TĨNH LẶNG
(THIỀN ĐỊNH BA LA MẬT)
DaLai Lama – Tuệ Uyển dịch
Trở Thành Đối Tượng Quy Y
NHƯ NHỮNG PHẬT TỬ, chúng ta quy y tam bảo. Chúng ta nói “con quy y Phật, con quy y Pháp, con quy y Tăng”. Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý – Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo – như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y. Đấy là nói rằng, mục tiêu của việc quy y Phật, cầu nguyện Phật, là để mang đến một kết quả nào đó. Chúng ta sẽ trở thành những Đức Phật. Mục tiêu cuối cùng của chúng ta là Quả Phật. Đồng thời, ngay bây giờ chúng ta có hạt giống của Quả Phật, một tâm thức vi tế, là trống không bất cứ sự tồn tại độc lập nào. Bản chất tự nhiên ấy là căn bản của tất cả mọi sự chuyển hóa tinh thần. Đây là những gì để làm cho việc tẩy trừ những quan điểm sai lầm có thể thành tựu.
Nhằm để đạt đến Quả Phật, trước nhất chúng ta cần một cộng đồng tâm linh, chúng ta cần quy y Tăng già. Nhưng những phẩm chất nào mà một người hiện thân như một thành viên chân thật của Tăng già? Chân thật là một thành viên của Tăng già mà trong ấy chúng ta quy y đòi hỏi sự hiện diện của giáo Pháp chân chính trong tâm thức người ấy. Và giáo Pháp ở đây muốn nói là sự ngừng dứt chân thật,diệt đế, niết bàn, và con đường dẫn đến nó, đạo đế. Quý vị trở thành một thành viên của Tăng già khi quý vị thật sự thực chứng đạo [con đường] bên trong chính quý vị.
Dĩ nhiên, vào lúc bắt đầu, như một đối tượng nhân quy y, cộng đồng tâm linh, hay Tăng già, liên hệ đến những người vẫn còn phải học hỏi hơn nữa, những người vẫn đang tu tập. Quý vị đạt đến giai tầng không còn phải học hỏi nữa (vô học) chỉ khi quý vị trở thành Giác Ngộ tròn vẹn. Đối với những đối tượng quả của quy y, Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính Luận của Di Lặc chỉ ra rằng Đức Phật có thể được xem như hiện thân của cả tam bảo – Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo[1].
Chúng ta đi từ đây đến Quả Phật như thế nào? Có một chân ngôn nổi tiếng từ Tâm Kinh: gate gate paragate parasamgate bodhi, svaha / yết đế yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha (vượt qua, vượt qua, vượt qua khỏi, vượt qua khỏi hoàn toàn, Giác Ngộ!) Đấy là như thế, đấy là cung cách. Như một lời đùa, tôi nói với mọi người rằng gate gate paragate parasamgate bodhi svaha cũng là ý nghĩa của cuộc sống vật lý của chúng ta. Chúng ta trước nhất là thiếu niên, rồi thì thanh niên, rồi thì chúng ta đến lứa tuổi trung niên và sau này là lão niên. Trong trường hợp này, svaha, chữ cuối cùng, có nghĩa là chết. Theo luật tự nhiên, nơi đến cuối cùng của chúng ta là nghĩa trang. Có lẻ, tôi đã đạt đến giai đoạn thứ tư (lão niên), trong khi quý vị ở đây là đang ở giai đoạn thứ hai và thứ ba. Nhưng không có gì thánh thiện trong điều này, không có gì giải thoát.
Thế nên, gate gate paragate parasamgate bodhi svaha phải gắn liền với tâm thức hơn là thân thể. Đấy là về sự chuyển hóa tâm thức thông thường mà chúng ta có bây giờ. Chúng ta luôn luôn muốn hạnh phúc và chúng ta luôn luôn muốn vượt thắng khổ đau. Nhưng những hạt giống của khổ đau là ở trong chúng ta. Và cội nguồn gốc rể của tất cả những rắc rối này là ở đây. Chúng ta phải nhận diện và trừ tiệt nguồn gốc này. Có thể ngay trong kiếp sống này để gặt hái một kinh nghiệm nào đó về điều này nếu quý vị thử nghiệm trong một cung cách nghiêm túc. Và kinh nghiệm này sẽ cho quý vị một sự tự tin thật sự, một cảm nhận chắc chắn rằng giải thoát là thật sự có thể. Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha. Chúng ta có thể giải thoát tâm thức chúng ta.
