Bạn thấy đấy, dù bạn gọi nó là sự chuyển hóa hay cái gì khác, thì nó cũng có nghĩa là cái gì đó đang phát triển. Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm. Tâm được phú cho sự ô nhiễm, và qua những ô nhiễm chúng ta thực hiện những hành động, và theo cácn này chúng ta tạo ra nghiệp sẽ phát triển.
Về cơ bản, tự thân ý thức thì thuần tịnh và không bị ô nhiễm bởi những che chướng. Nhưng thay vì nhận ra chân tánh của tâm, tất cả chúng ta đều có khuynh hướng – do những thiên hướng rất mạnh mẽ từ vô lượng kiếp – bám chấp một cách tự nhiên vào bản ngã mà chẳng có lý do hợp lý nào. Khi bạn bám chấp vào bản ngã, nó là sự vô minh không thấu suốt chân lý. Thay vì thấu suốt chân lý thì bạn bám chấp vào bản ngã, và khi bám chấp vào bản ngã bạn có một sự tham muốn đối với những sự vật của riêng mình, sự sân hận đối với những người khác, sự ganh tị và tranh đua và v.v.. Theo cách này mọi sự bất tịnh và ô nhiễm tích tập.
Khi ai đó cảm thấy sân hận, trước hết họ nói đó là một kinh nghiệm thuộc về thân thể, cảm giác. Chúng con rất khó phá bỏ ý tưởng này và bắt đầu nhận ra rằng sự sân hận là một tư tưởng. Tại sao thân thể lại có một kinh nghiệm mạnh mẽ như thế khi con sân hận?
Trong Phật Giáo chúng ta có nhiều cấp độ khác nhau. Nhưng ta nói rằng về cơ bản thì mọi sự là tâm, kể cả thân thể. Mọi sự đến từ tâm, và tâm cũng không hiện hữu – nó cũng ở trong bản tánh của tánh Không.
Bởi mọi sự xuất hiện từ tâm, tất cả chúng nối kết lẫn nhau. Thân thể hiện tại như một cái nền hay thùng chứa, và tâm là vật được chứa. Thùng chứa và vật được chứa nối kết với nhau thật chặt chẽ, vì thế đó là lý do vì sao khi tâm bạn dính mắc với những cảm xúc chẳng hạn như sân hận, thì bạn cũng có thể cảm nhận điều đó rất mạnh mẽ về mặt vật lý. Và cũng thế nếu bạn rất hạnh phúc thì bạn sẽ nhận thấy thân thể bạn thoải mái dễ chịu.
Hiểu được sự sân hận này được đặt nền tảng một cách khái niệm là điều rất khó khăn.
Tôi nghĩ rằng có nhiều phương pháp nhưng về cơ bản thì tôi cho rằng bằng cách nhận ra những hậu quả ta phải đối mặt do sự nuông chiều theo sự sân hận. Chẳng hạn bởi chiều theo sân hận bạn đã tạo nên sự khó chịu của thân xác cũng như sự buồn khổ trong tâm mà rốt cuộc sẽ ảnh hưởng tới thân thể bạn.
Này người minh triết, sự sân hận là điều tệ hại nhất bạn có thể làm cho bản thân bạn. Không ai khác có thể đưa bạn xuống những cõi địa ngục, mà chính sự sân hận của bạn có thể đem bạn xuống đó.
Mặc dù vậy, làm thế nào chúng con nhận ra được rằng sân hận là một chuỗi những tư tưởng?
Khi bạn nhận ra rằng sân hận là cái gì rất có hại cho bản thân và cho những người khác, trong nhất thời và tối hậu, thì dĩ nhiên là bạn sẽ tự nhiên không mong muốn nó. Vào lúc đầu thì tất nhiên là có thể khó khăn, nhưng nếu bạn cố gắng và chấm dứt nó một lần thôi, rồi lại cố gắng nữa, rồi khi bạn trở nên quen thuộc với việc đó thì dĩ nhiên không có gì là khó cả.
