Cổ sử truyện
CON GÁI ĐỨC PHẬT
(Hành trạng của chư Thánh ni
& những cận sự nữ đặc biệt và thù thắng)

Tỳ-khưu-ni Ambapālī (Hoàng hậu kỹ nữ)

Tỳ-khưu-ni Ambapālī (Hoàng hậu kỹ nữ)

Là một kỹ nữ danh tiếng bậc nhất, không những là kinh thành Vesāli mà còn lan xa nhiều quốc độ, Ampapālī có duyên lành gặp được đức Phật, được nghe một thời pháp rồi sau đó thu xếp đời mình trong nếp sống của một cận sự nữ thuần thành. Kỹ nữ Ampapālī đắc pháp nhãn trong thời pháp thứ hai của đức Phật, sau đó cô dâng cúng vườn xoài xinh đẹp đến ngài và Tăng chúng. Cô cũng đã bỏ ngân khoản lớn để sửa sang Ni viện cùng hộ độ tứ sự đến hội chúng Tăng Ni không mệt mỏi. Lúc nhân duyên đầy đủ, cô xuất gia và đắc quả A-la-hán.

Cuộc đời trầm luân trong dòng nước đục, trong bụi bặm phiền não của cô cần được kể lại để mọi người thấy rõ một điều: Ai cũng có khả năng giác ngộ, giải thoát dù kẻ đó bị thế gian xem là xấu xa, là tội lỗi, nếu biết quy hướng, trung thực, thấy rõ mình, biết chuyển hóa đời mình, biết tinh cần và nỗ lực tu tập.

Hôm kia, đột ngột, đức Phật bảo vị tỳ-khưu thị giả triệu tập chừng hai mươi vị tỳ-khưu trẻ cùng lên đường với ngài. Sau đó, với đại y màu san hô vắt vai, bát cầm tay, đức Phật và hội chúng bước lần ra ngoại ô kinh thành Vesāli, đi mãi. Dọc theo con đường đầy bụi, rác rưởi, phân bò, phân dê… đoàn sa-môn qua mấy cánh đồng lúa, những vườn xoài, vườn ca-ri, vườn chà là; luồn trong hương lộ có bóng tre, bóng dừa, bóng thốt nốt rồi đến ngôi làng Koṭigāma trù phú và thạnh mậu. Tại đây, sau khi tuần tự đi trì bình khất thực qua các xóm nhà, không kể giàu nghèo; lúc vật thực vừa đủ dùng, đoàn sa-môn ghé đến dưới khóm cây mù u có bóng mát để độ thực. Các vị tỳ- khưu trẻ đi theo chiếc bóng của ngài cảm thấy thanh bình và an ổn. Đức Phật không dạy bảo họ điều gì, mà họ học được sự tĩnh tại từ nơi đôi mắt nhìn xuống, sự chậm rãi và nhẹ nhàng nơi từng bước chân đi; sự cẩn trọng trong cung cách đưa bát để thọ nhận vật thực; lòng từ ái nơi bài kệ phúc chúc, cách độ thực với từng ngón tay vo tròn chánh niệm rồi từ tốn đưa vào miệng một cách gọn gàng và sạch sẽ; cách đi kinh hành thanh thản và cả cách yên lặng trải tọa cụ dưới gốc cây để tọa thiền nữa… Tất cả. Tất cả. Và đấy chính là thân giáo của ngài.

Cách đấy không bao xa, chừng nửa do tuần, có một khu rừng xoài sum suê và xanh mát của một người kỹ nữ có tên là Ambapālī. Nàng là một kỹ nữ xinh đẹp và tài hoa nhất của kinh thành Vesāli và của cả trong các nước cộng hòa liên bang phía Bắc sông Gaṇgā. Vốn được hóa sanh lạ lùng nơi một cành xoài (1) nên cô bé có tên là Ambapālī, với nước da sáng như ngọc và tỏa mùi trầm; môi đỏ như thoa son và có cả đôi mắt xanh biêng biếc. Có một vị vương tử trông thấy nên mang về làm con nuôi. Lớn lên, cô bé còn có tư chất bẩm sinh là múa dẻo và có giọng hát rất hay, trong thanh như tiếng chim Ca-lăng-tần-già. Các thầy bà- la-môn tướng pháp nói rằng, cô bé bị một phá cách, một phá tướng; nếu không trong tương lai sẽ làm một quý nhân, không đắc ngôi hoàng hậu thì cũng làm một vương phi tài sắc vẹn toàn.

– Vậy tương lai, cô bé sẽ thế nào? Vị vương tử hỏi. Vị bà-la-môn già thở dài:

– Cũng là hoàng hậu, nhưng là hoàng hậu trong giới kỹ nữ, cũng quý cách và giàu sang không ai bằng!

Thuở ấy, các cô kỹ nữ đều là thành phần được xã hội quý trọng (2). Vị vương tử thương con bèn gởi cô bé đến Bārāṇasī, một thành phố nổi tiếng ăn chơi và có nhiều trường dạy nghề kỹ nữ với học phí rất cao, để học nghệ. Thế là số phận cô bé đã được định đoạt. Bảy tám năm sau, lúc trở lại Vesāli thì các cô kỹ nữ khác đều bị lu mờ. Ông bố vương tử hào sảng đã cho con cả một dinh thự nguy nga cùng với tôi trai tớ gái mấy chục người để hầu hạ, phục dịch nàng. Giá một buổi được nghe và xem nàng biểu diễn phải là một ngàn đồng tiền vàng kahāpaṇa (3). Ban đầu nàng cương quyết bán nghệ chứ không bán thân, nhưng sau có quá nhiều công tử trẻ trung, hào hoa, quỳ phục dưới chân nàng, dám đánh đổi cả gia tài để được hầu nàng một đêm. Nàng xiêu lòng. Nhưng sau đấy thì nàng rất khắt khe trong việc lựa chọn. Cũng chẳng ai dám làm gì được nàng vì nàng có quá nhiều thế lực ở cung đình cũng như tiền rừng, bạc bể bảo trợ.

