7. CẤU TRÚC BÊN TRONG
« Ngày mai đây, sau khi bạn ra đi
Chắc chắn bạn sẽ quay trở lại »
Thư của Shura viết cho Kanika [23]
Tiết 11
Chúng tôi xin được hiểu rõ bản chất thực sự của chính chúng tôi
Nhờ vào du-già đã xem chu trình của sinh tử và cả niết bàn đều là hư vô.
Trong lúc ảo giác gia tăng và những gì thực hiện sắp hoàn tất cũng tan biến – cái khởi thủy tan trong cái tột cùng.
Tiếp theo là những giác cảm phát sinh giống như ánh trăng, ánh sáng mặt trời, và bóng tối lan tràn.
Để có một ý niệm rõ ràng về bốn giai đoạn sau cùng của cái chết, cần hiểu thêm các cấp bậc của tri thức cũng như cấu trúc của kinh mạch, khí lực, và những giọt lỏng căn bản (lưu chất) trong cơ thể. Điều này rất hệ trọng trên phương diện sinh học và tâm lý học thuộc trường phái Tan-tra.
CÁC CẤP BẬC TRI THỨC [24]
Tối thượng Du-già Tan-tra chia tri thức thành nhiều cấp bậc khác nhau: thô sơ, tinh tế và thật tinh tế. Các cấp bậc thô sơ gồm tri giác phát sinh từ ngũ giác – tri giác của mắt tiếp nhận màu sắc và hình dạng; tri giác của thính giác là âm thanh; tri giác của mũi là mùi; tri giác của lưỡi là vị; tri giác của xúc giác là kinh nghiệm phát sinh từ sự sờ mó. Mỗi cá thể tri giác đều có một lãnh vực hoạt động liên hệ – màu và hình dáng, âm thanh, mùi vị –, và kinh nghiệm xúc giác.
Tinh tế hơn các bậc vừa kể, nhưng vẫn còn nằm trong mức độ thô thiển, đó là tri giác giúp ta biết suy nghĩ. Tri giác gồm có ba cấp bậc tương quan với ba mức độ sinh khí khác nhau – mạnh, trung bình và yếu – dựa vào đó tri thức phát hiện dưới ba cấp bậc khác nhau. Nhóm tri thức thứ nhất liên quan đến những chuyển động mạnh của khí hướng về các đối tượng nhận biết và gồm có ba mươi sáu cảm nhận liên quan đến các khái niệm, chẳng hạn như sự sợ hãi, bám víu, đói, khát, lòng từ bi, bản năng chiếm giữ và ganh tị. Nhóm tri thức thứ hai gồm những chuyển động trung bình của khí hướng về các đối tượng của nó – các đối tượng này gồm có bốn mươi khái niệm, chẳng hạn như vui vẻ, ngạc nhiên, hào phóng, thích ôm ấp, anh hùng tính, ác ý và lường gạt…Nhóm tri thức thứ ba liên hệ đến những chuyển động nhẹ của khí hướng về các đối tượng nhận biết – gồm có bảy khái niệm là sự quên lãng, sự sai lầm, chẳng hạn như thấy nước do ảo ảnh, chứng ù lỳ, chứng trầm cảm, sự lười biếng, nghi ngờ, mọi thèm muốn và hận thù. (Ngay trong từng nhóm tri thức hay từng khái niệm vừa kể, cũng có thể phân loại tỉ mỉ hơn thành nhiều cấp bậc thô thiển và tinh tế khác nhau).
Ba nhóm cảm nhận bằng khái niệm trên đây nằm trong mức độ thô thiển của tâm thức, nhưng vẫn tinh tế hơn tri giác phát sinh từ ngũ quan. Đó là những phản ứng thuộc những mức độ tri thức thâm sâu, vì vậy càng lúc chúng càng mang ít cảm nhận đối nghịch. Các ảnh hưởng thuộc ba cấp bậc tinh tế của tâm thức phát hiện vào các giai đoạn trùng hợp với sự chấm dứt của các cấp bậc thô thiển nhất của tri thức, hoặc do quyết tâm – chẳng hạn như các trạng thái thiền định thật sâu –, hoặc chỉ là những phát hiện tự nhiên – chẳng hạn như trong quá trình của cái chết hay khi lắng vào giấc ngủ.
Khi khí lực của tám mươi khái niệm tan biến, các khái niệm nương tựa trên đó cũng tan biến theo. Điều này giúp cho ba mức độ tinh tế của tri thức hiển hiện theo thứ tự sau đây: bầu-trời-tâm-thức có sắc trắng rực rỡ, bầu-trời-tâm-thức có màu đỏ cam rực rỡ, kế tiếp là bầu-trời-tâm-thức màu đen thật đậm (sẽ mô tả trong các giai đoạn năm và bảy). Các thể dạng này sẽ đưa tới cấp bậc tinh tế nhất của tâm linh, tức ánh sáng tâm thức trong suốt, nếu ta biết ứng dụng vào việc tu tập, ánh sáng tâm thức trong suốt sẽ là một sức mạnh rất lớn. (Sẽ nói đến trong giai đoạn hiển hiện thứ tám thuộc phần sau).
Trước khi đi vào chi tiết, cần phải giải thích thêm những biến chuyển đi kèm với bốn giai đoạn vừa kể. Theo sinh lý học của Tối thượng Du-già Tan-tra, khí lực và các giọt thiết yếu luân chuyển trong các kinh mạch vật chất của cơ thể.
CẤU TRÚC CỦA CÁC KINH MẠCH TRONG CƠ THỂ
Có it nhất bảy mươi hai kinh mạch trong cơ thể: động mạch, tĩnh mạch, gân và các ống dẫn truyền lộ diện hay tiềm ẩn, chúng bắt đầu phát sinh nơi vị trí của tim khi vừa thụ thai. Ba kinh mạch quan trọng nhất xuất phát từ một điểm giữa hai lông mày lên đến đỉnh đầu, kế đó là dọc theo xương sống, sau hết kéo dài đến điểm tột cùng của cơ quan sinh dục. Sự mô tả các kinh mạch trung tâm này dựa vào cách tưởng tượng khi tham thiền, vị trí các kinh mạch bên phải và bên trái khi tưởng tượng có hơi khác biệt với những vị trí thực sự của chúng. Tưởng tượng ra vị trí lý tưởng của chúng giúp dễ khơi động các cấp bậc thâm sâu nhất của tâm thức. Đôi khi cách mô tả mang tính cách lý tưởng như trên đây cũng dùng để xác định các điểm tập trung giúp vào việc thiền định [26].
Có bảy « bánh xe » chiếm giữ các vị trí trọng yếu phân bố trên ba kinh mạch vừa kể, và mỗi bánh xe có một số nan hoa khác nhau, các nan hoa còn có tên là các « cánh hoa của những kinh mạch tinh tế ».
1- Bánh xe Đại Hạnh có vị trí trên đỉnh đầu và gồm ba mươi hai cánh kinh mạch. Nó mang tên bánh xe đại hạnh vì tâm điểm là vị trí của giọt trắng căn bản, nền tảng của phúc hạnh.
2- Bánh xe Thụ hưởng có vị trí nơi trung tâm cổ họng gồm mười sáu cánh kinh mạch, có tên là bánh xe thụ hưởng vì đó là nơi cảm nhận vị giác.
3- Bánh xe Hiện tượng có vị trí nơi tim gồm tám cánh kinh mạch. Nó mang tên bánh xe hiện tượng vì hàm chứa những luồng khí lực rất tinh tế và cả phần tâm thức, nguồn gốc của mọi hiện tượng.
4- Bánh xe Phát tán: có vị trí thuộc khu thần kinh nơi bụng gọi là đám rối dương[27] , với sáu mươi bốn cánh kinh mạch. Ngọn lửa nội tâm do luyện tập du-già khơi động cũng như những phương tiện phát huy sự sảng khoái cao độ đều nằm ở vị trí này, vì thế nên có tên là Bánh xe Phát tán.
5- Bánh xe Phúc hạnh Tối thượng có vị trí ở cuối xương sống, gồm ba mươi hai cánh kinh mạch. Mức độ thâm sâu nhất của phúc hạnh phát sinh ở vị trí này, nơi tận cùng của xương sống.
6- Bánh xe của trung bộ Vật báu: (tức là đầu của cơ quan sinh dục), gồm có mười sáu cánh kinh mạch.
7- Sau hết là bánh xe giữa lông mày, gồm mười sáu cánh kinh mạch.
Nơi vị trí của tim, ba kinh mạch bên phải và ba bên trái quấn vòng xung quanh kinh mạch trung tâm (mỗi kinh mạch khoanh tròn một vòng) và sau đó hướng xuống phía dưới. Các kinh mạch quấn tròn tạo thành sáu vòng tất cả, các vòng quấn tạo ra một vùng thắt ở tim, chặn không cho khí di chuyển trong kinh mạch trung tâm. Vòng thắt rất chặt, do đó tim là một trở ngại đáng kể cho việc tham thiền. Nếu không tận dụng những kỹ thuật tham thiền thật đúng, có thể xảy ra tình trạng suy nhược thần kinh.
Nơi các trung tâm vừa kể – như chân mày, đỉnh đầu, cổ họng, tim, khu thần kinh bụng, cuối xương sống, cơ quan sinh dục – hai kinh mạch bên phải và bên trái đều quấn một vòng xung quanh kinh mạch trung tâm (mỗi kinh mạch cũng tự quấn một vòng chung quang chúng), kết quả tạo ra hai mối thắt. Khí lực căng phồng nơi kinh mạch phải và trái bóp chặt và ngăn chận không cho khí chuyển vào kinh mạch trung tâm. Các vị trí bị quấn chặt trên đây gọi là các « các nút thắt ». Cần hiểu rằng cách phác họa và mô tả kinh mạch cũng như các bánh xe kinh mạch trên đây chỉ nhắm vào mục đích thực hành, chúng không nhất thiết phải đúng như hình tướng, dạng thể và vị trí thật, chúng có thể khác nhau tùy theo mỗi người.