Kế đó, khi bạn cố khảo sát xem sự sân hận ở đâu, tại sao nó phát khởi, nó phát khởi ở đâu, nó đi đâu. Thường thì khi bạn sân hận, chính bởi những người đặc biệt nào đó không thích bạn hay họ làm những điều bạn không thích, vì thế bạn theo đuổi ý tưởng đó và bạn thường xuyên nghĩ về mọi lỗi lầm. Bạn cố gắng và càng lúc càng nhận ra những lỗi lầm, và vì thế điều này tiếp tục và sự sân hận của bạn càng lúc càng lớn hơn. Khi ấy bạn cũng có thể thốt ra những lời lẽ tàn nhẫn, và thân thể bạn cũng có thể hành động điều gì đó. Theo các này giờ đây tâm bạn đã bị sự sân hận chinh phục.
Thay vì theo đuổi sự sân hận, nếu bạn cố gắng quay trở lại và khảo sát xem sự sân hận phát khởi từ đâu, tại sao nó phát khởi, bạn cảm nhận nó trong bộ phận nào của thân thể, và bạn cố nhìn thấy bản tánh của sự sân hận, thì tôi nghĩ rằng khi bạn nhìn vào nó, bạn không thể tìm thấy bất kỳ điều gì.
Việc thực hành kỹ thuật này đòi hỏi rất nhiều thông tuệ và quyết tâ. Nó rất phức tạp.
Dĩ nhiên, nhưng nếu bạn thực hiện nó đầy đủ thì rất có thể thành công.
Như thế Ngài nói rằng trước tiên phải làm chủ nó, sau đó nhìn vào nó.
Phải.
Có lần Lạt Ma Yeshe nói với chúng con trong một bài giảng: “Người Tây phương các bạn nghĩ rằng sự tham muốn có điều gì đó để làm với các cảm giác của các bạn, nhưng nó không có điều gì để làm với những cảm giác.” Điều này nghe hơi sốc, bởi giống như sự sân hận, chúng con hoàn toàn gắn liền sự tham muốn với cái gì đó thuộc về cảm giác. Vì sao nó không thể thuộc về cảm giác? Chúng con có thể nhìn nó ra sao?
Rất khó. Với sự tham muốn thì không có sự thoả mãn cho dù tham muốn tới đâu chăng nữa. Chẳng hạn như các bạn bị dính mắc nhiều tới mức độ nào với một nơi chốn, với thực phẩm, bạn hữu và v.v.. nhưng cho dù bạn có bao nhiêu chăng nữa thì bạn cũng không thoả mãn.
Nó giống như việc uống nước muối. Khi bạn uống nước muối, càng uống thì bạn càng khát, vì thế không có sự thoả mãn. Thay vì bạn cố gắng thỏa mãn nó với sự tham muốn thêm nữa, tôi nghĩ rằng nếu bạn cố gắng từ bỏ, nếu bạn cố gắng tiệt trừ tham muốn, thì bạn có thể thấy thoả mãn.
Như vậy tại sao điều đó rất khó thực hiện? Ngay cả là những Phật tử, chúng con hiểu tất cả những từ này, nhưng chúng con vẫn tiếp tục theo đuổi sự tham muốn. Tại sao nó quá khó?
Bởi chúng ta quá quen thuộc với nó. Bởi từ vô thuỷ – theo quan điểm của giáo lý của Đức Phật – chúng ta đã bị mê hoặc trong sinh tử, và chúng ta từng nuông chiều sự tham muốn như thế. Những người dính líu với việc hút thuốc hay uống rượu đều biết rằng hút thuốc là có hại. Nhưng thậm chí không phải từ quan điểm tâm linh mà từ quan điểm y học hay sức khỏe, chúng ta biết rằng thuốc lá có hại, nó có thể gây nên bệnh ung thư, và không ai muốn bị ung thư, và nó có thể gây ra nhiều chứng bệnh khác, và nó đắt tiền. Nhưng đối với những người đã quen thuộc với một tập quán như thế thì thật khó mà từ bỏ nó.