(1) Do quá khứ cô đã từng nhàm chán, ghê tởm thai sanh nên bây giờ hóa sanh nơi cành xoài, là trường hợp đặc biệt hy hữu.

(2) Tương tợ các cô Geisha Nhật Bản bây giờ.

(3) Đôi nơi nói – chỉ có 50 kahāpaṇa. 1000 đồng tiền vàng kahāpaṇa tương đương 100 con bò sữa. 01 đồng vàng kahāpaṇa bằng 04 đồng vàng pāda; 01 đồng vàng pāda bằng 05 đồng xu vàng māsaka. Một ngày của dân ng- hèo tiêu tốn chỉ 02 đồng xu vàng māsaka!

Mãi mãi những cuộc vui. Mãi mãi những khúc đàn, tiếng hát. Mãi mãi với cao lương mỹ vị, kiệu đón xe đưa, hầu tiếp các vương tôn, công tử, danh gia, đại gia, đại phú gia…(2) cô hoàng hậu không ngai, kỹ nữ Ambapālī, cảm thấy mệt mỏi, rã rời, chán nản. Nàng bèn tậu một khu rừng xoài xa và sâu về phía ngoại ô, thỉnh thoảng tìm về đấy, trốn mọi người và cũng để thư giãn tâm hồn. Giữa thiên nhiên khoảng khoát, trong lành, nàng tìm được những giây phút thanh bình. Trong vô thức mơ hồ, nàng cảm thấy tất cả mọi tiện nghi xa hoa vật chất này không phải là hạnh phúc thật sự của đời người. Phải là cái gì khác. Phải là thế giới nào khác.

(2) Đây là thời cực thịnh của Vesāli, trong tạng luật có kể rằng: Phồn thịnh, giàu có, đông đúc… có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy tòa nhà dài, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy mái lầu ngọn, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy công viên, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy hồ sen (Tạng Luật, đại phẩm II (mahāvagga), NXB. Tôn Giáo, trang 269 – Việt dịch, tỳ-khưu Indacanda.

Thời gian qua đi, cô kỹ nữ tài sắc vẹn toàn năm xưa đã trở thành một lão bà tóc trắng nhưng sắc đẹp tiềm tàng vẫn làm xiêu lòng người, vẫn toát ra cốt cách phong lưu, đài các. Tuy có nhiều cơ ngơi, dinh thự, nơi mở lớp đào tạo kỹ nữ với rất đông gia nhân, người hầu nhưng bà vẫn thích về nơi thanh vắng này.

Mấy năm trước, nghe tin đồn về thái tử Siddhattha khi tuổi còn thanh xuân, tóc đang còn đen nhánh đã khẳng khái từ bỏ ngai vàng như quăng đôi dép cũ để xuất gia tầm đạo, bà đã đặt một dấu hỏi về hạnh phúc đời người! Vị ấy bây giờ đã là một vị Phật, với đoàn sa-môn áo vàng, thanh thản đầu trần chân đất đi hóa độ nhiều phương. Nghe nói, lời pháp của ngài đầy uy vũ như sấm gióng giữa trời mưa, như ánh mặt trời rọi tan mây mờ tăm tối. Cả năm vị hiền triết uy đức ở Vườn Nai đã được ngài cảm hóa trở thành đệ tử theo hầu! Chàng trai công tử con một bá hộ nổi tiếng ăn chơi ở Bārāṇasī và bạn hữu năm mươi lăm người đã đi theo đoàn sa-môn. Ba mươi vương tử trẻ trung của nước Kosala oai hùng cũng đã được đức Thế Tôn kia giác ngộ. Một ngàn đạo sĩ tóc búi cùng với thầy là ba anh em giáo chủ Kassapa tóc bạc già nua, thờ thần lửa tại Uruvelā cũng đã quy giáo với ngài. Đức vua Bimbisāra kiêu ngạo, tài hoa, trẻ tuổi, cơ trí hơn đời và cả triều đình đều xin quy y và thọ trì ngũ giới. Khu rừng Veḷuvana mênh mông và xinh đẹp phía Bắc kinh thành Rājagaha của đức vua cũng đã được dâng cúng cho giáo hội độc thân ấy. Rồi đến việc chàng thần y Jīvaka Komārabhacca trẻ tuổi nổi tiếng và kiêu hãnh đã tâm phục, khẩu phục, phát khởi đức tin hiến cúng khu vườn xoài… Ôi! biết bao nhiêu câu chuyện lạ lùng như huyền thoại được thêu dệt qua cửa miệng của mọi người. Nhưng rõ ràng là vị Phật ấy cùng đoàn sa- môn y vàng thanh thoát, thánh hạnh được mọi người quý trọng; ngay chính ngoại giáo cũng phải nể phục. Chuyện đức Phật cảm hóa tên biện sĩ ngông nghênh Saccaka vừa xong thì xảy ra ba thảm nạn tại Vesāli, cũng chính giáo đoàn ấy cùng với quân lính, thực phẩm của đức vua cư sĩ mang sang đây để cứu trợ. Ôi! Năm trăm vị sa-môn trẻ trung, xinh đẹp đã đọc kinh an lành suốt đêm khắp ba vòng kinh thành Vesāli mà không cần một đền đáp nào! Quả thật là đã có một tôn giáo cứu khổ cho muôn sinh đang có mặt trên cuộc đời hư vô huyễn hóa này hay sao? Bà kỹ nữ Ambapālī nghĩ mình là phận nữ nhi, lại làm một cái nghề, dù được xã hội quý trọng nhưng trong miệng lưỡi thế gian, người ta vẫn nói nàng là một dâm nữ! Trong sâu thẳm tâm hồn, nàng vẫn mang một mặc cảm nặng nề không dám tìm gặp đức Thế Tôn thánh hạnh ấy để nghe giáo pháp, để học hỏi giáo pháp. Vừa mới đây, nghe tin đồn, đức Phật đã mở rộng cánh cửa cho nữ nhân các giới có cơ hội tu tập. Và giáo hội tỳ-khưu-ni đã được thành lập rồi, ngay cạnh khu rừng Mahāvana của tỳ-khưu Tăng. Mấy trăm công nương, cung nga thể nữ dòng tộc Sakyā, dẫn đầu là hoàng hậu Gotamī, công nương Yasodharā, sương phụ của đức Phật, đã được gia nhập đoàn nữ sa- môn. Và nghe đâu, đức Phật ấy không phân biệt nữ nhân thuộc giai cấp, tầng lớp nào trong xã hội.