CẤU THỂ CỦA KHI LỰC TRONG CƠ THỂ
Khi ta tập trung tâm thức vào một đối tượng, chính là nhờ vào các chuyển động của khí, hay là năng lực. Tâm thức cưỡi lên khí như người kỵ mã trên lưng ngựa. Theo Tối thượng Du-già Tan-tra, cấu trúc tâm lý của ta hàm chứa năm luồng khí cơ bản và năm luồng khí thứ yếu như sau:
1- Luồng khí chuyên chở sự sống. Vị trí chính thuộc nhóm kinh mạch tim. Vai trò của nó là duy trì sự sống và phát khởi năm luồng khí thứ yếu để điều khiển ngũ giác và sự xúc động.
2- Luồng khí đào thải hướng xuống phía dưới. Vị trí chính thuộc nhóm kinh mạch nơi bụng dưới. Luồng khí này lan truyền trong tử cung hoặc ống dẫn tinh, bọng đái, hai bên đùi, v.v… Luồng khí này khi ngưng lại sẽ khích động nước tiểu, phân và kinh nguyệt.
3- Luồng khí nóng (lửa). Vị trí chính thuộc nhóm kinh mạch của khu thần kinh nơi bụng (đám rối dương), chính nơi đây phát sinh ra sức nóng bên trong khi tập luyện du-già. Luồng khí này giúp sự tiêu hóa, tách rời phần tử tinh lọc ra khỏi những phần tử cặn bã, v.v…
4- Luồng khí hướng về phía trên. Vị trí chính thuộc nhóm kinh mạch nơi cuống họng. Luồng khí này tác động qua cuống họng và miệng, là nguồn gốc của tiếng nói, vị của thức ăn, các động tác nuốt, ợ, khạc, v.v.
5- Luồng khí xâm lược. Vị trí chính nằm ở các khớp xương, tạo ra sự mềm mại trong các cử động, như động tác duỗi và co của tứ chi, mở khép miệng, mi mắt.
Khí điều khiển các chức năng thân xác và tâm thần. Một sức khoẻ dồi dào cần có sự luân chuyển thông suốt của các chuyển động khí: tắc nghẽn sẽ tạo ra khó khăn.
Thông thường, khí lực không di chuyển trong kinh mạch trung tâm, chỉ trừ trường hợp khi xảy ra quá trình của cái chết. Tuy nhiên các kỹ thuật du-già ở cấp bậc cao có thể làm cho chúng di chuyển trong kinh mạch trung tâm – giúp phát huy các trạng thái tâm thức sâu kín nhất[28] . Trong bốn giai đoạn cuối cùng của cái chết, các luồng khí làm nền móng cho tri thức di chuyển và hoà tan với nhau trong các kinh mạch phải và trái. Tiếp theo đó, khí ở các kinh mạch phải và trái sẽ xâm nhập và hoà tan với nhau trong kinh mạch trung tâm. Các kinh mạch phải và trái xẹp xuống (vì khí đã chuyển sang kinh mạch trung tâm) khai thông các nút thắt: khi các kinh mạch này đã xẹp hết, kinh mạch trung tâm được giải tỏa giúp các luồng khí lưu chuyển bên trong. Sự khai thông đó sẽ làm phát sinh các thể dạng tâm thức tinh tế giúp cho người luyện tập Tối thượng Du-già Tan-tra sử dụng vào việc tu tập. Các luồng khí chuyên chở một tâm thức đại hạnh sâu kín, cưỡng lại một cách mãnh liệt sự bám víu vào mọi vật thể. Một tâm thức như thế sẽ có khả năng đạt được chân như.
Cách nay hơn hai mươi năm, có một vị ni sư hơn tám mươi tuổi trú ngụ nơi hành lang của một căn nhà tại một ngôi làng gần đây. Nhiều người đến xin bà tiên đoán cho họ về thời vận tương lại. Bà ta xin được nói chuyện với tôi, vì thế tôi đã gặp bà. Bà trình cho tôi một quyển sách về cách tu tập theo truyền thống Ninh-mã, tựa sách là « Sự xuyên phá và nhảy vọt ». Chúng tôi cùng nhau đàm đạo. Bà ta kể với tôi rằng lúc trẻ khi còn ở Tây tạng, bà đã lấy chồng, nhưng người chồng đã chết. Bà từ bỏ đời sống thế tục và tất cả của cải. Sau đó, bà lên đường đi hành hương. Bà đến Drikung và gặp một vị Lạt-ma thật già, đã tám mươi tuổi sống trên một ngọn núi trong vùng này. Vị Lạt-ma có khoảng mười hai đệ tử. Bà kể rằng chính mắt bà đã thấy hai lần các vị sư dùng khăn quàng cổ để bay từ đỉnh đồi này sang đỉnh đồi khác. Bà quả quyết chính mắt thấy như vậy[29] !
Nếu là chuyện thật, không những đó là một thành tích kỳ diệu mà còn là kết quả do sự luyện tập Du-già về Khí lực. Các vị sư sống nơi hẻo lánh với vị Lạt-ma già nua rõ ràng đã cởi bỏ được lòng tin cố định và tháo lỏng các nút thắt nơi các kinh mạch. Theo tôi nghĩ, có lẽ họ đã chứng ngộ được thể dạng Tánh không của sự hiện hữu nội tại, cũng như lòng vị tha tràn ngập tình thương và từ bi. Dù có thể họ không được hưởng một nền giáo dục cao, nhưng họ đã đạt được phần tinh anh của sự chứng ngộ về Tánh không.
NHỮNG GIỌT LỎNG CĂN BẢN CỦA CƠ THỂ
Nơi vị trí trung tâm của các bánh xe (chakras) có những giọt màu trắng bên trên, và bên dưới là những giọt màu đỏ, sức khoẻ thể xác và sức khoẻ tinh thần đều dựa trên các giọt đó. Trên đỉnh đầu, thành phần trắng trội hơn, trong khi đó nơi trung tâm thần kinh bụng (đám rối dương), thành phần đỏ ưu thế hơn. Các giọt đó có nguồn gốc từ giọt căn bản của tim, lớn như một hột cải hay bằng một hạt đậu thật nhỏ. Giọt căn bản cũng giống như các giọt khác, có màu trắng bên trên và màu đỏ bên dưới.
Tình trạng vừa mô tả tồn tại cho đến khi chết, vì thế giọt nơi tim còn gọi là « giọt bất hoại ». Luồng khí thật tinh tế chuyên chở sự sống tích tụ trong giọt này. Vào giây phút cuối cùng của cái chết, các luồng khí tan vào bên trong. Chính vào thời điểm đó, sẽ phát sinh ánh sáng trong suốt của cái chết.
Nếu nhận biết được những phát hiện thuộc các tầng lớp của tâm thức, thuộc các kinh mạch và các giọt lỏng thiết yếu bên trong, ta có thể theo dõi được các cấp bậc tâm thức tan biến như thế nào trong những giai đoạn chót của cái chết.
BỐN GIAI ĐOẠN CUỐI CÙNG CỦA CÁI CHẾT
Bốn giai đoạn chót của cái chết bắt đầu bằng ba cấp bậc tâm linh tinh tế và kết thúc bằng một dạng thể tâm linh thật tinh tế. Khi các cấp bậc thô thiển của tâm thức tắt dần, ba giai đoạn tâm linh tinh tế sẽ hiện lên. Khi trải qua ba giai đoạn đó, tâm thức ta sẽ từ từ trở nên không đối nghịch nữa, vì mất dần sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng.
Giai đoạn 5. Khi tám mươi bốn ý niệm cảm nhận trong cấp bậc thô thiển của tri thức tan biến, giai đoạn thứ nhất trong ba giai đoạn tinh tế nhất của tâm thức xuất hiện, đồng thời một thứ ánh sáng màu trắng sáng chói hiện ra. Một vừng ánh sáng tỏa rộng, giống như bầu trời mùa thu chan hòa ánh sáng trắng. Ngoài ra không có gì khác hiện ra trong tâm thức vào lúc đó. Theo truyền thống, Phật giáo thường hay dùng hình ảnh bầu trời mùa thu để so sánh, vì vào mùa thu ở Ấn độ, nơi xuất xứ của những bài giảng huấn này, khi những cơn mưa lũ của mùa hè chấm dứt, bầu trời trở nên trong sáng không vướng mây và không bụi bặm. Cũng giống như thế, khi hết chướng ngại, những cảm nhận thô thiển cũng tan biến theo, đồng thời một cảm giác mở rộng sẽ phát sinh. Trạng thái thứ nhất trong ba trạng thái tinh tế nhất gọi là « sự hiển lộ » vì có sự hiển lộ tương tợ như có ánh trăng hiển hiện, nhưng thật ra không có ánh sáng gì cả từ bên ngoài. Khoảng không gian đó trống không vì nó vượt khỏi tám mươi bốn cảm nhận và những luồng khí chuyên chở nó.
Về mặt vật chất, mặc dù người chết không cảm nhận được, nhưng các hiện tượng của giai đoạn 5 sẽ phát triển như sau: 1) Những luồng khí nơi các kinh mạch bên phải và bên trái phía trên tim sẽ dồn vào kinh mạch trung tâm qua một lỗ mở ra trên đỉnh đầu. 2) Vì lý do đó, nút thắt nơi các kinh mạch tại đỉnh đầu được tháo gở. 3) Nút thắt được buông thả đưa giọt trắng trên đỉnh xuống thấp và làm cho thể nước cũng giảm thiểu. Khi nước hạ thấp ngang với vị trí bên trên của nút thắt gồm sáu vòng quấn do các kinh mạch phải và trái nơi tim tạo ra, tức thời vùng ánh sáng trắng rạng rỡ xuất hiện.
