HUYỀN TRANG – NHÀ CHIÊM BÁI VÀ HỌC GIẢ
Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar
Nguyên tác Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu-Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam tái bản, 1989
III. HUYỀN TRANG, VỊ HỌC GIẢ
Pháp sư đi Ấn Độ chiếm bái, cốt nhất để tìm học chánh pháp và sưu tầm kinh điển. Với mục đích duy nhất ấy, trong cuộc chiêm bái của Ngài, Pháp sư không bao giờ bỏ lỡ một dịp nào để học chánh pháp với bất cứ ai có biệt tài riêng về một bộ nào trong kinh điển. Dầu cuộc đi của Ngài đầy gian khổ, một khi đến nước nào, Ngài liền tìm hỏi người bản xứ có một vị Pháp sư nào xuất sắc tại chỗ, và Ngài liền đến học hỏi đạo với vị ấy.
Chính khi Ngài còn ở Trung Hoa, chí hiếu học và sự khao khát tìm hiểu đạo pháp của Ngài làm Ngài nổi tiếng khắp xứ. Khi mới xuất gia, ở với người anh, Ngài học quyển Mahaparimirvanasutra (Đại-bát-niết-bàn Kinh) với Cảnh Pháp sư. Ngài học quá say mê đến nỗi quên ăn bỏ ngủ. Ngài cũng học quyển Mahayanasamgraha (Nhiếp-đại-thừa luận) với Nghiêm Pháp sư. Ngài ham thích quyển ấy đến nỗi suốt cả một thời Ngài thuộc lòng cả bộ. Dân chúng hết sức khâm phục tài thần đồng ấy và mời Ngài lên giảng. Lời giảng của Ngài hoàn toàn phù hợp với những lời dạy của các vị Pháp sư và danh tiếng Ngài vang lừng từ đấy. Khi ấy Ngài chỉ mới 13 tuổi.
Tại Thành đô Ngài học bộ Mahayanasamgraha (Nhiếp đại thừa) và bộ Abhidhammasamuccaya (Tỳ-đàm-tập-yếu) với Pháp sư Cơ và Tiềm. Ngài cũng học bộ Abhidharmajnanaprasthanasastra (A-tỳ-đàm phát trí luận) của Ngài Katyayana (Ca-chiên-diên) với Chấn Pháp sư. Ngài học rất chuyên cần không lúc nào lãng phí thời gian và chỉ trong vòng 2, 3 năm đã thấu hiểu giáo lý của nhiều bộ phái.
Khi đến 20 tuổi, Ngài thọ giới tại Thành đô, an cư kiết hạ và học luật tạng. Chỉ học qua một lần Ngài thấu hiểu các giới điều. Sau khi học xong các kinh tạng và các bộ sớ giải ở nước Thục, Ngài liền đi thuyền xuống sông Dương Tử và đến Kinh Châu để tìm các bậc Pháp sư thâm thiểu giáo pháp. Sau khi giảng đạo ở Kinh Châu, Ngài đi về phía bắc dừng lại ở Tương Châu hỏi đạo với Hư Pháp sư để giải nghi một vài vấn đề.
Rồi Ngài đi đến Triều Châu học bộ Satyasaddhisastra (Thành-thực-luận) với Tham Pháp sư. Xong Ngài đi đến Trường An và học lại bộ Abhidharmakosa (Câu-xá-luận) với Nhạc Pháp sư.
Chỉ đọc qua một lần, Ngài thấu nhận ngay thâm nghĩa của đoạn ấy. Những gì mắt Ngài xem qua là được in sâu vào tâm trí. Cho đến các vị học giả kỳ tài cũng không thể nào hơn Ngài được. Còn về sự thấu triệt những gì sâu kín, sự chứng đạt những gì xa vời, sự cởi mở những gì nhỏ nhặt và sự trình bày những gì che kín, thật không ai có thể so sánh với Ngài. Chỉ một mình Ngài là chứng ngộ giáo lý mầu nhiệm sâu kín nhất và có nhiều ý kiến nhận xét đặc biệt.
Thời ấy ở Trường An có hai vị Pháp sư là Pháp Thường và Tâm Biện, giới hạnh tinh nghiêm lại thông hiểu cả giáo lý đại thừa và chuyên môn diễn giảng bộ Mahayanasamgraha (Nhiếp đại thừa). Ngài Huyền Trang tuy đã có danh tiếng nhưng vẫn học đạo với hai vị pháp sư này, và cuối cùng hai vị phải tuyên bố là không còn gì để dạy cho Ngài nữa. Hai vị nói: “Người thật là con ngựa câu ngàn dặm trong hàng Thích tử, chiếu sáng mặt trời trí tuệ sẽ là bổn phận của Người. Chúng tôi tiếc chúng chúng tôi đã lớn tuổi không chứng kiến được sự thành công của Người.”
Sau khi học đạo với nhiều vị Pháp sư và suy nghĩ kỹ đến những lời dạy của các vị này, Ngài thấy sự tương phản và mâu thuẫn trong giáo lý của các bộ phái và phân vân không hiểu vì sao có những quái tượng ấy. Do vậy, ngài quyết du hành qua Tây phương (Ấn Độ) để học đạo với các vị Pháp sư Ần. Và cuộc du hành của Ngài đã trở thành không những là cuộc chiêm bái các Phật tích mà còn là cả một sự hướng tìm chân lý và chánh pháp.
