Những Bài Ca của vị Thánh được Mến Yêu của Tây Tạng, Milarepa
Nguyên tác: Drinking the Mountain Stream, Song of Tibet’s Beloved Saint, Milarepa
Việt dịch: Tha Nhân

***

Uống dòng suối núi (Phần 7)

8. Sự bối rối của Rechungpa

Một buổi sáng khi Jetsušn Milarepa và “con” của ngài là Rechungpa đang ở trong động Núi Khối Đỏ, Rechungpa đến gần ngài. Sau khi đảnh lễ nhiều lần, ông quỳ gối chắp tay và nói :

Con tán thán hiện thân của Jetsušn :
Thân thể trần truồng mà sáng chói,
Lời nói hiện bày âm thanh kim cương ngọt ngào không dứt,
Tâm chìm trong cảnh giới thanh tịnh của thực tại.

Con, Rechungpa Dorje Drak,
Sinh trong đồng bằng Gungthang thượng
Có được thân người do phước đức đã gom
Và gặp ngài, bậc cứu độ vinh quang của chúng sanh.

Được dẫn dắt bởi lòng từ bi bao la của Thầy
Con bắt đầu đi vào giáo pháp của con đường sâu xa.
Đặc biệt, con nỗ lực trong giáo lý tummo,
Và khi kinh nghiệm và chứng ngộ ban sơ khởi lên,
Thầy đã phát hiện cho con cái tối hậu.
Niềm tin vào cái thấy đã sinh ra ở bên trong,
Và con có được đức tin không lay chuyển.

Jetsušn, rồi Thầy đã nói với con,
“Mọi kinh nghiệm như huyễn xảy ra
Đều là những tạo tác huyễn hóa của tâm.
Hãy đi đến trạng thái thực tại bổn nhiên.”

Đã xảy như thế này :

Con lạc khỏi tỉnh giác trong sáng tự nhiên
Và rơi vào sự xáo động của những ảo tưởng tâm thức.

Đôi khi những ảo giác thuộc đất xảy ra :
Trong khi những biến cố khủng khiếp như bẫy sập, đất chuồi và đá rớt,
Con chú tâm vào thật tánh của chúng,
Và dòng chảy của những hình tướng tư tưởng đa dạng chiếu sáng
Như là những quang minh của ánh sáng rực rỡ, vàng chói.

Đôi khi những ảo giác thuộc nước xảy ra :
Con bị cuốn đi bởi nước trôi ào ạt
Và ném vào những làn sóng của đại dương –
Và chúng chiếu sáng như những quang minh màu xanh đậm.

Đôi khi những ảo giác thuộc lửa xảy ra :
Những lưỡi lửa lóe sáng ; và con rơi vào một cảnh rùng rợn,
Bị bao phủ trong lửa đỏ sậm và khói –
Và chúng chiếu sáng như là những quang minh bốc lửa.

Nhưng có khi những ngọn gió lớn gầm thét,
Con bị thổi vào khoảng tối của không gian
Và lắc lư tới lui với âm thanh gấp gáp.
Không có điểm định hướng nào trong tâm
Con bị nỗi sợ hãi cái trống không cùng cực khống chế.

Khi những ảo giác phá hoại ấy xảy ra
Thiền định bị đứt quãng và lạc đường.
Con phải đối phó với điều ấy như thế nào ?
Lama nhân từ, xin hãy nói.

Để trả lời Mila hát :

Với thân, khẩu, ý kính cẩn
Con cầu nguyện dịch giả Marpa
Người đặt con vào con đường không hư huyễn
Bằng cách đập tan chuồng cũi huyễn hoặc.

Giờ hãy nghe, Rechungpa :
Đôi khi đang chú tâm vào trạng thái thực tại
Ảo giác thuộc về đất được kinh nghiệm,
Và cũng như thế với nước, lửa, gió và hư không.
Do chúng mà sợ hãi tấn công,
Những màu sắc sáng tự nhiên của các đại chiếu sáng,
Và những sáng tạo như huyễn và đa dạng xuất hiện.

Thân thể này có được là từ hành động (nghiệp)
Đã tích tập bởi vô minh qua thời gian vô thủy,
Chính cái tâm thức tác nhân chủ yếu
Tiếp tục gieo những hạt của hành động vô minh
Vào miếng đất của tâm thức căn bản.

Từ thời vô thủy đến nay
Con đã lạc mất mình trên cánh đồng bao la của huyễn hoặc
Trong những thân như huyễn tạo thành cách sai lầm đó.