Còn nữa, bà có một đứa con trai, thanh niên Vimala (1), là kết quả mối tình giữa bà và đức vua Bimbisāra, nó cũng đã xuất gia rồi, bây giờ có tên là tỳ-khưu Vimalakoṇḍañña, nghe đâu đã đắc thánh quả, cũng thường hay khuyên nhủ bà rũ bỏ tất cả để xuất gia sống đời thanh tịnh, giải thoát.

Bà kỹ nữ Ambapālī thở phào, vậy là mình sẽ có dịp diện kiến ngài, mọi nhân, mọi duyên có lẽ đã chín muồi rồi.

Tin đức Phật sáng hôm nay bộ hành về các thôn làng ngoại ô đã đến tai nàng do gia nhân trông thấy, báo lại. Nghe nói, hiện tại, đức Phật đang ở tại làng Koṭigāma. Không chần chờ phút giây nào nữa cả, nàng tức tốc cho thắng một cỗ xe lộng lẫy, sang trọng với bốn con ngựa trắng cũng lộng lẫy, sang trọng… với người hầu đánh xe, với hai thị nữ rời khu rừng xoài trực chỉ ngôi làng Koṭigāma. Đến chỗ ngựa không còn đi được, hỏi đường, bà cùng với thị nữ đi bộ đến khu rừng mù u. Đến nơi, bà trông thấy một sa-môn dung nghi trong sáng và dịu dàng như ánh trăng rằm đang ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây! Ôi! đẹp quá! Thanh khiết quá! Và lác đác xung quanh chừng vài mươi sa-môn trẻ trung dường như cũng đang tĩnh định trong thiền duyệt. Khung cảnh trang nghiêm và thiêng liêng làm sao! Bà sợ hãi, rón rén đến gần…

Giọng đức Phật chợt vọng vào tai nàng:

(1) Theo Dictionary of Pāḷi Proper Names, ông ta đã có duyên từ thời Phật Vipassī, đã có dâng cúng đến ngài bốn đóa hoa vàng được làm bằng vàng, sau đó hóa sanh vào cung trời Tusita…

– Này Ambapālī, hãy đến đây! Như Lai cũng đang cố ý chờ đợi cuộc viếng thăm này đấy!

Bà Ambapālī rùng mình: “Hóa ra ngài biết cả tên ta! Mà ôi! Cái giọng nói sao mà mát mẻ và êm dịu cái lỗ tai đến vậy!” Bà Ambapālī mạnh dạn bước tới, khom người xuống rất mực lễ độ, cung tay xá lễ. Đức Phật chỉ một tảng đá khá sạch sẽ bên cạnh rồi nói:

– Bà hãy ngồi xuống đấy, và nội tâm có điều gì bất ổn thì cứ nói ra hết cho Như Lai nghe!

Rồi bà Ambapālī nói. Bà kể về thân thế là đứa con vô danh nơi gốc xoài lúc hóa sanh. Kể về sự lao khổ của bao nhiêu năm học nghệ trên đất khách. Kể về cái nghề của bà khi đã thành đạt. Kể về đời sống xa xỉ bạc tiền. Kể về phải đánh đổi cả tuổi thanh xuân, vũ ca đàn hát để phục dịch, hầu hạ cho giai cấp quý tộc, cho giới trưởng giả giàu có. Thân mệt mỏi mà tâm cũng mệt mỏi. Chắc hẳn vàng ngọc và vinh hoa hư dối ấy không phải là hạnh phúc. Cuộc đời này, chẳng lẽ nào trên cái bề mặt của phú quý, danh vọng, tài sản, thỏa mãn ngũ dục… có vẻ huy hoàng kia lại có cái mặt trái của nó là tối tăm, đau khổ và buồn phiền? Và đấy có phải là trò biến hóa của Māyā chăng?