Tương tự như thế, sự tham muốn thì có hại, nhưng bởi chúng ta từng liên kết với nó trong một quãng thời gian dài đến thế nên rất khó từ bỏ nó. Nhưng rốt cuộc thì nó như thuốc độc. Thuốc độc chỉ có thể gây nên đau khổ.
Nhưng làm thế nào con có thể chứng minh điều này? Trong nền văn hóa của chúng con, chúng con có thể có thật dễ dàng những gì sự tham muốn của chúng con muốn có, chúng con tuyệt đối tin tưởng rằng nó thực sự là nguyên nhân của hạnh phúc. Chừng nào mà con còn tiếp tục tìm kiếm nó thì con không thể nhận ra rằng nó đang gây nên đau khổ. Dường như điều đó rất khó khăn đối với những người bình thường như chúng con.
Chẳng hạn như hầu hết mọi người bị dính mắc vào của cải, phải thế không? Mọi người cho rằng khi bạn có của cải bạn sẽ hạnh phúc. Nhưng quả thật của cải thực sự là nguồn mạch của mọi đau khổ. Khi bạn đang thâu thập của cải bạn phải chịu đựng sự đau đớn của thể xác và nỗi khổ tinh thần để tích luỹ nó. Rồi trong lúc ấy bạn phải tạo nên mọi năng lực để bảo vệ nó. Tâm của những người giàu có rất nhiều gánh nặng hơn những người không có tiền của. Họ thường xuyên phải lo lắng về của cải của họ, nó có thể bị ai đó lấy cắp, có thể bị chính phủ đánh thuế, và những thứ tương tự như thế. Và cuối cùng, bằng một cách nào đó, bạn mất đi của cải của bạn.
Nhưng đối với người không có chút của cải nào thì chẳng có gì để phải lo mất. Vì thế khi bạn mất nó bạn cũng sẽ đau khổ. Vào lúc bắt đầu là sự tích luỹ, trong lúc tích lũy bạn phải bảo vệ, và cuối cùng thì mất mát, hao tổn: nó là nguồn gốc của mọi đau khổ. Nếu không có ai giải thích điều này, thì thậm chí người ta không buồn truy xét, nhưng nếu bạn thận trọng suy nghĩ về nó và xem xét nó, thì bạn sẽ nhận ra rằng của cải là nguồn gốc của mọi đau khổ.
Cho dù bạn dùng bao nhiêu thực phẩm thơm ngon thì cũng không có lúc chấm dứt. Bạn càng ăn thì bạn càng có nhu cầu. Nhưng nếu bạn từ bỏ nó, nếu bạn không dùng nó, nếu bạn hài lòng, thì bạn sẽ thấy rằng bạn còn bình an hơn nhiều nếu so với việc phải luôn cố gắng tìm kiếm một cái gì mới mẻ, một cái gì tốt hơn, một cái gì đẹp đẽ hơn.
Bình an nghe không giống hạnh phúc lý tưởng. Làm thế nào chúng con thuyết phục được mình rằng sự bình an ấy hơn hẳn loại hạnh phúc mà chúng con có được từ việc theo đuổi sự tham muốn?
Điều ấy thật rõ ràng. Khi những người bình thường đắm mình trong sự tham muốn trong một thời gian dài, mọi sự họ đạt được là càng lúc càng đau khổ. Nhưng những bậc cao quý, những Bồ Tát, từ bỏ mọi tham muốn và tất cả những gì các ngài thành tựu là sự hoàn thành viên mãn mục đích của riêng các ngài cũng như của những người khác. Vì thế ta cần nhận ra rằng đi theo con đường cao quý thì sáng suốt hơn nhiều nếu so với con đường tầm thường, là con đường chẳng đi được tới đâu.
Chính vì những cảm xúc là một tập quán mạnh mẽ nên trước hết, khó có thể nhận ra chúng như một chuỗi những tư tưởng và kế đó, chúng con thực sự tin rằng những cảm xúc là nhân cách. Chẳng hạn như sự sân hận rất dễ dàng phát sinh trong đời sống của con. Con tin rằng đây là người mà con là và không bao giờ con có thể thay đổi được điều này. Con cũng không bao giờ được dạy rằng con có thể thay đổi nó. Mẹ con có thể dạy con đọc và viết, nhưng bà không biết làm cách để dạy con bớt giận dữ bỡi bà chỉ nghĩ: “Nó là cái người đó.” Chúng con khắc phục điều này ra sao?