Giai đoạn 6. Khi bầu-trời-tâm-thần màu trắng rạng rỡ và thành phần khí của nó tan biến, bầu-trời-tâm-thần màu đỏ cam hiện ra, chiếu sáng hơn cả bầu trời màu trắng, giống như bầu trời mùa thu không bụi bặm, không mây, chan hòa ánh sáng màu đỏ cam. Ngoài ra không có gì khác hiện ra trong giai đoạn này. Thể dạng đó gọi là « sự hiển lộ thăng tiến » vì giống như mặt trời đang lặn với ánh sáng thật rực rỡ. Nhưng thật ra đấy chỉ là một hình ảnh nội tâm, không có ánh sáng nào như thế hiển hiện bên ngoài. Dạng thể đó còn gọi là dạng thể « gần như trống không », vì nó vượt lên trên mọi biểu hiện tâm thức và cả thành phần khí dùng để chuyên chở tâm thức.
Trên phương diện vật chất sẽ diến tiến như sau: 1) Các luồng khí nơi các kinh mạch phải và trái phía bên dưới tim di chuyển vào kinh mạch trung tâm qua một lỗ hở nơi vị trí thấp nhất ở cuối xương sống hoặc cơ quan sinh dục. 2) Vì thế, các nút thắt nơi các bánh xe thuộc kinh mạch của cơ quan sinh dục và của rốn được tháo gỡ. 3) Biến chuyển này giúp cho giọt đỏ (dưới dạng một vạch nhỏ thẳng đứng) nằm vào vị trí trung tâm của bánh xe thuộc kinh mạch rốn di chuyển lên trên. Khi giọt đỏ ngưng lại đúng vào vị trí phía dưới nút thắt tạo ra bởi các kinh mạch phải và trái nơi tim, bầu trời-tâm-thần màu đỏ cam hiển hiện và gia tăng.
Giai đoạn 7. Bất thần ửng hiện một màu đen thật đậm, khi đó tâm thức màu đỏ cam đang lúc phát triển và phần khí của nó cũng khởi sự tan dần trong bầu-trời-tâm-thức đen đậm vừa mới hiển hiện. Có thể so sánh như một bầu trời mùa thu không bụi bặm, không vướng mây, bổng nhiên bị bóng tối dầy đặc che kín, giống như trời sụp tối. Không có gì khác xảy ra thêm. Trong giai đoạn đầu của bầu-trời-tâm-thức màu đen, ta vẫn còn tri thức, nhưng sau đó vào giai đoạn cuối ta mất hết tri thức và chìm trong một màn tăm tối hoàn toàn, tương tợ như khi bất tỉnh. Giai đoạn này gọi là « giai đoạn gần hoàn thiện » vì đã gần với sự hiển hiện của ánh sáng tâm thức trong suốt. Người ta còn gọi giai đoạn này là « sự trống không lớn » vì nó vượt lên trên bầu-trời-tâm thần màu đỏ cam và khí chuyên chở nó.
Trên phương diện vật chất sẽ diễn tiến như sau: 1) Các luồng khí bên trên và bên dưới của kinh mạch trung tâm quy tụ lại ở tim, tháo gở nút thắt tạo ra do sáu vòng quấn của các kinh mạch phải và trái. 2) Trong thời điểm này, giọt trắng trên đỉnh đầu chuyển xuống càng lúc càng thấp hơn và giọt đỏ nơi rốn càng cao hơn. Cả hai sẽ nhập vào tâm điểm của giọt bất hoại nơi tim. 3) Khi hai giọt này gặp nhau, một màu đen thật đậm hiện ra.
Giai đoạn 8. Tâm thức trở nên tinh tế hơn so với trước đây, trong giai đoạn vô thức sau cùng của bầu-trời-tâm-thần màu đen. Sự lưu chuyển của khí yếu đi, chỉ còn luồng khí tinh tế nhất tồn tại. Vào lúc đó, phần vô thức tan biến và ánh sáng tâm thức trong suốt, loại ánh sáng tinh tế nhất, phát hiện. Từ thời điểm này, tất cả mọi cảm nhận bằng khái niệm đều chấm dứt, và ba « nguồn nhiễu loạn » – tức là các phát hiện màu trắng, màu đỏ, màu đen, tương tợ mặt trăng, mặt trời và bóng tối bao phủ, không cho hiển hiện màu sắc của bầu trời tự nhiên – tất cả đều tan biến. Một vùng thật sáng mở rộng, giống như bầu trời mùa thu vào lúc hừng đông, trước khi mặt trời mọc, xóa bỏ tất cả các nhân tố nhiễu loạn. Tâm thức thâm sâu tột cùng đó còn gọi là « bản thể nội tại của ánh sáng trong suốt ». Nó « hoàn toàn trống không » vì nó vượt lên trên tám muơi khái niệm và cả ba cấp bậc tâm linh tinh tế.
Trên phương diện vật chất sẽ diễn tiến như sau: 1) Hai giọt trắng và đỏ tan vào giọt bất hoại của tim – phần trắng hòa với phần trắng bên trên của giọt bất hoại, phần đỏ hòa với phần đỏ bên dưới của giọt bất hoại. 2) Các luồng khí nơi kinh mạch trung tâm tan vào luồng khí thật tinh tế chuyên chở sự sống. 3) Hiện tượng này khích động và làm phát hiện các luồng khí thật tinh tế và ánh sáng tâm thức trong suốt.
Đối với phần đông, cái chết hoàn tất khi cấp bậc tinh tế nhất của tâm thức phát hiện. Thường thường, tâm thức tinh tế nhất vẫn tồn tại trong thân xác ba ngày, tuy nhiên trong các trường hợp thân xác đã quá mõi mòn vì bệnh tật, tâm thức tinh tế sẽ lưu lại ngắn hơn, có thể chưa đến một ngày. Đối với một người tu tập cao, giai đoạn này là một cơ hội quý báu. Những ai chứng ngộ được ánh sáng tâm thức trong suốt có thể lưu lại thật lâu dài trong thể dạng ánh sáng đó, và tùy theo kết quả tu học của họ từ trước, họ có thể lợi dụng thể dạng ánh sáng đó để nhận biết được hiện thực và chứng ngộ được Tánh không của sự hiện hữu nội tại nơi mọi hiện tượng, kể cả chu kỳ sinh diệt lẫn niết bàn.
CHỨNG NGỘ TÁNH KHÔNG
Muốn sống với thực tại và chết không sợ hãi, ta cần phải hiểu thật thấu đáo giáo lý nhà Phật về hư vô. Tánh không [30] hoàn toàn không có nghĩa là không hiện hữu. Cũng có thể xảy ra trường hợp Tánh không được xem như đồng nghĩa với không có gì, nhưng thật ra không đúng như vậy. Cái gì trống không trong mọi hiện tượng? Không hiểu rõ được những gì ta phủ nhận nơi mọi hiện tượng, ta sẽ không đủ khả năng thấu triệt được sự khiếm diện hay Tánh không là thế nào. Phật vẫn thường nói: bởi vì mọi hiện tương chỉ có thể hiện hữu bằng cách lệ thuộc, nên chúng chỉ có tính cách tương đối. Điều đó có nghĩa là sự hiện hữu của chúng tùy thuộc vào nhiều nguyên nhân, nhiều điều kiện khác, trong đó kể cả sự hiện hữu của chúng nữa.
Thân xác của ta chẳng hạn, không thể hiện hữu một cách độc lập được: nó tùy thuộc vào rất nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như trứng, tinh trùng, cũng như thức ăn và nước. Nó cũng tùy thuộc vào các phần cơ thể của nó: như tay, chân, thân người và cái đầu.
Hãy nhìn vào thân xác ta đúng như nó đang hiện hữu, nó có phải là hai cánh tay của nó, hai cái chân của nó, cái thân hình của nó, cái đầu của nó, hay là nó khác với những thứ đó. Nếu nó có vẻ hiện hữu một cách hoàn toàn cụ thể như đã phân tích trên đây, thì hiển nhiên cũng nên tìm hiểu xem thân xác đó liên quan đến một thành phần nào riêng biệt, hay là liên quan đến tổng thể của tất cả những thành phần ấy, hoặc là bất cứ một thành phần nào khác đã tạo ra nó. Càng tìm hiểu ta lại càng không tìm ra câu trả lời. Đó chính là đặc tính chung của tất cả mọi mọi hiện tượng. Lý do ta không thể tìm thấy giải đáp bằng cách phân tích như trên đây, có nghĩa là những hiện tượng đó tự nó, nó không hiện hữu. Chúng không tự phát hiện một mình. Chúng không hiện hữu một cách nội tại, mặc dù bề ngoài ta vẫn thấy có sự hiện hữu.
Điều ấy không có nghĩa là sinh vật có giác cảm và những vật thể vô tri xung quanh ta là không có. Chúng chỉ không hiện hữu một cách thật cụ thể như ta thấy mà thôi. Nếu ta phân tích và suy tư cho kỹ, ta sẽ nhận thấy có một sự đồng nhất tiềm ẩn phía sau những biểu hiện luôn luôn biến động [31] của tất cả mọi con người và mọi hiện tượng. Đặc tính đồng nhất đó chính là Tánh không về sự hiện hữu nội tại của chúng. Nếu không thấu triệt được khái niệm đó, ta sẽ không phân biệt được thế nào là Tánh không, thế nào là những biểu hiện bên ngoài.
Tất cả mọi hiện tượng – tức những nguyên nhân và hậu quả, chủ thể và hành động, tốt và xấu – đều hiện hữu bằng quy ước mà thôi. Chúng là những « sản phẩm tạo tác do điều kiện ». Mọi hiện tượng không thể độc lập bởi vì chúng phải tùy thuộc vào những yếu tố khác để tồn tại. Tính cách thiếu độc lập đó – hay là Tánh không của sự hiện hữu nội tại – giúp cho ta xác định được sự thực tối hậu của chúng. Hiểu được điều ấy chính là Trí tuệ[32].
