QUYỂN 405
III. PHẨM QUÁN CHIẾU 04
Bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:
– Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa phát sanh trí chứng biết việc đời trước tùy theo ý nghĩ?
Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Có Đại Bồ-tát với trí chứng biết việc đời trước tùy theo ý nghĩ, có thể nhớ như thật các việc đời trước của tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, nghĩa là nhớ nghĩ các việc đời trước, hoặc của mình, hoặc của người trong một tâm, mười tâm, trăm tâm, ngàn tâm, nhiều trăm ngàn tâm. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc đời trước trong một ngày, mười ngày, trăm ngày, ngàn ngày, nhiều trăm ngàn ngày. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc đời trước trong một tháng, mười tháng, trăm tháng, ngàn tháng, nhiều trăm ngàn tháng. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc đời trước trong một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc đời trước trong một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, nhiều trăm ngàn kiếp, cho đến vô lượng, vô số trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa kiếp. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc trước kia trong quá khứ, thời như vậy, xứ như vậy, tên như vậy, họ như vậy, loại như vậy, ăn như vậy, trụ lâu như vậy, tuổi thọ có hạn như vậy, tuổi thọ lâu dài như vậy, thọ vui như vậy, thọ khổ như vậy. Từ chỗ đó qua đời sanh đến nơi này, từ nơi này qua đời sanh đến chỗ kia, tướng mạo như vậy, lời nói như vậy. Các việc hoặc tóm lược, hoặc nói rộng, hoặc của mình hoặc của người đều có thể nhớ nghĩ.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tuy có năng lực trí biết các việc đời trước như vậy, nhưng đối với điều đó không tự cao, không chấp trước tánh trí chứng biết các việc đời trước tùy theo ý nghĩ, không chấp trước sự trí chứng biết việc đời trước tùy theo ý nghĩ, không chấp trước sự việc có thể được trí chứng biết các việc đời trước tùy theo ý nghĩ, đối với chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì tự tánh là không, tự tánh là xả ly, tự tánh xưa nay bất khả đắc.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không nghĩ: Nay ta sẽ làm phát sanh trí biết các việc đời trước tùy theo ý nghĩ để tự vui chơi, chỉ trừ để chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng biết việc đời trước tùy theo ý nghĩ.
Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại thưa:
– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng thiên nhãn thông?
Phật dạy Xá-lợi Tử:
– Có Đại Bồ-tát với trí chứng thiên nhãn thông tối thắng, thanh tịnh siêu nhân, có thể thấy như thật các loại hình sắc của hữu tình, vô tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, nghĩa là thấy khắp các loại hình sắc của các hữu tình khi sanh khi tử, sắc đẹp, sắc xấu, cõi lành, cõi ác, hoặc thù thắng, hoặc hạ liệt. Do đó lại biết các loại hữu tình tùy theo tác dụng nghiệp lực mà thọ sanh sai khác. Hữu tình như vậy thành tựu thân ác hạnh, thành tựu ngữ ác hạnh, thành tựu ý ác hạnh.
Do tà kiến hủy báng Hiền Thánh, khi thân hoại qua đời, sẽ đọa vào đường ác, hoặc vào địa ngục, hoặc sanh vào bàng sanh, hoặc sanh trong loài quỷ, hoặc sanh nơi biên địa hạ tiện, trong loài hữu tình ác nghịch, chịu các khổ não. Các hữu tình như vậy thành tựu thân diệu hạnh, thành tựu ngữ diệu hạnh, thành tựu ý diệu hạnh.
Do chánh kiến ngợi khen Hiền Thánh, khi thân hoại, qua đời sẽ sanh lên cõi thiện, hoặc sanh lên cõi trời, hoặc sanh trong loài người, hưởng các điều vui. Các nghiệp loại thọ quả sai khác của hữu tình như thế, Bồ-tát đều biết như thật.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tuy có năng lực thiên nhãn như vậy, nhưng đối với điều đó không tự cao, không chấp trước tánh trí chứng thiên nhãn thông, không chấp trước sự trí chứng thiên nhãn thông, không chấp trước việc có thể được trí chứng thiên nhãn thông như vậy, đối với chấp hay không chấp trước đều không chấp trước. Vì sao? Vì tự tánh là không, tự tánh là xả ly, tự tánh xưa nay bất khả đắc.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không nghĩ: Nay ta sẽ làm phát sanh trí thiên nhãn thông để tự vui chơi, chỉ trừ để chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Xá-lợi Tử! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng thiên nhãn thông.
Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại thưa:
– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng lậu tận thông?
Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Có Đại Bồ-tát với trí chứng lậu tận thông, có thể biết như thật tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, hoặc mình hoặc người các lậu hết hay chưa hết. Thần thông này nương vào định Kim cương dụ, đoạn trừ các chướng tập khí mới được viên mãn. Khi được địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển cũng gọi là dứt hết tất cả lậu hoặc, vì rốt ráo không phát sanh nữa. Bồ-tát tuy được lậu tận thông này, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ hướng đến Vô Thượng Bồ-đề, không còn mong cầu lợi ích nào khác.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tuy có năng lực trí lậu tận như vậy nhưng đối với điều đó không tự cao, không chấp trước tánh trí chứng lậu tận thông, không chấp trước sự trí chứng lậu tận thông, không chấp trước việc có thể được trí chứng lậu tận thông như vậy, đối với chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì tự tánh là không, tự tánh là xả ly, tự tánh xưa nay bất khả đắc.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không nghĩ: Nay ta sẽ làm phát sanh trí lậu tận thông để tự vui chơi, chỉ trừ để chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng lậu tận thông.
Này Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể làm viên mãn sáu phép thần thông Ba-la-mật-đa. Do sáu phép thần thông Ba-la-mật-đa viên mãn thanh tịnh nên chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng, do rốt ráo không nên không sanh tâm giữ giới hay phạm giới.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm siêng năng hay biếng nhác.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lại trụ vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, an nhẫn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, từ bi hay giận dữ.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, siêng năng hay lười biếng.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, an nhẫn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, siêng năng hay biếng nhác.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tinh tấn, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm siêng năng hay biếng nhác, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, chẳng khở tâm trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.
Như vậy, này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ sáu loại Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không xả thí hay bỏn sẻn, không trì giới hay phạm giới, không từ bi hay giận dữ, không siêng năng hay biếng nhác, không tịch tịnh hay tán loạn, không trí tuệ hay ngu si; không chấp trước xả thí, không chấp trước bỏn sẻn; không chấp trước trì giới, không chấp trước phạm giới; không chấp trước từ bi, không chấp trước giận dữ; không chấp trước siêng năng, không chấp trước biếng nhác; không chấp trước tịch tịnh, không chấp trước tán loạn; không chấp trước trí tuệ, không chấp trước ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó, không chấp trước người xả thí hay bỏn sẻn, không chấp trước người trì giới hay phạm giới, không chấp trước người từ bi hay giận dữ, không chấp trước người siêng năng hay biếng nhác, không chấp trước người tịch tịnh hay tán loạn, không chấp trước người trí tuệ hay ngu si.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó đối với chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì nhất thiết pháp rốt ráo là không.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó, không chấp trước chửi mắng, không chấp trước khen ngợi, không chấp trước tổn hại, không chấp trước lợi ích, không chấp trước khinh mạn, không chấp trước cung kính. Vì sao? Vì trong rốt ráo không, không có pháp chửi mắng hay khen ngợi, không có pháp tổn hại hay lợi ích, không có pháp khinh mạn hay cung kính.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó không chấp trước người hủy báng hay khen ngợi, không chấp trước người làm tổn hại hay lợi ích, không chấp trước người khinh mạn hay cung kính. Vì sao? Vì trong rốt ráo không, không có người chửi mắng khen ngợi, không có người làm tổn hại hay lợi ích, không có người khinh mạn hay cung kính.