Tĩnh Lặng Và Tuệ Giác Nội Quán
(Thiền Định Và Tuệ Trí Ba La Mật)
Để cho tâm thức thông thường này tiến bộ tăng dần lên những thể trạng cao hơn, chúng ta phải trau dồi một sự hợp nhất của tĩnh lặng và tuệ giác nội quán. Phần cuối cùng của Đại Luận Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ, Tông Khách Ba giải thích điều này, mở đầu với lời kính lễ (3:13), “Con hết lòng tôn kính dưới chân của những bậc đạo sư tôn quý, những bậc hóa thân của đại bi”. Tông Khách Ba sau đó nói rằng ngài sẽ giải thích vấn đề rèn luyện hai ba la mật cuối – thiền định và tuệ trí – bằng việc trau dồi tĩnh lặng và tuệ giác nội quán (hay chỉ quán song hành hay định tuệ đồng tu).
Trước đó chúng ta đã thấy rằng trái tim của con đường giải thoát là sự thực hành ba rèn luyện cao cấp (tam vô lậu học) trong đạo đức, thiền định và tuệ trí (giới, định, tuệ). Việc trau đồi tĩnh lặng thuộc về rèn luyện cao cấp trong thiền định, trong khi việc trau dồi tuệ giác nội quán thuộc về rèn luyện cao cấp trong tuệ trí. Tuy nhiên, khi chúng ta giải thích những thứ này trong dạng thức sự thực tập của Bồ tát, thì chúng ta trình bày con đường tu tập trong dạng thức của 6 ba la mật[2]. Ở đây việc trau dồi tĩnh lặng và tuệ giác nội quán thuộc về hai ba la mật cuối.
Để trau dồi tĩnh lặng và tuệ giác nội quán là đem ra và làm mạnh các năng lực những thứ hiện diện một cách tự nhiên trong tâm thức quý vị. Nếu quý vị quán sát một cách gần gũi những thể trạng tinh thần của chính quý vị, quý vị sẽ thấy rằng có một phẩm chất nào đó trong tâm thức quý vị có thể cho quý vị tập trung trên đối tượng chọn lựa và để duy trì sự chú tâm. Đây là sự tập trung, căn bản của thiền chỉ và thiền quán. Quý vị cũng có năng lực để nhận thức và để phân biệt những đặc trưng khác nhau của đối tượng chọn lựa. Khía cạnh tâm thức chúng ta là năng lực của thông minh hay tuệ trí, căn bản của tuệ giác nội quán. Chúng ta phải phát triển những năng lực tự nhiên này; chúng ta phải hoàn thiện chúng.
Việc trau dồi tĩnh lặng có nghĩa là việc phát triển năng lực tự nhiên cho phép chúng ta duy trì sự chú tâm trên đối tượng chọn lựa. Chúng ta phải chuyên tâm nổ lực, chúng ta phải kiên nhẫn với nhiệt tình trong việc làm mạnh phẩm chất đặc thù ấy của tâm thức chúng ta. Khi chúng ta làm cho chính chúng ta thân thuộc và tập thành thói quen với nó, thì tâm thức chúng ta được nâng cao. Phẩm chất của tâm thức cho phép chúng ta tập trung, duy trì chú tâm, là một hiện tượng duyên sanh. Càng trau dồi nguyên nhân và điều kiện làm sinh khởi nó, thì nó càng hiệu quả và năng động. Trong thực tập thật sự, chúng ta phải liên tục áp dụng năng lực chánh niệm (dranpa) và cũng như cảnh giác (shayshin), cảnh giác là sự tỉnh thức giám sát hay “nguồn tri nhận” xem xét bất cứ sự sao lãng hay thiếu sót nào trong phẩm chất chú tâm của chúng ta. Nhưng nhầm để làm điều này, chúng ta phải loại trừ những chướng ngại quấy rầy sự trau dồi tĩnh lặng của chúng ta. Chúng ta phải thiết lập những điều kiện đúng đắn cho sự thực tập.
Những Điều Kiện Tiên Quyết Cho Thiền Tĩnh Lặng
Vô Trước trong Những Trình Độ Của Thanh Văn liệt kê 13 điều kiện tiên quyết cho việc trau dồi tĩnh lặng; Liên Hoa Giới trong Giai Tầng thứ hai của Thiền Tập lược lại còn 6 điều kiện[3]. Đại Luận của Tông Khách Ba (3:28-30) chỉ độc giả thẳng đến tác phẩm của Vô Trước, nhưng trình bày 6 điều kiện của Liên Hoa Giới, kể cả việc tìm ra một nơi thích hợp để thực tập, giảm thiểu tối đa tham dục, và v.v… Danh mục của Vô Trước bao gồm 4 sự thực tập mà Đại Luận của Tông Khách Ba (1:100-108) đã giải thích trong phần những gì thực hiện giữa những buổi thiền nghi thức. Những điều này liên hệ đến việc duy trì ăn uống kiêng khem thích hợp và kiểu thức ngủ nghĩ, kềm chế các giác quan, và hành động trong thế gian với sự tự giác cẩn trọng.
