Tâm con người luôn thay đổi
Cũng nhờ tâm con người vô thường, luôn thay đổi, chúng ta mới tu được, mới chuyển hóa được những ý nghĩ xấu xa, hại người vật, thay vào đó là những tâm tư thiện lành, tốt đẹp, có tính cách giúp đỡ, an ủi nhau. Trong kinh Phật dạy rằng: “Tâm phàm phu cứ lén lút đi một mình, rất xa, vô hình dạng, như ẩn náu hang sâu, nếu điều phục được tâm thì thoát khỏi khổ đau, mê lầm từ muôn kiếp.”
Có một chú tiểu xuất gia với thầy mình, nguyên là cậu ruột ngoài đời, vị thầy này đã chứng quả A-La-Hán. Một hôm, chú tiểu được thí chủ cúng dường cho hai xấp vải. Chú mừng quá, nhanh chân đi về chùa để cúng dường lại cho thầy, nhưng chú năn nỉ mãi mà thầy vẫn không nhận, buồn quá, chú nản chí, không muốn tu tập nữa.
Hôm nọ, chú đang đứng quạt hầu thầy, trong lòng vẫn còn buồn về chuyện thầy không chịu nhận hai xấp vải, chú mơ màng để tư tưởng trở về với dòng đời: Mình mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, chỉ có cậu là người thân yêu duy nhất, nay là thầy mình, vậy mà thầy không thương tưởng, đoái hoài đến mình, thôi thì mình không theo thầy tu học nữa, mình ra đời gây dựng sự nghiệp thế gian cho rồi. Nhưng ra đời rồi phải làm gì để sống đây?
Chú cứ miên man trong dòng suy tư, nghĩ tưởng, mà lòng càng thêm buồn rầu, lo lắng, bất an. Đang lúc mơ mộng chạy theo dòng suy tư, nghĩ tưởng, bỗng nhiên chú loé lên một vấn đề: À đúng rồi, hay là mình đem hai xấp vải này ra chợ bán đi, lấy tiền mua một con bò cái về nuôi, bò chỉ ăn cỏ ngoài đồng, không tốn tiền mua thức ăn cho nó, còn mình hằng ngày chỉ việc dẫn bò đi ăn. Sống như thế thật là sung sướng và hạnh phúc làm sao? Bò thì mỗi năm sinh một con, đến chừng tám năm sau, mình có thêm một đàn bò chừng hơn chục con. Thế thì tốt quá, rồi mình sẽ bán hết số bò đó, chỉ chừa lại một con nuôi tiếp, còn lại bao nhiêu mình mua nhà cửa, đất đai, ruộng vườn. Khi đó, mình sẽ là ông chủ một gia tài đồ sộ và sẽ cưới một cô vợ trẻ xinh đẹp. Sau khi đứa con đầu lòng được sinh ra đời, mình sẽ dẫn vợ con về thăm thầy, cho quy y làm đệ tử Phật.
Nghĩ như thế xong, trong lòng chú tiểu mừng vô hạn, bỗng dưng cô vợ trượt chân té, thằng bé đang bồng trên tay kháu khỉnh rơi xuống đất, khóc bù lu bù loa. Tức quá, không kìm hãm được cơn giận, chú sẵn trên tay cầm cây quạt gõ lên đầu vợ liền mấy cái: “Đã bảo mà, đi không nhìn trước ngó sau gì hết, để con bị té như vậy, đàn bà gì mà không ý tứ chút nào”.
Bỗng nhiên, chú nghe một giọng nói điềm đạm: “Con đang gõ lên đầu thầy, con có thấy không?” Giật mình, chú tiểu tỉnh lại giấc chiêm bao mà sám hối xin thầy tha thứ tội lỗi.
Câu chuyện trên đã nói lên tâm ý của con người lúc nào cũng toan tính, tham muốn đủ thứ, suy nghĩ hết chuyện này lại đến chuyện kia; vì chúng ta cho rằng tâm này là ta, là mình, nên ta nói, ta suy nghĩ đủ thứ. Chú tiểu đang đứng hầu thầy mà tâm tư cứ tưởng nghĩ đâu đâu, chẳng khác nào loài vượn khỉ đang chuyển cành. Cho nên, Phật dạy, tâm suy tư nghĩ tưởng là vô thường không thật có, khi ta nhìn lại thì thấy nó mất tiêu.