Khi đến tại thành Bhalluka (Ba-lợi-thành), Ngài hỏi một vị Pháp sư tiểu thừa tên là Prajnakara (Bát-nhã-yết-la) về một vài đoạn khó hiểu trong bộ Abhidharmakosasastra (Câu Xá luận) và Vibhashasastra (Tỳ-bà-sa-luận). Ngài ở tại tinh xá Jayandra (Già-da-nhân-đà-la) và học đạo với Pháp sư Sanghakirti (Tăng Xứng) một vị sư đã 70 tuổi nhưng rất hoan hỉ để dạy cho Pháp sư. Buổi sáng ngài Tăng Xứng dạy luận Câu xá và buổi chiều dạy bộ Abhidharmanyanusarasastra (A-tỳ-đạt-ma-chánh-lý-luận) và đến tối vị này giảng cho Ngài bộ Hetuvidyasastra (Nhân minh luận) và Thanh minh luận. Ngài học hết sực tinh tấn và nhận hiểu ngay những điều đã dạy đến nỗi Pháp sư Tăng Xứng đã phải khen ngợi như sau:
“Vị sự Trung Hoa này thật thông minh sắc sảo và không ai trong đại chúng ngày có thể sánh bằng. Trí tuệ của Ngài có thể tương đương với truyền thống của Ngài Vasubandhu (Thế Thân) và Ngài Asanga (Vô Trước). Thật đáng tiếc là Ngài sinh ở một biên địa không được sớm thấm nhuần đạo vị của các bậc thánh hiền.”
Lời tán thành này của Ngài Tăng Xứng khiến cho một vài vị Pháp sư trong đại chúng ghen tức, như ngài Suddhasimha (Tăng-kỳ-mậu-đà-ta-ha), dịch là Tịnh Sư tử, và Ngài Kinabandhu (Thân-nu-phạn-trà, dịch là Tối thắng thân) thuộc phái đại thừa, Ngài Tathagatamitra (Tát-bà-đa-học-tăng-tô-già-mạt-đà-la, dịch là Như Lai Hữu) và Ngài Vasumitra (Bà-tô-mạt-đa-la, dịch là Thế Hữu) thuộc phái Sarvastivada (Nhất thế hữu bộ), Ngài Suryadeva (Tăng-kỳ-bộ-học tăng tô-lợi-gia-đề-ba, dịch là Nhật Thiên) và Ngài Jinatrata (Thân-na-đán-la-đa, dịch là Tối Thắng Cừu) thuộc phái Mahasanghika (Đại chúng bộ). Họ nêu lên nhiều câu hỏi khó khăn và thắc mắc để làm khó dễ Ngài. Nhưng những câu trả lời ngay thẳng, rõ ràng đã làm cho các kẻ đối lập phải khâm phục tài cao học rộng của ngài. Tại xứ Kashmir này Ngài ở đến hai năm để học kinh điển và sớ giải.
Khi Ngài đến Cheka (Thước-ca) Ngài ở lại một tháng để học bộ Stasastra (Bách-luận) và bộ Satasastravaipulya (Quảng-bách luận) với một vị Bà-la-môn già; vị này là đệ tử của Ngài Nagarjuna (Long Thọ) và thâm hiểu bộ Madhyamikasastra (Trung luận) và bộ Satasastra (Bách luận).
Từ Cheka (Thước-ca), Pháp sư đi đến nước Cinabhukti (Chi-na-phác-đế) và ở tại tinh xá Tosasana (Đột-xá-tát-na) trong mười bốn tháng để học bộ Abhidharmasamuccayavyakhya (Đối pháp luận), bộ Abhidharma-prahranasasanasastra (Lý môn luận) và các bộ luận khác với Ngài Vinitaprabha (Tỳ-ni-bát-nhã-bà, dịch là Điều phục quang). Ngài Vinitaprabha này đã soạn hai bộ sớ về quyển Pancaskandhasastra (Ngũ-uẩn luận) và quyển Vidyamatrasiddhitridasakarikasastra (Duy thức tam thập luận thích).
Khi Ngài đến nước Jalandhara (Xà-lan-đạt-na), Ngài ở tại chùa Nagaradhana (Na-già-la-đà-na) trong 4 tháng để học bộ Abhidharmaprakaranapadavibhasasastra (Chúng sự phần tỳ-bà-sa) với Đại đức Chandravarma (Chiến-đạt-la phạt-ma, dịch là Nguyệt Trù).
Tại Gangadvara (Căng-già) (nguồn của sông Hằng), Ngài ở cả mùa đông và nửa mùa xuân để học bộ Vibhâshasàtra (Tỳ-bà-sa) của phái Sautrantika (Kinh bộ) với một đại đức tên là Jayagupta (Na-già-cúc-đa).
Sau khi qua sông lên bờ phía đông, Ngài đến nước Matipura (Mạt-đế-bổ-la) trong nước này có một đại đức lão thành tên Mitrasena (Mạt-đa-tư-na), vị này là đệ tử của luận sư Gunaprabha (Cù-na-bát-thích-bà, dịch là Đức Quang) và rất tinh thông ba tạng kinh điển. Pháp sư ở đây nửa mùa xuân và cả mùa hạ để học bộ Tattvasandesasastra (Tát-bà-đa-bố, Đán hỏa tam đệ thước luận, dịch là Biện chơn luận), bộ Abhidharmajnanaprasthanasastra (Phát trí luận) và một vài bộ khác của phái Nhất thế hữu bộ.