Nguyên nhân chính của khổ đau là sự u mê[33] , phát sinh từ quan niệm sai lầm cho rằng mọi sinh vật và vật thể đều hiện hữu một cách nội tại. Thể dạng lầm lẫn đó phản ảnh một tâm thức sai lầm. Một trong những mục tiêu chính trên đường tu tập là phá bỏ vô minh bằng trí tuệ. Một tâm thức minh mẫn, dựa vào hiện thực, sẽ hiểu rằng mọi sinh vật và mọi hiện tượng không hiện hữu một cách nội tại[34] . Đó là Trí tuệ của Tánh không.
Một trong những trước tác ngoạn mục và hữu ích nhất của ngài Ban-thiền Lạt-ma là tập Luận cứ đã phá Vô minh, tập luận này khá giống với chương tám tập sách Hướng dẫn sinh hoạt của các vị Bồ tát [35], bàn về tính vị kỷ và lòng bác ái đối với kẻ khác. Tập Luận cứ đã phá Vô minh của ngài Ban-thiền Lạt-ma trình bày cách phân giải thật linh động về các chủ đề. Chẳng hạn như quan niệm sai lầm cho rằng mọi sinh vật có giác cảm và mọi vật thể đều hiện hữu một cách nội tại, và sự quán nhận về nguyên lý « tạo tác do điều kiện », cũng như chủ đề về Tánh không. Khi đọc tập sách này, tôi mới hiểu rằng cách suy luận của tôi về Trung Đạo còn thua kém rất nhiều.
Qua những lập luận trong tập sách trên đây, tôi mới chợt hiểu rằng, quả thật vô cùng khó khăn cho mọi người có thể chấp nhận mọi nhân dạng và hiện tượng chỉ hiện hữu bằng tên gọi hoặc bằng cách ám chỉ mà thôi và phải phủ nhận sự hiện hữu nội tại của chúng. Điều khó khăn này cũng đã được Tông-khách-ba[36] đề cập bằng một quan điểm khá đặc biệt trong một tiết mục của tập Đại luận về các Giai đoạn trên Đường Giác Ngộ của ông:
Mặc dù rất khó cho tâm thức chấp nhận sự tạo tác phải có điều kiện,
Có nguyên nhân và có hậu quả, nhưng lại không có sự hiện hữu nội tại.
Nhưng thật là tuyệt vời khi biết dựa vào lập luận
Để khẳng định, hệ thống ấy chính là Con đường của Trung Đạo.
Trước đây, tôi vẫn không phủ nhận cung cách những sinh vật có giác cảm và các vật thể vô tri hiển hiện ra với chúng ta. Tôi vẫn nhìn sự biểu lộ bên ngoài đó đúng nguyên như thế, và tôi đặt cái trống không của sự hiện hữu nội tại ra bên ngoài những biểu lộ căn bản và quy ước. Khi suy tư về ý nghĩa văn bản trong tập sách của ngài Ban-thiền Lạt-ma thứ Nhất, tôi đã đạt được một sự hiểu biết mới. Điều đó có thể giải thích qua sự tán đồng của tôi về lời phát biểu của nhà du-già Tây tạng quá cố, rất uyên bác, là ngài Gungtang Könchok Tenpay Drönmay, sống vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, như sau:
Khi ta tìm kiếm sự hiện hữu nội tại bằng phân tích,
Ta không tìm thấy nó, nên ta phủ nhận nó.
Tuy nhiên, sự kiện không tìm thấy nó không thể phủ nhận là cơ sở của những gì đang tìm kiếm.
Để rồi sau cùng, ta thấy tất cả chỉ là những biểu hiện bằng danh xưng mà thôi[37] .
Gungtang Könchok Tenpay Drönmay muốn nói rằng, bên ngoài hiện trạng phủ nhận sự hiện hữu nội tại, các hiện tượng vẫn có và hơn thế nữa, chính những biểu lộ của chúng cũng không phài là một điều đáng nghi ngờ. Ngay chính các hiện tượng cũng thế, sự biểu lộ của chúng cũng không đặt thành vấn đề, nhưng theo ông, hình như những biểu lộ của nghiệp trên hiện tượng không thay đổi, biểu lộ của nghiệp được hình thành và hiện ra với ta tùy thuộc vào đặc tính của chúng. Sự hiện hữu nội tại phụ thuộc vào đấy cần phải được phủ nhận. Đó là phối cảnh của Trường phái Tự chủ, trường phái thấp hơn hết trong hai Trường phái thuộc Trung Đạo.
Theo cách lý luận của trường phái này, nếu cho rằng các hiện tượng đã được thành lập một cách dứt khoát và rốt ráo, thì nhất định sự thành lập đó phải do chính phong cách hiện hữu của chúng mà thành. Như vậy, chúng phải hiển lộ như một trí tuệ tột cùng[38] . Nhưng thật ra, các hiện tượng, chẳng hạn như tứ đại, không thể tượng trưng cho trí tuệ tột cùng được. Vì thế các hiện tượng cũng không hiện hữu một cách rốt ráo được. Trên đây là quan điểm của Trường phái Tự chủ. Theo tôi, nếu dựa trên phối cảnh đó, có thể là không quá khó để xác nhận bằng phân tích sự tạo tác liên đới với những điều kiện phát sinh từ nguyên nhân và hậu quả, điều này trái hẳn với sự khó khăn mà Tông-khách-ba đã nêu lên, theo định nghĩa của trường phái thứ hai thuộc Trung Đạo, tuy rằng trường phái thứ hai vẫn được xem là trường phái cao hơn.
Tập Luận cứ đả phá Vô minh của ngài Ban-thiền Lạt-ma thứ Nhất giải thích rằng: Khi mọi hình dạng và vật thể hiện ra với ta, chúng có vẻ được tạo lập bằng những đặc tính của chúng ngay từ lúc đầu. Một khi những hiển lộ bên ngoài ấy bị phủ nhận, thì hình như chính ngay cả hiện tượng cũng sẽ không hiện hữu. Vì lý do đó, Tông-khách-ba cho rằng, rất khó xác nhận sự tạo tác do điều kiện liên hệ với nguyên nhân và hậu quả, nhưng lại không có một hiện hữu nội tại nào. Nhờ vào Tập Luận cứ đả phá Vô minh của ngài Ban-thiền Lạt-ma thứ Nhất, tôi đã hiểu được sự thật trong những điều do Tông-khách-ba dẫn giải. Tập sách này quả thật đã giúp tôi rất nhiều.
Chính thân xác ta không phải đơn thuần cũng không phải đa dạng, không phải số ít cũng chẳng phải số nhiều, hiểu được như vậy, tức sẽ hiểu rằng bản thân này không hiện hữu một cách nội tại. Nắm vững được điều ấy sẽ làm lung lay – ít nhất là một chút – sự sai lầm của ta liên quan đến sự hiện hữu nội tại của mọi hiện tượng. Ý thức được như vậy cũng chưa hoàn toàn đủ để loại bỏ quan niệm về hiện hữu nội tại, vì nó vẫn cứ dính liền với cái ngã. Tại sao như thế? Bởi vì « cái tôi » quy ước vẫn tiếp tục hiện hữu một cách nội tại và dai dẳng, dù cho ta đã ý thức được mọi hiện tượng không có sự hiện hữu nội tại nào. Mỗi khi cái « cái tôi » biểu lộ, tức thời có sự hiện hữu nội tại phát sinh đi kèm theo nó, vậy ta phải phủ nhận nó ngay. Mỗi khi quan sát tâm linh và thân xác, « cái tôi » liền xuất hiện, nhưng thật ra nó không có. « Cái tôi » đó không có thực. Ngài Ban-thiền Lạt-ma đã nói như sau:
Để phủ nhận một cách đơn giản sự hiện hữu thật
Của « cái tôi » hiện ra khi ta quan sát tâm thức và thân xác,
Ta hãy đặt chính sự vắng mặt đó (của « cái tôi ») như là một đối tượng cho sự chú tâm của ta,
Với tất cả sự minh bạch, và đừng cho sức chú tâm bị lay chuyển.
Ngài Ban-thiền Lạt-ma thứ Nhất cho rằng, cách suy tư như thế sẽ giúp ta làm nhẹ bớt đi quan niệm về sự hiện hữu nội tại. Lời khuyên này đã giúp tôi rất nhiều.
Trong lúc vượt qua các giai đoạn của cái chết, ta nên ý thức được bản chất tối hậu đó của mọi hiện tượng, tức là Tánh không của sự hiện hữu nội tại. Xem đó như một đối tượng để suy nghiệm về các thể dạng tâm thức tinh tế và mạnh nhất[39] , ta hãy tập trung tất cả sức mạnh suy tư vào chủ đề duy nhất ấy. Giữa hai bản chất có tánh cách quy ước và tối hậu, ta nên chọn sự tối hậu, tức là sự vắng mặt của mọi hiện hữu nội tại.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Nhiều thái độ và khái niệm khác nhau sẽ phát khởi với nhiều sức mạnh khác nhau về sự chuyển động của khí trên các đối tượng của nó.
2- Hãy nhớ rằng, sau bốn dấu hiệu bên trong là ảo ảnh, khói, đom đóm và ngọn lửa (của một ngọn đèn hay một ngọn nến, leo lét ban đầu và vững vàng sau đó), ba trạng thái tâm thức tinh tế hơn tức là bầu-trời-tâm-thần màu trắng rực rỡ, bầu-trời-tâm-thần màu đỏ cam, bầu-trời-tâm-thần màu đen đậm sẽ phát hiện sau đó.
3- Hãy lợi dụng các trạng thái tâm thức thật tinh tế ấy để thể hiện Tánh không đích thực.
4- Tánh không không có nghĩa là không có gì cả. Đúng hơn nên xem đó là tính cách thiếu sót của sự hiện hữu nội tại (tự tại) nơi mọi hiện tượng, kể cả sinh vật và mọi vật thể.
5- Tập phân tích mọi hiện tượng: Chúng có hiện hữu một cách nội tại hay không, chúng có phải do sự cấu hợp từ nhiều thành phần cá thể của chúng, hay là một thứ gì khác. Điều đó chứng minh cho thấy, mọi hiện tượng không đến nỗi quá cụ thể như chúng hiện ra với ta.