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó đối với chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa rất sâu xa, vĩnh viễn đoạn tuyệt tất cả chấp trước, không chấp trước.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, được công đức tối thượng, tối diệu mà tất cả Thanh văn và Độc giác đều không có được.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này đã viên mãn công đức như vậy rồi, lại có thể dùng bốn nhiếp sự để giáo hóa tất cả hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, mới được nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng, mau chứng đắc trí nhất thiết trí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sanh tâm bình đẳng với tất cả hữu tình. Sanh tâm bình đẳng rồi, đối với tất cả hữu tình phát tâm làm lợi ích an lạc. Phát tâm làm lợi ích an lạc rồi, đối với tất cả pháp tánh đều được bình đẳng. Bình đẳng đối với pháp tánh rồi, đưa tất cả hữu tình vào trong tất cả pháp tánh bình đẳng.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ở trong pháp hiện tại được mười phương chư Phật hộ niệm, cũng được tất cả đại Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác kính mến.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này sanh ở chỗ nào, mắt hoàn toàn không thấy sắc gì mà không vừa ý, tai hoàn toàn không nghe âm thanh nào mà không vừa ý, mũi hoàn toàn không ngửi mùi gì mà không vừa ý, lưỡi hoàn toàn không nếm vị gì mà không vừa ý, thân hoàn toàn không có xúc chạm nào mà không vừa ý, ý hoàn toàn không giữ lấy pháp nào mà không vừa ý.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này đối với quả Vô Thượng Bồ-đề vĩnh viễn không thối chuyển. Chính khi Phật nói, chư Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa này được lợi ích thù thắng, trong chúng có ba trăm Bí-sô rời khỏi chỗ ngồi, đem y của mình dâng lên cúng Phật, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, Thế Tôn mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ánh sáng đủ màu sắc. Tôn giả A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải chấm đất, chấp tay cung kính thưa:
– Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Ngài mỉm cười? Bậc đại Thánh mỉm cười ắt phải có nhân duyên. Xin Ngài dủ lòng thương mà nói cho.
Phật bảo A-nan:
– Ba trăm Bí-sô rời khỏi chỗ ngồi kia, từ đây về sau – sáu mươi mốt kiếp – trong kiếp Tinh Dụ sẽ thành Phật, đều đồng một hiệu là Đại Tràng Tướng Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc-già-phạm. Các Bí-sô đó sau khi xả thân này, sẽ sanh vào cõi Phật Bất Động ở phương Đông, ở cõi Phật đó tu hạnh Bồ-tát.
Lại có sáu vạn Thiên tử nghe lời Phật thuyết đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thế Tôn thọ ký cho các vị ấy sẽ ở trong pháp hội của Di-lặc Như Lai, tịnh tín xuất gia, chuyên tu phạm hạnh. Đức Di-lặc Như Lai thọ ký cho họ sẽ được Vô Thượng Bồ-đề.
Bấy giờ, tất cả chúng hội ở đây nhờ thần lực của Phật thấy được ngàn cõi Phật và các Thế Tôn trong mười phương chúng hội và các cõi Phật đó thanh tịnh trang nghiêm, vi diệu, thù thắng. Ngay lúc đó tướng nghiêm tịnh của thế giới cõi Kham Nhẫn này không cõi nào có thể sánh kịp.
Khi ấy, một vạn hữu tình chúng hội này đều phát nguyện: Con đem công đức tu tập các nghiệp thanh tịnh, nguyện vãng sanh vào các cõi Phật kia.
Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm nguyện ấy, nên mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ra nhiều tia sáng có màu sắc.
Tôn giả A-nan lại rời khỏi chỗ ngồi, cung kính thưa hỏi Phật nhân duyên Ngài mỉm cười.
Phật bảo A-nan:
– Nay ông có thấy vạn hữu tình này không?
A-nan thưa:
– Bạch Thế Tôn! Thấy!
Phật dạy:
– Này A-nan! Vạn hữu tình này sau khi ở cõi này qua đời, tùy theo nguyện lực của mình đều được vãng sanh vào vạn cõi Phật, cho đến khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sanh ra ở đâu cũng thường không xa Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi, tu tập sáu pháp Ba-la-mật-đa đã được viên mãn, đồng thời thành Phật chung một hiệu là Trang Nghiêm Vương Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc-già-phạm.