Đức Phật nắm bắt ngay căn cơ và trình độ. Theo với tâm sự của Ambapālī, đức Phật khơi bày về sự-thật-khổ; nó là cái gì hiện thực đang chi phối chúng sanh trong ba giới bốn loài; là cái gì tất định mà tất thảy giống hữu tình phải gánh chịu, phải mang vác trên trần thế. Đức Phật chưa đi sâu vào tứ đế mà ngài tiếp tục nói về thuận thứ của con đường thoát khổ. Ngài nói về tri kiến chơn chánh, về đức tin chơn chánh làm nơi nương tựa vững chắc cho đời sống tinh thần. Không có đời sống tinh thần với những niềm vui thiêng liêng, lành mạnh thì sự sung mãn vật chất chỉ đáp ứng được đời sống bản năng, hạ liệt, sa đọa và sẽ rơi vào thảm nạn. Phải có chỗ để quy hướng. Phải biết bố thí, cúng dường; phải biết xả ly, ly tham cho tâm hồn được nhẹ nhàng, rộng mở, thanh thản… Phải thực hiện những pháp như vậy, phải tu tập những pháp ban đầu như vậy thì chúng sẽ xua tan những đám mây mờ, u tối ở trong con… Như Lai chúc phúc sự bình yên cho con, này Ambapālī!

Xúc động quá, bà Ambapālī quỳ năm vóc sát đất và gục khóc lặng lẽ. Thời pháp êm dịu của đức Phật đã làm cho tâm hồn khô hạn của bà được tẩm mát, nhẹ lâng lâng. Để cho xúc cảm lắng xuống, bà Ambapālī nói:

– Tri ân đức Thế Tôn! Con đã có chỗ nương tựa rồi! Xin đức Thế Tôn cho con được quy y làm người cận sự nữ từ đây cho đến trọn đời!

Sau khi đức Phật cho thọ trì quy giới, ngài im lặng nhận lời mời của kỹ nữ Ambapālī, cùng với hội chúng đến vườn xoài của bà thọ trai vào ngày hôm sau.

Bà Ambapālī đảnh lễ đức Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, hướng vai phải nhiễu quanh tỏ lòng kính trọng rồi ra về.

Vào buổi trưa hôm ấy, các vương tử, công tử trẻ tuổi cộng hòa Licchavī, thủ đô Vesāli, nghe tin đức Thế Tôn ngự đến ngôi làng Koṭigāma nên đã cùng thông báo với

nhau, tổ chức một hội chúng đông đúc để đi diện kiến ngài. Thế là đúng giờ hẹn, tại chỗ tập trung, họ bước lên hằng chục cỗ xe sang trọng, lộng lẫy, sáng chói dát bạc, dát vàng như một cuộc hội lớn, rầm rộ khởi hành.

Đến con đường nhỏ vào làng Koṭigāma, những vương tử, công tử Licchavī trông thấy một cỗ xe bốn ngựa trắng sang trọng trên đường ngược chiều.

Họ bàn tán với nhau:

– Cỗ xe thắng bốn con ngựa trắng cao đẹp kia với rèm sáo lanh canh, óng ánh ngọc vàng như thế thì có ai ngoài bà vương hậu kỹ nữ của chúng ta?

– Đúng là bà mỹ nhân kiêu hãnh Ambapālī rồi!

Trông xa đã biết đấy là các vương tử, công tử Licchavī trẻ tuổi, giàu sang, hiển hách và đầy quyền uy, nhưng bà Ambapālī bảo người hầu cương quyết không nhường đường. Bốn con tuấn mã sức mạnh như sư tử vẫn an nhiên càn lướt, còn hí lên những tràng dài đầy vẻ thị uy. Thế là gọng xe, càng xe, bánh xe, trục xe đụng nhau tạo nên những âm thanh lắc cắc, lốp bốp… Những cỗ xe của các vương tử không đương cự nổi cỗ xe được thiết kế chắc bền bởi những kim loại quý của bà kỹ nữ, đành phải dạt ra ngoài lề với một số chi tiết bộ phận nào đó đã bị gãy bể, hỏng hóc. Tuy nhiên, họ không để tâm vào điều ấy; một số vương tử, công tử nhảy xuống, họ không giận mà chỉ cất tiếng hỏi:

– Cái cỗ xe trị giá trăm ngàn đồng tiền vàng của bà lại cố ý ngăn chặn giữa đường, không cho chúng tôi đến diện kiến đức Thế Tôn là tại làm sao hở?

Bà Ambapālī cho dừng xe, vén rèm, mỉm cười, dịu dàng đáp:

– Vì chính tôi đã thỉnh mời hội chúng tỳ-khưu và đức Thế Tôn đến thọ trai ngày mai tại vườn xoài của tôi rồi, thưa chư vương tử!

– Chúng tôi cũng muốn đến Koṭigāma với ý nguyện như vậy. Hay là bà hãy nhường lại buổi cúng dường thọ trai ngày mai nhé?

– Không thể được, thưa vương tử!

– Chúng tôi sẽ tặng lại bà cùng hai nàng thị nữ xinh đẹp đây một ngàn đồng tiền vàng kahāpaṇa ngay tức khắc!

– Các vương tử xem thường tôi quá đấy!

Một vị vương tử nhảy phóc xuống xe, nói lớn:

– Hai ngàn, ba ngàn kahāpaṇa được chăng? Cứ ngã giá vậy nhé, thưa bà hoàng hậu kỹ nữ?

Bà Ambapālī, buông rèm xuống, nói vọng ra:

– Xin lỗi! Xin chư vị đừng lấy tiền bạc ra mà hù dọa tôi. Cho dẫu cả thủ đô Vesāli, cả tài sản và cư dân, tôi cũng không chịu nhượng đâu!

Thế là bà bảo người hầu dong xe đi. Các vương tử, công tử Licchavī tấm tức nhìn theo.

Có vị buột miệng:

– Kiêu hãnh quá đấy! Có vị nói:

– Bà kỹ nữ vườn xoài đã nhanh tay hớt phần phước đầu của chúng ta rồi! Rồi y vỗ tay, la với theo cỗ xe của Ambapālī – Chúng tôi đã bị đo ván một cách rất tồi tệ, hỡi bà vương hậu mỹ miều, xinh đẹp ơi!