Sân hận không có trong bản tánh của tâm. Nếu nó ở trong tâm thì bạn không thể chuyển hóa nó, nhưng bởi nó không ở trong bản tánh của tâm nên nó có thể bị tẩy trừ. Bạn nhận ra rằng nó có hại, không lợi ích gì, nó hủy hoại tâm bạn, sức khỏe của bạn, và bạn ăn không ngon, sức khỏe sa sút. Dĩ nhiên là đối với một người bình thường thì việc từ bỏ sự sân hận rất khó khăn, nhưng khi bạn nhận ra điều này thì đó là bước đầu tiên. Tôi nghĩ rằng bạn có thể giảm bớt từng bước một – tôi không thể nói rằng bạn sẽ hoàn toàn từ bỏ nó, nhưng bạn có thể giảm bớt nó. Cuối cùng thì dĩ nhiên là bạn có thể chiến thắng nó.
Nhưng dường như vấn đề lớn nhất là chúng con không tin rằng nó không phải là bản tánh của chúng con. Chúng con thực sự tin rằng những sự mê lầm và sân hận là điều tự nhiên trong mọi người – theo cách này thì còn tự nhiên hơn bởi nó xuất hiện dễ dàng hơn.
Nó không phải là bản tánh vì nếu là bản tánh thì nó phải có lợi lạc.
Nhưng tại sao nó tự nhiên có lợi lạc?
Bản tánh thì tử tế và đầy thương yêu. Toàn bộ cuộc đời của chúng ta được nâng đỡ bởi lòng thương yêu và thiện tâm. Nếu cha mẹ ta không thương yêu ta thì ta đã không hiện hữu tới ngày hôm nay – ta đã chết ngay sau khi sinh ra. Nhưng nhờ lòng thương yêu và sự chăm sóc của họ, họ đã không để chúng ta chết, trái lại đã nuôi nấng ta.
Cũng tương tự như thế, khi ta còn là những đứa trẻ, những vị Thầy, bạn bè, cha mẹ và những người thân thuộc của ta thảy đều nuôi dạy ta. Thậm chí ngày hôm nay, khi đã trưởng thành, chúng ta luôn luôn cần tới những người bạn, tình thương của bạn bè và tình thương của những thân quyến của ta, những điều đó làm tâm ta dễ chịu, làm tâm ta thanh thản, đặc biệt là khi ta đương đầu với những phiền não và những vấn đề. Ta luôn luôn có thể thảo luận những vấn đề với người nào đó và nương cậy vào họ để giải quyết những vấn đề của chúng ta. Khi ta lớn tuổi tôi nghĩ rằng càng lúc ta càng cần phải nương tựa vào lòng từ ái của những người khác.
Vì thế trong toàn bộ cuộc đời ta, bản tánh con người là lòng thương yêu. Tình thương xây dựng cuộc sống, mục đích của nó là để tiếp tục. Nhưng sân hận thì chỉ hủy diệt – nó hủy diệt đời sống, hủy diệt sức khỏe, hủy diệt giấc ngủ, hủy diệt sự ngon miệng. Nó hủy hoại đời ta, nó không giúp ích cho cuộc đời ta, vì thế nó không tự nhiên. Đây là luận lý học thông thường.
Thưa Ngài, người ta nói rằng bản tánh tự nhiên thông thường của tâm ta thì trong sáng. Ngài có thể cho chúng con một phương pháp thực sự thực tiễn để chúng con nếm trải được điều này?
Khi tâm ta bận rộn với dòng tư tưởng đến nỗi thậm chí ta thường không để ý tới nó. Nhưng khi ta ngồi xuống và cố nhìn vào tâm mình thì dường như các niệm tưởng càng xuất hiện nhiều hơn nữa. Các tư tưởng xuất hiện trong mọi lúc nhưng ta không để ý, vì thế khi bạn ngồi xuống thì cuối cùng bạn mới bắt đầu chú ý tới điều đó.