Khi Pháp sư đến nước Kanyakubja (Yết-nhã-cúc-xà, dịch là Khúc-nữ thành), Ngài ở tinh xá Bhadra (Bát-đà-la-tì-ha-la) và học bộ Vibhashasastra (Tỳ-bà-sa luận) của Suryavarman (Nhật Trụ) với Ngài Viryasena (Tỳ-li-gia-tư-na), một Pháp sư tinh thông ba tạng kinh điển.
Tại Phật học viện Nalanda, Ngài học chánh pháp với Ngài Silabhadra (Giới Hiền), Ngài nghe giảng bộ Yogacaryabhumisastra (Du-già sư-địa-luận) ba lần, bộ Abhidhãmanyayanusara (Thuận-chánh-lý luận), bộ Prakaranaryavacasasastra, bộ Abhidharmasamuccayavyakya (Đối pháp) mỗi bộ một lần, bộ Hetuvidyasastra (Nhơn minh luận), bộ Sabdavidyasastra (Tập lượng), mỗi bộ hai lần, bộ Madhyamikasastra (Trung luận), và bộ Satasastra (Bách luận) mỗi bộ ba lần. Còn các bộ như Abhidharmamakosasastra (Câu xá luận), bộ Vibhashasastra (Tỳ bà sa luận) và sáu bộ Abhidharmapadasastra (Lục túc luận) mà Ngài đã học tại Kashmir (Ca-thấp-ba) hay tại các chỗ khác, Ngài chỉ tìm hỏi những đoạn nghi ngờ.
Ngài cũng học một quyển sách Bà-la-môn tên là Ký luận, từ trước đến nay không biết tác giả là ai. Quyển sách này rất dày gồm có trăm vạn bài tụng. Tục truyền quyển này do Phạm Thiên giảng còn tất cả 100 vạn bài tụng. Kế đến Đế Thích soạn ngắn lại có 100 ngàn bài tụng. Sau ông Panini lại giảm xuống còn tám ngàn (8.000) bài tụng. Đây là bản luận đang lưu hành ở Ấn Độ. Pháp sư thâm hiểu tiếng Phạn và có thể biện luận Phật pháp với dân chúng Ấn Độ bằng tiếng Phạn. Pháp sư ở tại Nalanda đến năm năm để học hỏi Tam Tạng kinh điển của các bộ phái và một vài bộ sách Bà-la-môn.
Sau khi rời Nalanda, Pháp sư lại đi đến xứ Hiranyaparvata (Y-lan-noa). Tại chỗ này Pháp sư ở tới một năm để học quyển Vibhashasastra (Tỳ-bà-sa) và quyển Abhidharmanyayanusara (Thuận chánh lý luận) với Ngài Tathagatagupta (Đán-tha-yết-đa-cúc-đa dịch là Như Lai mật), và Ngài Kshantisimba (Sằng-đề-tăng-ha, dịch là Sư tử nhẫn), hai vị này thâm hiểu Tam tạng của phái Nhất hữu bộ.
Tại nước Dhanakataka (Đà-na-yết-kiệt-đà) Pháp sư gặp hai vị sư tên là Subhiti (Tu-bồ-đề) và Surya (Tô-lộc-gia), hai vị này tinh thông Tam tạng của Đại chúng bộ. Pháp sư ở tại đây vài tháng để học tập Mulabhidhamasastra (Căn bản A-tỳ-Đạt-ma-luận) và các bộ khác của Đại chúng bộ với hai vị này.
Khi Pháp sư đến nước Parvata (Bá-phạt-đa), Ngài ở lại đây hai năm để học tập quyển Mulàbhidharma (căn bản A-tỳ-đạt-ma) của Chánh lượng bộ (Sammatiya), quyển Saddharmasamparigrahasastra (Nhiếp chánh pháp luận) và quyển Prasikshasastra (Giáo thực luận) với một vài vị Pháp sư có danh tiếng tại đây.
Từ nước Parvata, Pháp sư về lại Nalanda. Rồi Ngài lại đi đến chùa Tialanaka (Để-la-bịch-ca) cách Nalanda ba dặm, ở tại đó hai tháng với Ngài Prajnabhadra (Trí Hiền) để giải quyết một vài nghi vấn. Vị này tinh thông Tam tạng của Nhất thế Hữu bộ và cả Nhơn minh, Thanh minh. Rồi Ngài lại đến núi Trượng Lâm thăm vị cư sĩ luận sư tên là Prasenajit (Thắng Quân). Vị này trước học Nhơn minh với ngài luận sư Bhadraruci (Hiền Ái), sau học bộ Thanh minh và các luận tiểu thừa, đại thừa với Sthitamati Bodhisattva (Anh huệ Bồ tát).
Vị này cũng học bộ Yogacaryabhumisastra (Du già sư địa luận) với Ngài Silabhadra (Giới Hiền). Vị này cũng tinh thông các loại sách không thuộc về Phật giáo như bốn quyển Phệ đà, Thiên văn, Địa dư, Y phương và Thuật số. Ngài Huyền Trang ở với hai vị này hai năm để học bộ luận về Vijnaptimatrasiddhisastra (Thành vô uý luận), Bất trú niết bàn, Thập nhị nhơn nhiên luận, bộ Mahayanasutralankarasastra (Trang nghiêm kinh luận). Ngài cũng tìm giải nghi một vài vấn đề trong bộ Du già sư địa luận và Nhơn minh luận.