Mọi người có vẻ chẳng buồn giận gì, cười ha hả.

Rồi sau đó, họ cũng lại lên đường, rầm rộ đến thăm đức Phật. Chiếc xe nào hư hỏng, các vị thản nhiên quăng bỏ lại không thương tiếc. Đến chỗ xe không còn đi được, họ đi bộ đến cụm cây mù u. Đức Phật biết tất cả mọi chuyện xảy ra, ngài chợt nói với hội chúng, lúc ấy họ đang ngồi xung quanh ngài:

– Này các thầy tỳ-khưu! Ở đây, ai chưa thấy chư thiên cõi trời Tāvatiṃsa (Đao Lợi hoặc Ba Mươi Ba) thì hãy nhìn hội chúng các vương tử, công tử Licchavi kia là có thể hình dung được! Chư thiên Tāvatiṃsa cũng tương tợ như vậy về cách phục sức nhiều sắc màu đầy ấn tượng. Hãy nhìn kìa! Một số vương tử thích màu xanh, thế là ngựa kéo nhuộm xanh, cỗ xe màu xanh, y phục màu xanh, trang sức cũng màu xanh! Một số vương tử thích màu vàng thì ngựa, xe, y phục và trang sức đều màu vàng. Cũng như thế là màu bạch ngọc, màu chu sa, màu san hô, màu nước biển, màu xanh lá cây, màu bình minh rạng… Họ đi đâu là mang theo cả thiên nhiên, cả vườn hoa thật là phong phú sắc màu, tươi vui và đẹp mắt…

Các vị tỳ-khưu trẻ cảm thấy thích thú nhìn ngắm hội chúng ấy đi đến, chào hỏi cung kính đức Thế Tôn rồi ngồi lác đác chỗ này chỗ kia với những tượng người sắc màu di động.

Đức Phật lại thuyết một thời pháp nói về cảnh giới các cõi trời, nhấn mạnh về trang phục sắc màu của họ tương ưng thiên chúng cõi trời Tāvatiṃsa như thế nào, nhân và quả ra sao. Rồi ngài nói tiếp nhân sanh các cõi trời cao hơn, chánh báo, y báo ở đấy. Thuyết về bố thí, trì giới với những câu chuyện, dụ ngôn, đoản ngôn đầy ấn tượng và rất thú vị. Thứ đến mới nói đến đức tin Tam Bảo, con đường thắng phước, hạnh phúc và an lạc cho nhiều đời… Trong lúc thuyết pháp, đức Phật đã cố ý vận dụng thần thông, phóng ra một loại hào quang sắc trắng, như mặt trăng mùa thu dịu dàng tỏa sáng ra xung quanh, bao trùm cả hội chúng, lại còn làm cho không gian trở nên sạch trong, không một chút bụi dơ. Như thế là đức Phật đã làm cho họ vô cùng thỏa thích và hoan hỷ.

Cuối buổi pháp thoại, hội chúng vương tử, công tử Licchavī thỉnh mời đức Toàn Giác và hội chúng thọ trai ngày hôm sau; đức Phật bảo là đã nhận lời mời của bà Ambapālī rồi. Họ kể lại chuyện đụng đầu bà kỹ nữ giữa đường như thế nào. Rồi một chàng trai Licchavī thốt lại câu nói cũ:

– Bạch đức Thế Tôn! Chúng con bị bà kia nhanh tay hớt phần phước mất rồi; bị bà ta hạ đo ván một cách rất chi là oanh liệt.

Đức Phật mỉm cười:

– Ừ! Trên con đường tiến hóa tâm linh, nếu như các chàng trai còn ham vui quá, ham chơi quá, ham thụ hưởng quá – thì coi chừng, sẽ bị bà ta hớt mất phần phước, bị hạ đo ván một lần nữa đấy!

– Bạch, tại sao?

– Vì mới nghe pháp chỉ mới một lần, đức Phật nói, mà bà ta đã có đức tin khá vững chắc.

– Tri ân đức Thế Tôn! Chúng con sẽ ghi nhớ lời này! Chúng con rồi sẽ có đức tin vững chắc như thế!

Sau khi hội chúng Licchavī đi rồi, đức Phật dọn dẹp chỗ ngồi, xếp lại tọa cụ, tăng-già-lê… rồi cùng với hội chúng tỳ-khưu rời Koṭigāma đến ngôi làng Nākikā lúc trời đã về chiều. Đến một rừng cây, trời lất phất mưa, gió lạnh rì rào – đức Phật tìm thấy một ngôi nhà gạch bỏ hoang, ngài và hội chúng trải qua đêm ở đây.

Sáng ngày, người hầu nam của cô kỹ nữ đánh xe đến thông báo là buổi đặt bát cúng dường tại vườn xoài đã sẵn sàng, thỉnh đức Thế Tôn và hội chúng lên đường. Tại đây, bà kỹ nữ đã dâng cúng thức ăn thượng vị loại cứng, loại mềm… đầy thành kính và trân trọng vào bát của đức Phật và Tăng chúng. Khi đức Thế Tôn ngọ trai xong, bà dâng nước rửa tay, nước uống và tăm xỉa răng rồi ngồi một bên để nghe pháp. Đức Phật lại ân cần chỉ dạy cách lập tâm, cách an trú tâm vào thiện pháp – tức là phải biết lấy việc lành, việc tốt làm niềm vui thanh cao cho tâm hồn. Cuối buổi giảng, bà kỹ nữ Ambapālī, quỳ thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Con đã phát khởi tâm tịnh tín đối với giáo pháp. Vậy, xin ngài cho phép con được làm một số việc hữu ích.