Tư Thế
Tông Khách Ba (3:31) sau đó giải thích vấn đề áp dụng một tư thế thân thể thích đáng như thế nào. Trong sự thực tập về tĩnh lặng, mục đích chính của chúng ta là để phát triển và làm nổi bật sự chú ý nhất tâm, để được kết quả này thì tư thế thân thể của chúng ta là thiết yếu. Thí dụ, nếu quý vị thực hành trong lúc đang nằm, điều này có khuynh hướng đưa tâm thức quý vị vào một tình trạng thư giản, lười biếng. Cho nên, tốt hơn là thực tập thẳng đứng. Chúng ta đôi khi nói về 7 tư thế Vairochana như một tư thế thích đáng. Khi quý vị thêm điểm hướng dẫn về hơi thở, nó được gọi là 8 tư thế Vairochana[4].
Chân của quý vị có thể hoặc là ở tư thế hoa sen hay nửa hoa sen, như quý vị ngồi bình thường. Cách nào đi nữa, quý vị cần ngồi một tư thế không làm quý vị quá căng thẳng trên đầu gối. Khác đi thì quý vị sẽ mất tập trung. Vị trí của tay quý vị trong vị thế hành thiền, với lòng bàn tay trái ở phía trước và lòng bàn tay phải ở bên trên nó. Nếu vị đang thực hành Mật tông tantra, thế thì tốt hơn là hai ngón tay cái của quý vị chạm vào nhau thành hình tam giác. Cánh tay quý vị không nên chạm vào hai bên, nhưng đúng hơn là hơi duỗi rộng ra vì thế chúng cũng hình thành một hình tam giác tự nhiên. Xương sống của quý vị phải thẳng như mũi tên. Thư giản răng của quý vị, đừng cắn cứng lại. (Nếu quý vị ngẫu nhiên không răng, đây không phải là một rắc rối!) Đôi môi của quý vị cũng phải thư giản trong một vị thế tự nhiên. Đừng cưỡng ép bất cứ điều gì.
Lưỡi của quý vị nên hơi uốn cong và chạm vòm miệng phía trên. Nếu quý vị tình cờ thâm nhập trong một thể trạng thiền sâu lắng, tư thế này sẽ bảo vệ quý vị khỏi chảy nước miếng ra ngoài. Cũng thế, vị thế này của lưỡi có khuynh hướng làm dịu hơi thở của quý vị và ngăn ngừa miệng quý vị khỏi bị quá khô.
Tư thế của đầu vì thế chỉ hơi cúi xuống. Hãy giữ đôi mắt của quý vị hơi nhìn xuống và tập trung trên chóp mũi. Nếu quý vị ngẫu nhiên có một chiếc mũi khá lớn, thế thì quý vị sẽ không có rắc rối gì bởi vì quý vị sẽ thấy chóp mũi của quý vị khá dễ dàng. Nhưng nếu quý vị có một chiếc mũi hơi tẹt, thì đừng quá cố gắng để thấy đầu mũi của quý vị. Điều này sẽ làm căng thẳng đôi mắt của quý vị. Thay vì thế, hãy chỉ giữ chúng hơi nhìn xuống.
Hành thiền với đôi mắt hơi mở và thư giản một cách tự nhiên; cũng tốt thôi nếu có khi chúng tự nhiên khép lại thoải mái một lúc. Quý vị đang trau dồi tình trạng hành thiền này trong ý thức của quý vị, không ở trình độ của kinh nghiệm giác quan. Khi quý vị đã quen thuộc với thiền tập, quý vị sẽ trở thành rõ ràng với những kích thích của giác quan bên ngoài, kể cả bất cứ điều gì xuất hiện trong lãnh vực ý tưởng của quý vị. Ở đây, Tông Khách Ba giải thích vị thế của mắt trong việc trau dồi tĩnh lặng (thiền chỉ), nhưng trong những phạm vi khác thì nó thay đổi. Thí dụ, trong sự thực hành Kalachakra (mật tông Thời Luân) thì chúng ta giữ đôi mắt mở rộng và nhìn lên. Trong Đại Toàn Thiện (Dzogchen), quý vị nhìn thẳng ra phía trước[5].
Cuối cùng, đôi vai của quý vị nên được đặt một cách tự nhiên, nhưng hơi mở rộng. Hơi thở của quý vị không nên quá thô hay quá chậm, mà nên thể hiện một cách tự nhiên. Tông Khách Ba (3:31) diễn tả vấn đề thở như thế nào trong phạm vi của thiền tĩnh lặng:
Hơi thở vào ra hơi thở ra của con không nên ồn ào, cố gắng, hay thất thường; hãy để hơi thở tuôn chảy dễ dàng, luôn nhẹ nhàng, không có bất cứ cảm giác nào như con đang di chuyển nó từ đây đến đó.
