Những Bài Ca của vị Thánh được Mến Yêu của Tây Tạng, Milarepa
Nguyên tác: Drinking the Mountain Stream, Song of Tibet’s Beloved Saint, Milarepa
Việt dịch: Tha Nhân

***

Uống dòng suối núi (Phần 6)

6. Bài ca về những người hướng dẫn con đường

Jetsušn ở với năm đệ tử trong Động Răng Ngựa Đá Trắng tới khi thời tiết lạnh của mùa thu kéo đến. Những repa hỏi lama của họ : “Bây giờ là mùa thu. Chúng ta có nên gom góp lương thực cho việc thực hành trong mùa đông bằng cách đi khất thực đồ dự trữ không ? Làm như thế chúng ta có dịp giúp người khác thêm công đức. Và cũng vui thích sẽ có dịp được viếng tượng Đức Phật Quý Báu ở Kyirong.(15) Xin để chúng con đi.”

Vị lama trả lời họ : “ ‘Đức Phật Quý Báu’ thì hoàn toàn ở trong các con. Và cũng không tốt đẹp lắm cho những thiền giả phải đi khất thực. Bởi thế, hãy tiếp tục thực hành tám con đường kim cương này.” Và ngài hát bài ca này cho những repa trẻ trong Động Răng Ngựa Đá Trắng:

Hiện thân vinh quang của vua pháp giới,
Sự chữa lành tốt nhất cho bệnh tật của ba độc,
Con người tuyệt vời của Lhodrak –
Con xin đảnh lễ nhà dịch giả Marpa !

Răng Ngựa Đá Trắng, thành lũy của Trung Đạo,
Chỗ tụ hội cho những dakini cao thượng,
Nơi gợi hứng cho đức tin chân thành vào cổ nhân,
Chốn thực hành của lòng tự tin –

Trong chỗ tốt nhất của các chốn ẩn cư này
Hãy nhận một bài ca kinh nghiệm về trạng thái bổn nhiên.
Hãy nghe bài ca này, năm huynh đệ repa –
Những đứa con của thầy, Lodro, Shergon Dorje và những người khác.

Thức nền tảng, vĩnh cửu và bất biến dịch
Là người dẫn đường để thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Hạnh phúc thay cho người nào biết được sanh tử và niết bàn là bất nhị ;
Kỳ diệu thay, sự gieo trồng cho vụ mùa này !

Vị lama thiêng liêng, chân thực này
Là người dẫn đường để xua tan bóng tối vô minh.
Hạnh phúc thay cho người nào thấy lama như Phật ;
Kỳ diệu thay, sự chiêm ngưỡng và niềm tin bất tận này !

Chốn ẩn cư núi non này không phương hướng
Là người dẫn đường cho thiền định nuôi dưỡng.
Hạnh phúc thay cho người nào xem thân thể là chốn ẩn cư ;
Kỳ diệu thay sự an trụ bất động này !

Thế giới đối vật này xuất hiện với những giác quan
Là người dẫn đường để trau dồi tánh giác tự nhiên.
Hạnh phúc thay cho người nào hướng dẫn chúng vào kinh mạch trung ương ;
Kỳ diệu thay sự tràn ngập bởi lạc tỏa khắp thân tâm này !

Những giáo huấn này để chuyển di tâm thức
Là những người dẫn đường để vượt qua những thị kiến của bardo.
Hạnh phúc thay cho người nào có thể vượt qua với tánh Giác ;
Kỳ diệu thay sự hợp lưu này của quá khứ, hiện tại và tương lai !

Những hiện thân quý báu của tình thương và bi mẫn
Là những người dẫn đường cho sự cứu độ bình đẳng chúng sanh.
Hạnh phúc thay cho người nào được bao quanh bởi người chứng ngộ ;
Kỳ diệu thay sự cứu độ chúng sanh bằng hóa thân này !

Sự tu hành định thanh tịnh, không phóng dật này
Là người dẫn đường cho tánh Giác tinh khiết.
Hạnh phúc thay cho người nào biết cái hiện tiền là bất nhị ;
Kỳ diệu thay tánh Giác thanh tịnh như hư không này !