Như vậy cuộc hành trình của Ngài trở thành một cuộc hành trình chánh pháp hơn là một cuộc chiêm bái các thánh địa. Trừ những bộ kinh và luận mà Ngài học ở Trung Hoa và Ấn, chúng ta thấy rõ rằng cuộc học hỏi nghiên cứu của Ngài thiên hẳn về A-tỳ-đạt-ma mà hầu như quên đi Kinh tạng và Luật tạng. Và đứng về A-tỳ-đạt-ma mà nói, dầu Ngài Huyền Trang thiên hẳn về học phái Du già (Yogacara), Ngài cũng học hỏi các bộ tiểu thừa quan trọng cho đến nỗi khi có cuộc biện luận nào với các vị sư tiểu thừa, Ngài cũng làm họ ngạc nhiên với những câu dẫn chứng đúng đắn trong kinh tạng của họ, rồi làm họ kính phục nể vì với sự uyên bác của Ngài.
IV. HUYỀN TRANG, NHÀ THUYẾT GIÁO
Nhưng pháp sư không chỉ là một học giả, một người nghiên cứu giáo lý. Ngay khi ở Trung Hoa, Ngài cũng từng lên diễn đàn giảng kinh và đã được mọi người thán phục, tăng già cũng như cư sĩ. Trong suốt cuộc hành trình sang Tây Vức, Ngài cũng đã nhiều lần được các vị vua và nhiều nhân vật danh tiếng thỉnh đến thuyết pháp. Sự học rộng cùng với mức hiểu biết sâu xa về chánh pháp khiến Ngài trở thành một trong những nhà thuyết giáo danh tiếng nhất.
Khi Pháp sư lưu lại chùa Thiên Hoàng ở Kinh Châu trước khi qua Tây Vức, những vị tăng và cư sĩ yêu cầu giảng giáo lý và Ngài đã giảng 3 lần Nhiếp đại thừa luận và Tỳ-đàm tập yếu. Thính giả gồm cả thái tử ở Hán Dương và quần thần cùng một giáo hội đông đảo vừa tăng sĩ vừa cư sĩ uyên bác. Khi thuyết pháp xong, từng người một chất vấn, Pháp sư đều trả lời thông suốt khiến ai nấy đều hài lòng và thái tử không ngớt ca tụng.
Khi Pháp sư ở Liang-chou (Lương Châu) hơn một tháng Ngài giảng kinh Đại-bát Niết bàn, Nhiếp Đại thừa luận và Bát nhã Tâm kinh cho tăng già và cư sĩ.
Ở Cao Xương, trên đường sang Tây Vức, vua nước này quá thích thú về sự uyên bác của Pháp sư nên đã cho dựng một hội trường lớn để Ngài giảng pháp. Mỗi thời thuyết pháp, vua thân hành cầm hương đưa Pháp sư đến pháp tọa và quỳ gối để thỉnh Pháp sư an tọa. Khi Ngài lưu lại Cao Xương thêm một tháng, Ngài giảng Bát nhã Tâm kinh.
Khi đến thành Tô Điệp (Tokmak), gặp người Đột quyết Thổ Nhĩ Kỳ (Hô-khả-hãn) mời Ngài đến trại, Pháp sư đã giảng Thập thiện dạy người nên có lòng từ bi đối với mọi loại chúng sinh và giảng các pháp Ba-la-mật đưa người đến giải thoát rốt ráo. Sau thời giảng, người Thổ Nhĩ Kỳ đảnh lễ Ngài và hoan hỉ nhận những lời giáo huấn.
Sau cuộc du hành về phía nam, Pháp sư trở lại tu viện Nalanda. Bấy giờ người ta không xem Ngài như một ngươi đi tìm học nữa. Ngài Giới Hiền yêu cầu Pháp sư giảng Nhiếp đại thừa luận và Thành duy thức luận cho các tăng sĩ. Ngài bác quan niệm của vị Pháp sư uyên bác là Simhaprabha (Sư tử Quang) cho rằng học phái Duy thức phải được tách ra khỏi tam tạng theo như luận Trung quán.
Trên đường trở về Trung Quốc, khi Pháp sư đến kinh đô xứ Vilasana (Tì-la-sang-noa) Ngài lưu lại 2 tháng và giảng bộ Du-già pháp-luận và bộ Đối pháp luận. Khi đến xứ Kustana, Pháp sư giảng bộ Du-già Sư-địa luận, Đối-pháp luận, Câu-xá luận và Nhiếp-đại-thừa luận. Ngài giảng 4 bộ kinh này trong một ngày một đêm, có chừng một nghìn thính giả gồm cả vua xứ Kustana và những vị tăng sĩ, cư sĩ uyên bác.