– Như Lai nghe đây!

– Thứ nhất, cho con được thỉnh thoảng lui tới Mahāvana để nghe pháp; thỉnh thoảng lui tới hội chúng tỳ-kheo-ni, tùy theo khả năng, con có thể cúng dường gì đó phù hợp nhu cầu ở nơi cơ sở còn quá mới mẻ ấy!

– Còn việc thứ hai?

– Vườn xoài này của con cũng khá rộng lớn lại có nhiều cây to bóng mát, có thể làm nơi lưu trú cho tỳ-khưu Tăng; nếu Mahāvana mai kia đã trở nên chật chội, xin đức Thế Tôn cho con được noi theo gương của cậu thần y Jīvaka Komārabhacca cúng dường cơ sở này.

Đức Phật im lặng nhận lời. Rồi ngài nói:

– Con nên tác ý cúng dường vườn xoài này đến cho thập phương Tăng, có Như Lai là vị đứng đầu, như thế phần phước này sẽ lớn rộng hơn nhiều!

Bà Ambapālī cúi đầu ưng thuận, lấy bình đựng nước nhỏ bằng vàng, đổ nước lên bàn tay của ngài cho đúng với thủ tục dâng cúng cổ truyền. Đức Phật nói kệ chúc phúc, mong rằng, phước sự này sẽ như sông biển của bốn đại dương, làm cho đầy tràn tín tâm, chân phúc mai hậu cho thí chủ. Sau đó, do thấy căn duyên của bà kỹ nữ đã sẵn sàng, đức Phật thuyết một thời pháp nói về Tứ đế với câu cú, văn nghĩa vừa giản dị, vừa sâu rộng, gần gũi với đời thường. Cuối thời pháp thoại, bà kỹ nữ rời bỏ tập khí, xa lìa trần cấu, thấy pháp, chứng quả Nhập lưu!

Ngay chiều hôm ấy, đức Phật trở lại Mahāvana, Sảnh

Đường Nóc Nhọn, Kūṭāgāra, ngài kể lại câu chuyện ở vườn xoài; rồi yêu cầu hai vị đại đệ tử cho một hội chúng tỳ-khưu có vài vị trưởng lão dẫn đầu đến tiếp nhận cơ sở mới.

* Khúc thán ca vô thường bất hủ

Thời gian sau, kỹ nữ Ambapālī xin được xuất gia phạm hạnh rồi sống ở Ni viện do trưởng lão ni Gotamī lãnh đạo. Tỳ-khưu-ni Ambapālī không được vui do tuổi già, không còn đủ lanh lẹ trong mọi sinh hoạt như các vị khác. Có một dao động mãnh liệt khi thấy bản chất già yếu, lụm khụm, mệt mỏi… và sự biến đổi, thay đổi của thân xác.

Hôm kia, ngồi bên bờ suối vắng vẻ, nhìn ngắm chiếc bóng già nua thấp thoáng ẩn hiện trong dòng nước, tỳ- khưu-ni Ambapālī kinh cảm, tràn đầy xúc động, thốt lên một bài kệ như sau:

Ôi! Mái tóc thanh xuân của ta,

Mái tóc màu xanh sậm tợ mắt con ong chúa

Và bồng bềnh sóng gợn từ gốc tới ngọn

Bây giờ sắc đẹp ấy đã bị phá hủy

Do bệnh hoạn, do tuổi già

Do lửa thời gian thiêu đốt

Nó khô rang giống như sợi vỏ cây gai dầu

Ai rồi cũng phải bị tuổi già khống chế

Bị sự vô thường chi phối

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Mái tóc của ta tỏa hương thơm

Giống như một hộp đựng châu báu

Hoặc như một hộp đựng hương

Do trên đầu ta luôn phủ đầy hoa puppheti, Hoa campaka, hoa aribian

Cùng bột hương và các loại hương liệu tế nhị, quý phái

Còn nữa, mái tóc ta dày rậm

Như một khu rừng khéo trồng,

Mỗi sợi tóc là mỗi gốc cây luôn được bảo vệ,

Chăm sóc như trong công viên của hoàng gia,

Nó mềm mại, êm ái và sực nức thơm tho.

Lại còn được làm đẹp

Với lược gắn bằng vàng ròng tinh chất,

Với trâm cài có đính kim cương –

Nó óng ánh, đẹp đẽ

Và chói sáng giống như ngày hội của muôn sao

Bây giờ thì nó đã thưa thớt dần

Sau khi cạo bỏ

Nó lại phảng phất mùi hôi như lông chú cún,

Khó chịu như mùi lông cừu

Ôi! Quả đúng là một rừng bất tịnh

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Đôi làn mi của ta

Đã được họa sĩ trứ danh khéo vẽ

Đẹp tựa vầng trăng lưỡi liềm

Nó không những điểm màu xanh tinh tế,

Màu gợi cảm tinh tế

Mà còn pha thêm hồn của liễu rũ,

Hồn của những sợi tơ con ngài

Phải nói là nó đẹp đến tuyệt mỹ, vô song

Bây giờ đôi làn mi ấy

Chỉ còn là những sợi rơm rạ khô vàng

Kéo theo những tia nhăn nheo phủ xuống mệt mỏi

Báo hiệu sự già lão, chết chóc

Ôi! Một thời,

Đôi mắt của ta đen huyền và xanh thẳm

Như đôi mắt của chúa bồ câu,

Chúa thiên nga, chúa nai trong rừng sâu

Nó lại còn rực rỡ, chói ngời

Nhưng xanh trong và tỏa sáng dịu dàng

Như hai luồng châu báu

Bây giờ, tháng năm biến đổi

Nó đã đục lờ như nước sữa chua

Nó đã lấm tấm mọc lên li ti

Những mụn bụi, mụn cát màu xám nâu

Nó xấu xí, bạc nhược và vô hồn đến nỗi,

Có thể đem so với đôi mắt con cá chết,

Nhưng mà con cá chết ươn!

