Những Bài Ca của vị Thánh được Mến Yêu của Tây Tạng, Milarepa
Nguyên tác: Drinking the Mountain Stream, Song of Tibet’s Beloved Saint, Milarepa
Việt dịch: Tha Nhân

***

Về Những Bài Ca

Toàn bộ bản văn mà những tuyển chọn này rút ra có tên là Những Câu Chuyện và những Bài Ca từ Truyền Thống Khẩu Truyền của Jetsušn Milarepa, mở đầu bằng lời nói đầu này :

Ở đây (Tây Tạng) vị thành tựu giả (siddha) vĩ đại, nổi tiếng là Milarepa, Vua của các Thiền giả, được chở đi trên con tàu của các thừa. Giữ gìn sự khiêm hạ, ngài thực hành những khổ hạnh và quen sống trong những hang động như một người đội một cái mũ. Ngài hoàn thiện sự thực hành tập trung nhất tâm và lưu xuất hai ngàn tám trăm bài ca từ kinh nghiệm và chứng ngộ. Nghe nói hai ngàn bài được các dakini giữ gìn và loài người không biết đến. Tám trăm bài khác được các thiền giả truyền tụng cho đến ngày nay và dùng cho sự thực hành của họ.

Tám trăm bài ca này được giữ gìn bằng cách viết ra thành ba tác phẩm chính. Tiểu sử của Milarepa như được kể cho đệ tử thân thiết nhất là Rechungpa được dịch ra tiếng Anh lần đầu bởi Kazi Dawa Samdup với cái tên đề Đại Thiền Giả Milarepa Tây Tạng (Evans-Wentz, n.x.b Oxford) và được dịch lại bởi Lob-sang Lhalungpa với cái tên Cuộc Đời của Milarepa (Dutton, NY, 1977 ; bản dịch tiếng Việt n.x.b Thiện Trí Thức, 2000). Bộ sưu tập lớn hơn các câu chuyện và bài ca, Một Trăm Ngàn Bài Ca, được Garma C. C. Chang dịch và in trong nhiều nhà xuất bản. Hai tác phẩm này chứa đựng những tài liệu về Milarepa quen thuộc với Đông lẫn Tây. Thêm nữa, có một hợp tuyển hiếm và ít được biết “từ truyền thống khẩu truyền” chứa đựng, với một ít ngoại lệ, một tài liệu hoàn toàn khác. Đây là Những Câu Chuyện và Bài Ca từ Truyền Thống Khẩu Truyền của Jetsušn Milarepa,(9) từ đó tài liệu cho cuốn sách này và cuốn theo sau, Hành Trình Kỳ Diệu (Lotsawa, 1986). Thêm vào, là một ít cẩm nang thực hành của Milarepa trong Kho Tàng các Lời Dạy và những nhóm chuyện và bài ca ở trong những bản in Tây Tạng ít được biết đến hơn.

Trong cố gắng khám phá ra một bức tranh về nhân cách của Milarepa, sự ca hát và phong cách chỉ dạy của ngài, tác phẩm này là có giá trị, có lẽ hơn so với hai tác phẩm tiêu chuẩn. Một Trăm Ngàn Bài Ca và cũng có thể tiểu sử, được viết ra từ những chuyển biên bằng miệng ở thời trước do “Thiền Giả Điên xứ Tsang”, Tsang Nyošn Heruka Rušs Pai rGyan. Việc ông đưa vào một số lớn sự khéo léo văn chương của ông vào bản viết có thể suy ra từ sự so sánh ít đoạn trong Những Câu Chuyện và Bài Ca. Chẳng hạn, “Sự Gặp gỡ của Mila với Phadampa Sangye” trong sách này tương đương với chương 53 của Một Trăm Ngàn Bài Ca do Chang dịch. Hai bản dịch cùng một sự việc này cho thấy những khác biệt đáng chú ý. Bản dịch trong sách này dài khoảng một nửa so với Một Trăm Ngàn Bài Ca, cả phần kể chuyện lẫn phần bài ca. Ý nghĩa hơn, phong cách thơ ít chải chuốt hơn và ít dùng những yếu tố làm đẹp và khai triển. Giọng điệu của nó tự nhiên hơn và nội dung nó trực tiếp hơn, nhất là khi đọc to tiếng. Sự so sánh như vậy cho thấy nó tùy ứng hơn là cố tình làm văn.