Bây giờ do những giáo huấn của lama
Tâm thức con bị ép lại một chút,
Và những ảo giác gây khổ đau được trải nghiệm
Bởi sự xâm nhập yếu ớt của bốn đại vào cửa những kinh mạch –
Dấu hiệu của sự nới lỏng bớt những kinh mạch bị thắt gút
Và sự khơi động khí và hạt trắng.

Tại sao lại khổ sở hay sợ hãi
Hay kinh hoàng bởi việc này ?
Đó là dấu hiệu khó chịu của sự thực hành tốt,
Một chút nhỏ của kinh nghiệm thiền định
Dấu hiệu mở ra của những kinh mạch,
Sự phát hiện vẻ huy hoàng của bốn đại.

Giờ đây là giáo huấn của lama của con về điều ấy,
Sự cổ vũ của ngón tay ngài chỉ bày –
Hãy mang nó trong tâm, đứa con cao quý !

Nếu con muốn cái thấy của trí huệ thực sự,
Hãy khám phá bản tánh của tâm
Với chính tâm theo lối này :

Tâm này tự bản tánh trong sáng và trống không,
Như hư không tự do với mọi vật ;
Không chút gì hiện hữu
Để có thể biến nó thành một đối tượng cho sự hiểu biết.

Lấy ví dụ, điều này giống như sự bất lực
Của một con mắt để thấy chính nó,
Hay của hư không để phát lộ
Bản chất không thể phát lộ của mình.

Tâm không thể thấy chính nó –
Chủ thể và đối tượng không thể là hai ;
Bởi thế, để thấy tâm
Con phải nhìn và thăm dò bằng con mắt của trí huệ.

Khi thăm dò và khảo sát cặn kẽ
Với sự thẩm sát và khám phá theo lối phân tích
Cái tâm thì giống như tim bấc của một ngọn đèn
Chiếu sáng chỉ qua sự tỏa sáng của chính nó.

Cũng thế, dù cái tâm tự nhiên, tự sáng này
Thì trong sáng và thoát khỏi mọi che tối,
Nó sanh và diệt theo nhân quả
Trong mỗi niệm của tánh Giác
Và chỉ biết nó qua phân tích quán sát.
Bấy giờ cách thức nào cho sự chứng ngộ ấy ?

Trong chứng ngộ tánh Không nhờ cái giác bất nhị,
Phúc lạc, trong sáng và thoát khỏi dòng tư tưởng,
Ngay sự chứng ngộ này do cái giác ấy
Thoát khỏi nhị nguyên của chủ thể và đối tượng,
Của người biết và cái được biết,
Thì sự chứng ngộ này cũng chỉ là một quy ước danh xưng.
Hãy biết rằng những quy ước danh xưng
Không thể xem là hiện hữu
Một cách chủ quan, khách quan hay cả hai.

Để tóm tắt, nó như thế này :
Tâm thức nền tảng này
Tự trong chính nó là không có gì hết thảy.
Trong tánh Không của thực tại
Không có người-chứng-ngộ và cái được-chứng-ngộ được chứng ngộ,
Không có người thấy và cái bị-thấy được thấy,
Không có người biết và cái để biết được biết,
Không có người tri giác và đối tượng tri giác được tri giác.

Như thế, bằng cách chặt đứt những giả định lầm lạc của con từ bên trong.
Bằng cách chứng ngộ, thấy, biết và tri giác.
Sự không hiện hữu của bất kỳ một trung tâm nào ở trong tâm,
Hãy hiểu rằng mọi hình tướng này –
Những chuyển hóa đa dạng của tâm –
Là Một Vị trong tánh Không của thực tại.

Trong tánh Không, không có tăng thêm hay giảm bớt –
Không có xuất hiện, biến mất hay thay đổi.
Thực tại này của tâm tự giác,
Dầu cho nó xuất hiện như hợp lưu của nhiều lầm lỗi,
Tự bản chất vốn thoát khỏi sanh hay diệt,
Đến hay đi, hay biến dịch sát na.
Trong đó, không có hơn hay thiếu, không đầy hay khuyết,
Không có sự giúp đỡ hay làm hại, không có hiện hữu hay không hiện hữu chút nào.

Thức nền tảng này của Tự Tâm
Không có nền tảng khởi nguyên,
Không có nhân hay duyên tạo tác
Vì sự thường hằng của nó, không có cái gì để cần làm cho sáng tỏ
Trong những chức năng ý thức phù du của nó ;
Và lúc cuối cùng không có sự chấm dứt.

Tánh Giác rốt ráo trong sáng và thông tỏ này.
Không phân biệt với hư không,
Mà chỉ là đồng nhất
Tuy nhiên do những duyên cho đối tượng mà cái nhiều xuất hiện ;
Cái nhiều xuất hiện, mà chỉ là một –
Và trong đó không có đặc tính nào được tri giác thấy.