6- Mọi nguyên nhân và hậu quả, tác nhân và hành vi, điều tốt và điều xấu, đều hiện hữu một cách quy ước mà thôi. Trên thực tế, chúng chỉ là sản phẩm do nhiều điều kiện tạo tác ra chúng
7- Tính cách thiếu độc lập của chúng, hay là Tánh không của chúng về sự hiện hữu nội tại, chính là thực tính tột cùng của chúng. Trí tuệ phải ý thức được điều đó, cũng như phải ý thức được Vô minh tiềm ẩn trong những thèm khát dục tính lôi kéo theo hận thù và khổ đau.
8. ÁNH SÁNG TRONG SUỐT CỦA CÁI CHẾT
« Hãy ý thức rằng thân xác ta cũng mong manh như một cái dĩa bằng đất sét. Hãy hiểu rằng mọi hiện tượng chỉ là ảo ảnh, không có sự hiện hữu nội tại. Sau khi đã hũy diệt được những khí giới tẩm thuốc độc của sự bám víu – chúng cũng quyến rũ như những cánh hoa – ta sẽ vượt xa hơn, ra bên ngoài ảo ảnh của chính cái chết » Phật.
Tiết 12
Xin ánh sáng trong suốt của mẹ và con gặp nhau
Trong khi sự thực hiện gần như sắp hoàn tất, tự nó cũng tan dần trong hư không
Xin mọi sự sinh xôi chấm dứt
Và cảm giác tương tợ như bầu trời mùa thu không ô nhiễm sẽ bừng lên.
Theo Tối thượng Du-già Tan-Tra, không có thể dạng tâm thức nào tinh tế hơn là ánh sáng tâm thức trong suốt. Nó làm nền tảng cho tất cả mọi hiển hiện của chu kỳ sinh diệt và cho cả niết bàn
Ánh sáng tâm thức trong suốt hiện hữu liên tục trong chu kỳ của mọi sinh diệt, không khởi thủy. Tâm thức đó gọi là tâm thức căn bản, vì nó không có tính cách nhất thời, trong khi bầu-trời-tâm-thần màu đen đậm gần như là tối đen, bầu-trời-tâm-thần màu đỏ cam, v.v. vừa phát sinh trước đó nhất định sẽ phải tan biến, là vì nguyên do các điều kiện tạo tác ra chúng chỉ có tính cách tạm thời và ngẫu biến. Bẩm chất của ánh sáng trong suốt hoàn toàn mang Tánh không và chính là phần tâm thức bên trong.
Những trạng thái tâm thức khác có thể xem như sơ đẳng, mặc dù trong số đó vẫn có nhiều cấp bậc thô sơ và tinh tế khác nhau. Ngay cả các trạng thái tâm thức phát hiện màu trắng, màu đỏ cam, màu đen dày đặc, tinh tế hơn tâm thức thông thường, nhưng vẫn còn sơ đẳng khi đem so sánh với tâm thức căn bản và bẩm sinh của ánh sáng trong suốt. Các trạng thái tâm thức vừa kể vẫn còn mang tính chất giai đoạn giống như tâm thức thông thường.
Nhìn theo chiều hướng đó, ta thấy thế giới tạo ra bởi các khái niệm sai lầm về chủ thể và đối tượng (nêu lên trong tiết bốn) gồm có những hiện tượng sinh khởi từ hành động (nghiệp). Hành động hay nghiệp lại sinh ra từ những khái niệm thô thiển nhất của tâm thức. Nếu chúng ta đủ khả năng lưu lại mãi mãi trong bản thể bẩm sinh của ánh sáng trong suốt không rơi trở lại những cấp bậc thô sơ hơn, nghiệp sẽ không tích tụ được nữa. Muốn thường xuyên lưu lại trong bản thể bẩm sinh của ánh sáng trong suốt, cần phải tháo gỡ mọi chướng ngại cản trở sự hiểu biết toàn năng, để quán thấy rằng, tất cả chỉ là một cuộc diễn hành liên tục của những biểu hiện sai lầm giữa chủ thể và đối tượng. Chúng hiển hiện giống như có một sự hiện hữu tự tại. Nếu ta có đủ khả năng lưu lại trong ánh sáng trong suốt, tri thức phát sinh từ khái niệm cũng sẽ chấm dứt. Trước đó, ta vẫn còn vướng mắc trong những dao động phát sinh từ một cấp bậc sơ khai và nhất thời của tri thức, và nghiệp vẫn tiếp tục tích tụ.
Vào giai đoạn cuối cùng của cái chết, khi các phần tri thức thô sơ tan biến dần trong Tánh không, tức là ánh sáng trong suốt hay bản thể tự tại, hằng hà sa số vật thể trong thế giới này cũng như các khái niệm về giống nhau hay khác biệt sẽ được tâm thức tinh tế làm cho lắng dịu. Những biểu hiện của môi trường và của mọi sinh linh có giác cảm đều tự tan biến. Nếu ta đủ khả năng chuyển ánh sáng trong suốt của cái chết thành một tâm thức có giá trị tinh thần thật cao độ, tâm thức sẽ nhận ra bộ mặt của chính nó, tức bản thể đích thực của chính nó: thực thể của tâm thức căn bản.
Đối với những người không tu hành, những hiển hiện thô thiển cũng tan biến. Nhưng sự tan biến của các biểu hiện quy ước ấy không phải do sự quán thấy hiện thực nhờ vào tham thiền. Trong suốt bốn giai đoạn sau cùng của cái chết, các luồng khí lực làm nền tảng chống đỡ cho tâm thức trở nên càng lúc càng tinh tế hơn. Vào giai đoạn cuối cùng, các luồng khí lực tạm thời, chống đỡ cho tri thức, sẽ hoàn toàn tan biến, tâm thức (dù của người tu hành hay người bình thường) đều trở nên không khác biệt nhau, trong khi một vùng trời tinh khiết mở rộng.
Đối với người tu hành, họ ước mong vượt khỏi trạng thái Tánh không bình thường đó, tức là trạng thái vắng mặt đơn giản của những biểu hiện quy ước. Vào lúc ánh sáng trong suốt bắt đầu hiện ra, ta hãy cố gắng dựa vào ánh sáng ấy để quán thấy Tánh không kỳ diệu về mọi hiện hữu tự tại. Ta không thể thực hiện được điều ấy bằng cách cố gắng vào phút chót, khi ánh sáng trong suốt đã hiện ra, nhưng phải nhờ vào sức mạnh tu tập từ trước khi xảy ra giai đoạn tan biến, và đồng thời dựa vào sự nhận thức mãnh liệt về Tánh không trong lúc đang diễn ra ba loại tâm thức là: bầu-trời-tâm-thần màu trắng, màu đỏ cam và màu đen. Điều này cho thấy sự tu tập liên tục thật cần thiết.
Trọng tâm trong việc tu tập của tôi là cách suy tư về bốn điều giáo huấn, ấy là vô thường, khổ đau, Tánh không và lòng thương người. Ngoài ra, mỗi ngày tôi phải ôn tập về các giai đoạn xảy ra trong quá trình của cái chết bằng nhiều thể thức nghi lễ khác nhau. Tôi tưởng tượng ra hiện tượng tan biến của thành phần đất trong nước, thành phần nước trong lửa, v.v. Mặc dù tôi không thể quả quyết đã đạt được một kinh nghiệm sâu xa. Nhưng mỗi lần nghi lễ, đòi hỏi phải tưởng tượng ra sự tan biến của mọi biểu hiện, thì hơi thở của tôi ngưng hẳn lại trong giây lát. Tôi tin chắc rằng những diễn biến đầy đủ hơn sẽ phát sinh nếu người tu hành biết tập trung để nhìn vào những tan biến đó một cách thư giãn và sâu xa hơn nữa. Từ khi tôi luyện tập hằng ngày về Du-già Thần thông, một phép tu đòi hỏi phải theo dõi tất cả mọi hiển hiện của cái chết, và tôi đã quen thuộc với quá trình đó. Đến khi chết, những biến chuyển ấy, trên nguyên tắc, sẽ không còn xa lạ với tôi nữa. Nhưng tôi không biết chắc là có thành công hay không[40] .
Vài người bạn đồng đạo với tôi, trong số đó có những vị tu tập theo hệ thống gọi là Đại Toàn Thiện của giáo phái Ninh-mã thuộc Phật giáo Tây tạng, họ kể cho tôi nghe những kinh nghiệm thật thâm sâu về sự tan biến mà họ đã quán nhận được, những kinh nghiệm ấy đều khá giống nhau. Nhiều người Tây tạng được xác nhận đã chết hẳn theo tiêu chuẩn y khoa, nhưng thân xác họ còn giữ nguyên không hư thối trong một thời gian nào đó. Năm vừa qua, xác một vị Lạt-ma thuộc tông phái Tát-ca giữ nguyên tình trạng tươi tốt trong hơn hai mươi ngày[41] . Ông ta « chết » tại Dharamsala, nhưng ông vẫn còn lưu lại nhờ vào thiền định[42] . Xác ông sau đó được mang về Rajpur trong vùng Dhera Dun, nhưng vẫn chưa thấy hư rã. Tôi được biết trường hợp tương tợ của khoảng mười lăm người Tây tạng mà thân xác không hư thối sau khi chết, vài người giữ được vài ngày, vài người khác lâu hơn, đến ba tuần liền. Trường hợp vị thầy của tôi là Ling Rinpoché, xác ông giữ nguyên trong mười ba ngày liền.