Khi Pháp sư trở về Trung Quốc dịch bộ Du-già Sư-địa luận ra tiếng Trung Hoa, Hoàng đế Trung Quốc hỏi Ngài về nội dung tác phẩm này. Pháp sư liền giảng 17 quả vị Bồ tát theo lời dạy của Bồ tát Di Lặc và những nét chính của tác phẩm, Hoàng đế nghe những lời giảng của ngài lấy làm thích thú nên về sau ông đọc kỹ bộ kinh ấy và thổ lộ những lời sau đây với đình thần:
“Trẫm đọc kinh Phật như ngắm trời dò bể không tài nào ước lượng bề sâu. Huyền Trang đã đem giáo pháp vi diệu này từ xa xôi về. Tiếc vì bận việc quân quốc rối ren, trẫm không thể nào đi tìm giáo lý Phật đà. Nay trẫm đã xem nguồn gốc của giáo lý ấy, trẫm nhận thấy rằng thật khó thể biết hết đựơc bề rộng của vẻ đẹp và hương thơm của nó. Khổng giáo, Lão giáo và chín học thuyết [Cửu lưu 9 học phái xuất hiện trong thời Tiên Tần, Trung Quốc (BT)], so với Phật giáo chỉ là một dải đất nhỏ trên đại dương mênh mông. Thật hoàn toàn sai lầm khi người ta nói tam giáo đều ngang nhau.”
Sau đấy, Hoàng đế ra lệnh cho chép lại những kinh và luận vừa dịch xong thành 9 bản phân phát cho các châu Ung, Lạc, Tinh, Duyên, Tương, Kinh, Dương, Lương và Ích châu để Phật Pháp phổ biến cùng khắp.
V. HUYỀN TRANG, NHÀ HÙNG BIỆN
Ngoài học hỏi và thuyết pháp, đặc điểm chính của Pháp sư trên đường tầm đạo, Pháp sư còn có một tài biện bác làm tăng uy tín của Ngài và nổi tiếng là một người hoàn toàn nắm vững Phật lý. Nhờ sự học rộng ấy, Ngài đã thắng thế trong mọi cuộc tranh luận.
Mỗi khi vừa đến ở yên một nơi nào, Ngài liền hỏi xem ở đấy có vị Pháp sư nào danh tiếng và Ngài đến bàn bạc về đạo lý, một đôi khi mở cuộc tranh luận công khai với vị này. Sự uyên bác của Ngài bao gồm cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa giáo. Khi Ngài tranh biện với những vị sư tiểu thừa, Ngài trích dẫn một cách chính xác những đoạn kinh văn của họ để minh chứng quan điểm của Ngài và nhờ vậy ngài luôn luôn thắng cuộc.
Khi Ngài đến kinh đô Khuất Chi tranh luận với một vị sư tiểu thừa danh tiếng là Mokshagupta (Mộc-xoa-cúc-đa), người tuyên bố đã biết tất cả các kinh điển Phật giáo và sở trường về Sabdavidya (Thanh minh). Lúc đầu ông đối đãi Pháp sư như một người khách thường, và còn có vẻ khinh mạn Ngài vì Ngài có ý định đi học “Du-già Sư-địa luận”, một bộ luận đại thừa mà ông xem như là một cuốn sách của tà thuyết.
Vì ông không biết kinh đại thừa và bởi vì ông tuyên bố rất am tường hai bộ luận Câu-xá và Tỳ-bà-sa, nên Pháp sư bảo ông hãy đọc đoạn đầu của Câu-xá luận. Ông ta vấp phải một lỗi lớn ngay từ đầu. Ngài hỏi một câu khác, ông ta cũng không giải thích được. Đoạn Pháp sư trích dẫn một đoạn khác nhưng Mokshagupta không trả lời, bảo rằng không có đoạn ấy trong quyển luận. Lúc ấy có người chú của vua tên Jnanachandra (Trí Nguyệt) là một người am tường kinh luận, ông ấy liền đưa ra một quyển sách và đọc lên đoạn văn để ủng hộ Pháp sư. Mokshagupta hổ thẹn bảo rằng vì ông ta già rồi nên trí nhớ lẫn lộn.
Pháp sư hỏi thêm về những quyển khác, nhưng ông ta không giải đáp được. Từ đấy Mokshagupta lẫn tránh Pháp sư nhưng vẫn kính nể ca tụng Ngài.
Khi đến Kunduz (Hượt quốc), Ngài đến thăm một vị Tỳ kheo tên Dharma-sangha (Đạt-ma-tăng-già) vốn nổi tiếng là một vị đại Pháp sư trong cả vùng cho đến dãy núi Pamir (Thông Lãnh) về phía tây. Không vị sư nào ở Kashgar (Số-lặc) và Kho-tan (Vụ điền) có thể biện bác về giáo lý với ông ta cả. Muốn dò xem ông ta hiểu biết giáo pháp đến mức nào, Pháp sư cho một người đến nơi để hỏi xem ông ta hiểu biết bao nhiêu kinh và luận. Khi nghe vậy đồ đệ của Dharmasangha tức giận nhưng Dharmasangha mỉm cười đáp ông ta biết tất cả kinh điển và sẵn sàng trả lời bất cứ câu hỏi nào. Pháp sư hỏi vài câu về Tỳ-bà-sa luận nhưng ông ta không thể trả lời thỏa đáng và công nhận rằng Pháp sư còn uyên bác hơn ông ta rất nhiều, trước sự thất vọng của các môn đệ.