Mở cánh cửa ra tánh Không của đặc tính (vô tự tánh),
Giác trong sáng thanh tịnh tràn ngập khắp nơi,
Và dầu khắp nơi, không ở nơi đâu một đặc tính có thể được tìm thấy.

Dầu vô tự tánh hiện diện trong trạng thái của thực tại,
Những huyễn hóa chớp nhoáng lóe qua tâm.
Dầu những lỗi lầm đa dạng xảy ra,
Không có căn cứ hay gốc gác nào trong chúng có thể được nắm bắt.

Hãy trau dồi sự hòa nhập này vào trạng thái bổn nhiên
Qua thẩm sát và khám phá triệt để
Bằng trí huệ phân tích.

Như thế, hôm nay ta đã tiết lộ cho con ta
Lời khuyên bảo này của người cha ;
Sau khi thực hiện ý nghĩa tối hậu của nó,
Mong con có phước đức hướng dẫn
Cho tất cả chúng sanh đến giải thoát.

Phadampa Sangye, một đạo sư Ấn Độ có những thành tựu phi thường, đến Tây Tạng năm 1092. Ngài được kể lại trong chương 30 của Một Trăm Ngàn Bài Ca như là một trong năm thiền giả giác ngộ của thời đại. Ngài là một đệ tử của những thành tựu giả Ấn Độ Nagarjuna và Virupa và thuộc về phái Mật thừa của Tu viện Vikramasila. Dòng giáo lý của ngài, được gọi là “Sự làm bình yên khốn khổ” (TT. sdug bsngal zhi byed) đã không tồn tại như một hệ thống độc lập, như ngài tiên đoán trong câu chuyện đó. Tuy nhiên, ngài cũng đem những giáo lý “Cắt Đứt” (TT. gcod) đến Tây Tạng và Nepal và dạy cho nữ thiền giả Nepal nổi tiếng Ma Chig Lab Drošn, người đã sáng tạo ra hình thức “Cắt Đứt” đặc biệt của riêng mình. Hệ thống Cắt Đứt tiếp tục nguyên vẹn đến ngày nay và là dòng phái duy nhất đã truyền trở lại Ấn Độ sau khi phát triển ở Tây Tạng.

Câu chuyện này gồm hai bài ca nổi tiếng – “Bài Ca Điên” và “Bài Ca Không Sợ Hãi” của Mila – cả hai nằm trong Một Trăm Ngàn Bài Ca. Những giáo huấn chót của Phadampa Sangye cho dân chúng Dingri, thành phố phía tây nam Tây Tạng nơi ngài đã lập ra một tu viện và chính Mila thường đi đến đó, đã được đưa vào cuốn sách Sách Tây Tạng về Đại Giải Thoát (của Evans Wentz).

9. Sự gặp gỡ của Mila với Dampa Sangye

Một lần, đạo sư Ấn Độ Phadampa Sangye nghĩ rằng, “Milarepa này của Tây Tạng được nói là một thành tựu giả hạng nhất. Ta phải gặp ông ta ít nhất một lần.” Rồi ngài bay từ Ấn Độ vào lúc rạng đông và đến đỉnh Đèo Thongla xứ Nyanang khi những tia mặt trời đầu tiên lộ sáng. Nơi đó, ngài hóa hiện thành nhiều hình tướng đạo sư giống như ngài và ngồi ở giữa họ.
Khi ấy Mila đi từ miền dưới của bình nguyên Dingri cùng với một vài người lái buôn, gặp ngài ở trên đỉnh đèo. Nhận ra Dampa là người với thái độ khiêm hạ giữa các đạo sư, Jetsušn cung kính đảnh lễ.

Vị đạo sư nói : “Ở đây không có ai thấp hơn tôi. Chớ có tôn kính tôi một cách vô nghĩa. Chắc ông đã điên rồi, thiền giả.”

Mila trả lời bằng bài ca :

Con cầu nguyện lama toàn giác của con – Xin ban cho con ân phước.

Thiền giả Ấn Độ, xin ngài hãy nghe :
Khổ sở bởi ma vô minh
Hầu hết chúng sanh trong sáu nẻo đều điên.
Đã chứng ngộ các hình tướng đều như huyễn
Đặc biệt Milarepa cũng điên.
Với sự thấu biết siêu nhiên tâm người khác
Vị cha già Marpa Lotsawa là điên.
Với sự can đảm trong khó nhọc vì chánh pháp
Sư ông, đại học giả Naropa, là điên.
Với những năng lực chuyển hóa không thể nghĩ bàn
Sư cố Tilo Sherab Sangbo là điên.