Bởi tâm ý con người vô thường thay đổi, nên mình mới tu được; còn nếu tâm con người không thay đổi được thì trước sau như một, làm sao mình tu tập được và cũng chẳng cần tu để làm gì? Vì có tu nó cũng như vậy, không thể thay đổi được, chúng ta vẫn suốt đời, suốt kiếp sống trong vô minh, phiền não mà thôi.
Trong cuộc sống, chúng ta ít nhiều ai cũng có thể cảm nhận được rằng, tâm này là vô thường. Cho nên, vua Trần Thái Tông, một vị Thiền sư đời nhà Trần, Việt Nam nói về tâm suy nghĩ như sau: “Nghiệp căn ý là nghĩ vơ nghĩ vẩn, không lúc nào dừng, mắc mưu tình trần, kẹt tâm chấp tướng như tằm kéo kén, càng buộc càng bền, như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt”.
Chúng ta ai cũng nghĩ hết chuyện này đến chuyện nọ, nào là buồn, thương, giận, ghét, khen chê, đúng sai, phải quấy, tốt xấu, lo lắng đủ thứ, khi thì điên đảo vọng tưởng, nghĩ mình là trung tâm của vũ trụ, nên khi có quyền hành trong tay thì muốn” bình thiên hạ”, do đó vua Trần Thái Tông mới nói: “Nghĩ vơ nghĩ vẫn, không lúc nào dừng”.
Tâm đã suy nghĩ lăng xăng, còn cho mình là ta, là tôi, nên dính mắc, chấp trước vào đó, và còn cho rằng cái hay suy nghĩ của mình là nhất thiên hạ. Đôi khi, chúng ta suy tư, nghĩ tưởng muốn vỡ tung cái đầu, mà vẫn cứ suy nghĩ hoài không để nó yên; đó là ta tự chuốc hoạ vào thân như con tằm kéo kén, càng buộc càng bền, rồi rốt cuộc rồi bị người ta cho vào nồi nước sôi.
Cái hay suy nghĩ, tính toán, phân biệt hơn thua đủ thứ hết luôn thay đổi trong từng phút giây, mới vừa buồn khóc đó, chưa ráo nước mắt liền vui vẻ khi gặp người thân, mới giận liền thương. Trong một ngày, có hàng trăm cái hay suy nghĩ như vậy, có khi nghĩ điều thiện lành, tốt đẹp như Phật, có lúc nghĩ điều xấu, ác giống như cọp sói.
Tâm niệm của chúng ta lúc nào cũng luôn thay đổi không dừng, vì thế đức Phật mới nói: “Tâm suy tư nghĩ tưởng là vô thường, đã vô thường mà cứ nhận lầm mình là ta, là tôi; từ đó, ai không đồng quan điểm với mình thì chống đối lẫn nhau, dẫn đến thù hằn, ghét bỏ, rồi tìm cách giết hại nhau”.
Phật dạy: “Chúng ta thấy rõ tâm vô thường để mọi người đồng cảm thông với nhau, ai cũng có cái suy nghĩ riêng của mình, nên không ai giống ai. Do suy nghĩ và quan niệm không hợp nhau, sinh ra oán giận, thù hận và chống đối lẫn nhau. Trong gia đình, con cái không biết kính trên nhường dưới, vợ chồng không vui vẻ, hoà thuận, chỉ vì chấp trước cho rằng tư tưởng của mình là đúng, không ai nhường nhịn ai”.
Chúng ta vẫn biết, tâm vô thường không phải là gươm đao hay súng đạn, nhưng nó có thể giết chết mình vì bất đồng quan điểm, giết chết mình trong từng ý niệm. Một ý nghĩ vừa dấy lên, muốn lấy trộm đồ của người khác, nếu ta không biết kịp thời ngăn dừng, thì bao tai họa sẽ bắt đầu ập đến bởi tâm tham lam của mình.
Chính vì vậy, người phật tử chân chính phải biết tu ngay nơi ý nghĩ ban đầu vừa mới chớm lên, để chuyển hoá chúng trở về bản thể ban đầu. Chúng ta chỉ cần điều phục ngay nơi tâm ý của mình, bằng cách nghĩ điều có lợi cho người và vật, nên duy trì và tiếp tục phát huy.
Những suy nghĩ làm tổn hại cho người vật thì mình tìm cách chuyển hóa, không cho chúng phát sinh; tu như vậy thì mọi người sẽ được bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, khỏi mong cầu đâu xa.