Sự Tập Trung Hoàn Thiện
Tông Khách Ba (3:33-71) giải thích vấn đề phát triển tập trung như thế nào trên căn bản tác phẩm Phân Biệt Trung Đạo Và Cực Đoan của Di Lặc. Di Lặc nói về 5 thiếu sót hay lỗi lầm và 8 phương pháp hóa giải chống lại những lỗi lầm này. 5 lỗi lầm là: (1) lười biếng, (2) quên đối tượng, (3) náo động và uể oải, (4) thất bại trong việc áp dụng phương pháp hóa giải khi náo động và uể oải sinh khởi và (5) cố gắng quá mức.
Có 8 phương pháp hóa giải 5 lỗi lầm này. Đối với lỗi thứ nhất, lười biếng, Vô Trước chỉ rõ 4 pháp: tin tưởng, ngưỡng mộ, nổ lực, và nhu nhuyến. Tin tưởng ở đây liên hệ đến sự tự tin vào lợi ích của thiền định, một cách đặc biệt tính nhu nhuyến của thân thể và tinh thần. Thiền định làm tâm thức và thân thể mềm mỏng và tiện lợi, đáp ứng một cách trôi chảy đến nguyện vọng của quý vị. Lợi ích này sinh khởi từ bất cứ sự thực hành tập trung sâu xa nào của Phật Giáo hay không Phật Giáo. Trong phạm vi những giai tầng của con đường tiệm tiến, các Phật tử trau dồi tĩnh lặng với xu hướng cứu kính của việc áp dụng nó vào sự thấu hiểu của chúng ta về tính bản nhiên cứu kính của thực tại. Không có tĩnh lặng, thì tuệ giác nội quán không thể sinh khởi và không có tuệ giác nội quán, thì không có giải thoát. Thế nên, những hành giả Phật Giáo nhận ra lợi ích đặc biệt của tĩnh lặng. Việc quán chiếu trên những lợi ích này về thiền định nuôi dưỡng niềm tin, một cảm nhận của tin tưởng vào những gì hành giả đang cố gắng để hoàn thành. Căn cứ trên sự tin tưởng này, quý vị cảm thấy một cảm giác về tầm quan trọng và nguyện vọng để trau dồi thể trạng ấy. Điều này hóa ra làm quý vị hăng hái để tự áp dụng, việc chửa trị lỗi lầm lười biếng.
Đối với lỗi lầm thứ hai, quên lãng đối tượng thiền tập, phương pháp hóa giải chủ yếu là việc trau dồi chánh niệm. Đối với lỗi lầm thứ ba, náo động và uể oải, phương pháp hóa giải là cảnh giác – “nguồn tỉnh thức” giám sát. Đối với lỗi lầm thứ tư, sự thất bại trong việc áp dụng những phương pháp hóa giải cần thiết khi sự náo động và uể oải sinh khởi, phương pháp hóa giải là việc trau dồi mục tiêu áp dụng chúng. Lỗi lầm thứ năm là việc áp dụng không thích đáng nổ lực hay cố gắng. Ở những trình độ nâng cao, khi sự ổn định tinh thần là rất vững vàng, sự cố gắng trở thành phản tác dụng đối với việc duy trì sự ổn định này.
Những Đối Tượng Của Thiền Tập
Trong tổng quát, quý vị có thể chọn lựa việc hành thiền trên bất cứ hiện tượng bên trong hay bên ngoài nào. Quý vị có thể trau dồi sự tập trung nhất tâm tinh thần trên một viên sỏi, một cành con hay một que củi. Hay quý vị có thể hành thiền trên một tình trạng tinh thần nội tại chẳng hạn như một cảm giác. Thí dụ, có 4 căn bản cho của chánh niệm, tứ niệm xứ, về thân thể, cảm giác, tâm thức và những đối tượng của tinh thần. Những việc này bao gồm cả những thứ bên trong và bên ngoài như những đối tượng hành thiền của hành giả. Tông Khách Ba (3:35) nói với chúng ta rằng Đức Phật xác định 4 đối tượng hành thiền: những đối tượng phổ thông, những đối tượng cho việc tịnh hóa thái độ, những đối tượng của sự giám định, và những đối tượng cho việc tịnh hóa các phiền não. Những đối tượng của việc hành thiền cho việc tịnh hóa thái độ là những thứ thích hợp một cách đặc thù đối với kinh nghiệm hay khí chất tinh thần của cá nhân các hành giả. Qua những nhân tố của quá khứ và hiện tại, các cá nhân có những loại khí chất và cảm xúc khác nhau. Quan tâm đến những kinh nghiệm ấy, quý vị cần chọn lựa đối tượng đặc thù có hiệu quả nhất. Những đối tượng của hành thiền cho việc giám định đối với những lãnh vực về tri thức mà trong ấy quý vị đang trau dồi một sự thấu hiểu. Các đối tượng có thể là những sự liệt kê chẳng hạn như 5 uẩn; quý vị trau dồi thiền tỉnh thức nhất tâm đối với chúng.