Ví dụ như, khi nước bị trộn lẫn với bùn và bạn lắc nó lên thì không có gì thực sự xảy ra – nó vẫn bị pha trộn. Nhưng nếu bạn không làm gì hết thì bùn lắng xuống và nước trong sẽ xuất hiện trên bề mặt.
Tâm ta thì cũng thế, nếu bạn cố gắng ở trong trạng thái an tĩnh không bị những tư tưởng khác xen vào và bạn ngồi xuống – không nhất thiết phải thiền định, mà chỉ nhìn vào tâm bạn, không có bất kỳ niệm tưởng nào – thì tôi nghĩ đó là sự trong sáng. Hãy hiểu rằng nó không chỉ là một sự tẩy xóa.
Tâm không phải là cái gì mà chúng ta có thể nhìn thấy bằng mắt hay xúc chạm bằng tay hoặc đo lường được, và ta không thể mô tả nó bằng các màu sắc hay hình dáng, nhưng tâm ta rất mạnh mẽ. Nó là cái gì ta có thể cảm nhận – tâm ở đây, ở đó – bạn có thể cảm nhận nó. Nó là một trạng thái tỉnh giác. Nó có sự trong sáng trong ý thức rằng nó luôn luôn tỉnh giác và thường xuyên, giống như ánh sáng của một ngọn nến.
Bạn có thể thực hiện những thực hành an định, hay shiné, để kinh nghiệm điều này nhiều hơn nữa. Nó rất, rất ích lợi cho bất kỳ ai dù bạn có là một người có niềm tin tôn giáo hay không. Cách tốt nhất là buông lỏng. Sự buông lỏng không chỉ có nghĩa là nằm xuống, nhưng sự buông lỏng tuyệt hảo nhất là trong tâm không nhớ tới mọi phiền muộn và lo lắng về sinh kế và công việc của bạn và v.v.., mà chỉ đi vào nó và hoàn toàn buông lỏng. Nhờ phương pháp này ta có thể cảm nhận sự trong sáng. Từng bước một, bằng cách thiền định nhất tâm, việc thực hành theo cách này rất ích lợi.
Thưa Ngài, ta thường được bảo rằng ta thấy có dòng truyền thừa, thấy có những Lạt ma của ta, thấy có gia đình tâm linh, và ta dính mắc vào những điều đó. Giáo lý của những truyền thống khác nhau có thể sai lầm bởi chúng có thể bị diễn dịch khác nhau, đặc biệt là những giáo lý về tánh Không.
Dường như Đức Đạt Lai Lạt Ma thực sự nhấn mạnh vào tầm quan trọng của một quan điểm không bộ phái và đang khuyến khích mọi người nghiên cứu những truyền thống khác nhau. Đây có phải là điều Ngài khuyến khích? Và nếu đúng như thế thì làm thế nào chúng con có thể tránh không bị lầm lẫn? Chẳng hạn như những giáo lý mà Ngài ban cho chúng con hôm nay nghe hơi khác những giáo lý mà các Lạt ma Gelug của chúng con có thể ban cho, vì thế chúng con phải suy nghĩ thận trọng về chúng.
Bạn có thể có những cách hiểu khác nhau nhưng cuối cùng tất cả chúng đều dẫn tới cùng một kết cuộc. Thực ra những vị Thầy cổ xưa không có tinh thần bộ phái. Chẳng hạn như Đạo sư Thangtong Gyalpo có 500 guru (Đạo sư): Nyingma, Sakya, Gelug – mọi người. Trong thế kỷ 19, Jamyang Khyentse Wangpo và Jamgon Kongtrul là những vị Thầy không bộ phái; các ngài nhận lãnh những giáo lý từ mọi trường phái. Và không chỉ thọ nhận, các ngài còn thực hành, và biên soạn những quyển sách từ những quan điểm khác nhau.