Chất liệu trong Những Câu Chuyện và Bài Ca ở trong một trạng thái nói thì dài hơn hai tác phẩm tiêu chuẩn ; như thế có lẽ chứa đựng một số chất liệu được thêm vào trong những cuộc nói lại giữa các thiền giả. Những đoạn loại này có thể được phân biệt với phần chính của bài bởi thơ ca kém, sự đề cập đến chủ đề dài dòng bất thường và cách nói không cảm hứng, nghèo nàn của chúng. Hầu hết không ngoại trừ, những chỗ thêm vào là những quở trách liên quan đến hậu quả của những hành động xấu, tái sanh trong các cõi thấp, những thống khổ của đời sống sanh tử, và những chủ đề căn bản khác đặc biệt thích hợp cho thính chúng không xuất gia và không có kinh nghiệm thực hành. Giọng điệu nói về sự tra tấn ở địa ngục nhắc chúng ta rằng những bài ca này được những thiền giả tụng đọc, họ giữ chúng trong trí nhớ và thường làm thế để đổi lại những đồ cúng dường lương thực từ những nông dân và người chăn cừu của miền quê Tây Tạng và Nepal.

Khi viết ra tài liệu chứa trong Những Câu Chuyện và Bài Ca, người sưu tập vô danh trong trung tâm tu viện lớn Trashi Gyi ở Amdo, Tây Tạng không chủ ý viết ra theo thể văn chương bóng bẩy. Một số bài ca hay câu chuyện chỉ là những đoạn phác họa ; tuy nhiên những cái khác là những đoạn đặc biệt và có thể bị bỏ khỏi Trăm Ngàn Bài Ca bởi chúng không nói đến một sự việc nổi tiếng hay một cuộc gặp gỡ đầu tiên với một đệ tử chính, hay có lẽ vì chúng không được người sưu tập trước biết đến. Việc chúng là đích thực chính thống có thể phán định từ tính chất và phong cách của chúng, đồng thời hiểu rằng, trong truyền thống khẩu truyền còn tiếp tục đến ngày nay, có nhiều truyền bản có dị biệt của cùng những bài ca.

Một tính cách có ý nghĩa của tài liệu trong Những Câu Chuyện và Bài Ca là nó ít cố gắng thần tượng hóa nhân cách và thái độ đối xử của Mila hơn là trong Một Trăm Ngài Bài Ca hoặc làm cho chúng dễ đọc hơn với độc giả. Ở đây những hành động của ngài tức thời hơn, ít lịch sự hơn, tính khôi hài và trí huệ của ngài xuyên phá cắt đứt hơn, và những phản ứng của ngài nghịch lý hơn. Những bất ngờ và mâu thuẫn có ở đây – có một con người thực sự, rất người, đàng sau những dòng chữ. Cũng có những tư cách mới, có lẽ bởi vì chúng không bị làm biến chất bởi những tình cảm của người chuyển đọc, chỉ ra, chẳng hạn, rằng Mila không ít học như phần đông tin tưởng và ngài dạy sự quan trọng của học hỏi, nghiên cứu trước khi thực hành thiền định dũng mãnh.

