Chúng sanh ở đó không bị phiền não. Tất cả các cõi của chư Phật đều là cõi tịnh độ, tuy nhiên tông phái này chọn pháp môn tu về cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Đức Phật Thích Ca có dạy rằng: Trong thời Chánh Pháp người ta thành tựu pháp thiền quán; trong thời tượng pháp, người ta thành tựu pháp thiền định và trong thời mạt pháp, người ta thành tựu pháp môn Tịnh Ðộ. Ngài Long Thọ viết bộ luận Đại Trí Độ, trong đoạn khai thị về pháp môn Tịnh độ có dạy: “Niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và những tội đời trước. Các pháp tam muội khác, có môn trừ được nghiệp dâm, không thể trừ được nghiệp sân, có môn trừ được nghiệp sân, không thể trừ nghiệp dâm. Có môn trừ được ba độc, tham, sân, si, không thể trừ các tội đời trước. Môn niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và các thứ tội chướng. Lại nữa, niệm Phật tam muội có phước đức lớn, hay độ chúng sanh. Chư Bồ-tát muốn mau diệt tội chướng, được nhiều phước đức, sớm độ chúng sanh, không chi hơn tu môn niệm Phật tam muội. Ngài dạy thêm: Nếu chưa vào Vô sanh nhẫn của Bồ-tát vị, chưa được thọ ký, chưa đến ngôi Bất Thối chuyển, mà xa lìa chư Phật, tất sẽ chìm trong biển phiền não, hư mất hết các căn lành! Như thế, đã không thể độ mình, làm sao độ chúng sanh được? Ví như, kẻ dùng chiếc thuyền không bền chắc để đưa người, khi gặp sóng to gió lớn, tất thuyền sẽ bị hư rã, mình và người đều chết đắm. Lại như người đem ấm nước sôi đổ vào ao băng tuyết, muốn cho ao băng tuyết tiêu tan, ban sơ chỉ tan được chút ít , kết cuộc chính nước sôi ấy sẽ trở thành băng tuyết. Bồ-tát chưa vào Vô sanh pháp vị mà xa lìa chư Phật cũng lại như thế! Nếu Bồ-tát chưa đủ nhẫn lực, chưa đủ phương tiện, muốn dùng chút ít công đức để ra hóa độ chúng sanh, sự lợi ích tuy có đôi phần, nhưng trái lại chính mình sẽ bị đọa lạc. Dưới đây là câu chuyện minh chứng cho điều trên.
Có ba vị Bồ Tát là Vô Trước, Thế Thân, Sư Tử Giác thâm tu thiền định quyết chí đồng sanh về Đâu Suất. Ba vị đó cùng ước hẹn, nếu ai sanh lên Nội Viện được thấy Đức Di Lặc trước, phải trở về báo tin cho huynh đệ biết. Ngài Sư Tử Giác quy tịch trước, trải qua thời gian khá lâu, không trở lại báo tin. Kế đó ngài Thế Thân vô thường; khi lâm chung, Vô Trước Bồ Tát dặn rằng: ‘Sau khi em bái kiến Đức Di Lặc, phải trở xuống cho anh biết ngay.’ Thế Thân Bồ Tát tịch rồi ba năm sau mới trở lại báo tin. Ngài Vô Trước hỏi: ‘Tại sao em thông báo trể như thế?’ Thế Thân đáp: ‘Sau khi lễ kiến Đức Di Lặc, vừa nghe Ngài thuyết pháp chỉ dạy xong, em cung kính đi vi nhiễu ba vòng rồi trở xuống đây báo tin liền. Vì một ngày đêm ở Đâu Suất bằng 400 năm nơi hạ giới, nên mới trể đến ba năm.’ Vô Trước lại hỏi: ‘Còn Sư Tử Giác hiện ở đâu?’ Thế Thân đáp: ‘Sư Tử Giác bị lạc vào Đâu Suất ngoại viện, đang say đắm cảnh ngũ dục, từ khi sanh lên đến nay, chưa được thấy Đức Di Lặc.
Duyên Khởi Lập Tông
Tịnh Độ căn cứ vào những kinh điển gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tông đã y cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Ðó là các bộ:
1- Kinh vô lượng thọ: Kinh này được chép lại 48 lời thệ nguyện của đức A-Di-Ðà , khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: sau khi thành Phật, ngài sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương Thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãng sanh về cõi tịnh độ của Ngài.
2- Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh này chép rõ 16 Pháp quán và 9 Phẩm, để dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ.
3- Kinh tiểu bổn A-Di-Dà: Kinh này lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện tu theo pháp môn ”trì danh niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn” để được vãng sanh về cõi ấy.
Ba kinh trên này là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là ” ba kinh Tịnh độ”. Ngoài ra còn có các kinh khác như:
Kinh Bửu tích chép việc đức Phật vì vua Tịnh phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn ”trì danh niệm Phật” để cầu sanh về Thế giới Cực lạc.
Kinh đại bổn A-Di-Dà, Kinh Thập lục quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh Bi-Hoa, kinh Phương Ðẳng, kinh Hoa nghiêm.v.v..
Giáo điển về Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Ðông Tấn nhờ Ngài Huệ-viễn đại sư ra công hoằng hóa, nên tôn này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Ðàm loan, ngài Ðạo Xước, ngài Thiện-đạo.v.v.. đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
Bốn Cõi Tịnh Ðộ
Tịnh Độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Ðứng về phương diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây:
1. Thường tịch quang Tịnh độ: Đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. ”Thường” là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp thân Phật; ”Tịch” là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức Giải thoát của Phật; ”Quang” là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là ”Thường tịch quang Tịnh độ”.
Cảnh Tịnh độ này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác ”thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh”, nên gọi là ”Thường tịnh quang Tịnh độ”. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì Thân và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là có Thân, có Ðộ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi là ”Pháp Thân”, còn về độ, thì gọi là ”Thường tịch quang Tịnh độ”.
Kinh Tịnh danh, về lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ”Thường tịch quang Tịnh độ”.
2. Thất báo trang nghiêm Tịnh độ: Hành giả trải qua ba số kiếp tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn thật nên gọi là ”Thật-báo trang nghiêm Tịnh độ”. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh Quán vô lượng thọ về lời sớ có chép: ”Tu tập chơn thật”, cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là ”Thật báo trang nghiêm”. Bên Ðại thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên ngoài Ðại thừa Biệt giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Ðẳng giác Bồ Tát.
3. Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Ðây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới ), nhưng còn dư lại hai hoặc là: vô minh hoặc và trần sa hoặc, chưa trừ được, nên gọi là ”hữu dư ”. Ðã là ”hữu dư ” tức là chưa phải hoàn toàn cứu cánh, nên gọi cõi Tịnh độ này là ” Phương tiện hữu dư Tịnh độ ”.
4. Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Ðây tức là cõi Tịnh độ của Ðức Phật A-di-đà ở Tây-phương. Ðã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc, tuy nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có bốn ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh) cùng sống chung với chúng sanh mới vãng sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là ”Phàm thánh đồng cư Tịnh độ ”.
Vì phần đông tín đồ Phật Giáo Việt Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực lạc của Phật A Di Ðà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo kinh ”Tiểu bổn A-Di-Ðà” thuật lại lời Ðức Phật Thích Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: ”…Từ cõi Ta-bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc. Vị Giáo-chủ ở Thế giới ấy là Phật A Di Đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu-lơn (tường-hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công đức. Ðáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo.
Trên không trung hòa lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do Phật họa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng phát nhiệm mầu.
Cảnh giới Cực Lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A Di Dà là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát, Thánh chúng chung nhau tạo thành. Chữ A Di Dà người Trung Hoa dịch là ”Vô lượng thọ”, hay ”Vô lượng quang”, nghĩa là đức Phật này sống lâu không lường và hào quang chiếu sáng cũng không lường.
Ba món tư lương để cầu sanh Tịnh Ðộ
Muốn được vãng sanh, về cõi Tịnh độ nói trên, hành giả phải chuẩn bị ba yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món tư luơng (Lương phạn đi đường). Nếu thiếu một món ăn nào, hành giả cũng không thể tu hành có kết quả được.
1. Thế nào là ”Tín”: Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được. Ðức tin rất quan trọng và cần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa-Nghiêm có dạy: ” Tin là mẹ sanh ra các công đức ”. Nhờ đức tin mà quả Bồ đề có thể thành tựu được.
