Thuở xưa, có một đoàn người lánh giặc phải ẩn náu trong rừng sâu. Họ ăn uống ngủ nghỉ và làm việc hoàn toàn trong bóng tối. Nhiều năm trôi qua giặc tan đoàn người tản cư nọ được tin lục đục kéo ra khỏi hang. Phản ứng đầu tiên của họ khi chạm phải ánh sáng của mặt trời là rú lên một tiếng đau đớn rồi nhắm tít mắt lại. Ai cũng yên trí là mình đã mù hẳn rồi, nên hè nhau đi tìm thầy lang chữa mắt.
Lang y, lang tây, lang ta và lang băm đều được tìm đến, tùy theo số tiền túi, các nạn nhân người nào cũng rịt thuốc vào mắt và hết lòng hy vọng…thắc thỏm chờ ngày được sáng mắt trở lại nhưng khổ nổi lần nào cũng thế, mỗi lần giở khăn bịch mắt, hé mắt nhìn, bệnh nhân người nào cũng rú lên và nhắm tít mắt lại…Nhiều lần như thế xảy ra đoàn người đành sống trong bóng tối với cây gậy và chó dẫn đường, với một ít hy vọng le lói rằng một ngày đẹp trời nào đó, họ sẽ gặp một danh y mát tay và tài ba như Hoa Ðà, Biển Thước. Và họ sẽ phục hồi trở lại ánh sáng huyền dịu ngày xưa.
Cho đến một hôm, anh chàng Ba, một trong những người bệnh mắt nọ, tình cờ làm sút dải khăn bịt mắt trong một giấc ngủ say. Giữa đêm khuya Ba giật mình tỉnh giấc. Và dưới ánh trăng sáng êm dịu của con trăng hạ tuần, anh đưa mắt nhìn quanh. Thân quyến anh chợt nghe tiếng cười rộn rã nổi lên, niềm vui đột ngột khiến anh như người mê sảng.
Ba đi lay tỉnh từng người trong nhà dậy, khoa tay múa chân nói lắp bắp “tôi sáng mắt rồi… ồ không tôi chưa từng mù bao giờ…chỉ tại dải khăn bịt mắt chết tiệt này thôi, tôi không mù. Từ đây tôi có thể đi bất cứ nơi nào…Tôi không cần đến chó, gậy và người dắt đường nữa…
Mọi người nhìn anh vừa sững sờ vừa thương hại…tiếng cười của anh vang dội trong đêm khuya. Ba lải nhải nói hoài một câu xác định: “Tôi không mù! Tôi không mù! Chưa bao giờ bị mù.”
Một người thân thắp một cây đèn dầu mang lại. Anh lấy tay che mắt cố nén sự đau đớn. Anh không thể quen với ánh sáng chói chang của ngọn đèn. Ba hơi thảng thốt, anh xoay lưng vào vách. Qua kẽ tay anh thấy ánh trăng vẫn dịu dàng lung linh trên từng kẽ lá.
Anh lấy lại được niềm tin: mình không mù, chỉ vì sống trong bóng tối quá lâu nên mắt không chịu nổi ánh sáng chói ấy thôi. Nếu làm quen dần với ánh sáng có cường độ từ yếu sang mạnh, anh sẽ nhìn được ánh sáng mặt trời, thế thôi! Vài ngày sau Ba có thể sử dụng đôi mắt như bất cứ một con người nào. Khi đã lấy được niềm tin đầy đủ nơi nhãn quan của mình, Ba tức tốc chạy bay đến những người bạn cũ, những người đang tuyệt vọng vì đôi mắt của mình, quờ quạng trong bóng tối với chó, gậy và một ít hy vọng le lói về thứ thuốc mình đang chữa mắt. Ba đến gặp họ lắp bắp trình bày chuyện của mình…bạn bè của anh đua nhau phỏng vấn:
-Sao? Anh nói sao? Anh đã sáng mắt lại rồi à?
Ba đáp:
-Nói thế cũng chưa đúng, mắt tôi chưa từng bị mù, thì làm gì có hết mù hay sáng lại.
Người bạn cười khảy:
-Thế…có nghĩa là bọn chúng tôi mới thật sự đui…còn anh thì vô sự đấy phỏng?
-Không, tôi và các bạn hoàn toàn giống hệt nhau, chúng ta chỉ bị bệnh tưởng thôi!
-Thôi, chả nhẽ người ta bỏ bao nhiêu công của, thời giờ để chữa một chứng bệnh không có thật à!