Những lời chỉ dạy tốt đẹp luôn luôn thay đổi chủ đề và phong cách theo người nghe, và những bài ca của Mila được hát lên cho nhiều loại thính chúng. Với những nông dân ngài gặp qua lời nguyện khất thực của mình chỉ ở “cánh cổng đầu tiên” mỗi ngày và với những người chăn cừu du mục, thô ráp ngài gặp trong những cuộc lang thang, ngài hát về sanh và chết, liên hệ nhân quả của hành động, vô thường và hạnh kiểm trong một cách thức đơn giản và trực tiếp, dùng những sự vật và kinh nghiệm hàng ngày làm ví dụ. Với các đệ tử ngài hát những giáo huấn chính xác và đúng chỗ để khai mở tâm thức họ với sự thực hành và để dạy và sửa chữa họ. Với những đệ tử của những vị thầy khác, những thiền giả lang thang tìm kiếm ngài để hỏi và những học giả khao khát gặp một người thành tựu thực sự, ngài là một đạo sư đánh giá mức độ và những nhu cầu của một người. Với họ ngài tạo ra những bài ca làm sững sờ với những phát lộ thấu suốt. Trong thính chúng có những quỷ ma không phải là người, với chúng ngài hát lên những thách thức và những cảnh cáo, và với những dakini ngài hát sự bí mật nhất và những tỏ ngộ cá nhân. Đôi khi ngài gặp những đạo sư có chứng đắc có thể so sánh với nhau được. Họ trao đổi những giáo lý và những thách thức, phép thuật và những phát giác, vinh danh cho những chứng đắc tâm linh của tâm thức thiền định đầy năng lực của họ.

Hầu hết những đoạn được hát lên để trả lời một câu hỏi, một thách thức, hay một đòi hỏi phải hát để có bữa xúp, Milarepa đáp ứng không chỉ đối với những câu hỏi mà với những động cơ đàng sau chúng và bối cảnh trong đó chúng được hỏi. Những bài ca không thay đổi lúc mở đầu với một dòng hay một câu cầu nguyện đến Marpa, lama của Mila, cầu xin sự hướng dẫn và những ban phước. Đối với Mila và các người theo ngài đó là vị có thần lực làm phát triển và gây cảm hứng cho sự thực hành của họ. Thỉnh thoảng Mila “cầu khấn van xin” chư Phật và chư lama nhân danh những người nghe để hướng dẫn họ vào Pháp hay giúp đỡ họ trong thực hành. Khi ban cho một giáo lý, ngài thường bao bọc nó với một chuỗi thúc dục cổ vũ súc tích gọi là những lời khuyên dạy. Hầu hết những bài ca đóng lại với một sự hồi hướng hay ban phước, chia xẻ công đức của sự thực hành của ngài với tất cả chúng sanh và đặc biệt để hồi trả cho những thí chủ đã yêu cầu bài ca với một sự cúng dường. Về nội dung và hình thức của những bài ca được dịch trong cuốn sách này có những giới thiệu ngắn ở đầu mỗi đoạn.

Hãy để chương đầu này như một giới thiệu về chính Milarepa. Ở đây ngài đang ở trong tình huống thường xuyên đi khất thực từ một số dân làng nóng nảy và tình huống đó cũng dễ gây nổi giận : ngài sắp bỏ đi mà không ban cho một hồi hướng công đức như thông lệ thì sự phê bình của một nhà sư thúc đẩy ngài phải giải thích cách hồi hướng theo lối thiền đặc biệt của ngài và một số lịch sử riêng tư. Kỳ lạ vì người đi xin hùng biện khác thường này, họ hỏi danh tánh ngài. Mila trả lời với một phác lược cuộc đời trước kia của ngài, sự tu hành, những kinh nghiệm, những chứng ngộ và rồi dạy cho họ về thân phận sanh tử và cho những khuyên nhủ cho sự thực hành của họ. Câu chuyện này cũng kể lại sự gặp gỡ với Wangchuk Dorje, người đã trở thành một trong những đệ tử thường xuyên của Mila.

1. Milarepa kể câu chuyện của mình

Một lần nọ, Milarepa bậc vĩ đại của những thiền giả, sau khi ở suốt mùa đông trong núi tuyết Lachi, đầu mùa hè đến khất thực trong vùng lân cận Nyekha xứ Tsang. Ngài đi vào làng và nói với vài người ở đó : “Chúng tôi những thiền giả có lời nguyện khất thực ở “cửa nhà đầu tiên”. Người sùng đạo nào trong các bạn cho chúng tôi một ít thức ăn.”