Những quyển sách có những cách giải thích hơi khác nhau, nhưng điều này không có nghĩa là chúng mâu thuẫn nhau. Giống như những loại thuốc khác nhau có thể chữa trị bệnh nào đó cho một loại người đặc biệt, loại giải thích này có thể thích hợp cho loại người này.
Con có một việc khó xử. Con gặp một ni cô Tây Tạng tu hành ở Dharamsala, và khi con hỏi cô theo truyền thống nào thì cô nói: “Tôi không có một truyền thống.” Cô cũng nói cô nhận những giáo lý từ tu viện trưởng của phái Biện chứng, là phái Gelug. Đối với con thì dường như ngay khi vị Thầy nào đó giảng về tánh Không thì ta phải xác định xem nó phù hợp với quan điểm nào trong tất cả những quan điểm, như thế nó phải phù hợp với Lạt Ma Tsong Khapa hay Milarepa, hay bất kỳ quan điểm nào khác. Như thế, cuối cùng thì làm thế nào ta có thể có một quan điểm không bộ phái, theo nghĩa đen của việc không thuộc về bất kỳ trường phái nào?
Ở bình diện bên ngoài thì có những khác biệt, nhưng nếu bạn đi vào những cách giải thích sâu xa thì tôi nghĩ tất cả chúng trở thành một.
Điều này rất dễ nghe nhưng đối với những người bình thường thì rất khó chứng nghiệm. Ngôn từ nghe có vẻ đẹp đẽ, và thật tốt khi coi nó là mục đích, nhưng làm thế nào điều này trở nên có ý nghĩa cho chúng con?
Tôi cho rằng những cách giải thích khác nhau là tốt bởi mọi người khác biệt nhau. Không phải mọi người đều như nhau. Thực ra, một loại thuốc không đủ cho mọi loại bệnh tật – bạn cần những loại thuốc khác nhau, và những hệ thống y học khác nhau. Chẳng hạn như, đối với một vài bệnh tật của con người thì y học Tây Tạng hữu hiệu hơn, trong khi đối với những bệnh khác thì y học Trung Quốc hay y học đối chứng (allopathic medicine) có hiệu quả hơn.
Tôi nhớ hồi trước ở Dharamsala có một vài bác sĩ người Úc, và nhiều khi các bác sĩ đối chứng không chấp nhận những hệ thống y học khác; họ khăng khăng cho rằng cách chữa trị của họ là số một. Nhưng chính những bác sĩ này đã chấp nhận rằng đối với vài loại bệnh, như bệnh viêm gan, thì rõ ràng là hệ thống y khoa Tây Tạng tốt hơn. Chính các bác sĩ đã nói với tôi như thế. Nhưng đối với bệnh lao phổi, thì dứt khoát là y học đối chứng có hiệu quả hơn.
Trong con đường tâm linh thì cũng tương tự như thế, bởi mọi người có những trí lực khác nhau và những mức độ tâm linh khác nhau, nếu bạn có nhiều hệ thống khác nhau thì điều ấy tốt hơn.
Bạn càng có nhiều cấp độ giáo lý khác nhau thì càng tốt. Những giáo lý, Kinh điển cũng như Kim Cương thừa thì rất sâu xa và khó hiểu. Để thấu hiểu chúng bạn cần phải có nhiều phương pháp khác nhau. Một trong những phương pháp này là sự tranh luận. Những trường phái khác nhau đôi khi không chỉ có những quan điểm khác nhau, nhưng chúng có nhiều sự tranh luận, bác bỏ lẫn nhau. Nhờ tiến trình như thế ta hiểu được những ý nghĩa rất khó hiểu. Vì thế tôi nghĩ rằng việc nghe giáo lý từ nhiều quan điểm khác nhau thì rất lợi lạc.
Thưa Ngài, về guru, chúng con thường nghĩ guru như Thượng Đế, ngài là một người ở trên đó, một người toàn thiện tách biệt với con. Chúng con nghĩ: “Ồ, tốt lắm, ngài là guru, ngài có thể thiền định cả đêm, ngài có thể làm điều này, ngài có thể làm điều nọ.” Nhưng có lẽ thái độ thực sự của chúng con là chúng con được cảm hứng bởi những gì ngài làm, và bản thân chúng con có thể giống như thế.
