Tinh Vân thiền thoại kể rằng:
Có  một  ông  nhà  giàu  quanh  năm  suốt  tháng mải mê đầu cơ tích trữ, vun vén cho bản thân, nuôi tham vọng làm cho cơ nghiệp ngày càng thêm lớn, bất chấp thủ đoạn, giẫm bừa lên khổ đau của người khác. Một lần vợ ông bệnh nặng, ông thỉnh một vị Tăng về nhà tụng kinh cầu phước giải bệnh. Ông nói với vị Tăng:

–    Nhờ thầy thay tôi tụng kinh cầu nguyện chư Phật và Bồ-tát gia hộ cho gia đình tôi được bình an, việc làm ăn của tôi thêm phát đạt, vợ tôi qua khỏi cơn trọng bệnh, con cháu tôi sớm được thăng quan phát tài.

Nghe ông nhà giàu nói những điều mong cầu mà vị Tăng thở dài ngao ngán. Vị Tăng muốn cảnh tỉnh ông, bèn làm lễ, tụng kinh và khấn lớn tiếng rằng:

–    Nguyện chư Phật và chư Bồ-tát phương xa từ bi chứng giám, hiện tiền gia chủ cầu khẩn chư Phật, chư Bồ-tát gia hộ cho gia đình ông ta được bình an, làm ăn thịnh vượng, vợ ông mau chóng khỏi bệnh, con cháu thăng quan phát tài.

Ông nhà giàu nghe vị Tăng khấn nguyện lấy làm ngạc nhiên, thắc mắc:

–    Bạch sư phụ, sao thầy lại cầu khẩn Phật và Bồ-tát phương xa mà không cầu khẩn các vị ở gần để các vị ấy đến đây cho mau lẹ?

Vị Tăng đáp:

–    Sở dĩ tôi không cầu Phật và Bồ-tát ở gần là vì e ngại các vị ấy không chịu giúp ông. Ông nghĩ coi, bình thường ông chẳng làm việc phước đức, chẳng gieo nhân lành, không làm việc gì có ích cho ai, ngược lại còn xan tham, sân hận, si mê tà kiến, kiêu căng ngã mạn. Tôi e rằng Phật và Bồ-tát ở gần đây đều biết ông, các vị ấy sẽ không đáp ứng lời thỉnh cầu của ông. Vì vậy mà bất đắc dĩ tôi phải cầu chư Phật và Bồ-tát ở xa giúp ông, may ra vì không biết rõ về ông mà các vị ấy giúp ông ít nhiều.

… … … … …

cau-cung-co-duoc-chang

Lúc bình thường  không  gieo nhân  lành, không  kết thiện duyên, không tạo công đức phước báu gì thì dù cầu chư Phật và chư Bồ-tát ở gần hay ở xa cũng khó có sự cảm ứng. Vị Tăng trong câu chuyện trên mượn việc cầu Phật và Bồ-tát phương xa mà không cầu Phật và Bồ-tát ở gần để thức tỉnh ông nhà giàu, chứ kỳ thực chẳng phải Phật, Bồ-tát ở xa thì không hay không biết việc làm của ông nhà giàu. Đối với chư Phật và Bồ-tát thì không có chuyện ở xa hay ở gần mà không biết, quan trọng là người đời có thiện tâm hay không, có thật lòng hướng về Phật và Bồ- tát hay không, và tâm ý, việc làm của người đó có tương ưng với hạnh nguyện của các Ngài hay không. Có nghĩa là muốn cầu Phật và Bồ-tát có sự cảm ứng thì phải sống cho tốt, biết hành thiện, làm việc lợi ích cho mình và cho người khác, có lòng từ bi, hỷ xả, vị tha… Bởi vì Phật và Bồ-tát là những bậc toàn chơn, toàn giác, toàn thiện, toàn mỹ, muốn cầu các Ngài có cảm ứng thì tâm niệm và việc làm phải tương ưng với hạnh nguyện của các Ngài.

Trên thế gian không chỉ riêng ông nhà giàu nọ,  còn có biết bao người trong lúc bình thường  chẳng màng tội phước, không tin nhân quả, điên đảo thiện ác, không ngần ngại tạo nghiệp  xấu, ác để thỏa lòng tham lam, sân hận,  kiêu căng, ngã  mạn, đến  lúc tai họa  giáng xuống đầu, gặp chuyện không may bất trắc xảy đến thì lạy lục cầu xin Phật, Bồ-tát che chở. Lúc đó dù có dâng cúng phẩm vật trọng hậu, quỳ mọp sát đất lạy lục đến mấy cũng chẳng ích lợi gì. Nhân quả tương ưng, đâu có Phật, Bồ-tát nào làm thiên lệch quy luật nhân quả được. Những người có tâm địa không tốt, xấu xa, độc ác, tham lam, ích kỷ, hẹp hòi thì làm sao có được kết quả tốt đẹp và làm sao có được sự cảm ứng nơi các Ngài.

Không nên chỉ biết trông cậy vào sự giúp đỡ, chở che của Phật, Bồ-tát, mà cần phải hiểu rằng sự gia hộ của Phật, Bồ-tát cũng do chính mình mà được, do việc làm thiện lành của mình, do công đức phước báo mình đã tạo mà có sự cảm ứng đó. Khi đã tin hiểu nhân quả thì biết muốn có cây lành trái ngọt thì phải gieo nhân tốt và tạo các duyên thích hợp, thuận lợi cho nhân đó phát triển. Ví dụ muốn cầu sống lâu trường thọ thì phải có ý thức giữ gìn sức khỏe, sống hợp vệ sinh, siêng năng vận động, rèn luyện thân  thể, quan  tâm  đến  chế độ dinh dưỡng, sống tiết độ, không làm tổn hại sức khỏe, tính mạng  chúng  sinh khác, biết  phóng  sinh, bố  thí thuốc, các phương tiện điều trị cho người ốm đau bệnh họan… Muốn được giàu sang thì cần kiệm siêng năng học tập, lao động, giúp đỡ người nghèo  khó đói rách, những người có hoàn cảnh neo đơn, cơ nhỡ bằng cách bố thí tài vật, phương tiện sinh kế v.v. Tóm lại, nếu không sống tốt, không biết gieo nhân lành, sống thiếu ý thức trách nhiệm đối với bản thân và xã hội thì đâu có Phật, Bồ-tát nào lại đi “phò hộ”, “che chở”, “giúp đỡ” cho.

Nguồn: Tạp chí Văn hóa Phật giáo số 155