Cái áo vải này trên thân thể các con
Là người dẫn đường để chế phục những ngọn núi tuyết khắc nghiệt này.
Hạnh phúc thay cho người nào ngủ trần truồng trong tuyết ;
Kỳ diệu thay sự tự do với cả nóng lẫn lạnh này !

Bài ca này ta hát về tám con đường kim cương
Chính là một người dẫn đường tự nói lên như tiếng vang.
Hạnh phúc thay cho thiền giả nào nhớ bài ca kinh nghiệm này ;
Kỳ diệu thay âm thanh kim cương tự nói này.

Con dâng cúng bài ca tôn sùng này, hỡi lama thiêng liêng !
Xin hãy dự phần trong bữa tiệc âm thanh này, hỡi những dakini !
Hãy cất đi sự ngăn che của các ngươi, những loài phi nhân !
Hãy trông nom bài ca tốt lành này của lòng sùng mộ !

Khi ngài hát, hoa rơi xuống từ trời và mùi hương chưa từng có thơm đầy. Mỗi người trong năm đệ tử repa trải nghiệm một thị kiến khác nhau. Họ cùng nhau đảnh lễ và cúng dường một mạn đà la với yêu cầu tha thiết Mila ở lại với họ. Được cảm hứng bởi đức tin không thể kiềm chế được như vậy, những kinh nghiệm thuận lợi của thiền định cháy lên trong họ, và họ làm những cố gắng mới trong thực hành.

Mila hiến tặng bài ca tự phát về sự chứng ngộ này cho mọi thiền giả. Ngài mở đầu bằng một đoạn nói về sự thực hành Chỉ và Quán. Sau một đoạn xuất thần diễn tả sự tiến bộ tâm linh ngài đã đạt được từ thực hành ấy, Mila đóng lại bằng một số lời khuyên bảo trong hình thức châm ngôn.

7. Bài ca Chứng Ngộ trong Hang Tịnh Quang

Jetsušn Milarepa rời Động Răng Ngựa Đá Trắng và trở lại Hang Tịnh Quang ở Gungthang. Khi ở đó, sự chiếu sáng trong trẻo tiến triển mạnh mẽ trong tâm tập trung và ngài hát bài này:

Kính lễ lama thiêng liêng của con.

Tôi, thiền giả Milarepa,
Hiến tặng kinh nghiệm và chứng ngộ của tôi
Cho tất cả thiền giả khắp mười phương.

Tâm tôi thảnh thơi trong trạng thái tự nhiên của nó
Không cứng cỏi hay căng thẳng
Qua sự nuôi dưỡng dịu dàng, không phóng dật.

Tôi nhìn thẳng phía trước với con mắt của tỉnh giác quán xét,
Ở đàng sau người canh giữ của tỉnh giác tập trung,
Và giữ thân tâm thoải mái tỉnh thức.

Tâm thức tôi ở yên trong trạng thái bổn nhiên của nó
Thoát ngoài hôn trầm và xáo động,
Những lầm lạc của con mắt tâm tôi
Và những kinh nghiệm khác nhau trong định
Đều tan biến và trở về cội nguồn bổn nhiên của chúng.

Trong kinh nghiệm của định tĩnh vô niệm
Tâm sáng tỏ lấy lại sức mạnh vốn có của nó,
Trần trụi – trong trẻo và thuần khiết.
Đây đúng là kinh nghiệm định tĩnh
Một số người cho đó là quán chiếu,
Nhưng tôi không đồng ý như vậy.(16)

Trên con ngựa định tĩnh tốt đẹp như thế
Tôi cỡi lên sự tỉnh giác thấu rõ
Tính vô ngã của người (ngã) và vật (pháp)
Qua sự kiểm tra tinh tế bằng trí huệ phân tích.

Mang theo những ban ân của lama như lương thực,
Chúng có được từ sự cầu nguyện thành tâm.
Tôi đồng hành với trí huệ và phương tiện
Với những tính cách của tánh Không và Đại Bi.

Thúc đẩy bởi động lực sâu xa, lớn lao và sắt thép
Của thiện ý được phát động mạnh mẽ,
Tôi nhìn trở đi trở lại vào thực tại nền tảng
Với sự chăm sóc dịu dàng không chểnh mảng
Tự do ngoài mọi hy vọng và thất vọng.