Tin có ba phần:
a) Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy hằng sa thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin rằng do lòng từ bi muốn cứu khổ sanh-tử luân hồi cho chúng sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh thực hành theo người mà được vãng-sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Ðức Phật Thích Ca không hư đối, Ðức-Phật A-Di-Ðà và cảnh Tịnh độ đều có thật.
b) Tin Pháp: Tin rằng pháp môn niệm Phật là pháp môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyện của Phật A Di Ðà có đầy đủ hiệu lực để cứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Ðà.
c) Tin mình: Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo phápmôn này. Tin rằng nếu mình thực hành đúng như lời Phật Thích-Ca đã chỉ dạy trong kinh A Di Ðà, chuyên trì danh hiệu Phật A Di Ðà cho đến ”nhất tâm bất loạn” thì khi lâm chung chắc chắn thế nào mình cũng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.
2. Thế nào là ”nguyện”: Nguyện là lời hứa hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, là cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con người tu hành mau đến mục đích.
Nguyện quan trọng như thế, nên hành giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Ðà.
Ðể có một ý niệm về chữ ”nguyện ”, chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A Di Ðà, khi còn làm Pháp tạng Tỳ Kheo:
– ”Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không đặng vãng-sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh pháp ”.
– ”Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp giới, phát tâm Bồ-Ðề, tu các công đức, một lòng phát nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, giả như ta không cùng với đại chúng hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc Chánh-giác.
– ”Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác ”.
3. Thế nào là ”Hành”: Hành là thực hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ ước ao, mong muốn hảo huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, Tín, Nguyện,Hành ba yếu tố căn bản này bao giờ củng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đúng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.
Phương Pháp Tu Về Tịnh Ðộ
Sau khi đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rõ phương pháp tu hành. Vẫn biết rằng pháp môn niệm Phật là một pháp môn rất giãn dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật cũng có nhiều cách, nhiều loại. Chúng tôi xin dẫn một vài phương phát sau đây:
1. Trì-danh niệm Phật: Trong lối niệm Phật này, hành giả chỉ chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Phật A Di Ðà. Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngủ, hành giả phải nhớ niệm luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi ngủ, hành giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành-giả cần phải thêm phương pháp ” Kinh hành niệm Phật ” (xem nghi thức kinh hành niệm Phật). Mỗi khi niệm xong, hành giả đều hồi hướng cầu sanh Tịnh độ.
2. Tham-cứu niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả phải tham khảo cứu-xét suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm ” Nam-mô A-Di-Ðà Ðà Phật ”, hành-giả phải quán-sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai v.v..? Nhờ sự chuyên tâmchú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng vọng tưởng dần dần chìm lặng, nước thiện tâm hiện bày, hành-giả được ”nhất tâm bất loạn ”, đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu câu ” thoại đầu ” bên Thiền-tôn, nên gọi là ” tham-cứu niệm Phật ”.
3. Quán tượng niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả chăm chú quan sát hình tượng của Phật.
Hành giả ngồi trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng tốt mà liên tưởng các đức tính của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức tánh từ bi, hỷ xả của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành giả phai dần; nhờ quán từ bi của Phật mà tánh Sân của hành-giả bớt dần …Hễ quán thêm một đức-tánh tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành giả được bớt đi. Tánh của Ðức Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành giả như vết mực; tia sáng mặt trời càng sáng nhiều và càng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức tánh như từ bi, hỷ xả, bình đẳng, lợi tha được huân tập, thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm hành giả sẽ thanh tịch, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm Phật, được vãng sanh về cõi Phật.
4. Quán tưởng niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả ngồi yên một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành giả quán tưởng như có Ðức-Phật A Di Ðà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, cũng tưởng mình ngồi trên tòa-sen, được Phật tiếp dẫn. Hành giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi cũng không dừng nghĩ, cho đến khi nào, mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần thục. Khi lâm chung, hành giả chắc chắn sẽ được vãng sanh về Tịnh độ.
Trong kinh Quán Phật tam muội chép rằng: ‘Phật vì Phụ vương, nói pháp quán-tưởng bạch hào …”. Quán-tưởng bạch-hào nghĩa là quán-tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Ðây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật.
5. Thật tướng niệm Phật: Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư không giả, cho nên gọi là “thật tướng “.
Trong năm pháp niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm (thật tướng niệm Phật) là thuộc về lý: không còn niệm còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo.
Nhưng, hành giả phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự , Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp niệm trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bi thử, không hữu, không vô. Ðến chỗ này, kinh Di Ðà gọi là “được nhất tâm bất loạn”. Kinh Tứ thập nhi chương chép; “niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm”.
Trong năm pháp niệm Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa pháp môn danh trì, là một pháp môn dễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, cũng đều có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.