Phải, đúng thế. Guru nên là một mẫu mực và phẩm tính tối thiểu của guru là người có trí tuệ, giới luật tốt đẹp và lòng bi mẫn. Vì thế hành vi tốt lành và cách sống của vị ấy nên là một tấm gương cho các đệ tử của ông.
Lạt Ma Tsong Khapa nói rằng vấn đề chính yếu là nhìn guru như vị Phật, và người ta sử dụng những trích dẫn khác nhau từ các bản văn để chứng minh rằng Đức Dorje Chang (Kim Cương Trì) đã nói rằng ngài sẽ xuất hiện như guru.
Đó là điều chỉ trong Kim Cương thừa mới có. Nhưng trong truyền thống Đại thừa có nói rằng guru như một vị Phật, nhưng không nói rằng ngài là một vị Phật. Nhưng khi bạn nhận những quán đảnh trọng yếu và những giáo lý Kim Cương thừa, thì khi ấy guru của bạn là Phật.
Vì thế, theo truyền thống của thực hành pháp guru yoga của chúng ta, điều đó chỉ có thể được thực hiện bởi những người đã đi vào Kim Cương thừa. Những người bình thường có thể dùng một vài loại thực hành, nhưng không phải là thực hành coi guru như một vị Phật.
Con có nghe câu chuyện về người đàn bà có chiếc răng chó nhưng nghĩ rằng nó là xá lợi Phật, nhưng do bởi đức tin nên bà đã nhận được những sự ban phước của Đức Phật – bằng cách này hay cách khác năng lực của Đức Phật đã hiển lộ trong chiếc răng đó. Nếu con nhìn một người như Đức Phật thì cho dù họ không phải thế, có phải điều đó cũng giống như năng lực của Đức Phật hiển lộ trong người ấy vì lợi lạc của con?
Phải, đúng thế – đó là nhờ sức mạnh của lòng sùng mộ của đệ tử. Trên căn bản thì mọi người đều có Phật tánh, vì thế cho dù guru của bạn không toàn thiện và có nhiều lỗi lầm, nhưng từ khía cạnh của đệ tử với lòng sùng mộ, bạn có thể nhận được những sự ban phước của Đức Phật bởi ngay cả guru của bạn với những lỗi lầm của ông cũng có Phật tánh. Đây là lý do chính.
Như thế không phải là theo nghĩa đen, các Đấng Toàn Trí, chư Phật, hiện diện trong vũ trụ, hiển lộ trong thân người ấy và chúc phúc nhờ đó con có thể được lợi lạc. Không phải như vậy sao?
Không, tôi không nghĩ thế. Bởi guru đang thực hiện những hoạt động của Đức Phật, ông giống như một khí cụ giữa mặt trời và bạn. Với khí cụ này bạn có thể sử dụng năng lực của mặt trời. Không có khí cụ này, mặt trời luôn luôn có ở đó nhưng bạn không thể sử dụng nó.
Nhưng nhờ guru bạn có thể sử dụng năng lực và có thể nhận những sự ban phước của Đức Phật. Vì thế bạn nên nhìn guru như Đức Phật. Về phần tôi thì guru còn quan trọng hơn Đức Phật, bởi ta không thể nhìn thấy Đức Phật, không thể nghe Ngài nói, do đó ta không thể trực tiếp nhận những sự ban phước. Nhưng nhờ guru bạn có thể nhận được những sự ban phước. Vì thế theo tôi guru quan trọng hơn Đức Phật.
Như thế lý do chính khiến người đàn bà nhận những sự ban phước là do bởi niềm tin của bà ta – chứ không phải tại chiếc răng có năng lực. Điều đó dường như là vấn đề chính.
Phải, phải.
Nguyên tác: “Nature of Mind”, Ven. Robina Courtin interviewed His Holiness Sakya Trizin in Boston in June 2000. Tạp chí Mandala 3/2001
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên