9. PHẢN ỨNG TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN TIẾP

« Kẻ nào biết nói rằng: “Tôi sắp chết đây!”. Kẻ đó sẽ không còn sợ hãi nữa. Những ảo ảnh của cái chết thì có gì để làm cho họ sợ hãi ». Phật.

Tiết 14

Chúng tôi ước mong xin đạt được thể dạng thiền định sâu xa về ảo giác
Để thay vào trạng thái trung gian, khi rời khỏi ánh sáng trong suốt,
Để vượt lên và đạt được dạng thể một Thân xác Đại hạnh với những dấu hiệu và vẽ đẹp đầy vinh quang và sáng ngời của một vị Phật,
Phát hiện từ khí lực và bản thể ánh sáng trong suốt của cái chết.

Khi người du-già hiển lộ từ sự nhận thức Tánh không, dựa vào tâm thức tinh tế nhất, họ sẽ thể hiện qua một thân xác tạo tác bằng khí lực (năng lực) và tâm thức, mang các dấu hiệu và vẻ đẹp của một vị Phật. Đó không phải là kết quả của tưởng tượng hay sự bắt chước, mà là một sự thật. Thay vì nhập vào trạng thái trung gian, người du-già thoát ra khỏi dạng thể của cái chết và thể hiện trong một thân xác mà ta gọi là Ảo thân. Ảo thân gồm có hai thứ khác nhau: hoặc là một Thân xác ảo giác và ô tạp, hoặc là Thân Đại Hạnh của một vị Phật. Tiết này sẽ trình bày sự mong ước đạt được những biến cải sâu xa như trên đây.

Ánh sáng tâm thức trong suốt và khí lực dùng chuyên chở ánh sáng ấy, cả hai tạo thành một thể dạng duy nhất, nhưng trên phương diện diễn tả bằng khái niệm có thể xem như hai thể dạng khác nhau. Khí là nguyên nhân thực thể của Ảo thân, trong khi đó tâm thức phối hợp với Ảo thân như một điều kiện cần phải có. Hai nguyên nhân vừa kể tạo ra Ảo thân gợi lên hình ảnh Thân xác một vị Thần linh mà ta đã chọn để tưởng tượng trong khi tu tập về Thần linh Du-già. Đó không phải là một thân xác bằng thịt xương. Bản thể của nó trong sáng và không vướng mắc, giống như một cầu vồng, vì nó được cấu tạo bằng khí lực và tâm thức mà thôi.

Sự hiển hiện của một sinh linh lý tưởng, hay một Thần linh, gợi lên hình ảnh của một con cá bất thần vọt ra khỏi hồ. Sự luyện tập đòi hỏi một thời gian lâu dài, ta tưởng tượng chính ta là một vị Thần linh do ta chọn, nuôi dưỡng và quán tưởng đến hình ảnh của vị ấy để sau cùng sẽ biến thành vị ấy. Sự quán tưởng sẽ trở thành sự thật.

CÁC TRÌNH ĐỘ TU TẬP KHÁC NHAU

Trong suốt tập sách này, tôi đã nhấn mạnh nhiều lần đến một điểm thật quan trọng là quý vị chỉ cần tu tập theo trình độ của quý vị. Theo Tối thượng Du-già Tan-tra, có ba trình độ khác nhau. Ta đã thấy trường hợp của những người tu học cao, nhưng họ không đạt được sự thành công tột bực, tức Phật tính trong kiếp này. Mặc dù họ chết vì những hậu quả độc hại của nghiệp ô nhiễm và những xúc động bấn loạn, nhưng họ có khả năng hoán chuyển mẹ, tức ánh sáng trong suốt của cái chết, thành con, tức ánh sáng của Đạo hạnh. Họ có thể tránh khỏi giai đoạn trung gian bình thường đưa đến sự tái sinh và có thể tạo ra được Ảo thân thực sự, Ảo thân đó không phải hoàn toàn chỉ là sản phẩm của tưởng tượng.

Người tu tập ở trình độ thấp hơn (sẽ đề cập đến trong tiết tiếp theo) chưa đủ khả năng để hoán chuyển ánh sáng trong suốt của cái chết thành một thể dạng trên đường tu tập – tức không thể tạo ra Ảo thân –, nhưng họ tránh được cái chết thông thường. Những người luyện tập du-già trong trình độ này, có thể hoán chuyển ánh sáng trong suốt của cái chết thành một thể dạng trên đường Đạo, nhưng thể dạng này không đủ sức gợi lên một Ảo thân. Họ có thể hiển hiện thành một Ảo thân bằng tưởng tượng trong một quá trình chuyển tiếp thông thường. Nhưng Ảo thân ấy không phải là thật. Trong trình độ này, người du-già có thể chọn lựa cho mình thể dạng tái sinh, nhờ vào lòng tư bi, sự ước vọng và một tâm linh tỉnh thức.