Khi chúng ta trau dồi tĩnh lặng trong hành thiền, chúng ta có thể chọn một đối tượng bên ngoài hay bên trong để hành thiền. Nhưng ngay cả khi chúng ta lấy một đối tượng bên ngoài, thì những gì chúng ta thật sự tập trung không phải là thứ vật chất, mà đúng hơn là một hình ảnh tinh thần của thứ vật chất ấy. Hình ảnh tinh thần ấy trở thành đối tượng của việc tập trung. Trong những đối tượng bên trong, hành giả có thể nghiên cứu để hành thiền trên những thứ như vậy như những kinh mạch, những giọt, hay năng lượng của hành giả tuôn chảy bên trong các kinh mạch này[6]. Một đối tượng thậm thâm hơn, hành giả có thể chọn là tâm thức của chính mình. Tuy nhiên, thậm thâm hơn đó là việc lựa chọn tánh không như đối tượng của thiền tập.
Việc lựa chọn tánh không như đối tượng thiền tập của hành giả khi việc trau dồi tĩnh lặng giả định trước rằng quý vị đã thấy rõ tánh không rồi. Chẳng hạn như một hành giả đã phải qua một tiến trình phân tích và thấy rõ tánh không, việc đạt đến một quan điểm đúng đắn về thực tại. Trên căn bản ấy, hành giả có thể lấy tánh không như một đối tượng của hành thiền, của việc trau dồi nhất tâm. Sự tiếp cận ấy được gọi là việc tìm thiền tập trên căn bản của nhận xét. Chỉ có thể cho một số ít người mà năng lực tinh thần thật sự tiến bộ. Sự tiếp cận chính của Tông Khách Ba trong Đại Luận là để thay thế cho việc tìm thiền tập trên căn bản của nhận xét. Trước nhất, chúng ta trau dồi tĩnh lặng với việc chú tâm đến một đối tượng khác nào đó. Sau đó chúng ta áp dụng sự phân tích để đạt đến việc thực chứng tánh không.
Thiền Tập Trên Tâm Thức
Trong Đại Thủ Ấn[7] và Đại Toàn Thiện, chúng ta trau dồi tập trung nhất tâm với tâm thức như đối tượng hành thiền của chúng ta. Khi chúng ta nói về những sự thực tập mà chúng ta chia sẻ bởi kinh điển và mật điển, thì chúng ta không phân biệt những trình độ vi tế trong thức. Nhưng trong tantra yoga tối thượng, chúng ta làm những sự phân biệt này và chúng ta có thể chọn một loại thức vi tế như đối tượng với việc quan tâm đến việc chúng ta trau dồi tĩnh lặng.
Ở đây chúng ta cũng quán sát đến những gì chúng ta muốn nói là “đối tượng” trong những phạm vi khác nhau. Khi quý vị hành thiền trên tính vô thường và vô ngã, rõ ràng quý vị đang lấy vô thường hay vô ngã như đối tượng của việc hành thiền, nội dung của việc hành thiền, nhưng chúng ta cũng nói về việc hành thiền với đề mục bi mẫn, từ ái, đức tin, và hồi hướng. Trong một trường hợp như vậy, quý vị không đang lấy bi mẫn như đối tượng của thiền quán; đúng hơn, quý vị đang trau dồi bi mẫn trong tâm thức quý vị. Giống như trường hợp sau, khi chúng ta thực tập thiền về bản chất của tâm thức ở tại trình độ vi tế, trong thực tế quý vị đang trau dồi hay phát triển tâm thức về tịnh quang[8]. Thế nên những gì chúng ta liên hệ như “đối tượng” của thiền tập có thể đóng những vai trò khác nhau trong tiến trình.
Chúng ta có thể thực tập thiền mà trong ấy chúng ta tập trung trên tâm thức, lấy tâm thức như đối tượng của việc hành thiền. Tuy nhiên, đừng thiết lập cảm giác rằng một niệm tâm, một tình trạng tinh thần đơn thuần, thế nào đấy xem như tự nó. Nó sẽ có nghĩa là tự tri nhận một cách độc lập (rangrig)[9]. Chúng ta đang nói về điều gì đấy ít gây ấn tượng có tác dụng trong một cấu trúc thời định rất nhỏ. Thí dụ, trong một niệm có một tình trạng tinh thần tiếp nhận đối tượng của nó, tình trạng tinh thần của niệm tức thời trước đó. Nhằm để thực hiện loại thiền tập này, việc trau dồi tĩnh lặng với tự tâm thức như đối tượng, trước nhất quý vị phải xác định đối tượng. Đó là, quý vị phải có một nhận thức nào đó về tâm thức tự nó là gì.