Một thí chủ trả lời : “Tôi sẽ cho thầy một bát thịt cá.” Nhưng Mila nói với người ấy : “Tôi không ăn thịt của những sinh vật bị sát hại.”

“Thầy không ăn thịt của sinh vật bị giết ư ! Thật lạ lùng ! Tôi không có thức ăn nào khác.” Người ấy bỏ đi, nhưng Mila vẫn đứng yên. Cuối cùng thí chủ trở lại với một bát đồ thừa có nước sữa chua, nói : “Tốt lắm, thầy có thể ăn thứ này.”

Mila ăn và khi sắp sửa đi, một nhà sư có mặt ở đó nói : “Thầy không biết cả một sự hồi hướng hay cầu xin sao ? Thầy không thể tìm được ngay cả một chiếc áo khoác sao ? Thầy từ đâu đến ? Thầy sắp đi đâu ? Nếu thầy biết thế nào, hãy hát cho chúng tôi một bài ca.”

Rồi Jetsušn hát bài ca này :

Lama chân thật quý báu
Viên ngọc như ý mà chỉ nhớ đến là đã đủ,
Con cầu xin ngài bằng lòng sùng mộ nhiệt nồng
Hãy ban phước cho đứa con sùng tín của ngài.

Tôi đã đến từ những sườn núi Lachi
Sừng sững trong miền Nyanang.
Giờ đây tôi không có chỗ đến nhất định.

Tôi chưa từng góp nhặt chút tài sản nào ;
Như một người ăn xin tôi nhận vật gì đến.
Khi được cho thức ăn tôi làm như sau :
Trong ngôi nhà này là nền tảng
Thân huyễn này được tạo ra từ bốn đại,
Tôi chuyển hóa các đại, khí, kinh mạch và hạt
Thành hóa thần bổn tôn dựa trên các thứ ấy.
Tôi biến thành cam lồ bất cứ thứ gì tôi ăn ;
Và từ miệng của mỗi bổn tôn
Một cái lưỡi trống rỗng bằng ánh sáng vươn dài.(10)

Như một phản ảnh trong gương –
Có xuất hiện mà không có chất thể –
Bổn tôn dâng cúng cho những bổn tôn.
Thực tại vui đùa trong môi trường của thực tại,
Và trong trạng thái giải thoát khỏi mọi nghiện ngập với ý niệm
Tôi đóng dấu ấn của sự hồi hướng bình đẳng.
Đó là cách tôi hồi hướng thức ăn.

Đôi khi trong núi sâu vắng vẻ bóng người
Tôi tồn tại nhờ vào thức ăn cỏ cây của núi,
Và thiền định về thức ăn của tôi cũng giống như trên.

Nhưng hầu hết tôi ăn thức ăn của định lực,
Thiền định về thức ăn và sự hồi hướng của tôi
Hòa lẫn với trí không phân biệt.
Tôi dùng thức ăn của sự thực hành bí mật là như thế.

Bây giờ tôi sẽ giải thích cách mặc của tôi :
Thuận với kiểu cách con người thế gian
Tôi bọc mình trong một bộ quần áo vải
Và thuận theo những người cao cấp
Tôi tồn tại bằng nội nhiệt của trí huệ.

Giống như con thằn lằn và con cóc
Da tôi thô nhám và tái xanh
Và giống như khỉ và vượn
Thân tôi lông xám phủ đầy.

Và giống như con sâu của cây tầm ma
Thân tôi kẻ sọc những đường nhăn bẩn thỉu
Và giống như một đứa bé
Mông tôi không có gì để phủ che.

Theo cách những người hành khất
Tôi tìm thức ăn như một con chim,
Và theo một cách nào, tôi giống như một người giàu có
Với sự sung túc thỏa nguyện bên trong.