Những người tu tập ở trình độ dưới nữa (sẽ trình bày trong tiết muời sáu) không thể biến đổi ánh sáng trong suốt của cái chết thành một dạng thể trên đường tu tập – tức không có khả năng tạo ra Ảo thân –, nhưng vào giai đoạn vô tri cuối cùng của bầu-trời-tâm-thức, khi sự thực hiện gần như hoàn tất, họ vẫn có thể đạt được tâm linh tỉnh thức trong Du-già Tan-tra, dù dưới dạng thể nào cũng được, trong khi ánh sáng trong suốt hiển hiện. Người chết trải qua một giai đoạn chuyển tiếp bình thường, tái sinh một cách bình thường, nhưng nhờ sẳn có những xu hướng tốt nên có khả năng hướng vào con đường tu học lợi ích sau này. Kết quả đó là nhờ vào những gì tốt đẹp đem đến từ những hành vi quá khứ, cũng như nhờ vào sự kết hợp của nhiều điều kiện bên ngoài lẫn bên trong.

Những người thuộc ba trình độ trên đây đều tìm phương cách biến ánh sáng trong suốt của tâm thức trở thành sức mạnh trí tuệ tập trung vào Tánh không. Vì thế, các người tu tập trong cả ba trình độ phải quán nhận được Tánh không một cách minh bạch, trước khi các giai đoạn tan biến xảy ra. Nhất là trong lúc xảy ra sự tan biến của thành phần đất, nước, lửa, khí, và sự hiển hiện của bốn thứ tâm thức trống không là bầu-trời-tâm-thần màu trắng rực rỡ, bầu-trời-tâm-thần màu đỏ cam, bầu trời tâm thần màu đen đậm, sau cùng là ánh sáng trong suốt. Họ nên cố gắng phát khởi sức mạnh tâm linh tỉnh thức để suy tư về Tánh không của mọi hiển hữu tự tại, và tính cách bất tử nơi bản chất của mọi hiện tượng.

Những người tu tập ở cấp bậc cao có đủ khả năng biến cải ánh sáng trong suốt của cái chết thành một dạng thể tâm thức hiểu được Tánh không, điều đó tác động như một phương thuốc hoá giải chống lại cái chết bất lực. Kể từ thời điểm đó, ta sẽ thoát ra khỏi sự kềm tỏa của sanh và tử. Bản thể đích thực của tất cả mọi hiện tượng, nếu nhìn bằng phương cách đó, sẽ trở nên bất tử (vì thế bài thơ đã dùng chữ « bất tử » để diễn tả sự kiện đó).

Cái chết xảy ra từng giai đoạn một, từ lúc thành phần đất tan trong nước, cho đến khi ánh sáng trong suốt xuất hiện, và giai đoạn ánh sánh trong suốt cũng nằm chung trong quá trình của cái chết. Sau quá trình trên đây, và đối với trường hợp một cái chết thông thường (không phải cái chết của một người tu tập du-già ở cấp bậc cao), tám giai đoạn về cái chết lại tiếp tục xuất hiện nhưng theo thứ tự đảo ngược: khởi sự bằng ánh sáng trong suốt chuyển sang bầu-trời-tâm-thần màu đen, bầu-trời-tâm-thần màu đỏ cam, bầu-trời-tâm-thần màu trắng rực rỡ, ngọn lửa hiện ra, tiếp theo là đom đóm, khói, ảo ảnh. Sau cái chết bình thường, ba biến cố xảy đến cùng một lúc: 1) ánh sáng trong suốt biến mất; 2) ta vượt khỏi ánh sáng trong suốt của cái chết trong giai đoạn « thực hiện gần như hoàn hảo » và rơi vào một màn đen thật đậm; và 3) giai đoạn trung gian khởi sự; (sau đó các giai đoạn khác hiển hiện nhưng bằng cách thụt lùi). Tương tợ như vậy, một người du-già tuy thuộc cấp bậc tu tập cao nhất về Tối thượng Du-già Tan-tra, lưu lại trong hình tướng ẩn dụ của ánh sáng trong suốt và vượt lên cùng một lúc từ ánh sáng trong suốt và cả bầu-trời-tâm-thần màu đen đậm, để tạo ra một ảo thân. Trong khi đó, người tu tập ở cấp bậc thấp nhất của Tối thượng Du-già Tan-tra, vượt lên từ ánh sáng trong suốt đang phát sinh, không lùi lại trong thể dạng thực hiện gần như hoàn hảo của tâm thức, v. v… Các cấp bậc thô thiển của tâm thức đều biến mất trong trường hợp này.

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN

1) Những người tu tập thật cao có khả năng sử dụng ánh sáng trong suốt của cái chết và khí chuyên chở nó như những nguyên nhân thực thể tương quan đến phần tâm thức tinh khiết và thân xác.

2) Để có thể chuyển từ bản thể ánh sáng trong suốt thành một thân xác tinh khiết, tác tạo bằng khí lực, cần phải nhờ vào sự tu tập từ trước để tưởng tượng ta có một tâm linh và một thân xác thúc đẩy bởi lòng vị tha. Những gì ta cố gắng bắt chước sẽ có thể đưa đến sự thực.

3) Sự biến cải cuối cùng có thể không cần thiết phải chuyển từ bản thể bẩm sinh và căn bản của ánh sáng trong suốt sang một cấp bậc thô thiển hơn của tâm thức. Vì điều đó đã tạo ra một thể dạng bất tử.

Chủ động cái chết để tái sinh trong một kiếp sống an lạc hơn (Phần 5)

Tiết 15

Do nơi nghiệp, khi giai đoạn trung gian xảy ra,
Chúng tôi cầu xin mọi biểu hiện sai lầm đều được tẩy sạch,
Nhờ vào sự phân tích cấp thời và ý thức được tính chất không thực của mọi hiện hữu nội tại
Của mọi khổ đau do sinh và tử, và của cả giai đoạn trung gian.

Vào cuối giai đoạn khi tâm thức tinh tế nhất còn lưu lại trong thân xác, một luồng gió nhẹ sẽ phát sinh chuyên chở ánh sáng tâm thức trong suốt. Khí lực tinh tế nhất và tâm thức tinh tế nhất sẽ làm rơi xuống phía tim một giọt gồm các thành phần trắng và đỏ, và lúc đó thân xác ra đi. Vài giọt máu chảy xuống mũi, một chút chất lỏng căn bản màu trắng tiết ra nơi cơ quan sinh dục, những dấu hiệu này cho biết cấp bậc cuối cùng của tâm thức rời bỏ xác thân, dù sao thì cũng không bắt buộc là những dấu hiệu ấy cũng phải phát hiện với những người mà thân xác đã bị bịnh tật tàn phá. Trong các trường hợp này, thân xác hư rữa ngay và có mùi hôi.

Những người tu tập du-già thật cao thâm, tuy không đạt được Phật tính trong kiếp sống hiện tại, nhưng họ trực tiếp hoá thành ảo thân, thay vì phải trải qua giai đoạn trung gian. Đối với những người bình thường không thực hiện được các cấp bậc tu tập cao, họ sẽ không đủ khả năng để hoá thành ảo thân, do đó phải nhập vào giai đoạn chuyển tiếp bình thường vì sức mạnh thúc đẩy của nghiệp. Nếu trường hợp này xảy với ta, thì nên cấp thời nhận định tình thế và phải ý thức ngay cảnh huống của ta.

Khi ánh sáng trong suốt chấm dứt và bảy dạng thể khác bắt đầu phát hiện theo thứ tự ngược lại, lúc ấy chính là lúc khởi sự giai đoạn trung gian. Hiện tại ta còn đang sống, ta cũng có thể trải qua tám thể dạng giống như trong giai đoạn trung gian, chẳng hạn như lúc ta thức giấc, bắt đầu chiêm bao, vừa hồi tỉnh sau khi bị hôn mê, hay vừa thoát ra khỏi sự khoái cảm tính dục. Tám trạng thái theo thứ tự đảo ngược như sau:

 8. Ánh sáng trong suốt
7. Bầu-trời-tâm-thần đen đậm
6. Bầu-trời-tâm-thần đỏ cam rực rỡ
5. Bầu-trời-tâm-thần màu trắng rực rỡ
4. Ngọn lửa của một chiếc đèn dầu
3. Đom đóm
2. Khói
1. Ảo ảnh.

Ngay vào lúc ta bắt đầu lắng vào giấc ngủ, chính là lúc « thân xác chiêm bao » của ta thức dậy. Cũng giống như thế, trong trạng thái trung gian, bất thần ta cảm thấy có một thân xác giống như thân xác ta sẽ có sau này khi tái sinh. Thông thường thân xác ấy chính là thân xác của ta trong tương lai vào độ năm hay sáu tuổi. Thân này, giống như thân xác chiêm bao, gồm có khí lực và tâm thức. Gió chuyên chở ánh sáng tâm thức trong suốt làm nguyên nhân thực thể của thân xác đó, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện đưa ta vào trạng thái trung gian. Ngược lại, ánh sáng tâm thức trong suốt là nguyên nhân thực thể của trạng thái trung gian và đồng thời là điều kiện góp phần hình thành thân xác một sinh linh trong trạng thái trung gian.

Có một nhà sư cấp bậc cao trong giáo phái Cách-lỗ (Geluk), rất chuyên cần và can đảm. Lúc lính Trung quốc trong đạo quân nhân dân giải phóng kéo đến Chamdo, thuộc tỉnh Kham, để giải phóng nước Tây tạng, thì nhà sư kể trên đang làm phụ tá cho người đại diện chính thức của chính phủ Tây tạng trong vùng đó. Người đại diện cảm thấy nên tiếp xúc với người Trung quốc và hỏi những phụ tá của ông có ai muốn lảnh vai trò đó không. Tất cả mọi người đều e sợ gặp người Trung quốc. Con người đầy lòng tin tưởng và can đảm trên đây đã có lần kể với tôi rằng một hôm mẹ ông bảo với ông rằng: « Mẹ sắp lắng vào một giấc ngủ sâu. Đừng chạm vào thân xác của mẹ ». Mẹ ông ta ngủ liên tục không thức giấc suốt một tuần, sau cùng bà hồi tỉnh. Trong suốt tuần lể đó, hồn tức tâm thức bà đã viếng thăm nhiều nơi. Người con bà chẳng có lý do gì để nói dối tôi về chuyện này và cũng chẳng hé môi phao tin với ai cả. Sự kiện đó không phải là một trường hợp nhận biết những gì liên quan đến cái chết và sự hồi sinh, nhưng chỉ là một dạng thể hiển hiện đặc biệt của Thân xác chiêm bao.