Việc biết tự tâm thức chúng ta là một thử thách bởi vì trong kinh nghiệm mỗi ngày tâm thức chúng ta bị khống chế hoặc là bởi sự kích thích ngoại tại hay cảm giác nội tại. Hoặc là tâm thức chúng ta bị điều khiển hướng ngoại hoàn toàn và có hình thái bất cứ thứ gì đi vào lãnh vực kinh nghiệm của chúng ta hay khác hơn chúng ta kinh nghiệm tâm thức chúng ta trong hình thái của những cảm giác nội tại. Cách nào đi nữa, dường như là bản chất thật sự của tự tâm thức là bị chướng ngại. Hương vị phảng phất của tâm thức, đặc trưng của nó là trong sáng và hiểu biết, thật khó để nắm bắt. Quý vị cần tìm cách để bảo đảm sự tập trung của quý vị không bị quét sạch bởi việc nhớ lại những kinh nghiệm quá khứ hay bởi những tư tưởng phóng chiếu về tương lai – tiên đoán, hy vọng, v.v… Quý vị phải thế nào đó an trú trong hiện tại.
Chúng ta bị quá quen thuộc và chi phối bởi việc nhìn tới và nhìn lui khi chúng ta cố gắng để an trú trong hiện tại, chúng ta kinh nghiệm một loại tánh không. Dĩ nhiên, đây không phải là tánh không trong ý nghĩa triết lý. Nó là một ‘sự không có’ [sự vắng bóng] đơn thuần, và trước nhất, nó có thể chỉ là một kinh nghiệm lướt qua. Sau đó, khi quý vị quen thuộc với sự thực tập này thì quý vị dần dần có thể mở rộng thời điểm lúc quý vị trải nghiệm sự không có này. Việc nhận diện tâm thức của quý vị vì thế quý vị có thể lấy nó như một đối tượng của thiền tập không là một tiến trình tri thức; nó là một kinh nghiệm quan trọng thật sự cần phải có. Cuối cùng, quý vị sẽ có thể kinh nghiệm tâm thức trong hình thái của sự không có này. Sau đó, từ trong điều này, chính bản chất của tâm thức – trên trình độ quy ước của thế đế – sẽ trở thành rõ ràng, ngay cả hiển nhiên[10]. Tâm thức trong sáng và hiểu biết. Quý vị có thể lấy nó như đối tượng thiền tập của quý vị, việc trau dồi tĩnh lặng trên căn bản ấy.
Thiền Tập Trên Hình Tướng Của Đức Phật
Tông Khách Ba trong Đại Luận (3:43-46) đề nghị lấy một hình tượng của Đức Phật như đối tượng của thiền tập. Điều này dễ hơn việc thiền tập trên tâm thức và nó có ý nghĩa đặc biệt đối với sự thực tập của các hành giả Phật Giáo. Những hành giả của các tôn giáo khác có thể chọn một đối tượng với một ý nghĩa đặc biệt đối với họ. Một Ki Tô hữu có thể thiền tập với một hình ảnh của chúa Giê-su, hay có thể, một thánh giá. Một người Hồi Giáo có thể thiền tập trên mẫu tự Ả Rập của tên “Allah” chứ?
Nếu quý vị chọn hình ảnh của Đức Phật như một đối tượng của thiền tập, thật lợi ích để chọn một hình ảnh hơi nhỏ. Việc này có thể có hiệu quả với việc làm tâm thức quý vị cảnh giác hơn. Sau đó, tưởng tượng rằng hình ảnh này là rất rạng rở, như ánh sáng. Điều này ngăn ngừa tâm thức quý vị khỏi bị chìm vào một số hình thức của giải đải.Cũng thế, hãy tưởng tượng rằng hình ảnh ấy là nặng. Điều này sẽ bảo vệ quý vị khỏi bị tán loạn và náo động.
Chánh Niệm Và Tỉnh Giác
Đã chọn một đối tượng thích đáng, quý vị trau dồi thiền tĩnh lặng bằng việc áp dụng và duy trì chánh niệm, trong một kiễu thức không phân tâm, vì để phát triển nhất tâm. Chánh niệm giữ sự chú tâm của quý vị không bị tuột ra khỏi sự tập trung. Tuy nhiên, quý vị phải giám sát hoặc là sự chú tâm của quý vị thật sự trụ trên đối tượng thiền tập, hoặc là quý vị bị phân tâm hay tác động bởi sự sao lãng tinh thần. Tỉnh giác đóng vai trò giám sát này; nó như một “nguồn tri nhận” theo dõi hoặc sự náo động hay giải đải tinh thần sinh khởi. Vì thế, chánh niệm có nghĩa là giữ sự chú tâm của quý vị trên đối tượng chọn lựa để hành thiền; tỉnh giác giám sát quý vị đang tu tập tốt đẹp như thế nào.