-Xin nghe tôi! Các bạn hãy vứt hết thuốc men đi…chịu khó làm quen với ánh sáng mờ nhạt…dần dần đến ánh sáng chói các bạn sẽ thấy sự thật.
Ða số bạn bè của Ba không tin bỏ đi sau khi đã thốt nhiều lời mai mỉa!
-Chỉ có mình anh là khôn ngoan, còn bọn chúng tôi đều là lú lẫn cả có phải?
-Cái trứng muốn dạy khôn con gà…
Vài người trẻ tuổi nghe anh đã bỏ gậy lẫn chó, liền bắt chước theo nhưng họ vẫn giữ nguyên dải khăn bịt mắt nên hậu quả là kẻ u đầu, người vỡ trán…và đều không tiếc lời nguyền rủa anh. Một số khác nghe lời anh giở khăn bịt mắt ra, nhưng ánh sáng chói chang làm cho họ vô cùng khốn khổ. Và cứ thế…không một ai có thiện cảm với Ba.
Mọi người kết luận: “Tên Ba là một gã điên không nên thân cận với hắn.” Trước tình cảnh đó, Ba tức tối bỏ về, anh vừa đi vừa lẩm bẩm: “Ðã thế thì đây đếch cần.” Anh vừa giận vừa thương. Sau khi cặp mắt bình phục hẳn, anh thấy mình dường như mới chào đời, vừa góp mặt trên trái đất đầy màu sắc kỳ ảo này lần đầu. Lòng anh lúc nào cũng bùi ngùi nhớ đến những người bạn cũ của mình.
Cho đến một hôm, Ba nghĩ ra một diệu kế: anh thay hình đổi tiếng giả dạng làm một ông thầy lang lành nghề, nhờ người quảng cáo và tìm đến những người bạn cũ trong hình dạng mới ấy. Dùng một thứ thuốc vô hại, anh chữa bệnh cho bọn họ. Mỗi đêm anh đều bắt họ mở khăn bịt mắt ra nhỏ thuốc xong rồi đi ngủ. Dần dần nhiều người đã có thể đi quờ quạng dưới ánh trăng dịu dàng mà không cần chó hay gậy. Nhiều ngày trôi qua, Ba thay dần ánh trăng bằng ánh đèn giấy hồng êm dịu…Cho đến khi các bệnh nhân của anh đã có thể nhìn ánh đèn dầu thì Ba không cần tốn công thuyết phục nữa. Bạn bè anh đã lấy lại niềm tin…Chẳng bao lâu họ đều sáng mắt như xưa.
Em thân mến! “Chúng sanh đều có Phật tánh.” Ðó là lời xác định của Ðức Phật trong các kinh điển Ðại thừa. Ðức Phật của chúng ta cũng như chư tổ thiền tông đều mỏi miệng khi phải nhắc đi nhắc lại điều đó mà chúng ta nào chịu nghe. Làm sao ta có thể tìm được khi cái vọng tâm của mình đầy nhóc các vọng tưởng ác ôn, như tham lam, sân hận, ganh ghét, thù hằn. Làm sao ta có thể tin được những con người khổ đau điên loạn tầm thường chung quanh ta lại có đầy đủ đức tướng trí huệ của Như Lai được?
Làm sao ta có thể tin rằng mình không bị sa vào hầm hố ác đạo khi vứt hết tất cả niệm ác lẫn thiện. Làm sao ta có thể tin rằng tâm mình bổn lai thanh tịnh trong khi mình đang quay quắt với não phiền, làm sao ta có thể tin rằng những kẻ “lòng dạ xoa” hôm nay đã đổi thành “mặt Bồ Tát.” Làm sao ta có can đảm vứt hết những thứ niệm ác niệm thiện đang rịt chặt vào mình và liệu ta có thể chịu đựng được sự đau đớn chói chang khi giáp mặt với ánh sáng chân thật, thấy mình “vô nhất vật” không là gì hết?
Bọn người bệnh tưởng trên đây đã cởi bỏ dải khăn bịt mắt khó khăn thế nào, thì chúng ta cũng cởi bỏ kiến chấp của mình khó khăn và đau đớn dường ấy. Nói đúng hơn: việc vứt bỏ không khó mà khó là niềm tin chưa đủ. Tin cái gì em biết không?
-Tin rằng mình bổn lai là Phật đó em và như thế em đã hiểu tại sao người xưa lại nói:
“Tẩy trừ phiền não trùng tăng bệnh” (Tẩy trừ phiền não càng thêm bệnh) hay chưa?
Trích “Hư Hư Lục” / Thích Nữ Như Thủy