Ôi! Đang lúc tuổi trẻ dậy thì

Mũi của ta mềm dịu, Ngay thẳng và sáng trong

Sống mũi là một gò núi tinh tế, tuyệt hảo

Nó kiều diễm như châu ngọc không có tỳ vết

Bây giờ thì nó sụp xuống như ống cống bị gãy

Lại còn tươm rỉ nước mũi lệt sệt hôi hám

Ôi! Sự thật vô thường thật là khó kham, khó nhẫn;

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Đôi tai của ta, vành tai, Trái thùy châu của ta

Nó được những vòng vàng, vòng ngọc,

Vòng bạc khéo chế tạo, tế nhị điểm trang

Nó sáng chói như ngọc chuốt

Bây giờ thì nó chảy xệ xuống,

Nhăn nheo rũ xuống như hai miếng giẻ rách

Ôi! Sự thật vô thường thật đáng sợ

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Hàm răng của ta trắng tinh như ngà,

Đều đặn như hạt lựu, hạt bắp,

Trắng nõn như búp măng chuối mới sinh

Nay thì nó bị bể, bị gãy, bị sâu đục

Rồi chiếc rụng, chiếc long

Và chúng ngả sang màu vàng, đen xỉn

Trông mới ghê sợ, thê thảm dường bao!

Ôi! Một thời,

Giọng nói, âm sắc của ta ngọt ngào, ngọt lịm

Nó êm ái, du dương Nó mê ly, thánh thót

Nó quyến rũ mê hồn

Khi ta thốt lên thì nó thỏ thẻ, đường mật,

Gợi tình như tiếng chim cu

Sống chung trong cánh rừng

Cùng những ca sĩ non xanh líu lo tấu nhạc

Trong một khúc trường xuân miên viễn

Nay thì nó rè rè, khan khàn, đứt đoạn

Giống như gió thổi qua ống sáo trúc bị nứt bể!

Ôi! Một thời,

Chiếc cổ của ta thật là kiều diễm

Nó đầy đặn, mềm mại, tròn sáng

Như vỏ ốc xà cừ bằng vàng

Được đánh bóng công phu, khéo tay và tinh tế

Giờ đây trông nó như vỏ mướp đắng phơi khô,

Có nhiều ngấn quăn queo,

Chỉ còn là bì da đựng lớp mỡ thừa, chảy xệ, nhão nhoẹt

Ôi! Một thời,

Hai cánh tay trần của ta mềm mại, tròn trịa

Vàng sáng như được tô ngọc

Hòa thêm với ánh trăng đêm mười sáu

Nó còn giống như hai ống ngọc tròn

Vòng quanh ngôi đền tình ái

Nay thì nó đã xiêu đổ, biến dạng, đổi hình

Và nó yếu ớt, tàn tạ

Như đóa hoa kèn trắng bệch Không còn chút huyết sắc nào

Ôi! Một thời,

Hai bàn tay của ta trắng trẻo, mềm dịu,

Sáng trắng như trứng gà bóc

Lại còn nhẫn vàng, nhẫn ngọc,

Nhẫn kim cương, hột xoàn trang điểm

Tô chuốt óng ánh bóng ngời

Nay thì nhăn nheo, nhũn nhèo

Mềm xèo như cây hành héo

Như nhúm cải luộc! Ôi! Một thời,

Cặp nhũ của ta căng phồng, tròn trịa

Mơn nõn như hai trái đào tiên

Đầu vú cứng cáp tràn trề sinh lực

Và đỏ hồng như điểm chu sa

Nay thì nó chảy xệ xuống

Như bầu da khô sữa không còn căng đầy

Như túi nước đã rỉ hết nước

Ẻo xèo và nhăn nhúm

Ôi! Một thời,

Thân ta thon thả và chói sáng

Như áo giáp vàng đánh bóng

Sau khi đã bôi lên một chất son tinh khiết

Đâu cũng mịn màng, láng lẩy

Đâu cũng tròn căng và thơm tho

Nay thì chúng đã xuống cấp

Như ngôi nhà mối mọt

Đã tàn tạ và mục rữa ở khắp mọi nơi

Cả những sinh bào bé tí

Cũng cau mặt, nhăn nhiu thảm hại

Ôi! Một thời,

Cặp đùi của ta múp míp đầy đặn

Ánh ngời như cặp ngà voi

Mềm mại và uyển chuyển

Như bước đi của tiên nữ

Và nó đã làm cho bao nhiêu

Vương tôn công tử chết đứng chết ngồi

Vì nó đã được ông thợ trời khéo khắc, khéo tạc

Thành một tác phẩm tuyệt mỹ

Nay thì giống như hai ống tre khô giòn

Đến thời quăng vào lửa đốt!

Cặp bắp chân của ta cũng thế

Như được uống nước no,

Mịn màng và vàng óng

Lúc nào cũng giống như đôi giày được độn đầy bông

Nay thì nó gầy gò, teo tóp, xương xẩu

Rất ít thịt và máu

Giống như thân cây mè khô

Được cắt bỏ ngoài đồng ruộng khô nỏ, nứt nẻ

Những sợi lông chân của ta

Cũng mịn màng vàng óng

Bây giờ thì như cây cỏ

Trong ngôi rừng vừa bị lửa cháy!