Luôn luôn ban cho cái lạc tự nhiên
Vajrayogini cũng điên.
Được ôm ấp trong sự kết hợp không bợn nhơ của đại lạc,
Nguyên tổ của dòng, Vajradhara là điên.

Thử tự che dấu mình với tôi
Hỡi Dampa tôn kính – ngài cũng điên nốt !
Cha ngài điên, con ngài điên, ông ngài điên !
Ngài điên, tôi điên, mọi người đều điên !

Một số người điên vì hành động vô minh.
Một số người điên vì dòng sông tham ái.
Một số người điên vì sân hận.
Một số người điên vì sương mù si mê.
Một số người điên vì thuốc độc kiêu hãnh.

Ngài điên do biết được tâm người khác,
Tôi điên do thấu suốt trạng thái bổn nhiên.

Ngài điên bởi chứng đắc chủng tử tự.
Tôi điên bởi chứng đắc vô sanh.

Ngài điên bởi sự thực hành làm cho an bình.
Tôi điên bởi kinh nghiệm Đại Ấn.

Bài ca của sự gặp gỡ của những người điên này
Là tiếng vang trống không của Đại Ấn.

Bấy giờ Dampa hiện thân thật của ngài và nói : “Ông đã hát lên mọi Pháp và giáo huấn bí mật thành bài ca ! Ông thuyết Pháp sâu xa ở nơi chợ búa ! Hơn nữa, thái độ của ông là tùy tiện và điên rồ ! Ông sẽ làm gì khi những dakini gởi tới sự phán xét của họ ?”

Mila bèn hát :

Đến lama, thần bổn tôn, và những dakini
Con cầu nguyện – hãy ban cho con ân phước.

Trong sư tử to lớn của tâm vô hạn
Ba cái thiện xảo không sợ hãi đều đầy đủ,
Và nó ngủ trong tuyết không làm tan tuyết.
Hãy để cho cái chết đến với người nắm giữ cái thấy này –
Khi tôi chết, tôi hoan hỷ trong cái chết ;
Khi cái chết đến, tôi sẽ chết một cách phúc lạc.

Tâm tôi là một con kên kên không có hy vọng hay sợ hãi
Nó dương đôi cánh của phương tiện và trí huệ hợp nhất
Và ngủ trên ngọn núi của thực tại bổn nhiên.
Hãy để cho cái chết đến với người thiền giả này –
Khi tôi chết, tôi hoan hỷ trong cái chết ;
Khi cái chết đến, tôi sẽ đến trong lạc phúc.

Tôi là một con cọp trẻ thoát khỏi lấy hay bỏ,
Mỉm nụ cười của không hoạt động,
Ngủ thoải mái trong rừng của trí huệ rốt ráo.
Hãy để cho cái chết đến với hành giả này –
Khi tôi chết, tôi hoan hỷ trong cái chết ;
Khi cái chết đến, tôi sẽ đến trong lạc phúc.

Tôi là một con cá nhỏ của cái biết trạng thái bổn nhiên
Bơi lội nơi chiều sâu của đại dương thực tại,
An trụ trong trạng thái bất biến của pháp thân.
Hãy để cho cái chết đến với người sở hữu những kết quả này –
Khi tôi chết, tôi hoan hỷ trong cái chết ;
Khi cái chết đến, tôi sẽ đến trong lạc phúc.

Bên phải tôi những chiến sĩ đứng như sư tử,
Bên trái tôi những nữ anh hùng nhảy múa.
Những hộ pháp chờ đợi phía trước tôi như những người giúp việc,
Và những hành giả theo tôi như những con chó.

Dòng Phái của Thế Giới(17) uốn vòng bên trên như một mái vòm,
Và dưới nó, những dakini bay lượn như mây.
Một thiền giả repa như thế
Không sợ gì sự chuyển đến lời phán xét.

Dampa tự nghĩ, “Quả thật, ông ta đã có sự tự tin lớn lao của cái thấy – nhưng thần lực của ông ta thì sao ?” Bởi thế để thử nghiệm ngài, Dampa Sangye biến thành nhiều hóa thân ngồi trên mỗi viên nhỏ của đống phân thú vật. Nhưng Jetsušn cũng tự hóa ra nhiều thành mỗi Milarepa trên đầu mỗi cọng cỏ. Ngạc nhiên Dampa nói, “Những thần lực của ngài thật đúng như ngài đã nêu ra trong bài ca của ngài ! Bây giờ chúng ta, hai thành tựu giả của Ấn Độ và Tây Tạng đã gặp nhau, chúng ta nên ăn mừng sự hòa hợp của chúng ta bằng một bữa tiệc. Ngài muốn rút ra nước hay làm ra lửa ?”