Giống như người chết đói
Tôi không để dành thức ăn cho ngày mai,
Và như người điên
Tôi không có ý niệm phải làm gì hay phải đi đâu.

Giống như người rất khôn ngoan
Tôi giữ chắc quyền làm người của tôi,
Và giống như những gã khờ
Tôi không biết gì về những quy ước xã hội.

Giống như người vĩ đại nhất của các vị thầy
Tôi cũng biết làm thế nào để dạy Pháp
Và giống như những con sư tử tuyết vĩ đại
Tôi cũng sống trong núi thẳm hoang vu.

Tôi bắt chước những con chuột túi
Thiền định trong những hang hố dưới đất sâu,
Và giống như những con chồn hoang
Tôi sống trong những hẻm khe rặng núi.

Giống như những thánh nhân cổ thời
Tôi đã gánh vác khổ hạnh một thời gian lâu,
Và giống như chim garuda
Tôi bay vút qua khoảng không của bầu trời.

Ở trên giải thích xong cách thức ăn mặc
Và cách tôi hành thiền.
Bây giờ tôi sẽ hát một bài ca tham thiền,
Vì các bạn nói, “Hãy hát một bài ca ! Hãy hát một bài ca !”
Lời nói bô bô ấy làm tôi vui thích.

Sau khi rời bỏ quê nhà,
Tôi thực hành trong những núi non hoang vu.
Cái nghe bằng tâm thoải mái và dễ chịu này
Không vướng mắc vào chuyện thuế má, nợ nần và quân đội
Đã được một kẻ ăn xin là tôi, thành tựu
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Tôi bỏ lại đàng sau căn nhà đẹp đẽ của cha,
Tôi nào cần sửa sang, che lợp lại mái nhà.
Ngôi nhà bằng đá đẹp đẽ của thiền định này
Đã được một kẻ ăn xin là tôi dựng nên.
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Bỏ lại đàng sau cánh đồng phì nhiêu của cha
Tôi thuần hóa đất đai lởm chởm của tâm mình.
Sự phục hóa và mềm dẻo dễ dàng này của tâm,
Sự hoàn hảo rốt ráo này của từ và bi
Đã được một kẻ ăn xin là tôi, thành tựu.
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Những người yêu thì bị phiền nhiễu nên tôi không lập gia đình,
Mà chăm sóc người phối ngẫu Tịnh Quang.
Sự kết hợp này của phương tiện và trí huệ,
Sự bất nhị này của trạng thái bổn nhiên,
Đã được một kẻ ăn xin là tôi hoàn tất.
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Xa lìa loạn động và mê lầm
Tôi nuôi nấng đứa con của tỉnh giác trống không
Sự rực rỡ này của pháp thân tịnh quang
Trong tự do vô điều kiện với mọi định kiến
Đã được dựng lên bởi tôi, một kẻ ăn xin.
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Tôi không bao giờ góp nhặt sự sung túc thế gian
Mà dựa vào sự sung túc của thỏa nguyện.
Bảy kho tàng cao cả này
Thoát khỏi những âu lo và phiền nhiễu,
Đã được một kẻ ăn xin là tôi sở đắc
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Tự tôi đã hoàn thành niềm vui như thế ;
Nếu các bạn nghĩ đó là phúc lạc, các bạn hãy làm đi.
Thế là các bạn có bài ca tham thiền của tôi.

Tất cả bọn họ đều kinh ngạc và đảnh lễ ngài, rồi hỏi : “Bậc vĩ đại của những thiền giả, ngài sinh ở đâu ? Tên của tu viện ngài là gì ? Lama của ngài là ai ? Ngài có đệ tử nào không ? Tên ngài là gì ? Xin hãy nói cho chúng tôi.”

Uống dòng suối núi (Phần 3)

Milarepa hát một bài ca khác :

Bậc Pháp vương và cứu độ cho con người
Dưới chân lama nhân từ của con, con xin đảnh lễ.