Trong giai đoạn trung gian, ta vẫn còn giữ được ngũ giác vì xác thân vẫn còn cấu tạo bằng khí và tâm thức, nhưng thân xác đó trong sáng, không một bóng tối, giống như một cầu vồng, không lưu lại một dấu vết gì. Nhờ vào sức mạnh kỳ diệu của nghiệp, tự nhiên ta có thể ngao du, trong một khoảnh khắc rất ngắn, xuyên qua thế giới hoặc vòng quanh thế giới, không bị các chướng ngại như đất, đá, và nhà cửa cản trở. Trong khi đó, nếu ta chui vào tử cung của một người mẹ mới, ta sẽ không thoát ra được nữa. Và trong lúc đó, dù ta có cố gắng nói gì với những người thân của ta, bạn hữu ta, những người xung quanh ta, họ không còn nghe thấy gì và sẽ không còn trả lời ta nữa. Ta không thấy mặt trời hay trăng sao gì cả. Mặc dù trong quá khứ ta thiếu hẳn sự sáng suốt, nhưng giờ đây tự nhiên ta trở nên minh mẫn, nhưng chỉ giới hạn trong một mức độ nào đó. Nếu ta nhận ra các dấu hiệu cho biết ta đang trong trạng thái này, ta nên tự nhủ rằng: « Tôi đã chết và tôi hiện đang trong giai đoạn trung gian ». Hãy dùng sức mạnh của sự tỉnh thức để nhận định rằng những biểu hiện thích thú hay khó chịu phát sinh đều xuất phát từ một tâm thức sai lầm. Nên hiểu lấy điều này và không nên bám víu vào những gì thích thú, cũng không nên nổi giận vì những biến cố khổ sở xảy ra. Tốt hơn ta cứ tưởng tượng đang trưởng thành trong một Ảo thân, xem tất cả mọi biểu hiện và khổ đau của cái chết, trong đó kể cả giai đoạn trung gian và sự tái sinh đều không có một sự hiện hữu nội tại: chúng không có thật. Nên hiểu rằng những biểu lộ bên ngoài như thế đều do nghiệp từ trước (karma) sinh ra, và trên thực tế, chúng chẳng mang một chút xíu nào về sự hiện hữu đích thực.

Trong Thần linh Du-già cũng thế, ta tưởng tưởng một cách thật mạnh mẽ rằng tất cả đều tuyệt đối tinh khiết, tất cả là kết tinh của lòng từ bi và trí tuệ, và hiện giờ đây, trong giai đoạn chuyển tiếp, ta đang nhìn thấy các vị nam thần và nữ thần hiển hiện, thấy môi trường xung quanh toàn là lâu đài nguy nga, nhờ sức tưởng tượng đó ta sẽ tránh khỏi tình trạng ghê tởm những gì xấu xí và bám víu vào những gì xinh đẹp. Ta hãy cố gắng tự nhủ rằng tất cả những gì hiển hiện đều trống không, chẳng có một hiện hữu nội tại nào, tất cả những gì trống không mới là sự hiển hiện của an lạc, của thần linh.

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN

1. Cần phải nhớ lại các dấu hiệu nhắc nhở cho biết là ta đang trong giai đoạn chuyển tiếp.

2. Hãy xem những biểu hiện hay những cảm nhận dễ chịu hay bực bội chỉ là những cảm nhận xuất phát từ nghiệp của ta.

3. Trước những gì đang hiển hiện, ta nên tưởng tượng rằng ta đang là một Ảo thân. Mọi biểu hiện của sinh linh đều là những phát lộ cao đẹp của từ bi và trí tuệ, những hiển hiện trong môi trường xung quanh gồm toàn là những lâu đài tráng lệ…

4. Tránh không tìm cách xô bỏ những gì xấu xí hoặc ham thích những gì xinh đẹp.

5. Hãy ý thức rằng những ảo tưởng đủ loại, những khổ đau của cái chết, trạng thái chuyển tiếp, sự tái sinh, hoàn toàn không có một hiện hữu nội tại. Tự bản thể của chúng, chúng không có thật.

Tiết 16

Chúng tôi xin được tái sinh nơi cõi Tịnh độ
Nhờ vào du-già để biến cải những gì bên ngoài, bên trong và sự thần bí
Bằng những biểu hiện đủ loại, bốn ý nghĩa của sự đảo ngược các thành phần,
Ba loại hiển hiện khiếp đảm và những sự hoang mang, đang phát sinh.