Khi Pháp sư đến Kapisa (Ca-tất-thi), vua xứ ấy mời Pháp sư mở một cuộc tranh luận trong một ngôi chùa đại thừa với Ngài Prajnàkara (Bát nhã Yết-la, dịch là Huệ tánh) và ba Pháp sư uyên bác là Mano jnaghosa (Mạt-nô nhã-cu-sa, dịch là Ý-thanh) thuộc đại thừa, Aryavarmam (A-lê-da-phạt-ma, dịch là Thánh-Tào thuộc tông phái Sarvastivada (hay Nhất thế hữu bộ) và Gunabhadra (Cầu-na bạt-đà, dịch Đức-Quang thuộc tông phái Mahisasaka, hay Di-sa tắc bộ). Tất cả những người này đều uyên thâm kinh điển của tông phái mình, nhưng chỉ có Pháp sư là thông đạt tất cả kinh điển của Đại thừa và Tiểu thừa, nhờ vậy suốt cuộc tranh luận Ngài tỏ ra rất xuất sắc và mọi người đều kính phục sự uyên bác của Ngài.
Nhưng phần lớn chính là ở Đại học Nalanda mà danh tiếng Pháp sư về tài biện luận được vững chắc và lan rộng nhất, vì ở đấy Ngài có cơ hội mở các cuộc tranh luận không những để bài bác những người tà giáo mà còn chống lại những vị sư tiểu thừa và đôi khi chống lại vài vị sư đại thừa ở vài sai lầm của họ trong khi giảng giải lý thuyết Đại thừa giáo.
1. Chống những người ngoại đạo
Có một người thuộc Lokayatika (Thuận thế ngoại đạo) đến tu viện Nalanda để khiêu khích Pháp sư tranh biện. Ông ta dán trên cửa tu viện một mảnh giấy viết 40 quan điểm của phái mình và thách thức bất cứ kẻ nào bác được chúng. Trong trường hợp ông ta bị đánh bại, ông sẽ sẵn sàng cắt đầu xin lỗi. Sau nhiều ngày không ai bắt bẻ được điểm nào, Pháp sư cho một người ra xé mảnh giấy ném xuống đất và dẫm chân lên đấy. Người Bà-la-môn vô cùng tức giận, nhưng khi nghe nói người thị giả ấy từ Pháp sư đến thì ông ta hổ thẹn và không hỏi câu nào. Pháp sư gọi ông ta vào và trước sự hiện diện của ngài Silabhadra và những vị Tỳ kheo khác làm chứng, Pháp sư bắt đầu tranh luận với ông ta về những lý thuyết tà phái. Ngài nói:
–“Những người tà giáo Bhuta (Bộ-đa ngoại đạo) Nirgrantha (Lý-hệ ngoại đạo) Kapalika (Lâu-man ngoại đạo) và Jutika (Thù-trưng-già ngoại đạo) có cách phục sức khác nhau, trong khi những người thuộc tà phái Sankhya (Số luận) và Vaiseshika (Thắng luận) thì truyền bá những lý thuyết khác biệt. Những người Bhuta (Bộ-đa ngoại đạo) bôi tro lên mặt mình xem như là một phép để luyện tinh thần, làm cho thân thể bụi bặm trắng xám như một con mèo trong lò.
Những người Nirgranthas (Lý-hệ ngoại đạo) thì lõa thể, có những tập quán kỳ quặc, nhổ tóc râu và xem những hành vi ấy là công đức. Họ trông giống những cây mục bên bờ sông, với làn da lở loét và bàn chân nứt rạn của họ. Những người Kapalika (Lâu-man ngoại đạo) thì trang sức bằng những chuỗi sọ người đeo trên cổ, và với vẻ hốc hác kinh hoàng họ giống như những hồn ma nơi nghĩa địa. Những người Jutikas (Thù-trung già ngoại đạo) khoác những tấm vải đầy bụi và ăn phẩn, hôi thối như con heo điên trong ao rác bẩn. Thật điên rồ khi họ xem những sự luyện tập này là đường đi đến giác ngộ.
Về phần những người tà phái Số luận, họ đưa ra 24 đế nghĩa, hay nguyên lý của sự thật. Từ Prakrti (tự tánh) sinh ra Mahat (đại đế), từ Mahat (đại đế) sinh ra Ahamkara (ngã chấp). Rồi liên tiếp sinh ra năm Tanmatras (ngũ duy lượng: sắc, thinh, hương, vị xúc), ngũ đại (hỏa, không, địa, thủy, phong) và mười một căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, bì (ngũ tri căn; ngũ cụ, thủ, túc, tiểu tiện xứ, đại tiện xứ, (ngũ tác nghiệp); tâm bình đẳng căn. Hai mươi bốn đế này phụng sự Purusha (thần ngã) và thần ngã sử dụng chúng. Khi giải thoát khỏi chúng, thần ngã được thanh tịnh.
Những người Thắng luận (Vaiseshikas) thiết lập 6 cú nghĩa (phạm trù): Thực, Đúc, Nghiệp, Đồng, Dị, Hòa hiệp. Sáu phạm trù này là những đối tượng thuộc sở hữu của ngã. Trước khi giải thoát, ngã sử dụng những phạm trù này. Khi thoát khỏi chúng, ngã được coi là ở trạng thái Niết-bàn.
Bây giờ tôi sẽ bài bác lý thuyết của những người 25 luận. Ông nói rằng trong 25 đế, thần ngã có một linh chất đặc biệt. Hai mươi bốn số còn lại đồng bản chất với nhau nhưng thần ngã hay tự tánh thì được phối hợp do ba đức gọi là hỷ, ưu, và ám.