Thiền sư tự tại khi biết vô thường
Trên đời này, không có gì hạnh phúc cho bằng khi ta đang đứng trước lằn tên, mũi đạn, mà vẫn bình tĩnh, an nhiên, tự tại. Một vị thiền sư đã nói trước lúc Ngài bị hành hình:
Đưa đầu kề gươm bén,
Giống như chém gió xuân.
Chúng ta thấy, vị thiền sư đó quá ư là hạnh phúc. Đứng trước cái chết sờ sờ trước mặt mà thiền sư vẫn bình tĩnh, ung dung, coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nếu ai sống được như vậy thì có gì phải lo lắng và sợ hãi, dù cho tám gió thổi tới cũng không làm gì được thiền sư, vì Ngài đã như như bất động.
Cư sĩ Bàng Long Uẩn trước kia làm quan theo nghiệp nho, sau có dịp tham cầu Phật pháp, liễu ngộ sự vô thường của cuộc sống, nên Ngài quyết chí tu hành cầu giác ngộ, giải thoát, Ngài sống một đời rất đơn giản và thanh bần.
Ông có một vợ và hai đứa con, một trai, một gái. Sau khi đốn ngộ lý nhiệm mầu của Phật pháp không ngoài thân này, không tìm cầu đâu xa, ông trở về nhà, đem hết tài sản, của cải đổ xuống sông Tương, hằng ngày cùng cô con gái chẻ tre, đan sọt mang ra chợ bán. Vợ ông cùng đứa con trai để lại chút đất làm ruộng nuôi thân qua ngày, không màng đến công danh sự nghiệp. Cho nên, thế gian có bài thơ khen tặng và ca ngợi gia đình ông như sau:
Có con trai không cưới vợ,
Có con gái không lấy chồng,
Cả nhà đều sống hoà hợp,
Cùng nhau nói lời vô sinh.
Đúng là chuyện khó tin nhưng mà có thật, hiếm thấy trong cuộc đời này, ít có gia đình nào mà cả nhà đều rũ bỏ hết danh lợi, sống đời thanh bần, trong sạch, đem giáo lý giác ngộ, giải thoát ứng dụng vào đời sống hàng ngày mà làm gương cho hậu thế. Người đời vì không biết, nên tham lam, sân hận, si mê, cái gì cũng muốn giành lấy về cho riêng mình, sẵn sàng tán tận lương tâm, làm điều xằng bậy, không biết nhân quả, nghiệp báo, tội phước là gì.
Bàng Long Uẩn là một ông quan có quyền thế, danh lợi đầy đủ, mà lại dám bỏ hết tất cả để sống đời đơn giản, thanh bần, trong sạch, và còn hướng dẫn cho cả gia đình cùng tu theo. Cho nên, có con trai không cho lấy vợ, có con gái không cho lấy chồng, để cùng nhau sống đời giác ngộ, giải thoát.
Nhiều người ở thế gian vì tiếc nuối tài sản, của cải, nên nói rằng: “Tại sao ông không đem tài sản đó để bố thí, giúp đỡ nhiều người khác, mà đổ hết xuống sông Tương như vậy quá phí phạm, trong khi nhiều người rất cần nó vì đang thiếu thốn, khó khăn?” Việc này, chúng ta phải hiểu theo ý sâu xa của nó, khi con người sống với bản tâm chân thật thì không màng đến danh lợi, của cải vật chất, vì nó là nguyên nhân dẫn đến mọi khổ đau trong cuộc đời.
Đến khi sắp tịch, ông bảo cô Linh Chiếu – con gái của ông ra xem thử mặt trời đúng Ngọ chưa, rồi vào cho ông hay. Linh Chiếu ra xem, vào thưa: “Mặt trời đúng Ngọ, nhưng có nguyệt thực”. Ông ra cửa xem. Linh Chiếu lên toà của ông ngồi kiết già, chấp tay thị tịch. Ông vào xem thấy, cười nói: “Con gái ta lanh lợi quá!” Ông bèn chậm lại bảy ngày sau. Châu mục Vu Công đến thăm bệnh ông. Ông bảo: “Chỉ mong các cái có đều không, dè dặt các cái không đều thật, khéo ở thế gian đều như bóng vang”. Nói xong, ông nằm gác đầu trên gối Vu Công mà thị tịch.
Tin ông tịch đưa về nhà cho bà hay. Bà nói: “Con gái ngu si và ông già vô tri không báo tin mà đi, sao lại ngớ ngẩn vậy?” Bà ra báo tin cho con trai đang làm ruộng biết: “Ba con và Linh Chiếu đi rồi”. Người con trai đáp: “Dạ, con biết rồi”, rồi đứng lặng thinh giây lâu, liền tịch tại chỗ. Bà nói: “Lại thêm một thằng ngu si nữa”. Lo mai táng con xong, bà từ biệt họ hàng thân thuộc rồi biệt tích luôn, không ai biết bà đi về đâu.
Đây là một câu chuyện hy hữu, hiếm có từ trước đến nay, có thật trong Thiền sử Trung Hoa, gia đình Cư sĩ Bàng Long Uẩn là một tấm gương sáng chói, đáng để cho chúng ta học tập và noi theo. Sau khi thấu suốt lý vô thường, ông quyết chí cầu đạo giác ngộ và giải thoát., nhưng dưới hình thức là một người cư sĩ tại gia, nhưng tâm hạnh thì của người xuất gia. Cốt chuyện này nói lên tinh thần bình đẳng trong tu tập, người tại gia vẫn có phần giác ngộ giải thoát nếu tu đúng lời Phật dạy, bởi ai cũng có tính biết sáng suốt ngay nơi thân này, chỉ cần chúng ta quyết chí là được.
Như ở Việt Nam, chúng ta vẫn có Ngài Tuệ Trung thượng sĩ đó, trước lúc ra đi vẫn an nhiên tự tại, để ta thấy mọi người đều có phần, chỉ vì chúng ta chẳng chịu thừa nhận mà thôi. Muốn được như vậy, ông phải bỏ hết tất cả tài sản, của cải, vật chất, không còn bận tâm, vướng mắc, sống đời đơn giản để dễ dàng tu hành. Nhờ vậy, cả gia đình ông đều ngộ đạo, làm chủ được sự sống chết, bình thản ra đi một cách an nhiên, tự tại.
Thưa quý thiện hữu tri thức, chúng ta học những lời Phật dạy, ai cũng biết thân và tâm đều vô thường, còn hoàn cảnh và vạn vật có vô thường hay không? – Cũng vô thường.
Hoàn cảnh vô thường
Đức Phật dạy: “Mọi hiện tượng, sự vật đều tương quan mật thiết, nương nhờ lẫn nhau, cho nên, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. Tất cả các pháp có hình tướng trên thế gian này đều do nhân duyên sinh, nên hoàn cảnh sự vật cũng đều đổi thay vô thường”.
Lớn như quả địa cầu chúng ta đang sống, dù nó có trụ hàng tỉ tỉ năm, nhưng đến một lúc nào đó, nó cũng sẽ hoại diệt, nên Phật nói: “Thành – trụ – hoại – không” là vậy.
Kính thưa quý vị, hoàn cảnh, tức là những sự vật có mặt trong bầu vũ trụ bao la này như trời, đất, trăng, sao, đủ các thứ thiên hình, vạn trạng, cho đến vật nhỏ nhất như hạt cát, hạt bụi, cũng đều bị sự vô thường chi phối, đổi thay.
Mới xưa kia là lầu cát nguy nga, tráng lệ, mà nay là biển cả mênh mông, xưa là rừng hoang vắng vẻ, nay thì phố xá, chợ búa đông đúc; đó là lẽ đương nhiên thường tình của thế gian. Do hoàn cảnh, sự vật luôn thay đổi, biến dạng, tuỳ theo nhân duyên thuận nghịch, không có gì là cố định, nên nói hoàn cảnh chúng ta đang sống là vô thường.
Ai cũng biết, con người phải chịu sự chi phối của sinh – già – bệnh – chết, nên gọi là vô thường; còn các vật thể lớn như trời, đất, trăng, sao có chịu sự chi phối của luật vô thường hay không?
Trong Kinh Kim Cang nói: “Phàm cái gì có hình tướng đều hư hoại”. Chính núi sông cũng có lớn, có nhỏ, khi lở, khi bồi, rồi thời gian, khí hậu bốn mùa thay đổi, sớm nắng, chiều mưa; mùa nắng thì cây cối ủ rủ, cằn cỗi, héo tàn; mùa mưa thì cây cối xanh tươi, nảy nở; và thời gian cứ như thế trôi qua nhanh chóng, trên thế gian này không có một thứ gì là cố định; nhưng chúng ta cứ mãi chấp chặt vào đó, cho rằng cái gì cũng thường còn vĩnh viễn, để khi mất mát thì sinh tâm tiếc nuối, khổ đau.