Khi ta còn sống, các luồng gió và những khái niệm tâm thức gắn liền với những khuôn mẫu thông thường. Trong tình trạng trung gian, khí hay năng lực, liên kết với tứ đại, sẽ làm đảo ngược các khuôn mẫu thông thường. Những tiếng gào thét khủng khiếp vang lên kèm với hiện tượng đảo ngược đó. Khi khí lực của thành phần đất sụp đổ, tiếng ầm ầm vang lên như đất long, núi sụp. Khi khí lực của nước sụp đổ, một tiếng gầm vang lên, như đại dương nổi giận. Khi khí lực của lửa sụp đổ, tiếng ào ào vang lên như đám cháy rừng hung hãn đang tàn phá. Khi khí lực của khí sụp đổ, tiếng gào thét của một trận cuồng phong khủng khiếp đang xoáy lộn và làm cho ta điếc tai. Những quái vật khiếp đảm, quỷ đói, cầm thú cũng hiện ra thật là kinh khiếp, chúng là những phản ảnh từ nghiệp do chính ta gây ra. Một số những hình ảnh này hiện lên như những Thần Chết tay vung khí giới và gào thét: « Đánh nó ! Giết nó đi » Trong hoàn cảnh đó làm sao ta không khiếp đảm?

Nơi ta đang đứng, sự tự tin của ta, cách cư xử thường nhật của ta, thức ăn của ta, bạn hữu của ta và cả tình cảm của ta đều trở nên hoàn toàn bấp bênh. Ta hoang mang không biết đang ở đâu, khiến ta cứ đi lang thang không một chủ đích gì cả. Sự hoang mang trong lòng cho biết ta đang đắm chìm trong những gì phù du. Chẳng hạn như ta thấy cầu cống, miệng giếng v.v. Sự hoang mang trong cách cư xử có nghĩa là bất thần ta thay đổi ý kiến, chập chờn như một chiếc lông chim trong gió. Hoang mang trước thức ăn vì ta thấy những món tuyệt vời nhưng không được ăn, giống như thức ăn không phải là của ta. Hoang mang trước bạn hữu có nghĩa là ta đang làm quen với những người vu vơ ta gặp không chủ đích. Hoang mang trong tình cảm có nghĩa là thay đổi bất thần tính khí – lúc thì vui vẻ, lúc thì đau đớn hay ủ rũ, hoặc giận dữ, v.v.

Ngoài ra, trong giai đoạn chuyển tiếp, ba vực thẳm hiện ra. Một vực thẳm mênh mông màu đỏ nếu ta bị trói buộc bởi sự xa hoa. Một vực thẳm vĩ đại màu xám nếu ta sống trong u mê. Một hẽm vực đen ngòm nếu ta bị hận thù cấu xé. Có bốn con đường dẫn hướng cho ta chuyển sang kiếp sống sắp tới. Nếu ta đang đi và gặp một con đường chan hoà ánh sáng trắng, dấu hiệu đó cho biết ta sẽ tái sinh thành một thiên nhân hay bán thiên. Con đường màu vàng cho biết ta sẽ mang kiếp người hoặc súc sinh. Một con đường tối om cho biết sẽ sinh làm ngạ quỷ. Nếu con đường là màu đỏ, đấy là dấu hiệu cho biết ta sẽ tái sinh thành quỷ đói.

Trong giai đoạn trung gian, thân xác tái sinh dưới dạng thể của ngạ quỷ sẽ giống như một khúc củi bị cháy. Thân xác tái sinh thành súc vật có màu xám; thân quỷ đói có màu nước; một thánh nhân trong cõi dục giới hay thân xác của người thì có màu vàng ròng; một thánh nhân trong cõi hình tướng có màu trắng. Hướng di động cũng báo trước dạng thể tái sinh. Các hình tướng trung gian của ngạ quỷ, quỷ đói, súc sinh hướng về phía dưới, đầu chúi xuống trước. Hình tướng trung gian của thiên nhân nơi cõi tham dục (thể dạng tái sinh tràn đầy hoan hỷ) và của người thì tiến thẳng tới trước. Những dạng thể trung gian của thiên nhân nơi cõi hình tướng (tái sinh qua sự tập trung tâm thức mãnh liệt) sẽ hướng lên cao.