IV. PHẨM VÔ ĐẲNG ĐẲNG
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Thiện Hiện, Tôn giả đại Ẩm Quang, Tôn giả Mãn Từ Tử là những vị mà mọi người đều biết, các đại Bí-sô, Bí-sô ni, Đại Bồ-tát, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca đều rời khỏi chỗ ngồi, cung kính chắp tay thưa:
– Bạch Thế Tôn! Đại Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Quảng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Đệ nhất Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Tôn Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Thắng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Thượng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Diệu Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Cao Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Cực Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vô thượng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vô thượng thượng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vô đẳng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vô đẳng đẳng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Như hư không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vô đối đãi Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Tự tướng không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Cộng tướng không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Nhất thiết pháp không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Bất khả đắc không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vô sanh không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vô diệt không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vô tánh không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Hữu tánh không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vô tánh hữu tánh không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Xa-ma-tha Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Đàm-ma-tha Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Khai phát tất cả công đức Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Thành tựu tất cả công đức Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Không thể khuất phục Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Hay phá trừ tất cả Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể thực hành thí vô đẳng đẳng, có thể viên mãn thí vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ bố thí Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể thọ trì giới vô đẳng đẳng, có thể viên mãn giới vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tịnh giới Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể tu nhẫn vô đẳng đẳng, có thể viên mãn nhẫn vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ an nhẫn Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể phát sanh siêng năng vô đẳng đẳng, có thể viên mãn siêng năng vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tinh tấn Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể phát sanh định vô đẳng đẳng, có thể viên mãn định vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tịnh lự Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể tu tập tuệ vô đẳng đẳng, có thể viên mãn tuệ vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.
Đối với các loại công đức thù thắng khác, tùy theo pháp tương ưng của chúng cũng lại như vậy.
Bạch Thế Tôn! Thế Tôn cũng do tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên có năng lực tu tập, an trụ, viên mãn, đầy đủ công đức thù thắng, được sắc vô đẳng đẳng; thọ, tưởng, hành, thức vô đẳng đẳng, chứng Bồ-đề vô đẳng đẳng, chuyển pháp luân vô đẳng đẳng. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại cũng vậy.
Vì vậy, Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đến bờ rốt ráo nhất thiết pháp thì nên tu tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… đều nên cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Bấy giờ, Phật bảo các đại đệ tử và các Đại Bồ-tát:
Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời các ông nói. Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… đều nên cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Vì sao? Vì nhờ Đại Bồ-tát này, nên thế gian có trời, người xuất hiện. Nghĩa là dòng họ Sát-đế-lợi, dòng họ Bà-la-môn, dòng họ Trưởng giả, dòng họ Cư sĩ, Chuyển luân Thánh vương, trời Tứ đại vương cho đến trời Tha hóa tự tại. Trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh. Trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất hiện ở thế gian. Do Đại Bồ-tát này, nên thế gian có quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác, Bồ-tát, chư Phật xuất hiện. Do Đại Bồ-tát này, nên thế gian có các loại để sinh sống, vui chơi xuất hiện như: Thức ăn uống, y phục, đồ nằm, phòng, nhà, đèn đuốc, ngọc ma-ni chơn châu, lưu ly, vỏ ốc, ngọc bích, san hô, vàng bạc châu báu xuất hiện ở thế gian.
Tóm lại, tất cả thế gian, người vui, trời vui và xuất thế vui, không có gì mà không do Đại Bồ-tát như thế mà có. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này tự mình bố thí rồi dạy người bố thí. Tự mình giữ giới rồi dạy người giữ giới. Tự mình nhẫn nhục rồi dạy người nhẫn nhục. Tự mình tinh tấn rồi dạy người tinh tấn. Tự mình tu định rồi dạy người tu định. Tự mình tu tuệ rồi dạy người tu tuệ. Vì vậy, do các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa này, tất cả hữu tình đều được lợi ích an lạc.
V. PHẨM TƯỚNG THIỆT CĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng lớn che khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Từ tướng lưỡi này lại phóng ra vô số ánh sáng đủ màu sắc chiếu khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương.
Bấy giờ, trong hằng hà sa số cõi Phật ở phương Đông khắp nơi đều có vô lượng, vô số đại Bồ-tát, chư vị thấy ánh sáng lớn này, trong lòng do dự, cùng nhau đến gặp Phật ở thế giới của mình, cúi đầu cung kính thưa:
– Bạch Thế Tôn! Đó là do oai lực của ai? Và vì sao mà có ánh sáng lớn này chiếu các cõi Phật?