Thể dạng tu tập cao nhất, liên quan đến hiện tượng mô tả trên đây, được gọi là thể dạng kết hợp ánh sáng tinh khiết mẹ và con. Ánh sáng trong suốt mẹ hiển hiện một cách tự nhiên khi chết, do chính sức mạnh của nghiệp. Ánh sáng trong suốt con chỉ phát hiện khi nào ta đã tu tập thật cao trong quá khứ bằng thiền định du-già. Sự gặp gỡ giữa ánh sáng trong suốt mẹ và con không phải do hai cá thể ánh sáng riêng biệt, mà thật ra chỉ là ánh sáng trong suốt của cái chết, tức ánh sáng trong suốt mẹ, phát sinh từ nghiệp, biến thành một thể dạng tâm linh, gọi là ánh sáng trong suốt con. Sự hội nhập của hai thứ ánh sáng như trên đây gọi là sự gặp gỡ giữa ánh sáng mẹ và ánh sáng con.
Theo một lối giải thích khác, người ta xem ánh sáng trong suốt con là Tánh không. Khi có sự gặp gỡ của hai thứ ánh sáng mẹ và con có nghĩa là, ánh sáng mẹ không phải là ánh sáng của cái chết thông thường, mà trong trường hợp này nó có khả năng nhận thức được Tánh không của sự hiện hữu nội tại, tức là ánh sáng trong suốt con. Trường hợp xem ánh sáng trong suốt mẹ như một loại tâm thức thông thường của cái chết, là cách giải thích thường thấy hơn, nhưng cả hai cách giải thích trên đây đều tương tợ như nhau.
NHỮNG GIỌT TINH TẾ, NỀN TẢNG CỦA NHỮNG TÂM THỨC TINH TẾ
Những biểu hiện từ các cấp bậc thâm sâu của tâm thức liên hệ một cách chặt chẽ với quá trình vật chất của tứ đại – đất, nước, lửa, khí – nhất là thành phần khí. Bởi vì khí làm nền tảng cho tâm thức. Giọt thuộc vật thể tinh tế của tim, chứa đựng phần tri thức tinh tế nhất trong trạng thái bình thường, cũng tham dự vào quá trình của cái chết.
Trong Kinh Thời luân (Kalachakra Tantra), một bộ Kinh Đại thượng Du-già của Đức Phật, rất ảnh hưởng trong thế kỷ thứ X ở Ấn độ, người ta thấy cách mô tả rất lạ lùng về tám giọt thể chất tinh tế nơi tám điểm trọng yếu của cơ thể. Đó là những điểm uế tạp cần được tinh lọc để biến thành những điểm hàm chứa tiềm năng. Cũng giống như giọt tim trình bày trong kinh « Guhyasamaja Tantra » [43] (cấu trúc chính làm căn bản cho tập sách này). Tám giọt kể trên tạo ra thể chất tinh tế, kích thước cỡ như một hạt cải, gồm có các thành phần trắng và đỏ làm nền tảng cho các loại tâm thức tinh tế[44] . Các xu hướng do hành vi đạo đức hay kém đạo đức được tinh lọc nơi những phần tâm thức tinh tế đó. Các hành vi của thân, khẩu, ý lưu lại những xu hướng tiềm ẩn trong phần tri thức thuộc các giọt thể chất trên đây. Những xu hướng ấy nằm yên cho đến khi nào xảy ra những điều kiện kích động làm cho chúng phát hiện thành thích thú, khổ đau, hoặc những biến cố khác trong chu kỳ sinh diệt.
Tám giọt chia ra thành hai nhóm. Chúng tác động với nhau từng cặp một và tạo ra mọi dạng thể khác biệt của tâm thức. Nhóm thứ nhất có vị trí 1) nơi trán (hay đỉnh đầu), 2) nơi cuống họng, 3) nơi tim, 4) đầu cơ quan sinh dục. Nhóm thứ hai có vị trí 1) nơi rốn, 2) một nơi bí mật (nơi cuối của xương sống), 3) nơi trung tâm của cơ quan sinh dục, 4) đầu cơ quan sinh dục. Các giọt nơi trán và rốn tạo ra trạng thái tỉnh thức. Các giọt nơi cổ họng và cuối xương sống tạo ra trạng thái chiêm bao. Các giọt tim và trung tâm cơ quan sinh dục tạo ra trạng thái ngủ say. Các giọt nơi rốn và đầu cơ quan sinh dục tạo ra khoái cảm tính dục. Riêng giọt ở rốn có hai chức năng riêng biệt: Chức năng thứ nhất tạo ra trạng thái tỉnh thức trong vai trò của giọt thứ tư, trong số các giọt thuộc nhóm có vị trí bên trên. Chức năng thứ hai tạo ra khoái cảm tính dục trong vai trò của giọt thứ nhất trong các giọt thuộc nhóm bên dưới.
Mỗi giọt có hai loại tiềm năng, tinh khiết và không tinh khiết. Trong khi ta đang thức, các luồng khí lực bên trên của thân thể kết tụ ở trán, các luồng khí lực bên dưới tích tụ ở rốn. Những sinh lực tinh khiết tạo ra những biểu lộ đơn giản của mọi vật, những sinh lực không tinh khiết tạo ra biểu hiện của thể chất không tinh khiết. Trong trạng thái chiêm bao, các luồng khí bên trên tích tụ nơi cuống họng, các luống khí bên dưới tích tụ ở vùng bí mật. Phần sinh lực tinh khiết tạo ra âm thanh thực sự, trong khi đó phần sinh lực không tinh khiết lại phát hiện thành những lời nói lẫn lộn và hổn tạp. Trong giấc ngủ thật sâu, các khí lực bên trên tích tụ ở tim, các khí lực bên dưới ở vị trí trung tâm của cơ quan sinh dục. Các sinh lực tinh khiết làm phát sinh sự trong sáng phi vật chất, các sinh lực không tinh khiết làm phát sinh bóng tối. Trong trường hợp bị kích động mạnh về tính dục, các khí bên trên đổ dồn về vị trí rốn, các khí bên dưới dồn về đầu cơ quan sinh dục. Trong lúc đó, sinh lực tinh khiết gây ra sảng khoái, sinh lực không tinh khiết gây ra sự phóng thải hoặc bài tiết các chất sinh dục (đối với đàn ông hay đàn bà cũng thế).
Tu tập theo truyền thống kinh Thời luân là nhắm vào mục đích tinh khiết hóa các giọt trong bốn nhóm kể trên. Khi các giọt ở trán và rốn, nơi hiển lộ những vật thể không tinh khiết trong tình trạng Tỉnh Thức, nếu được tinh khiết hoá, thì các vật thể ấy sẽ trở thành những dạng thể trống không – vượt ra bên ngoài vật chất. Vì đấy là các thể dạng trống không, nên có thể sử dụng chúng để hướng vào Con Đường đưa đến Giác Ngộ. Các giọt trong cuống họng và cuối xương sống có thể tạo ra ngôn ngữ lẫn lộn, nhưng khi được « tẩy sạch », có thể dùng chúng để khám phá ra những « âm thanh hùng mạnh » giúp cho việc tu tập. Các giọt nơi tim và trung tâm cơ quan sinh dục có khả năng tạo ra bóng tối, nhưng khi đã tẩy sạch, nó có khả năng hướng sự sáng suốt phi khái niệm của ta trên đường tu tập. Các giọt ở rốn và đầu cơ quan sinh dục có thể kích động sự bài tiết. Nhưng khi chúng được tinh lọc, hạnh phúc có thể chuyển thành sự an lạc lâu bền, không bài tiết, phục vụ cho mục đích tâm linh. Các khả năng tích cực đó phát khởi thành những dạng thể càng lúc càng cao rộng hơn và cuối cùng sẽ biến thành một thân thể kim cương cứng rắn và trong sáng, hàm chứa ngôn từ, tâm linh và đại hạnh của một vị Phật.
Theo truyền thống Thời luân, các chướng ngại buộc chặt mọi sinh linh trong trạng thái khổ đau và giới hạn khả năng phát động lòng vị tha, đều nằm trong bốn giọt kể trên. Thành phần vật chất của những giọt đó không trực tiếp làm cơ sở phát tán cho nghiệp phát sinh từ các chướng ngại, nhưng đúng hơn là khí và những thành phần tâm thức thật tinh tế nằm trong hai nhóm gồm bốn giọt đó đã giữ vai trò trên đây. Chúng được phát sinh từ những xung năng của nghiệp, dù là nghiệp đạo đức hay kém đạo đức. Các giọt vật chất chỉ làm cơ sở chuyên chở cho các thể dạng tâm thức và khí tinh tế, cũng giống như thân xác thô thiển làm nền tảng chuyên chở cho tâm thức của ta.
Cách nay hai năm, một vị du-già gốc Tây tạng tu tập theo đường phương pháp thiền định « Đại Toàn thiện » của giáo phái Ninh-mã đạt tới mức có thể hoàn toàn làm tan biến thể xác của mình, điều mà chúng tôi thường gọi là « đạt được thân xác cầu vồng ». Tên ông là Achok, gốc vùng Nyarong. Thỉnh thoảng ông ta cũng theo học ngành triết học tại tu viện đại học Geluk, gần Lhasa, nơi gọi là Sera. Ông cũng có học với người thầy giảng huấn trẻ tuổi nhất của tôi tên là Trijang Rinpoché, nhưng vị thầy chính của ông là một vị Lạt-ma phái Ninh-mã tên là Dujom Rinpoché. Mặc dù ông tu tập Tan-tra theo cả tân và cựu học phái Phật giáo Tây tạng, nhưng phương pháp tu tập chính của ông vẫn là niệm chú Om Mani Padme Hum và cách thức thiền định kèm theo câu thần chú đó.
Cách nay độ ba năm, ông Achok thường xuyên nhắc đến ước vọng của ông trong kiếp sống này là được gặp vị Dạt-lai Lạt-ma. Một hôm, ông sai các đệ tử làm lễ chúc thọ cho vị Đạt-lai Lạt-ma. Sau khi làm lễ xong, ông Achok bất ngờ tuyên bố với các đệ tử là ông sắp ra đi. Ông khoác lên người chiếc áo cà sa màu nghệ, rồi bảo với đám đệ tử hãy khóa chặt nhốt ông vào một gian phòng trong một tuần. Các đệ tử đều vâng lệnh. Một tuần sau, họ vào phòng thì thấy ông đã biến mất chỉ còn lại chiếc áo. Sau đó, một đệ tử của ông và một nhà sư cùng tu học với ông đã đến Dharamsala kể cho tôi nghe câu chuyện này và mang tặng cho tôi một chéo áo của ông.
