Kinh Bà Lão
Phật Thuyết Lão Mẫu Kinh
Thất dịch
Bản Việt dịch của Thích Tâm Nhãn
***
Nghe như vầy:
Một thời đức Phật dừng nghỉ ở trú xứ Lạc-Âm, nước Duy-da-la, cùng đông đủ tám trăm Tỳ-kheo Tăng, Bồ Tát một vạn vị.
Bấy giờ, có một bà lão nghèo khổ đi đến đảnh lễ đức Phật sát đất, bạch rằng:
-Kính thưa Thế-Tôn! Con có điều muốn hỏi.
Phật bảo:
Lành thay! Hay thay, bà cứ hỏi.
Bà lão thưa:
-Sanh, lão, lệnh, tử từ đâu đến và đi về đâu? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức từ đâu đến và đi về đâu? Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý từ đâu đến và đi về đâu? Địa, thuỷ, hoả, phong từ đâu đến và đi về đâu?
Phật bảo:
-Sanh, lão lệnh, tử không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không từ đâu đến cúng không đi về đâu. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Địa, thuỷ, hoả, phong, không không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Các pháp đều như vậy.
Ví như hai cây cọ xát nhau mà phát ra lửa rồi lửa trở lại đốt cây, cây cháy hết thì lửa cũng tắt.
Phật lại hỏi bà lão:
-Như vậy, lửa từ đâu đến và đi về đâu?
Bà lão đáp:
-Thưa Thế-Tôn! Do nhân duyên hoà hợp mà có lửa, nhân duyên ly tán lửa mất.
Phật dạy:
-Các pháp cũng như vậy. Do nhân duyên hợp nhau mà thành nhân duyên tan rã thì đoạn triệt. Các pháp không từ đâu đến và không đi về đâu. Mắt nhìn thấy sắc do ý, ý do sắc mà sanh, hai thứ này đều không, không có hình thành và hoại diệt. Các pháp giống như cái trống không từ một thứ làm ra. Khi có người cầm dùi đánh vào, trống mới phát ra âm thanh. Âm thanh của tiếng trống cũng không. Âm thanh tương lai không, quá khứ không. Âm thanh này không phát ra từ thùng trống, da, dùi, hay tay người đánh mà phải hợp các thứ đó lại mới có tiếng trống. Âm thanh từ cái không nên cuối cùng là không. Tất cả vạn vật cũng vậy, mạng sống con người cũng vậy. Vốn trong sạch không có vật, pháp từ chỗ không có nhân tạo ra nên pháp cũng không có. Ví như mây nổi lên mù mịt nhờ mưa. Mưa không phải từ rồng phun ra cũng không phải từ tâm rồng xuất ra mà phải nhờ nhân duyên rồng mới tạo thành mưa. Các pháp không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Ví như hoạ sĩ trước tiên dựng giá vẽ, sau đó pha trộn các màu rồi tuỳ ý vẽ. Hình vẽ không từ giá vẽ hay màu sắc, mà theo ý hoạ sĩ mới thành. Sanh tử cũng vậy, từng loại khác nhau: Địa ngục, cầm thú, ngạ quỉ, cõi trời, thế gian cũng thế. Ai hiểu được là người có trí tuệ và không bị rơi vào chấp hữu.
Bà lão nghe Phật nói xong rất vui mừng tự nhủ: “Nhờ ân đức của đấng Thiên Trung Thiên nên ta đắc pháp nhãn, nay tuy thân già yếu cũng được an ổn”.
A-nan chỉnh y phục đến trước Phật quì xuống thưa rằng:
Thưa Thế-Tôn! Bà lão này vừa nghe Thế-Tôn thuyết liền được khai ngộ, vì nhân duyên gì mà trí tuệ được như thế?
Phật bảo:
-Bà lão nhờ đức lớn vời vợi nên được khai ngộ, bà lão này là mẹ đời trước của Ta khi Ta phát tâm Bồ Tát.
A-nan bạch Phật:
-Bà lão là mẹ đời trước của Thế-Tôn sao lại nghèo khổ như vậy?
Phật bảo:
Thuở quá khứ, vào thời đức Phật Câu-lưu-tần. Ta hành đạo Bồ Tát muốn làm Sa-môn. Vì lòng yêu mến, mâu thuẫn không cho phép Ta làm Sa-môn. Ta buồn rầu bỏ ăn một ngày. Vì thế từ đó đến nay bà sanh ở thế gian năm trăm đời chịu nhiều đau khổ như vậy.
Đức Phật lại bảo A-nan:
Khi mạng chung bà lão sẽ sanh về cõi Phật A-di-đà, cúng dường chư Phật, trải qua sáu mươi tám ức kiếp thành Phật hiệu là Phù-ba-kiện, nước đó tên là Hoá-tác, y phục ẩm thực như cung trời Đao-lợi. Nhân dân trong nước tuổi thọ một kiếp.
Đức Phật thuyết kinh xong, bà lão, A-nan, Bồ Tát, Tỳ-kheo Tăng, chư Thiên, quỉ, thần, A-tu-la đều vui mừng hớn hở đứng trước đức Phật đảnh lễ sát đất mà lui ra.