Khi ấy, các đức Phật kia đều đáp:
– Ở phương Tây này có thế giới Phật tên là Kham Nhẫn, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc-già-phạm, đang giản nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho chúng Đại Bồ-tát nên hiện tướng lưỡi che khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Từ tướng lưỡi ấy lại phóng ra vô số ánh sáng đủ màu sắc, chiếu khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương. Ánh sáng thấy đây tức là tướng lưỡi đức Phật kia hiện ra.
Lúc đó, trong các thế giới kia, vô lượng, vô số Đại Bồ-tát nghe việc này rồi, vui mừng hớn hở, khen ngợi là việc chưa từng có, đều thưa Phật:
– Chúng con muốn đến thế giới Kham Nhẫn đảnh lễ, cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ-tát, để nghe Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nguyện xin Thế Tôn thương xót hứa khả cho.
Khi ấy, các đức Phật kia đều đáp:
– Nay chính là đúng lúc, hãy đi theo ý của các ông.
Bấy giờ, được Phật hứa khả chúng Đại Bồ-tát đều lễ chân Phật, nhiễu quanh bên phải bảy vòng, đem vô lượng tràng phan, bảo cái, y phục, anh lạc, hương vòng hoa, châu báu, vàng bạc các loại hoa, hòa tấu các loại âm nhạc thượng diệu, trong chốc lát đến chỗ Phật này (Phật Thích Ca) cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi Phật, Bồ-tát rồi nhiễu trăm ngàn vòng, đảnh lễ chân Phật rồi ngồi qua một bên.
Trong hằng hà sa số cõi Phật khắp các phương Nam, Tây, Bắc bốn góc, trên dưới, khắp nơi đều có vô lượng, vô số Đại Bồ-tát cũng như vậy.
Bấy giờ, các chúng cõi trời như trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Đại quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh đều đem vô lượng các loại hương hoa, hương bột, hương đốt, hương cây, hương lá, các hương xen lẫn, tràng hoa thích ý, tràng hoa sinh loại, tràng hoa long tiền và vô lượng tràng hoa đủ loại, đem vô lượng hoa cõi trời thơm đẹp nhất, hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa sen vàng, hoa vi diệu âm, hoa đại vi diệu âm và vô lượng hương hoa cõi trời thơm đẹp khác đi đến chỗ Phật cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi Phật, Bồ-tát rồi nhiễu trăm ngàn vòng, đảnh lễ chân Phật rồi lui qua một bên.
Bấy giờ, chúng Đại Bồ-tát ở mười phương đã đến, các loại tràng phan, bảo cái, y phục, anh lạc, châu báu, hương hoa, và các loại âm nhạc của vô lượng trời Dục giới, Sắc giới dâng cúng, nhờ thần lực của Phật đều bay lên hư không, hợp thành đài che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bốn gốc trên đỉnh đài đều có phướng báu, lọng đài. Phướng báu được trang trí bằng anh lạc, màu sắc sặc sỡ, ngọc quý, tràng hoa rũ xuống thật đáng ưa thích.
Bấy giờ, trong hội có trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay cung kính thưa:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện đời vị lai sẽ làm Phật, tướng hảo, oai đức như Thế Tôn ngày nay, cõi nước trang nghiêm, đại chúng Thanh văn, Bồ-tát, người, trời chuyển pháp luân đều như Phật ngày nay.
Bấy giờ, Thế Tôn biết được tâm nguyện của họ, đối với các pháp đã ngộ vô sanh nhẫn, hiểu rõ tất cả bất sanh, bất diệt, vô tác, vô vi, nên Ngài mỉm cười, từ miệng phóng ra ánh sáng đủ màu sắc.
Lúc đó, A-nan-đà liền rời khỏi chỗ ngồi, chấp tay cung kính thưa:
– Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Ngài mỉm cười? Chư Phật mỉm cười không phải là không có nhân duyên.
Phật bảo: A-nan:
– Trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng rời khỏi chỗ ngồi này, đối với các pháp đã ngộ vô sanh nhẫn, hiểu rõ tất cả bất sanh, bất diệt, vô tác, vô vi. Các vị ấy ở đời vị lai trải qua sáu mươi tám Câu-chi đại kiếp, siêng năng tu hạnh Bồ-tát, trong kiếp Diệu Pháp Hoa sẽ được thành Phật, đều đồng một hiệu là Giác Phần Hoa Như Lai, Ứng Chánh đẳng giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc-già-phạm.