Ông Achok là một nhà tu hành gần như hoàn toàn ẩn dật, không một tham vọng gì cả, khác với một số các vị Lạt-ma khác, ông chỉ muốn chứng tỏ là một người tu tập tốt, và sau cùng có thể đi đến chỗ biến mất được. Ta có thể nhận xét trong trường hợp này sự liên hệ mật thiết giữa nguyên nhân và hậu quả. Có nhiều người khác được xem là biết làm phép lạ nhưng không có một lý do chính đáng nào cả.
Theo Tối thượng Du-già Tan-tra, các khả năng – trong đời sống thông thường tạo ra ảo ảnh và các sinh linh không tinh khiết bằng tác động của khí lực thật tinh tế và tâm thức – khi được tinh lọc bằng tu tập, có thể biến cải hẳn thành tâm thức, ngôn từ và thân xác của một vị Phật. Mục đích của chúng ta là làm thể hiện tâm thức căn bản và bẩm sinh của ánh sáng trong suốt, đó là cấp bậc tinh tế nhất của tâm linh, và lưu lại trong dạng thể đó, không thoái lùi trở lại những cấp bậc thô thiển. Trạng thái tinh khiết ấy không phải chỉ mang tính cách tâm thần: nó liên hệ với thể xác, một thân xác được nhào nặn bởi khí lực. Khí lực đó tượng trưng cho tột đỉnh của ánh sáng tâm thức trong suốt. Mục đích tối thượng của những phát khởi ấy là giúp đỡ kẻ khác tránh khỏi mọi khổ đau và trói buộc.
Mục đích của quá trình thanh lọc kể trên là đạt đến bản thể sáng ngời và minh tuệ của tâm linh: ta nên hiểu rằng các xúc động nhiễu loạn, chẳng hạn như sự thèm khát tính dục, hận thù, tỵ hiềm, ganh ghét và hung hãn không nằm trong phần tinh túy mà chỉ liên hệ đến vòng ven biên của tâm thức. Khi tâm thức hiểu rõ được bản thể của chính nó và khi đã đạt được sức tập trung cực mạnh, tâm thức sẽ dần dần có khả năng làm suy giảm và vượt hẳn lên trên những trạng thái nhiễu loạn kích động quá trình dai dẳng của khổ đau. Đó là quan điểm của người Tây tạng về mối liên hệ mật thiết giữa tâm linh và vật chất, mối liên hệ đó rất tích cực trong suốt quá trình tinh lọc nhắm vào mục đích vị tha.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Giai đoạn cuối cùng của cái chết xảy ra khi bản thể bẩm sinh của ánh sáng trong suốt xuất hiện. Bản thể ánh sáng ấy hiện hữu từ lúc thời gian chưa bắt đầu và sẽ hiện hữu vô tận.
2- Qua thể dạng của Phật tính, người ta có thể lưu lại trong bản thể bẩm sinh của ánh sáng trong suốt, không suy thoái trở lại những cấp bậc thô sơ của tri thức theo một quá trình đảo ngược[45] . Trong vị thế đó, nghiệp không còn tích tụ nữa.
3- Ngay cả đối với những người bình thường không tu hành, lúc chết cũng không xảy ra những biểu hiện thô thiển. Đối với một người tu học cao thâm, họ sẽ dựa vào sức mạnh do sự tu tập thiền định về Tánh không để tìm cách lợi dụng trạng thái trên đây để thực hiện chân lý, tức Tánh không của mọi hiện hữu nội tại.
4- Bản thể thông thường của ánh sáng trong suốt phát sinh vào giai đoạn chót của cái chết gọi là ánh sáng trong suốt mẹ. Ánh sáng trong suốt phát huy từ sức mạnh tu tập trên đường đạo hạnh gọi là ánh sáng trong suốt con.
5- Khi ánh sáng trong suốt của cái chết – tức ánh sáng mẹ – phát sinh do nơi nghiệp, trở thành một thể dạng tâm linh khi tiếp xúc với Tánh không của ánh sáng trong suốt con, lúc đó chính là thời điểm gặp nhau giữa ánh sáng trong suốt mẹ và ánh sáng trong suốt con.
Tiết 13
Chúng tôi xin được lắng vào trạng thái thật sâu của thiền định.
Trong tinh anh cực mạnh phát sinh từ sự kết hợp giữa phúc hạnh bẩm sinh và Tánh không
Xuyên qua quá trình bốn giai đoạn của Tánh không, trong lúc xảy ra hiện tượng tan rã của thể tạng màu trắng giống như ánh trăng,
Gây ra vì lửa của Sức mạnh Âm tính nhanh như một tia chớp.
Nhờ vào kỹ thuật tập trung sinh lực, những người luyện tập du-già phát huy được hơi nóng bên trong, gọi là Sinh lực Âm tính hay là « hơi nóng thần bí » (tiếng Tây tạng gọi là Tumo)[46] , phát xuất từ vị trí thông thường thuộc trung tâm thần kinh nơi bụng (đám rối dương) truyền ngược lên trên theo kinh mạch trung tâm. Hơi nóng thần bí đó làm tan thể tạng trắng trong nhóm kinh mạch phức tạp trên đỉnh đầu (bánh xe đại hạnh). Qua cách mô tả ẩn dụ, tạng thể trắng thiết yếu đó có thể ví như mặt trăng và gọi là bản chất của Giác ngộ. Tạng thể trắng tan dần và chuyển trở xuống bằng kinh mạch trung tâm. Khi từ từ xuống đến vị trí của bánh xe (chakra) nơi cổ họng, của tim, của rốn, và những vùng bí hiểm, sẽ phát sinh bốn cấp bậc hoan hỷ khác nhau: hoan hỷ, hoan hỷ cao độ, hoan hỷ đặc biệt và hoan hỷ nội tại.
Bốn loại hoan hỷ đó tượng trưng cho minh tuệ bộc phát từ trạng thái đại hạnh. Đối tượng của những niềm hoan hỷ ấy là Tánh không, vì thế, niềm hạnh phúc vô biên và Tánh không được xem như liên kết với nhau. Nhờ vào minh tuệ thiền định của đại hạnh trong phép tu Tối thượng Du-già Tan-tra, lúc ánh sáng trong suốt mẹ phát hiện khi chết do tác động của nghiệp, ta có thể biến cải ánh sáng ấy thành một thể dạng tâm linh (là ánh sáng trong suốt con). Bài thơ của Ban-thiền Lạt-ma trong tiết này sẽ trình bày cách thực hiện điểm tối thượng liên quan đến cái chết.
Người luyện tập Tối thượng Du-già Tan-tra hằng ngày có thể hình dung được tám dấu hiệu của cái chết – ảo ảnh, khói, đom đóm, ngọn lửa của một ngọn đèn dầu, bầu-trời-tâm-thức màu trắng rực rỡ, bầu-trời-tâm-thức màu đỏ cam đậm, màu đen thật đậm gần như hoàn toàn tăm tối và ánh sáng trong suốt – bằng cách phối hợp với sự suy tư về Tánh không, dựa vào ba cách chú tâm: nhận ra một dấu hiệu đang phát sinh, dấu hiệu phát sinh trước đó và dấu hiệu phát sinh sau đó. Ví dụ như: « Đom đóm xuất hiện. Khói toả ra. Một ngọn lửa đang bắt đầu le lói ». Mặc dù tám dấu hiệu không hiển hiện cụ thể trong khi tham thiền, trừ trường hợp những người luyện tập du-già ở trình độ thật cao, nhưng cứ duy trì ba cách chú tâm trên đây nhờ vào sức tưởng tượng, trong mục đích giúp ta quen dần với các dấu hiệu. Khi sức tu tập đã thăng tiến và đạt được trình độ cao, lúc ấy nếu ta thiền định và tập trung thật mạnh vào Tánh không, các dấu hiệu sẽ tự nhiên phát khởi.
THẦN LINH DU-GIÀ
Theo cách luyện tập Tan-tra, sức tưởng tượng sẽ được sử dụng để khơi động sự phát triển tâm linh. Phép luyện tập Thần linh Du-già đòi hỏi phải:
1) Tưởng tượng rằng tâm thức ta (mặc dù thường bị khuấy động bởi nhửng xúc cảm khổ sở) là trí tuệ tinh khiết, thúc đẩy bởi lòng từ bi.
2) Thay vào những biểu hiện bình thường của thân xác (gồm thịt, máu và xương) bằng một thân xác toả ra sự sáng suốt khơi động bởi lòng từ bi.
3) Nâng cao ý nghĩa một cái tôi trong sáng, gắn liền với biểu hiện tinh khiết của thân xác và tâm linh, trong một môi trường lý tưởng, hoàn toàn xả thân vì kẻ khác. Theo phương pháp đó, ta tưởng tượng như đang khoác lên người biểu hiện của Phật, sinh hoạt của Phật, tiềm năng của Phật và quang cảnh của Phật. Quán tưởng chính là chìa khóa. Khi quán tưởng chính mình đang ở trong hoàn cảnh lý tưởng như thế, sẽ dễ tập trung vào Tánh không và phát huy sự nhận thức sắc bén về tính cách trống không của mọi hiện hữu nội tại. Hãy cố gắng thực hiện tối đa như thế. Chính từ sự quán tưởng đó, thần linh sẽ hiển hiện[47] . Khi tri thức cảm nhận được Tánh không, nó sẽ hiện lên với người tu tập giống như một vị thần linh trong khung cảnh tuyệt vời, với tất cả tiềm năng và lòng từ bi. Bằng phương cách đó, phép tu tập Thần linh Du-già sẽ giúp thực hiện sự phối hợp giữa trí tuệ và lòng từ bi. Tâm thức cảm nhận được, nguyên tắc của Tánh không sẽ hiện ra như một biểu hiện của một vị Thần linh, với tất cả những hành vi bác ái. Theo một hình thức luyện tập đặc biệt của Thần linh Du-già thuộc Tối thương Du-già Tan-tra, phải thực tập sáu lần mỗi ngày. Trước hết, người tu tập chú tâm hướng vào Tánh không, và sau khi đã nhập vào Tánh không và dù đang ở mức độ hiểu biết nào đi nữa vể Tánh không, họ cũng sẽ quán nhận được sự phát hiện tuần tự của tám dấu hiệu về cái chết. Trong giai đoạn cuối cùng, người tu tập sẽ sử dụng bản thể bẩm sinh của ánh sáng trong suốt để ý thức Tánh không, và dựa vào sự cảm nhận trạng thái tâm thức ấy để hiển hiện một cách thật lý tưởng trong thể dạng tràn đầy từ bi của một vị Thần linh.