Ba đức này cũng thiết lập nên 23 đế kia bắt đầu là đại đế, v.v… Mỗi đế gồm ba đức trên. Bấy giờ nếu đại đế và những đế khác tất cả đều lập thành do ba đức ấy, chúng sẽ như một đám hỗn độn, một khu rừng, không có sự tồn tại chắc thật gì cả, làm sao Ngài nói chúng là thực được?
Lại nữa, nếu đại đế và những đế còn lại đều thiết lập bởi ba đức trên, thì đế này phải giống hệt đế khác. Và nếu đế này cũng giống những đế khác, thì nó sẽ làm chức vụ hệt như những đế khác. Nhưng sự thực không như vậy, thế thì làm sao Ngài có thể quyết đoán rằng ba đức ấy là chung cho tất cả?
Lại nữa nếu đế này cũng hệt như tất cả những đế khác thì những cơ quan như miệng, mắt, v.v… sẽ đồng thời là những cơ quan bài tiết. Và nếu có cơ quan nào làm nhiệm vụ của những cơ quan khác, thì miệng, tai v.v… phải ngửi được hương và thấy hình sắc. Nhưng thực tế không như vậy, thì làm sao Ngài lại nói được rằng ba đức đều chung cho mọi đế. Làm sao những người có trí tuệ lại tuyên dương một lý thuyết như vậy?
Hơn nữa nếu Prakrati (tự tánh) là bất diệt, thì nó sẽ đồng bản chất như Purusha (thần ngã), vậy sao nó còn biến ra Mahat (đại đế) và những đế khác. Lại nếu nói bản chất của thần ngã là bất diệt, thì nó phải đồng nhất với tự tánh và tính chất của nó không phải là thần ngã. Nhưng nếu nó đồng nhất với tự tánh thì tính chất của nó không phải là thần ngã và sẽ không được sử dụng những đế khác. Trong trường hợp này thần ngã không thể là chúa tể; người sử dụng, và 24 đế kia cũng không thể là đối tượng bị sử dụng. Đã không có chủ tể và đối tượng cũng không, thì lý thuyết về chân lý của Ngài cũng không thể lập được.”
Pháp sư bài bác những tà kiến một cách hùng biện như thế, và người Bà-la-môn phải im lặng nghe Ngài nói. Cuối cùng ông ta đứng lên công nhận mình thua cuộc.
2. Chống lại những người tiểu thừa giáo
Pháp sư còn phải đương đầu với một thử thách khác, lần này không phải do những người chủ tà thuyết mà do chính những thầy tiểu thừa Phật giáo.
Lúc bấy giờ vua Siladitya (Giới Nhật) đã dựng một đền bằng đồng đen cao 24 bộ bên cạnh tu viện Nalanda. Trên đường đi chinh phục xứ Konyodha (Cung-ngư-đà) vua đến xứ Uda (Ô-Trà). Ở đấy những vị sư có ác cảm với giáo lý Đại thừa, họ trách vua đã dựng một đền như thế gần tu viện Nalanda. Họ cho rằng mặc dù đền ấy vĩ đại thật, nhưng xây cạnh tu viện Nalanda thì cũng không khác gì một đền tà giáo nào. Những vị sư ở tu viện Nalanda là những người tà thuyết Sunyapushpa (Không-hoa ngoại đạo) nên cũng giống như những người tà thuyết Kapalikas. Đoạn họ đưa cho vua xem một bản văn gồm 700 đoạn do Prajnagupta (Bát-nhã Cúc-đa), một người Bà-la-môn viết để phỉ báng Đại thừa và thách bất cứ vị sư Đại thừa nào bác được một chữ nào trong bản ấy. Vua bảo họ:
“Đệ tử đã nghe chuyện những con chồn và chuột cống tuyên bố mình anh hừng hơn sư tử, nhưng vừa thấy bóng sư tử chúng liền chạy trốn như một bóng ma. Chư vị chưa được thấy những học giả uyên bác của Đại thừa, cho nên mới bám chặt lấy quan điểm hẹp hòi ngu dốt của mình. Nhưng một khi chư vị đứng trước những học giả Đại thừa, chư vị sẽ giống như những chồn và chuột kia.”
Bất mãn trước lời lẽ của nhà vua, những vị sư tiểu thừa yêu cầu vua sắp đặt một cuộc tranh luận giữa những đại diện của hai phái, để phân thắng bại. Vua nhận lời, viết một bức thư cho Tỳ-kheo Silabhadra (Giới Hiền) nhờ chọn bốn vị sư uyên bác để dự cuộc tranh luận. Ngài Silabhadra (Giới Hiền) cử Sagarajanana (Hải Huệ), Prajanaprabha (Trí Quang), Simhaprabha (Sư tư Quang) và Pháp sư Huyền Trang. Ba vị kia đều lo lắng. Nhưng Pháp sư trấn an họ, bảo rằng Ngài đủ khả năng biện bác với những vị tiểu thừa vì đã từng học hết Tam tạng, giáo điển của các tông phái tiểu thừa ở Trung Hoa và ở Kashmir (Ca-thấp-ba) và họ không thể nào bác được giáo lý đại thừa với thuyết riêng của họ. Nếu Ngài thua cuộc, thì chỉ là sự thất bại của riêng cá nhân Ngài, một quốc sư Trung Quốc mà thôi chứ không tổn hại gì đến uy tín của Đại thừa. Những vị sư kia đều hoan hỷ trước lời lẽ của Ngài.