Hãy biết rằng tôi đã du hành qua con đường thiền định tốt đẹp này
Giờ đây tôi nhìn nó với quán thấy tỏ suốt.
Hãy biết tôi đã đến trong xứ sở không còn phải du hành ;
Hãy biết tôi có bột mà không cần xay.

Hãy biết rằng tôi đang xem quang cảnh không thể thấy.
Hãy biết rằng tôi đã tìm ra quê nhà phúc lạc.
Hãy biết rằng tôi đã tìm ra người phối ngẫu thường hằng.
Hãy biết rằng tôi cung cấp lợi lạc cho chính tôi và những người khác.

Đây là những kho tàng của Milarepa ;
Nếu tôi đang ở trên con đường sai lầm, xin hãy sửa tôi cho đúng.

Eh ma ! Cho đến khi các bạn, những hành giả trong mười phương
Đạt đến Phật tánh viên mãn
Chớ bác bỏ nhân quả của hành động !
Cho đến khi chứng nghiệm trạng thái hiện thực hiện tiền.
Chớ chuyện trò vô nghĩa, trống không !

Cho đến khi các bạn có thể đổi lợi ích, quan tâm của mình cho người khác
Chớ có nói : “Tôi đã đạt đến Bồ Đề Tâm.”

Cho đến khi thân các bạn phản chiếu như thân bổn tôn
Chớ có nói : “Tôi đã đạt đến giai đoạn phát sanh !”

Cho đến khi cả hai giai đoạn đã đạt đến.
Chớ có nói : “Tôi là một thiền giả của những mật chú !”

Khi nào kinh nghiệm định tĩnh còn lộn xộn
Và những hình tướng huyễn hóa trong giấc mộng còn gây lầm lẫn,
Chớ có vất bỏ những tiên tri có ý nghĩa
Mà cho là đã có tri giác siêu nhiên.

Sự tin tưởng mạnh mẽ vào những giáo huấn của lama dâng trào trong các đệ tử của ngài. Họ tiếp tục có những nỗ lực mới mẻ trong thực hành thiền định không xao lãng, sâu xa liên tục như một dòng chảy của một con sông.

Phần này xoay quanh bản chất của quán chiếu phân tích và trí huệ siêu việt phát sanh từ đó. Sự thiền định của Rechungpa đã bị xáo trộn bởi một số ảo giác tràn ngập. Ông có thể nhận ra rằng chúng do sức mạnh thiền định của mình khơi dẫn ra và đã áp dụng những biện pháp sửa sai, nhưng đối diện với ảo giác hư vô của cái trống không rốt ráo ông đã bất lực. Đây là một kinh nghiệm chung : những ảo tưởng là những tri giác lầm lạc thuộc vật chất thì dễ đối phó hơn là những tri giác lầm lạc vào tà kiến hư vô.

Mila nói đúng điều đã xảy ra bằng những từ của việc thiền định – rằng những kinh nghiệm đó đi kèm theo những tiến bộ tích cực của Rechungpa – và rồi giải thích điểm chính yếu ; rằng trí huệ siêu việt bao gồm sự chứng ngộ tính bất nhị của chủ thể và đối tượng. Tâm không thể tự thấy chính nó ; bản tánh của nó chỉ có thể chứng ngộ qua sự loại trừ những tri giác sai lầm và định kiến che khuất tâm và những đối tượng của nó. Tâm thức bình thường, thế tục diễn dịch kinh nghiệm bằng những quy ước danh xưng, sự đồng thuận thuộc ý niệm về thế giới được quy định trước khi sanh ra, và sau đó được bổ sung chi tiết bởi những sự điều kiện hóa của kinh nghiệm lầm lạc. Kinh nghiệm trực tiếp tánh Không là sự tri giác về sự không có tính chất độc lập (vô tự tánh) trong tất cả mọi sự. Nó được đạt đến qua sự loại trừ có hệ thống những giả định sai lầm đã diễn dịch thế giới như là cái gì hơn hay là cái gì kém so với nó thực là. Không có tính chất, vô ngã, vô tự tánh tuy nhiên hiện tượng đa dạng của thế giới chủ quan và khách quan xuất hiện – đó là sự chứng ngộ vào lúc chót của quá trình thiền định quán chiếu phân tích.

(Còn tiếp)