Trạng thái chuyển tiếp có thể chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc thật ngắn, nhất là khi nghiệp đạo đức của ta thật mạnh, đó là trường hợp ta phát lộ được tình yêu thương và lòng từ bi lớn lao, hoặc là ta ước nguyện một cách mãnh liệt được tái sinh nơi cõi Tịnh Độ, hoặc là ta tha thiết ước mong được tái sinh vì sự an lạc của kẻ khác. Tình trạng trung gian cũng có thể ngắn nếu nghiệp thiếu đạo đức của ta quá độc hại, chẳng hạn như phạm tội sát hại cha mẹ. Trong các trường hợp khác, tùy theo từng mức độ, nghiệp sẽ đưa ta vào chỗ tối tăm hay sáng tỏ, thúc đẩy ta đi tìm một hoàn cảnh phù hợp với sự tái sinh. Nếu ta chưa tìm ra trong vòng bảy ngày, giai đoạn chuyển tiếp tắt đi. Giống như trường hợp ta vừa thức giấc sau một giấc ngủ thật say. Xác-thân-Chiêm-bao của ta tan biến như một hơi thở trên mặt gương, sự tan biến bắt đầu từ dưới lên trên, và chấm dứt ở tim. Trong cái chết nhỏ đó, ta trải qua thật nhanh tám giai đoạn tuần tự của cái chết, nhưng sau đó ta lại tiếp tục chuyển vào một giai đoạn trung gian mới – theo một thứ tự đảo ngược.

Mỗi quá trình bảy ngày như thế xảy ra nhiều nhất là bảy lần, tức bảy lần « tái sinh » trong giai đoạn trung gian, tổng cộng là bốn mươi chín ngày. Một số người cho rằng thời gian của một ngày như thế tùy thuộc từng trường hợp. Thời gian một ngày có thể dài hay ngắn tùy vào thể loại sinh linh mà ta sẽ tái sinh – một số người cho rằng thời gian này có thể rất dài –, nhưng một số người khác lại cho rằng thời gian một ngày cũng kéo dài như một ngày bình thường.

Chúng ta hãy trở lại với bài thơ: khi rơi vào những biểu hiện đó, ta phải cố gắng giữ thật bình tĩnh và hành động như ta đang ở trong một khung cảnh tuyệt vời, xung quanh là những lâu đài tráng lệ, vô giá. Những sinh linh trong khung cảnh ấy (chẳng hạn như ngạ quỷ, quỷ đói, súc sinh, bán thiên và thiên nhân) tất cả đều hiển hiện như những thần linh (những sinh linh mang bản thể tinh anh của từ bi và trí tuệ), để sau cùng sự thần bí (tri thức và tư duy của ta) hiển hiện như một thể dạng thiền định sâu xa trong niềm phúc hạnh để hoàn tất sự thực hiện Tánh không. Tóm lại, bất cứ dấu hiệu gì hiện ra, ta cũng có thể làm cho chúng đảo ngược được nhờ vào tu tập, để có thể tái sinh trong một kiếp sống tốt đẹp hơn. Hãy dựa vào sức mạnh của ba thể loại du-già giúp tưởng tượng tất cả những gì thuộc bên ngoài, bên trong, và thầm kín, đều tinh khiết, như thế ta sẽ khép hẳn cánh cửa đưa đến sự tái sinh trong một kiếp sống ô uế của chu kỳ sinh diệt, để được sinh ra trong một địa giới đặc biệt và tối thượng, vượt khỏi nghiệp ô nhiễm và những xúc động đớn đau, để có thể tiếp tục tu tập.

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN

1. Hãy nên chuẩn bị để biết rằng trong giai đoạn trung gian, sẽ có nhiều hiển hiện lạ lùng, có thể là kỳ thú hay kinh hãi. Từ lúc này, nên hiểu rằng tất cả những gì hiện lên ta đều có thể làm cho chúng biến đổi nhờ vào sức mạnh của tưởng tượng.

2. Hãy giữ thật bình tĩnh. Hãy tưởng tượng môi trường xung quanh gồm toàn là lâu đài tráng lệ trong một khung cảnh an bình. Hãy xem mọi sinh linh đều hàm chứa một bản thể tinh anh tràn ngập từ bi và trí tuệ. Hãy xem chính tâm thức ta là một tâm thức hoan hỷ đang lắng vào Tánh không.

3. Thực hiện được như thế sẽ giúp ta tái sinh trong một hoàn cảnh thuận lợi cho việc tu tập để vượt lên một mức độ thực hiện sâu xa hơn.

10. HƯỚNG VỀ SỰ TÁI SINH TÍCH CỰC

« Bất kể rằng ta giàu có đến đâu, / Khi ta bước sang kiếp khác / Ta cũng chỉ có một mình, không vợ, không con, / Không quần áo mặc, không bạn bè, / Giống như một người đem hiến dâng cho kẻ thù trong sa mạc, / Nếu như ta không còn giữ được chính cái tên của ta, / Thì xá gì đâu những thứ khác? » Phật.