Tóm lại, chúng ta học đạo lý vô thường để không sinh tâm cống cao, ngã mạn lúc thành công, không bi quan, chán nản khi thất bại, mà biết nhìn nhận đúng lẽ thật cuộc đời để mình sống tốt hơn. Thân của chúng ta cũng phải già-bệnh-chết, mình cũng đâu thể cưỡng lại được, vì bản chất của nó là không thật có, nên gọi là vô thường; còn cái gì thường thì trước sau như một, nguyên vẹn, không bao giờ thay đổi.
Do chúng ta chấp thân này là thật, nên mới thấy nó cao quý, lâu dài, cố bám víu, đắm say, đam mê, tham lam, giành giật vì nó. Bởi chúng ta si mê, chấp thân này là thường, tưởng nó là thật, nên mình sinh lòng tham lam, giành lấy mọi thứ về cho riêng mình, mà hễ tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sinh ra oán ghét, hận thù, chờ cơ hội trả đũa.
Trên cõi đời này, người nào nhận rõ được thân này là vô thường thì ít sinh lòng tham lam, ích kỷ, cho đến khi già-bệnh-chết không lo lắng, sợ hãi, không luyến tiếc một thứ gì. Do đó, khi sống người ấy được bình yên, hạnh phúc, đến khi chết vẫn bình thản, an nhiên, tự tại ra đi.
Đức Phật chỉ dạy đạo lý vô thường để giúp chúng ta ý thức được cái gì có hình tướng đều hư hoại mà cố gắng tu hành, vượt qua nỗi khổ, niềm đau, biết gây dựng cuộc sống tốt đẹp ngay tại đây và bây giờ; và cũng nhờ vô thường nên con người cho đến các loài vật mới đổi thay và phát triển sao cho phù hợp với cuộc sống hiện tại.
Ông già vô thường
Có một ông già nọ tuổi đã già, nhưng hàng ngày vẫn phải làm lụng vất vả để nuôi thân. Một hôm, sau khi vào rừng đốn củi mang về, vì đường sá xa xôi, lại phải vác nặng, nên ông cụ kiệt sức giữa đường. Ông đặt bó củi xuống đất rồi ngồi than thở một mình: “Khổ cho thân già tui quá trời! Đến từng tuổi này mà còn gian nan, vất vả quá chừng! Giá mà bây giờ thần chết đến rước mình đi thì hay biết mấy! Mình muốn bỏ quách cái thân già khốn khổ này đi cho rồi”.
Ông nói vừa dứt lời, vị thần chết xuất hiện ngay: “Ta là thần chết đây, ông lão cần gì, ta sẽ giúp cho ông được toại nguyện?” Ông già nghe nói vậy, sợ quá, run lên cằm cặp nói: “Dạ, kính lạy thần chết! Xin ngài nhấc hộ dùm bó củi lên vai để lão vác về kẻo trời tối”.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy con người khi khổ quá thì muốn chết, doạ chết, đòi chết, trối chết, nhưng đến khi cái chết đến gần thì sợ hãi, không muốn chết. Ông già tiều phu kia cũng vậy, lúc thấy mình quá khổ, phát sinh ý chết quách để hết khổ, thân xác khỏi phải nhọc nhằn, nhưng khi thần chết hiện ra thì ông hoảng hồn, sợ chết, muốn đặt gánh củi lên vai và cảm thấy việc gánh củi về nhà là điều hạnh phúc nhất.
Sống có ích vì biết vô thường
Đức Phật dạy chúng ta hiểu được lý vô thường, mục đích là để ta biết sống có bổn phận và dám chịu trách nhiệm về mọi hành vi tạo tác của mình đối với gia đình, xã hội, không bi quan, không yếm thế, không chán nản, không buồn lo trước cuộc sống tạm bợ, mong manh này.