Jetsušn trả lời, “Tôi sẽ rút ra nước.” Ngài đi đến một con suối và vốc nước xanh đặc như thạch vào một cái túi. Khi trở lại, Dampa nói, “Nước này không đủ cho chúng ta, hai thành tựu giả. Chúng ta phải dâng cúng phần đầu tiên của bữa tiệc cho những chiến sĩ và dakini, rồi phần còn lại cho tất cả các vị thầy và thương gia tụ hội ở đây.”

Mila trả lời, “Hãy đốt lửa lên.”

Dampa bèn làm bật lên ngọn lửa trong đống đá trên đỉnh đèo. Jetsušn nói, “Chúng ta cần một cái nồi.” Dampa tạo ra một cái tô sọ người từ nách mình, và khi để nó trên lửa, nó lớn ra thành một kích thước khổng lồ. Jetsušn rút nước từ không khí và rót đầy cái tô sọ người. Rồi ngài khuấy nó và không cần thêm vào gì cả nó biến thành đầy những thức ăn. Đặt nó trước mặt Dampa ngài cúng phần thứ nhất của bữa tiệc cho những dakini và chia phần còn lại đều cho các vị thầy và những thương gia. Có một phần còn lại. Jetsušn nói, “Tôi nên cúng phần này cho ai ?” Từ trời cao, những dakini trả lời :

Tam Bảo và những hộ pháp vui lòng với sự phục vụ của ngài,
Mẹ và những dakini thỏa thích với bữa tiệc của ngài,
Dampa Sangye bằng lòng với đồ cúng của ngài,
Những người tụ hội nơi đây đã nhận được phần của họ –
Hãy lấy nó cho ngài, thiền giả repa.

Hát như thế, những dakini sửa soạn những món dâng cúng kỳ diệu và cử hành bữa tiệc. Họ trình diễn những bài ca kim cương và âm nhạc, và hoa mưa xuống từ trời. Mọi người hiện diện đều ngạc nhiên và nhận được những ân phước rất lớn lao. Vào lúc chấm dứt lễ tiệc vòng tròn này, tất cả những tâm thức hòa trong một sự thông cảm sâu xa. Họ bàn nhiều về Pháp, sau đó Jetsušn hát :

Con lạy dưới chân lama thiện xảo của con.

Vị Dampa Sangye người Ấn Độ này
Đến Thongla, Nyanang, xứ Tây Tạng.
Thiền giả Mila cũng đến
Để nhìn thấy mặt của con người vĩ đại này.
Chúng tôi đã phô diễn những thần lực kỳ diệu,
Và cử hành lẽ tiệc thiêng liêng.
Chúng tôi được tôn vinh theo nhiều cách bởi những dakini –
Một trận mưa hoa từ bầu trời
Và âm thanh du dương của âm nhạc lừng vang.

Chúng tôi đã chuyện vãn nhiều về Pháp,
Tâm chúng tôi hòa hợp trong những chiều sâu của thực tại.
Tất cả các bạn ở đây đã được ban cho nhiều lợi lạc.

Một con đại bàng non của tâm thức nền tảng,
Tôi sải đôi cánh của phương tiện và trí huệ hợp nhất
Và bay vào bầu trời mênh mông của thực tại.
Với đôi mắt dò tìm tôi nhìn khắp mọi hướng –
Tôi thấy vực thẳm của ba cõi thấp
Và ánh sáng mặt trời mặt trăng mờ nhạt của các cõi cao.
Tôi thấy những đám mây tụ hội của hành động tốt và xấu.
Và mặt trời mặt trăng lên xuống của sanh và tử.
Tôi thấy bầu trời của thực tại hiện tiền
Tôi thấy thế giới hình tướng như là mộng huyễn.
Tôi thấy cái Tuyệt Đối không thể diễn tả, không thể nghĩ bàn.

Eh ma ! Hiện tượng của sanh tử hình tướng
Không hiện hữu – mà xuất hiện ! Lạ lùng thay !

Dampa nói : “Dòng pháp của ta như một ngọn lửa – một khi cháy lên nó sẽ cháy hết. Còn của ngài như một dòng sông – nó sẽ chảy dài dài. Bây giờ tôi không cần ngài và ngài cũng không cần tôi.”

Lúc đó cả hai bay lên trời, đi theo con đường riêng của họ như những con kên kên bay tán loạn từ một xác chết.

(Còn tiếp)