Ôi! Cái thân, cái thân!

Các pháp hữu vi kết hợp này

Nó chịu cái già lão hủy hoại

Cái ngôi nhà được vô minh và ái dục xây nên

Nay đã cũ kỹ

Cột kèo, đòn dông đã bị hư mục

Mái lợp, tấm che đã xiêu rách tả tơi

Và những lớp vôi trét tường đã đến hồi rụng rã

Cái thân vô thường này

Là một cái bọc chứa đầy bất tịnh và đau khổ

Lời dạy của đức Tôn sư

Muôn đời là sự thật

Tham luyến, chấp thủ gì nữa

Mà không chịu rời xa? (1)

Sau khi thốt lên lời thán ca về sự vô thường, biến đổi, bất tịnh của cái thân như thế, tỳ-khưu-ni Ambapālī nắm ngay tướng bất tịnh ấy, lìa tham ái, chấp thủ, đoạn trừ năm triền cái, năm thiền chi xuất hiện đi vào định thiền, tuần tự sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền chỉ trong thời gian bảy ngày. Nhờ tâm định vững chắc, kiên cố, bà quán sát danh sắc, thấy được thực tánh, tam pháp ấn hiển lộ, chứng đắc các tầng tuệ giác, từ cạn vào sâu, chứng quả A-la-hán với đầy đủ ba minh (2).

Bổi hổi, bồi hồi, lạc phúc và an tịnh, nàng dùng thiên nhãn, sanh tử minh, rồi túc mạng minh, chiêm quan nhìn ngắm các kiếp sống trầm luân sinh tử của mình; cảm thán, nàng thốt lên một bài kệ tán ca nữa:

Hóa ra ta đã có căn duyên

Từ thời Phật Phussa

Ta thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ

Là chị gái của đức Hiền Trí ấy

Tuy nhiên, dẫu lắng nghe chánh pháp

(1) Bài này được soạn lại dựa theo “Chú giải Trưởng Lão Ni Kệ” – bản Việt ngữ của tỳ-khưu Siêu Minh, NXB Tp. HCM, năm 2008.

 (2) Cũng ghi thêm để tham khảo, theo Theo Dictionary of Pāḷi Proper Names, là nhờ thời pháp của con trai bà, tỳ-khưu Vimalakoṇḍañña mà bà đắc quả A-la-hán.

Dẫu bố thí cúng dường lớn lao

Ta cũng chỉ biết

Cầu mong có được sắc đẹp diễm kiều

Đến thời Phật Sīkhī xuất hiện

Ta sinh ra

Trong kinh đô Aruṇa tuyệt vời thanh lịch

Ta xuất gia tỳ-khưu-ni trong giáo pháp này Hôm kia,

Dẫn đầu đoàn Ni chúng đông đúc

Đến chùa nghe pháp đức Thế Tôn

Có một vị Trưởng lão Ni lậu hoặc đã tận

Do hắt xì hơi nhổ ra một bãi đờm

Ta bước qua, thấy bãi đờm

Cất lời nguyền rủa

“Con kỹ nữ nào dám nhổ cái đống bất tịnh ở đây!”

Do lời ác khẩu phỉ nhổ bậc thánh vô nhiễm

Ta bị đọa sanh ở cõi hỏa ngục

Chịu nhiều cực hình đau đớn

Sau đó bị dư nghiệp của quả báo

Ta bị làm kỹ nữ suốt mười vạn kiếp nữa

Đến thời Phật Kassapa

Ta được xuất gia tỳ-khưu-ni

Với bậc Đại Chiến Thắng

Nhờ giới hạnh trong sạch

Tích lũy thiện nghiệp

Ta được hóa sanh vào cõi Tam thập tam

Đến thời Phật Sakyā Muni hiện tại

Do đã chán các thai bào dơ uế

Nên tuy sanh làm người

Nhưng ta lại hóa sanh tại cây xoài

Nên được đặt tên là Ambapālī

Do nghiệp còn dư sót

Ta vẫn làm kỹ nữ

Do sắc đẹp, tài năng –

Thế gian không ai sánh nổi

Nên được phong danh hoàng hậu kỹ nữ

Khi tuổi chiều bóng xế

Ta lại được nghe pháp của đức Thế Tôn

Duyên xưa trổ sanh

Được xuất gia tỳ-khưu-ni

Và không mấy chốc

Ta đã đạt Tam minh

Mọi lậu hoặc, kiết sử không còn nữa

Ta thênh thang giải thoát

Ta vô ngại giải thoát

Ta chẳng còn tái sanh, luân hồi nữa

Ta đã làm trọn hảo phận sự của mình

Thực hiện đúng đắn lời dạy của đức Tôn sư

Chẳng còn gì để làm nữa trên cõi đời

Vô lượng tri ân bậc Vô tỳ vết,

Bậc Chiến thắng tam giới,

Đã cho con nếm thưởng

Hương vị Pháp bảo vô sanh bất diệt!

Những đoạn kệ, nhất là bài thán ca vô thường bất hủ của tỳ-khưu-ni Ambapālī không mấy chốc được lan truyền đi khắp nơi. Một vị Thánh ni, xuất thân là một kỹ nữ vừa được sanh ra trong giáo pháp của đức Thế Tôn là một biến cố trọng đại, được mọi người xưng tán, tôn trọng; do vậy bài tụng ca này hàm tàng không biết bao nhiêu là ý nghĩa, khó nói cho hết được.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Nhà xuất bản Văn Học
Tái bản 2014