Cũng bởi kiếp người vốn vô thường, ngắn ngủi, mong manh, nên trong Khế Kinh có kể rằng: “Có một người chuyên làm việc ác, khi chết bị quỷ sứ bắt vong hồn dẫn đến trình vua Diêm Vương. Vua hỏi: “Ở trần gian, sao ngươi không làm việc thiện mà hay làm việc ác như vậy, để bây giờ bị đoạ xuống đây chịu hành hình?” Vong hồn ấy trả lời: “Thưa Diêm chúa, ở trần gian chúng tôi, nhà nước muốn làm việc gì còn phải thông báo trước, tại sao ở Âm phủ, Ngài bắt người chết đột ngột thế này, thử hỏi làm sao tôi làm việc thiện cho kịp được?” “Ngươi ở trần gian có thường thấy người già, người bệnh, người chết hay không?” “Dạ thưa có.” “Đó là những thông điệp mà ta đã báo trước cho người trần gian biết rồi đấy, ngươi có thấy trên đời này có ai không phải già-bệnh-chết không?” “Dạ thưa không.” “Vậy tại sao ngươi không lo tu tập, lo làm việc thiện, để bây giờ bị giải xuống đây rồi ngươi lại cãi chày, cãi cối với ta?”
Lúc bấy giờ, một vong hồn trẻ tuổi ngồi bên cạnh liền lên tiếng phản đối Diêm Vương: “Dạ thưa Ngài, tôi không chịu đâu, Ngài thật là không công bằng chút nào; đối với ông già kia, Ngài đã gửi nhiều thông điệp cho ông ta, còn tôi Ngài chưa hề gửi cho một thông điệp nào mà bắt tôi xuống đây, thật oan uổng cho tôi quá chừng!” Diêm chúa nghe vong hồn trẻ khiếu nại, liền cười: “Tại nhà ngươi không chịu mở mắt to ra mà thấy, chứ ta làm việc rất công bằng, không bao giờ có chuyện thương người này, mà ghét bỏ người kia. Ta lúc nào cũng có gửi tin báo trước cho mọi người hay biết, tại nhà ngươi không chịu để ý đó thôi.” “Ngài gửi thông báo lúc nào, sao tôi không thấy?” Diêm chúa mới cười nói: “Nhà ngươi có thấy đứa bé ở nhà đối diện với ngươi hay không? Nó mới năm tuổi mà bị chết vì tai nạn giao thông đó! Còn ngươi lớn tuổi hơn nó lẽ nào lại không chết. Ta lúc nào cũng công bằng liêm chính, chí công vô tư, tại ngươi không chịu để ý, hoặc ngươi thấy mà vẫn làm càn, làm bướng đó thôi”.
Đạo Phật dạy, mạng sống con người vốn vô thường, ngắn ngủi, giống như ngọn đèn treo trước gió, có thể bị tắt đi bất cứ lúc nào. Thân người cũng vậy, không phải ai cũng chờ đến già, bệnh mới chết, mà mạng sống kết thúc bất cứ lúc nào với muôn ngàn lý do, vì vậy mà có câu:
Chớ bảo đến già mới tu tập
Mồ hoang cũng lắm kẻ đầu xanh.
Hiểu được lý do vô thường của vạn vật để mỗi người chúng ta cố gắng học hỏi và tu tập, đem tình yêu thương san sẻ với muôn loài bằng trái tim hiểu biết. Chúng ta đừng quá say mê, tham đắm vào xác thân này mà làm khổ luỵ cho nhau. Câu chuyện trên cho ta một bài học đạo lý về mạng sống con người vốn vô thường, tạm bợ. Quý vị nên nhớ rằng, sau khi chết không phải là hết hay mất hẳn, mà chết chỉ là hình thức thay hình, đổi dạng mà thôi, rồi tuỳ theo nghiệp báo tốt, xấu của mỗi người đã gieo tạo trong hiện tại, mà cho ra kết quả trong tương lai.
Thế gian này không có gì là mất hẳn dù là hạt bụi, hạt cát, chúng chỉ thay hình đổi dạng. Hiểu được lý vô thường để mọi người chúng ta sống có ý nghĩa hơn, làm được nhiều điều thiện lành, tốt đẹp, luôn sống có ích cho mình và người trong hiện tại và mai sau.
Ai sống được như vậy, đến khi thần chết hiện đến, ta không sợ hãi, hốt hoảng, mà bình thản ra đi với một hành trang tốt đẹp; còn những thứ của thế gian như tiền tài, vàng bạc, nhà cửa, mình đều bỏ lại, không mang theo được món nào, lúc ấy chỉ có nghiệp báo tốt, xấu do ta tạo dựng lúc còn sống sẽ theo mình suốt đời mà thôi. Biết được như vậy, lúc lâm chung ta sẽ an lòng ra đi, không tiếc nuối bất cứ một thứ gì của thế gian, kể cả sự sống.
(Thích Đạt Ma Phổ Giác)
(còn nữa….)