đạo Hằng sớm để tang cha. Năm hai mươi tuổi, mẹ cũng qua đời, nên bèn xuất gia. Lúc ngài Cưu Ma La Thập vào Trường An, Đạo Hằng liền đến thân cận, tham gia công tác phiên dịch. Đạo Hằng cùng Đạo Tiêu tài trí hơn người, nên danh vang khắp Trường An. Biết hai vị có tài năng kiến thức về chánh trị, nên vua Dao Hưng bèn sai Dao Hiển tìm phương cách để khuyên họ hoàn tục, thỉnh cầu trợ phò ngôi vua. Vua Dao Hưng cũng thường viết thơ trực tiếp thỉnh cầu họ phò triều đình.
Đương thời, vua Dao Hưng thường mời các bậc hiền tài ra giúp nước, và cũng triệu vời các đạo nhân ẩn sĩ ở sơn lâm về kinh đô phò tá. Do sự khuyến khích của vua Dao Hưng, các tăng nhân ẩn sĩ hoàn tục, rồi về triều nhậm chức. Tuy nhiên, đối tượng chính của vua Dao Hưng là Đạo Hằng và Đạo Tiêu. Tuy có chút thanh danh, và biết thế cuộc vô thường, cùng để biểu thị mình đã là người xuất gia, nên Đạo Hằng và Đạo Tiêu chân thành từ chối lời cầu thỉnh của vua Dao Hưng. Vì cho thời cuộc là quan trọng, nên vua Dao Hưng ba lần triệu vời hai vị vào triều phò tá. Tuy vậy, hai vị vẫn từ chối, và viết thơ gởi đến vua Dao Hưng để biểu lộ ý chí của mình: “Chúng tôi vốn tu tập Phật pháp từ thuở nhỏ. Muốn dùng tâm nguyện ngu thành, đem thân nhỏ nhít mà mặc pháp phục để độ chúng sanh. Ước nguyện nhỏ nhoi này, thừa mong Thánh Thượng rũ lòng thương xót cho. Tuy bảo rằng muốn hoằng đạo Bồ Tát, nhưng theo quan điểm của kẻ phàm tăng thì sức lực của chúng tôi thật có giới hạn, nên thật khó lòng đáp ứng sắc lịnh của Thánh Thượng !”
Thấy không thể khuyên nhủ được hai vị, vua Dao Hưng bèn viết thơ nhờ ngài Cưu Ma La Thập khuyên họ hoàn tục để giúp ông ta. Điều này cho thấy triều đình của Dao Hưng chưa có đủ các quan cố vấn siêu quần, nên rất ngưỡng vọng nơi Đạo Hằng và Đạo Tiêu.
Vua Dao Hưng lại viết thơ cho Đạo TuyểnẠ: “Đạo Hằng và Đạo Tiêu tuy là người xuất gia, nhưng lại có đủ tài năng chỉnh lý chánh sự ở thế gian. Hy vọng rằng họ sẽ y theo ý nguyện của Trẫm”.
Đối với việc vua Dao Hưng ba lần cầu thỉnh Đạo Hằng và Đạo Tiêu ra phò chánh, ngài Cưu Ma La Thập, Tăng Tuyển, v.v… nhận thấy hai vị này không thể xả bỏ pháp phục mà lo việc triều chính, nên viết thơ tấu trình vua Dao Hưng: “Tăng chúng Phật giáo phải lấy việc thủ tiết tu đạo làm trọng. Tăng phải là tăng. Người xuất gia đối với chánh trị của thế tục, rốt ráo không làm được lợI gì. Do đó, hai vị răng sĩ Đạo Hằng và Đạo Tiêu, chỉ có nguyện nhỏ là muốn thủ tiết giữ bổn phận. Ngưỡng vọng triều đình phê chuẩn”.
Nhờ ngài Cưu Ma La Thập, Tăng Tuyển, v.v… dâng tấu, nên triều đình mới phê chuẩn cho Đạo Hằng và Đạo Tiêu tiếp tục xuất gia tu đạo. Đạo Hằng cảm kích bảo:
– Cổ nhân có câu: ‘Người thường mong cầu vật chất, tích tụ riêng tư, khiến quỷ không ưa. Người thích nổi danh tức là muốn tự sát’, thật không phải là lời nói suông.
Sau khi ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch, Đạo Hằng bèn vào sơn cốc ẩn tu; ăn rau dại, uống nước suối, đắp y thô, cùng tu thiền định, tuyệt dứt giao du với thế tục, rồi nhập tịch vào năm bảy mươi hai tuổi (417). Đạo Hằng có trước tác quyển ‘Thích Bác Luận’ và ‘Bách Hành Châm’. Đạo Tiêu viết hai quyển ‘Xá Lợi Phất A Tỳ Đàm Tự’ và ‘Điếu Vương Kiều Văn.’
Quyển ‘Thích Bác Luận’ do Đạo Hằng soạn viết vào lúc tuổi già, để châm chế lại sự bài bác vấn nạn về Phật giáo và sa môn của hai đạo sĩ họ Viên và họ Hà.
Trích Thần Tăng Thiên Trúc – Thích Hằng Đạt
Tàn Mộng Tử biên soạn