Giờ đây, các thí chủ hãy tụ lại ở đây,
Tôi sẽ trả lời ngắn gọn những câu hỏi các bạn.

Sinh quán của tôi là đô thị Kyanga Tsa
Trên đồng bằng Gungthang của thung lũng Ngari.
Cha tôi là Mila Sherab Gyentsen
Và mẹ là Nyangtsha Kargyen.
Tôi được đặt tên là Thošpa Ga,
Và em tôi là Peta Gonkyit.

Khi còn nhỏ cha tôi chết đi,
Sự sung túc cũng mất bởi bà con xấu
Cả ba chúng tôi bị bắt buộc làm việc như tôi tớ.
Mặc quần áo rách rưới như lưới đánh cá
Và được cho ăn như chó, vất vả như lừa.
Mẹ tôi, do uất ức quá độ xúi dục
Bảo tôi đi học bùa chú để tiêu diệt họ,
Nhưng về sau tôi hối hận và trở về với Pháp.

Lama của tôi là ngài Marpa họ Lhodrak
Vì tôi không có gì để dâng cúng ngài
Tôi cúng dường sự phụng sự của thân, khẩu, ý.
Và bằng cách chiết ra cam lồ của những giáo lý thậm thâm,
Ngài ban cho tôi những bí mật tinh túy nhất của tâm ngài.

Không một chút dấu vết của biếng lười
Tôi theo đuổi mục đích là thực tại
Cho đến khi kinh nghiệm và chứng ngộ sanh trong tâm tôi.

Tôi đã có vài đệ tử trẻ.
Chúng tôi ở lại trong tu viện toàn hảo của núi non,
Uống nước suối của khổ hạnh
Ăn côn trùng và cây cỏ trên núi,
Hay thỉnh thoảng khất thực làng quê.

Pháp danh của tôi là Dorje Gyentsen,
Nhưng tôi được người ta biết như là thiền giả Milarepa.
Tôi đi bất cứ nơi nào tôi cảm thấy thích đi.
Đây là sự trả lời của tôi cho những câu hỏi các bạn.

Nhà sư kêu lên : “Tôi đã có nghe một vị thành tựu giả tên là Milarepa – ngài đúng là lama ấy ! Bây giờ tôi đã thấy ngài bằng chính mắt tôi và nghe ngài nói bằng chính đôi tai tôi !” Nhà sư ấy lễ lạy và đặt bàn chân Mila trên đầu mình, rồi nói : “Lama quý giá, vào cuối khúc hát ở trước ngài có nói “như chim garuda, tôi bay vút qua khoảng không của bầu trời”. Tôi chắc là ngài không nói dối, nhưng chúng tôi cần một dấu hiệu về sự chứng đắc của ngài.”

Mila hát :

Hiện thân của lòng nhân từ bi mẫn bao la,
Pháp thân toàn khắp của Tịnh Quang,
Pháp giới vương hợp nhất với hư không –
Dưới chân Marpa tốt lành con xin đảnh lễ.

Tôi thiền giả Milarepa
Đã từng thiền định với đức tin nhiệt thành.
Sau lễ nhập môn, truyền pháp và chỉ dạy
Tôi thực hành với quyết tâm mạnh mẽ.

Tôi đi vào chỗ ẩn tu và làm những thực hành khó khăn
Cho đến khi chứng ngộ và kinh nghiệm sanh ra trong tâm.
Tôi thấu rõ bản chất nội tại của sanh tử,
Thấy bản tánh tự nhiên của tâm,
Phá tan xiềng xích của sanh tử, luân hồi,
Và mở tung nút thắt của chấp ngã.
Bóp cổ con quỷ của niềm tin vào cái ta
Và bay vút lên trời xanh bao la khỏi mọi nghiện ngập vào ý niệm,
Tôi nhìn, không bằng mắt cõi giới thấy được,
Nghe, không với lỗ tai, âm thanh của tánh Không,
Ngửi, không cần mũi, hương thơm của trạng thái bổn nhiên,
Nếm, không cần lưỡi, vị ngọt ngào của thực tại,
Đạt đến, không với thân, thân kim cương cầu vồng,
Và, không với tâm thức, chìm đắm trong trạng thái
đại ấn (mahamudra).