Những chướng ngại mà những giám sát tỉnh giác là sự náo động và giải đải tinh thần. Sự náo động tinh thần thuộc gia đình của dính mắc, tham dục; nó có khuynh hướng để sẳn sàng xảy ra do bởi thói quen lâu dài của quý vị tìm kiếm những thứ hấp dẫn chúng ta. Một ảnh hưởng chính của náo động là sao lãng khỏi đối tượng hành thiền. Nó là một dấu hiệu cho biết tình trạng tinh thần của quý vị là quá kích thích, tăng lên quá cao. Một phương pháp hóa giải là thiền quán trên tính vô thường hay khổ đau cùng khắp (hành khổ). Điều này sẽ có tác dụng lập tức làm cụt hứng náo động.
Giải đải có nghĩa là tâm thức quý vị nắm bắt đối tượng thiền tập không sâu sắc hay không tỉnh giác. Tâm thức của quý vị thì mập mờ hay chùng xuống hơn là nâng lên. Một phương pháp hóa giải để nâng tâm thức quý vị lên có thể là quán chiếu về những lợi ích của việc trau dồi tinh thần Giác Ngộ hay những lợi ích của việc trau dồi tuệ trí hiểu biết tánh không. Hay quý vị có thể quán chiếu về sự quý giá của kiếp sống loài người và cơ hội mà nó làm cho chúng ta phù hợp. Những sự lưu ý này có thể khuyến khích một cảm nhận hoan hỉ mà nó sẽ làm tăng cao thể trạng tâm thức của quý vị, xua tan giải đải, lười biếng.
Thiền Hơi Thở
Đối với nhiều người trong chúng ta, những vị mới bắt đầu, có thể rất lợi ích để thiền tập trên tiến trình hơi thở. Như một đối tượng của thiền tập, nó không vi tế như tâm thức, tuy thế nó vi tế hơn việc hành thiền trên một đối tượng vật chất ngoại tại. Hướng sự chú tâm vào hơi thở có thể là một cách rất hiệu quả để phát triển tĩnh lặng. Quý vị chỉ đơn giản đặt sự chú tâm vào mỗi hơi thở ra hay hơi thở vào. Hãy giữ sự tập trung của quý vị trong 100, hay 1000 lần. Những người quen của tôi, những thiền giả nói với tôi rằng khi họ lấy hơi thở như đối tượng của thiền tập, tâm thức của họ trở nên thật an trú nếu họ duy trì trong một thời gian giữa 100 hay 1000 lần thở.
Trong Kim Cương thừa, có nhiều sự thực tập hơi thở đặc biệt ở giai đoạn chuẩn bị liên hệ đến 9 vòng hơi thở.
Trong đời sống hàng ngày, thiền hơi thở có thể cực kỳ lợi lạc. Nếu chúng ta thấy tâm thức của chúng ta ở trong tình trạng bị xáo trộn, bị kích động, hay bị chọc tức, thì chúng ta có thể hạ thấp mức độ của sự quấy rầy này đơn giản bằng việc lái sự chú ý của chúng ta vào hơi thở và tập trung. Điều này có một hiệu quả tức thời.
Đồng thời, hãy nhớ rằng thiền hơi thở là một thời gian nghỉ ngơi, cho sự thoải mái tạm thời. Nó không giải quyết những vấn nạn tiềm tàng làm sinh khởi sự quấy rầy cảm xúc ngay từ căn bản. Một sự tiếp cận sâu sắc hơn, đem đến lợi ích lâu dài, là thiền quán về duyên sanh và rồi thì trau dồi tuệ trí hiểu biết tánh không. Chúng ta có thể phản chiếu một cách sâu xa lợi lạc của bodhicitta, tinh thần Giác Ngộ hay tâm bồ đề. Một cách tự nhiên, những điều này sẽ là những sự thực tập hiệu quả và năng lực hơn.
Hành Giả Nên Hành Thiền Bao Lâu?
Không có con số cố định cho những buổi thiền tập mỗi ngày, cũng không có chiều dài cố định cho những buổi thiền tập. Trong hầu hết mọi trường hợp, những người mới bắt đầu nên giữ những buổi hành thiền ngắn nhưng thường xuyên. Khi quý vị tiến bộ, quý vị có thể giữ phẩm chất cao mà quý vị đã phát triển trong những buổi thiền ngắn này trong khi dần dần gia tăng chiều dài của mỗi buổi thiền tập. Đây là cách tốt nhất.