Tiết 17

Chúng tôi xin được tái sinh trong một thân xác cao đẹp
của một người tu tập Tan-tra biết sử dụng không gian,
trong thân xác của một nhà sư, hoặc của một người thế tục nhưng thấu triệt được ba cách tu tập
Chúng tôi cũng xin đạt cho được con đường Đạo hạnh đưa đến hai giai đoạn là sự sáng tạo và thực hiện
Để nhanh chóng đạt được các Hiện Thân của Phật: Thân chính Giác
Thân Đại Hạnh, và Thân Biến Hóa 

Từ trạng thái chuyển tiếp bước vào kiếp sống sau là một quá trình gồm có nhiều sự thu hút và ghét bỏ xảy ra. Sinh vật nở ra từ trứng bên ngoài cơ thể cho đến con người sinh ra từ bụng mẹ đều trông thấy cha mẹ mình trong quá trình làm tình, hoặc là hình bóng của họ, và phát sinh sự thèm khát đối với cha hay mẹ khác phái với mình và xô bỏ người mang cùng một phái tính. Khi một trong hai người sắp ôm chặt lấy người kia, tức người mà họ thèm khát, và bất thần họ nhìn thấy cơ quan sinh dục của người này, họ vụt nổi giận. Sự thu hút và xô bỏ xảy ra là như thế, và thời điểm đó đánh dấu sự chấm dứt của giai đoạn trung gian.

Cũng cần phải nói rõ đây là trường hợp thông thường xảy ra khi giai đoạn trung gian chấm dứt, vì ngày nay có những trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm, ngược lại với một số kinh điển ghi chép – chẳng hạn như trường hợp cha mẹ phải ăn ngủ với nhau trong trạng thái kích thích tình dục cao độ. Ngày nay tinh trùng của cha có thể tồn trữ trong phòng thí nghiệm và sau đó đưa vào tử cung của người mẹ không cần có sự kích thích tính dục. Quá trình như thế trái ngược với một số kinh điển nhưng lại là sự thực, chúng ta phải chấp nhận[49] . Tuy là những người tin tưởng vào truyền thống của Tu viện Đại học Nalanda từ những thời kỳ cổ xưa trên đất Ấn, nhưng chúng ta phải chấp nhận và không chối cải được sự kiện thụ thai như thế. Điều này cho thấy những giải thích trước đây của chúng ta không đầy đủ. Ngay trong kinh sách Phật giáo, ta cũng thấy có một câu chuyện như sau: có một cặp vợ chồng nhưng về sau trở thành độc thân – một người đi tu và trở thành một nhà sư, người kia cũng đi tu và trở thành ni cô. Một hôm, người đàn ông vì ảnh hưởng của kỷ niệm xưa, đi tìm người vợ ngày trước của mình. Khi chạm vào người của bà vợ cũ, tinh trùng liền phóng ra dính vào quần áo của người vợ. Sau đó, chịu ảnh hưởng những kỷ niệm cũ, bà này cho vài giọt tinh trùng vào âm đạo. Đúng ngày đúng tháng, thì sinh ra một đứa bé. Như thế, ngay cả kinh sách Phật giáo xưa cũng đã nói ngược lại giáo điều cho rằng sự thụ thai chỉ có thể xảy ra khi hai người ôm nhau làm tình.

Giống như thế, có chuyện kể rằng trong dòng họ của Phật Thích ca có một người đàn ông tên là Bạn-Mặt-Trời, vì tinh trùng của cha người này rơi trên một chiếc lá, hơi nóng của mặt trời làm biến đổi rồi tạo ra hai đứa bé. Hai câu chuyện trên đây, ngày xưa chỉ là chuyện thần thoại, ngày nay khoa học cho thấy là sự thực[50] . Mặc dù thông thường sự thụ tinh đòi hỏi một số điều kiện nào đó, nhưng không bắt buộc phải xảy ra đúng như thế. Giai đoạn chuyển tiếp cũng vậy, không bắt buộc phải có sự thu hút bởi người cha hay người mẹ thuộc phái tính khác như một sự thèm khát thiếu thỏa mãn, mà sau cùng chỉ cần nhìn thấy cơ quan sinh dục là đủ.

Vào lúc chấm dứt giai đoạn trung gian, người tái sinh trải qua một cách nhanh chóng tám trạng thái theo thứ tự như sau:

1. Ảo ảnh
2. Khói
3. Đom đóm
4. Lửa của một ngọn nến
5. Bầu-trời-tâm-thần màu trắng rực rỡ
6. Bầu-trời-tâm-thần màu đỏ cam rực rỡ
7. Bầu-trời-tâm-thần màu đen đậm
8. Ánh sáng trong suốt

Vào lúc thụ thai, sinh linh trong thể dạng ánh sáng tinh khiết trải qua bảy trạng thái khác theo thứ tự đảo ngược như sau:

7. Bầu-trời-tâm-thần màu đen đậm
6. Bầu-trời-tâm-thần màu đỏ cam rực rỡ
5. Bầu-trời-tâm-thần màu trắng rực rỡ
4. Lửa của một ngọn nến
3. Đom đóm
2. Khói
1. Ảo ảnh

Có nhiều cách giải thích về trường hợp một sinh linh thâm nhập vào tử cung. Vài kinh điển cho rằng sự thâm nhập bắt đầu từ nơi miệng của nam phái, xuyên qua cơ thể, xuống dương vật, đến tử cung của người đàn bà. Vài kinh điển khác nói rằng sinh linh đi thẳng vào tử cung qua đường âm đạo. Một người đạo hạnh sẽ có cảm giác bước vào một căn nhà trong quang cảnh niềm nở, và nghe những âm thanh êm ái. Ngược lại, một người kém đạo hạnh có cảm giác đi vào một vùng đầm lầy hay rừng sâu, đồng thời nghe vang lên những tiếng gào thét rổn rảng.