Eh ma ! Những sự vật của ba cõi luân hồi
Không hiện hữu – nhưng chúng chỉ xuất hiện !
Chúng xuất hiện – nhưng chính là tánh Không !
Đó là bản chất như huyễn của thế giới hiện tượng.

Về bản tánh của thực tại tôi không thể nói –
Một họa sĩ không có tay
Vẽ những bức tranh trên bầu trời,
Không có mắt, thấy vô số vật
Trong cái thấy hoàn hảo toàn thiện không có chuyển động hay nỗ lực.

Sau khi hát bài ca này, ngài bay lên không trung đến độ cao của một tầng lầu. Người thí chủ kêu lên kinh ngạc : “Đây là một trò bịp huyễn thuật hay ảo tưởng thị giác ?”

Để trả lời Mila hát một bài khác :

Con đảnh lễ dưới chân Lama Marpa
Người đã cho con Phật tánh trong bàn tay của người
Bằng cách đưa con giáp mặt với thực tại
Qua sự hiển hiện của bản tánh bổn nhiên.

Hãy nghe đây, những thí chủ sùng đạo :
Trong thành phố huyễn hóa của sanh tử
Những con người huyễn hóa hoàn toàn lầm lạc ;
Họ tác thành những hành động huyễn hóa trong sáu trạng thái của đời sống.

Chúng sanh, những tạo thành huyễn thuật của nghiệp,
Không biết gì về công việc tạo thành ấy
Nghĩ rằng họ hiện hữu độc lập với sự tạo thành,
Nhưng sự tạo thành tự bản chất là huyễn hóa.

Nào ! Tất cả các bạn tụ họp ở đây hãy lắng nghe –
Hãy nhìn tâm và thân như thế này :
Tâm thì vô bản chất, là tánh Giác trống không,
Thân là một bọt nước của thịt và máu.

Nếu cả hai là một thứ, không thể phân chia,
Thì tại sao lại có một thể xác bị bỏ lại
Vào lúc chết khi tâm thức bỏ đi ?
Và nếu chúng hoàn toàn tách lìa
Thì làm sao tâm cảm nghiệm đau đớn
Khi có gì làm thương tổn đến thân ?

Như thế, những hình tướng như huyễn là kết quả
Của niềm tin vào sự có thực của cái bề ngoài,
Mà không biết sự hợp dòng do nghiệp gây ra này là
ảo huyễn.

Nếu các bạn muốn hiểu sự huyễn này,
Hãy phụng sự một lama thiêng liêng ngài đã xa lìa ảo huyễn.
Hãy thực hành Pháp thiêng liêng hủy diệt ảo tưởng,
Và chứng ngộ khuôn mặt của tâm không hề ảo huyễn.
Khi ảo tưởng đi rồi, không còn lầm lạc, vô minh.

Bọn họ hết sức kinh ngạc. Vài người ngất đi và thấy một số thị kiến. Đặc biệt nhà sư thành sẵn sàng cho một sự chứng ngộ trực tiếp trạng thái bổn nhiên của tâm. Cuối cùng họ hỏi ngài : “Lama quý báu, mặt kia của vùng này có một chỗ ẩn cư trên núi rất đẹp gọi là Cái Bình của Người Đàn Bà Giàu. Xin người hãy ở tại đó từ đây trở đi, hay một vài năm, hay ít ra là mùa hè và mùa đông này.”