GIAO HỢP SINH LÝ VÀ CON ĐƯỜNG TÂM LINH
Người tu học giàu lòng từ bi và trí tuệ có thể dùng sự giao cấu trên đường tu tập tâm linh như một kỹ thuật để hướng tâm thức một cách mạnh mẽ vào bản thể tự tại căn bản của ánh sáng trong suốt. Mục đích là cập nhật hóa và kéo dài các tầng lớp sâu kín nhất của tâm thức, lợi dụng sức mạnh của nó để ý thức một cách vững chắc Tánh không.
Một sự giao hợp tính dục đơn giản không có một chút gì liên hệ với sự phát triển tinh thần. Nhưng đối với một người đã đạt đến một mức độ tu tập thật cao, với lòng vững tin và trí tuệ, họ xem sự liên quan đó, kể cả sự gần gũi của hai cơ quan sinh dục, không làm thương tổn gì cho sự bảo vệ phẩm hạnh tinh khiết.
Tại sao phối hợp sinh lý lại có thể giúp đỡ để thăng tiến trên con đường Đạo? Bởi vì tiềm năng các tầng lớp thô lỗ nhất của tâm thức rất giới hạn, và các tầng lớp tâm thức tinh tế lại mạnh mẽ vô cùng. Người tu học đến một mức độ cao cần phải đạt đến những tầng lớp tinh tế nhất của tâm thức. Để thực hiện điều ấy, cần phải làm suy yếu và khống chế tạm thời những cảm nhận thô thiển. Để đạt được chủ đích đó, phải tạo ra một sự thay đổi toàn diện các luồng năng lực bên trong. Dù cho các tầng lớp sâu kín nhất của tâm thức phát hiện trong các trường hợp như khi nhảy mũi hay ngáp, nhưng rõ ràng là chúng không kéo dài.
Cũng giống như thế, kinh nghiệm về sự biểu lộ các tầng lớp sâu kín rất cần thiết để sử dụng trong khi ngủ thật say. Nhờ vào những kỹ thuật đặc biệt tập trung tư tưởng khi khoái cảm, những người tu tập tinh thông có thể kéo dài các trạng thái tinh tế, thật thâm sâu và cường mạnh, để sử dụng chúng trong mục đích đạt tới Tánh không. Trường hợp giao cấu trong khung cảnh bình thường sẽ chẳng đem đến một lợi ích gì cả.
Thân phụ của một vị quá cố tên Serkong Rinpoché, là một học giả uyên bác và cũng là người tu hành thành đạt. Ông ta thuộc tu viện Ganden, cách một khoảng xa về phía nam Lhasa. Người thầy Lạt-ma chính thức của ông là Trin Ngawang Norbu, trụ trì ở tu viện Drepung, phía tây Lhasa. Thân phụ của Serkong Rinpoché trú ngụ tại Lhasa, mỗi ngày vào lúc tinh sương, ông ta đi bộ đến tận Drepung để xách nước cho người thầy Lạt-ma của ông, quét dọn tu viện và thỉnh thoảng cũng tìm được chút thì giờ để nghe giảng huấn. Đến chiều ông ta lại quay về Lhasa.
Một buổi tối, người cha của Serkong gặp một cô gái và không giữ được lời nguyện của mình. Quá hối hận về hành vi đó, sáng hôm sau, ông ta đi Drepung, vừa đi vừa khóc. Khi ông ta bước vào phòng, vị Lạt-ma cũng vừa xong khóa tụng niệm. Vị thầy Lạt-ma Trin Ngawang Norbu nói với ông: « Đệ tử đã xa ngã rồi, cũng tốt, từ nay phải tu tập với một người bạn đường vậy ». Lời khuyên thật hết sức bất ngờ, nhưng sự kinh ngạc còn kỳ lạ hơn nữa, vì về sau này lúc người bạn đường của ông qua đời, những biểu hiện man-tra của nữ thần Vajrayogini [48] phát hiện trên đỉnh đầu của người chết.
Cũng trong khoảng thời gian này, có một vị Lạt-ma khác là Tabung Rinpoché, tu tập với một người bạn đường. Mỗi tháng vào ngày thuận lợi, vị sư Viện chủ và các vị Lạt-ma cao tuổi khác, chẳng hạn như ngài Trijang Rinpoché (sau này trở thành vị thầy giáo huấn của tôi), đều họp để nghe vị Lạt-ma Tabung Rinpoché giảng, nghi thức dùng đến hai khí cụ giống như hai ống sáo. Hai nhạc công, một người dùng tay phải, một người dùng tay trái, khi họ đối diện nhau và mỗi người thổi một giai điệu khác nhau, cử tọa đều ngưng tụng niệm và bật cười vì điệu nhạc kỳ quặc đó. Khi họ nhìn vị Lạt-ma Tabung Rinpoché, ông này vẫn ngồi yên, hoàn toàn không hay biết gì hết về những chuyện đang xảy ra. Sau này, vị Viện chủ mới hiểu ra rằng chính trong lúc đó, vị Tabung Rinpoché đang tiếp nhận nhận sự giảng huấn hoàn toàn trên cấp bậc biểu hiện đơn thuần.
Chính trong thời gian này, vị Đạt-lai Lạt-ma thứ XIII đang duyệt xét để thẩm định sự chân chính của các vị lạt-ma, và trong dịp ấy ông đã khai trừ môt số lớn những người không xứng đáng. Ông xét đến trường hợp thân phụ của Serkong Rinpoché và của Tabung Rinpoché và xem đó là những trường hợp ngoại lệ. Qua quyết định trên đây, ông đã chính thức công nhận khả năng khác thường và quyền đặc biệt có người bạn đường khi tu tập tan-tra. Vậy thì có lẽ họ phải có những kinh nghiệm gì thật xâu xa, nhưng tôi chưa hề nghe họ khoe khoan gì về những điều ấy.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Người tu tập ở mức độ cao nhất, với niềm tin trên đường Đạo, có thể biến cải ánh sáng trong suốt mẹ phát sinh do nghiệp vào lúc chết.
2- Trong các cấp bậc thấp hơn, những người tu tập Thần linh Du-già thuộc Tối thượng Du-già Tan-tra có thể hình dung biểu hiện của tám dấu hiệu của cái chết bằng ba cách chú tâm: nhận ra dấu hiệu đang phát sinh, dấu hiệu trước đó và dấu hiệu tiếp theo. Tập cho quen với sự xuất hiện liên tục tám dấu hiệu của cái chết bằng cách liên kết với sự quán nhận về Tánh không. Mỗi dấu hiệu đều có ba phần, trừ dấu hiệu đầu và cuối chỉ có hai:
– Ảo ảnh xuất hiện. Khói sẳn sàng bốc lên.
– Khói tỏa ra. Ảo ảnh vừa biến mất. Đom đóm chuẩn bị phát sinh.
– Đom đóm vụt phát hiện. Khói vừa tan biến đi. Một ngọn lửa bắt đầu le lói.
– Ngọn lửa hiện ra. Đom đóm vừa bay đi. Bầu-trời-tâm-thức sắc trắng rực rỡ đang chuẩn bị.
– Bầu-trời-tâm-thức sắc trắng rạng rỡ hiện ra. Ngọn lửa vừa bị che khuất. Bầu-trời-tâm-thức màu đỏ cam chuẩn bị hiện ra.
– Bầu-trời-tâm-thức màu đỏ cam xuất hiện. Bầu-trời-tâm thức màu trắng rạng rỡ vừa tan biến, màu đen thật đậm chuẩn bị phát sinh;
– Màu đen thật đậm hiện ra. Bầu-trời-tâm-thức màu đỏ cam vừa rút ra xa. Bản thể ánh sáng trong suốt đang ở thời điểm phát khởi.
-Ánh sáng trong suốt hiện ra. Màu đen xậm vừa bị xoá đi.
3- Trong cách tu tập đặc biệt của Thần linh Du-già thuộc Tối thương Du-già Tan-tra, người tu học dùng sự hiểu biết về Tánh không theo trình độ của mình để làm phát hiện tám dấu hiệu của cái chết. Họ lại tiếp tục sử dụng bản thể của ánh sáng trong suốt, tức nhận thức được Tánh không – hay hình dung một thể dạng tri thức giống như thế – làm phương tiện để hiển hiện dưới dạng thể hoàn toàn lý tưởng và tràn đầy từ bi của một vị Thần linh.
4- Đối với những người tu tập cao, đã phát lộ được lòng từ bi vững chắc và một trí tuệ vượt bậc, họ có thể sử dụng sự giao hợp tính dục như một kỹ thuật để tập trung cao độ tâm thức trong lúc bản thể tự tại và căn bản của ánh sáng trong suốt biểu lộ. Nhờ vào nội tâm đó, họ ý thức được Tánh không của mọi hiện hữu nội tại một cách vô cùng mãnh liệt.
Website Phật Pháp Ứng Dụng chân thành cảm tạ tác giả / dịch giả Hoang Phong và Cô Phú Ngọc đã gửi tặng ấn bản tiếng Việt. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả.
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
(Còn tiếp)
Theo Phật Pháp Ứng Dụng