Đến Tĩnh Lặng Và Xa Hơn
(Đạt Được Định Và Vượt Khỏi Định)
Nếu quý vị làm theo những buổi thiền tập với chiều dài thích hợp và tiến hành những sự thực tập một cách đúng đắn trong buổi ngồi thiền, sau đó quý vị sẽ tiến triển qua 9 giai đoạn phát triển tinh thần[11], việc lên cực điểm trong sự đạt đến của một sự tĩnh lặng mà trong ấy tâm thức và thân thể của quý vị là nhu nhuyến, tiện lợi, và sẳn sàng đáp ứng.
Trên căn bản của tĩnh lặng, quý vị có thể trau dồi tuệ giác nội quán. Tông Khách Ba trong Đại Luận (3:91-103) kết luận phần tĩnh lặng bằng việc giải thích một loại tuệ giác nội quán trần tục mà hành giả có thể trau dồi trên căn bản của tĩnh lặng. Nhưng ngay trong phần kế tiếp, Tông Khách Ba sẽ giải thích tại sao điều này là không đủ. Chúng ta phải trau dồi tuệ giác nội quán thậm thâm vào trong bản chất của mọi thứ, thực tại cứu kính.
Trích từ quyển From Here To Enlightenment.
Ần Tâm Lộ, Sunday, June 29, 2014
[1] Xem diễn dịch của Fuchs/ Sự siêu việt của Đức Phật trong tam bảo/ Luận giải Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính Luận,20-22. Vì thể trạng Quả Phật là sự cứu kính trong tuệ trí, cho nên chỉ chư Phật đã đạt đến thể trạng của trình độ vô học. Vì thế, sự phân biệt giữa các vị trân bảo hữu học và vô học chỉ áp dụng cho giáo Pháp và Tăng già. Pháp bảo hữu học là đạo đế và diệt đế khi được thực tập con đường tu tập; Tăng bảo hữu học là một người đã thực chứng điều này – đó là, đã đạt đến niết bàn – nhưng chưa trở thành một vị Phật toàn giác. Pháp bảo vô học là sự hoàn tất cứu kính của đạo đế và diệt đế trong tâm của một Đức Phật; và Tăng bảo vô học là một người, Đức Phật, bậc đã xuyên qua đạo đế và diệt đế đến hoàn thành.
[2] Xem chú thích 66.
[3] Xem luận giải Những Giai Tầng Thiền Tập của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
[4] Vairochana hay Tỳ Lô Giá Na là một Đức Phật quan trọng trong nhiều kinh luận của truyền thống Đại Thừa Mật tông lẫn Hiển giáo.
[5] Đại Toàn Thiện (Dzogchen), thuộc truyền thống Nyingma. Đức Đạt Lai Lạt Ma có giảng về pháp môn này.
[6] Những sự thực tập của tantra yoga tối thượng liên hệ đến việc kiểm soát những năng lượng, hay các luồng khí (rlung) cho sự sống. Thân thể năng động qua sự tuôn chảy của những năng lượng vi tế này qua hàng nghìn kinh mạch vật chất vi tế này. Cùng với những luồng khí và kinh mạch này, thân thể vi tế của một con người cũng bao gồm những giọt trắng và đỏ, những thực thể vi tế.
[7] Đại Thủ Ấn là một hệ thống cho việc giới thiệu một cách trực tiếp đến môn nhân về nền tảng bản nhiên của tâm thức, thuộc phái Kagyu của Phật Giáo Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma có giảng về pháp môn này.
[8] Tâm tịnh quang là một hình thức vi tế nhất của thức trong Phật Giáo mật tông. Nó trở thành rõ ràng khi những năng lượng vi tế của thân thể hòa tan trong kinh mạch trung tâm. Xem Tantra Yoga Tối Thượng
[9] Tông Khách Ba theo Trung Quán của Nguyệt Xứng, trong ấy phủ nhận bất cứ luận điệu nào rằng một niệm tâm tự nó có thể biết.
[10] Cuối cùng, tâm thức – giống như tất cả những hiện tượng khác – là trống không. Ngay cả một cách quy ước, nó không có bản chất bên trong chẳng hạn như cho phép nó tồn tại trong và tự chính nó. Giống như tất cả những thứ khác hiện hữu, nó tồn tại chỉ bằng cách của sự liên hệ hổ tương với những thứ khác. Tuy nhiên, giống như lửa nóng và băng lạnh, tâm thức cũng có một đặc trưng phân biệt một cách quy ước.
[11] Tông Khách Ba diễn tả trong Đại Luận (3:73-75) 9 thể trạng tinh thần là: (1) bố trí tinh thần, (2)sự bố trí tiếp tục, (3)sự bố trí dàn xếp, (4) sự bố trí gần gũi, (5) thuần hóa, (6) sự bình yên, (7) sự bình yên hoàn toàn, (8)nhất tâm, và (9)sự bố trí quân bình.