Mila nói ngài đến ở đó trong mùa hè và đi đến Cái Bình của Người Đàn Bà Giàu. Khoảng mười lăm người do nhà sư và thí chủ dẫn dắt cùng đi với ngài. Tất cả họ đều học Pháp và được chứng ngộ tuyệt vời do thực hành. Nhà sư đã có thể nhìn thấy mục đích chân thật. Khi ông nhận sự truyền thọ Pháp sâu xa, ông được đặt tên là Wangchuk Dorje. Sau này ông trở thành một thành tựu giả (siddha).

Mila ở lại ba tháng ; họ cầu xin ngài ở lâu hơn, nhưng ngài không nhận. Họ nói : “Nếu ngài nhất định không chấp thuận sự yêu cầu của chúng tôi và phải rời chúng tôi bây giờ, xin hãy ban cho vài khuyên bảo về thực hành trong tương lai đời này và đời tới.”

Mila bèn hát cho họ bài ca này :

Hãy nghe đây, những đại thiền giả, thiện nam và tín nữ :
Tốt nhất là các người thực hành khổ hạnh
Ở núi non trong suốt phần còn lại của đời mình.
Tốt tiếp theo là lang thang ở nông thôn,
Không thiên chấp, không phương hướng, không dính dấp với cuộc đời này.

Tốt tiếp theo, làm theo như tôi, thoát khỏi quê nhà,
Ít ra cho đến khi đã tự đầy đủ,
Học thánh pháp từ một lama chân chính –
Có kinh nghiệm và chứng ngộ – và nhớ những điểm then chốt.

Tránh ba khuyết điểm của một cái bình(11) khi nghe Pháp.
Kiềm chế thân, khẩu, ý và hãy tư duy ý nghĩa của nó.
Bám chắc vào những lời gây tác động.
Ngăn chặn sự bùng nổ của những phiền não.
Hãy làm cho thánh pháp các người đã nghe thành quả.

Về những sự việc của cuộc đời này hãy nghĩ như sau –
Về sự dính líu vào mọi việc rắc rối
Của chính trị và nhà cầm quyền, hãy nghĩ thế này :

Tham muốn đã đạt lại tăng thêm khát khao như nước muối.
Công việc thì không cùng như sóng gợn lăn tăn của một dòng sông.
Thịnh và suy như đầy và khô của một ao nước.

Những thức tình định kiến ám ảnh này
Là một tấm màn che lấp sự sanh lên các cõi cao và giải thoát,
Một móc sắt kéo chúng ta vào các cõi thấp trong sanh tử,
Những hạt giống để sanh đi sanh lại muộn phiền,
Một đám mây dày mưa xuống những điều bất hạnh,
Một tên trộm đánh cướp đức hạnh và giá trị của chúng ta.
Gốc rễ nảy sinh mọi lầm lỗi của chúng ta.

Thăm dò sâu vào căn để của các bạn :
Vô minh và lầm lạc là chính các bạn
Định kiến là chính các bạn
Là phái viên do các bạn gởi đến.
Từ vô thủy đến giờ các bạn đã tự kéo mình vào
Đầm lầy của nghiệp xấu trong đại dương sanh tử.

Giờ hãy quán xét mình kỹ càng :
Tự chính các bạn không có màu sắc, không hình thể.
Nếu gởi bạn đi, bạn sẽ không đi.
Nếu giữ bạn lại, bạn không ở lại.
Nếu tìm kiếm bạn, bạn không thấy được.
Nếu nắm bắt bạn, bạn không thể bắt.

Trước kia không biết tự tánh của mình,
Các bạn xoay tròn bánh xe khổ não trong đại dương cuộc sống.
Bây giờ, trong lâu đài của định tâm và an thân,
Hãy quán xét trước mặt bạn với đôi mắt tỉnh giác rạch ròi
Và ở đàng sau người canh giữ sự tỉnh giác trầm tư.
Hãy trở về trạng thái bổn nhiên của bạn mà không cố gắng hay lơ đãng.
Hãy biết con đường buông xả như vậy, những người may mắn kia.

Rồi Mila bỏ đến núi Lachi cùng với Wangchuk Dorje và vài người khác, nơi đó họ tu hành.

(Còn tiếp)