Khí lực thật tinh tế và tâm thức của sinh linh nhập vào phần vật chất (trứng và tinh trùng) của cha và mẹ. Trong bào thai, kích thước lúc đó cỡ như một hạt cải lớn, kinh mạch trung tâm phối hợp với kinh mạch bên phải và bên trái, mỗi kinh mạch quấn xung quanh bào thai ba vòng. Đồng thời phần năng lực của khí hướng lên trên và phần năng lực của khí hướng xuống dưới tuần tự di chuyển theo những hướng đã quy định, và tiếp theo cả ba đường kinh mạch cũng kéo dài ra. Thân thể của bào thai tuần tự phát triển và thoát ra khỏi tử cung, tùy theo trường hợp của từng chủng loại.

Đến đây cũng có thể là trường hợp ta đang được tái sinh trong một thân xác đặc biệt, tạo ra một kiếp sống thuận lợi cho việc tu học như đã trình bày trong các tiết trước đây trong bài thơ Ban-thiền Lạt-ma, để đi trọn Con đường Tan-tra dẫn đến sự Giác ngộ tối thượng. Nhưng ta cũng có thể sinh ra trong những nơi lạ lùng, trong khung cảnh của những sinh linh gọi là những « kẻ sử dụng bầu trời », họ đều tu tập Tan-tra, hoặc cũng có thể sinh vào những nơi bình thường hơn, trong những nơi có các vị thầy hướng dẫn và các điều kiện thích hợp giúp ta trong việc tu tập. Nhờ vào các cách tái sinh thuận lợi như vừa kể trên, ta nên phát nguyện cố gắng thực thi những hành vi tinh khiết và noi theo ba cách tu tập – đạo đức, thiền định, và trí tuệ, vì đó là nguồn gốc của sự thăng tiến tinh thần. Cách tu tập căn bản ấy sẽ giúp ta hoàn tất hai giai đoạn trong Tối thượng Du-già Tan-tra:

– Thần linh Du-già Tan-tra, kết hợp sự thiền định về Tánh không và tám dấu hiệu của cái chết.
– Thần linh Du-già Tan-tra và sự thiền định về Tánh không, sự thu hồi năng lực của khí vào kinh mạch trung tâm, và sự thâm nhập vào các tầng lớp sâu kín nhất của tâm thức.

Nhờ vào các giai đoạn trên đây, ta sẽ hoàn tất những bước cuối cùng đưa đến Phật tính, tức trạng thái tâm linh hoàn toàn hiến dâng cho kẻ khác. Lời nguyện cuối cùng trong bài thơ Ban-thiền Lạt-ma là ước vọng sẽ đạt được một cuộc sống như thế trong kiếp tái sinh. Ta nên nhớ rằng mục tiêu tối hậu của việc tu tập Phật giáo là giúp đỡ kẻ khác, và muốn cho sự giúp đỡ hữu hiệu ta phải đạt được tâm thức và thân xác thật tinh khiết. Mục đích tạo cho ta khả năng có thể giúp đỡ thật nhiều sinh linh có giác cảm bằng hàng triệu phương cách khác nhau.

Trong khi tu tập, đừng để con đường Đạo Pháp tách xa ra bên ngoài, nhưng phải luôn luôn hướng thẳng tâm linh vào con đường Đạo Pháp. Nếu không, dù ta có cố gắng đến đâu, ta cũng sẽ mệt mỏi và chán nản sau một thời gian nào đó. Không nên đọc cho lấy có những câu trong bài thơ Ban-thiền Lạt-ma: Ước nguyện được giải thoát khỏi những hiểm nguy trong Giai đoạn Trung gian, kẻ Can trường tự giải thoát khỏi sự Sợ hãi, nhưng phải suy tư về ý nghĩa những câu đó, đem ra thực hành mỗi ngày bằng cách hướng vào sự thiền định sâu xa về Tánh không. Đó là lời khuyên của tôi.

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN

 1. Trong quá trình tái sinh, hãy cố gắng đạt được một thân xác tương lai trong một hoàn cảnh thuận lợi để đi cho trọn con đường tu tập Đạo Pháp.

 2. Mục đích là đạt được sự Giác ngộ tối thượng để có thể phục vụ kẻ khác.

Website Phật Pháp Ứng Dụng chân thành cảm tạ tác giả / dịch giả Hoang Phong và Cô Phú Ngọc  đã gửi tặng ấn bản tiếng Việt. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu  đến quý độc giả.

Đức Đạt Lai Lạt Ma

 Hoang Phong dịch

(Còn tiếp)
Theo Phật Pháp Ứng Dụng