Sau đó Pháp sư tìm một bản văn của Prajnagupta (Bát-nhã Cúc-đa) và nhờ một người Bà-la-môn người mà Ngài đã thắng trong một cuộc tranh luận giải thích cho Ngài. Đọc xong Pháp sư viết cuốn “Chế-ác luận” gồm 1600 đoạn để bác quyển sách trên bằng giáo lý đại thừa. Ngài đưa tác phẩm mình cho Ngài Silabhadra (Giới Hiền) và môn đệ xem, tất cả đều ca ngợi Ngài, cho rằng với sự học hiểu sâu rộng về chánh pháp, chắc chắn Ngài sẽ vô địch trong mọi cuộc tranh luận. Tác phẩm này còn được tồn trữ ở một nơi nào đó và ngày nay chúng ta rất mong được xem để biết Pháp sư đã dùng giáo lý đại thừa để bài bác tiểu thừa như thế nào.
Về sau, khi Pháp sư gặp vua Siladitya (Giới Nhật), Ngài đưa cho xem tác phẩm và sau khi đọc, vua hết sức vui mừng nói với quan Phụ đạo:
“Môn đệ đã từng nghe: Khi mặt trời chiếu xuống, thì ánh lửa của lò sưởi và của đèn nến trở nên lu mờ không thấy được; và khi trời sấm thì tiếng búa không thể nào nghe được. Bây giờ Pháp sư Huyền Trang đã bài bác tất cả những lý thuyết mà chư vị đã tin theo, trẫm muốn xem chư vị bảo vệ chúng cách nào.”
Tất cả các vị sư đều im lặng. Vua lại nói: “Ngài Devasena… tự cho mình xuất sắc nhất trong đám học giả và uyên thâm mọi hệ thống triết học, Ngài thường đưa ra nhiều lý thuyết và luôn luôn phỉ báng giáo lý đại thừa. Ngay khi Ngài nghe Pháp sư đến, ngài liền bỏ đi đến Vaisali (Tỳ-xá-ly) để chiêm bái thánh tích, lấy cớ ấy để lánh mặt. Như thế thì trẫm biết chư vị đều bất lực.”
Vua có một người em gái rất thông minh và thâm hiểu học phái Sammatiya (Chánh lượng bộ). Bà lắng nghe lời giảng của Pháp sư về Phật lý sâu xa của đại thừa và rất vui mừng tán thán Ngài. Khi ấy vua hạ chiếu chỉ mời tất cả các học giả đến hội ở Kanyakubja (Khúc-nữ thành) để thảo luận về tác phẩm của Pháp sư.
Mười tám vị vua ở 5 xứ Ấn Độ đến dự hội cùng với 3.000 Tỳ-kheo uyên bác cả đại thừa lẫn tiểu thừa giáo, hơn 2.000 Bà-la-môn và người tà giáo Nirgrantha cùng 1.000 tu sĩ ở tu viện Nalanda. Hai thảo đường đồ sộ được dựng lên ở hội trường, mỗi nhà chứa được đến 1.000 người, và đều an vị một tượng Phật.
Vào ngày đã định, vua Siladitya (Giới Nhật) dành riêng một con voi chở một tượng Phật vàng đúc sẵn cho dịp ấy, có tàng lọng bằng ngọc ngà che phủ. Vua mặc sắc phục Indra (Đế Thích) cầm cờ trắng theo hầu phía bên phải. Vua Kumara (Cưu-ma-la) mặc sắc phục Phạm Thiên cầm lọng quỳ theo hầu bên trái. Cả hai vua đều ăn mặc lộng lẫy, vương miện nạm ngọc và trang hoàng bằng ngọc bích. Pháp sư cỡi voi đi sau, cùng với những phụ đạo của vua. Đám rước gồm ba trăm thớt voi dành cho các vua, đình thần và các vị Tỳ-kheo giới đức trang nghiêm. Khi đám rước tiến hành có nhạc trỗi và hoa rắc.
Đến hội trường, hai vua xuống voi cung nghênh tượng Phật vào an vị trên một chiếc đế trang hoàng lộng lẫy. Đoạn Pháp sư và các vị vua đảnh lễ tượng. Sau đó 18 vị vua được mời vào thảo đường cùng với 1.000 vị Tỳ-kheo uyên bác từ khắp các xứ và 500 vị Bà-la-môn danh tiếng. Rồi đến 200 vị công thần từ các xứ vào an tọa. Những cư sĩ Phật giáo và tín đồ các giáo phái khác đều đứng ở ngoài. Đoạn thực phẩm đươc phân phát cho mọi người trong và ngoài thảo đường. Khi ăn xong, vua Siladitya cúng dường tượng Phật một khay bằng vàng, bảy chén bạc, một chậu tắm bằng vàng, 3.000 quan tiền vàng, 3.000 bộ tăng phục nỉ dạ. Lễ vật cúng dường được dâng cho Pháp sư và các vị sư khác.
Pháp sư được mời an tọa ghế danh dự, một chỗ ngồi trang hoàng rực rỡ, dể làm chủ tọa buổi hội thảo và trình bày nội dung tác phẩm Ngài. Một vị sư chùa Nalanda là Vidyabhadra (Minh Hiền Pháp sư) được cử tọa ra đọc bản văn cho thính giả trong khi ở bên ngoài phòng hội cũng có treo một bản để công chúng xem qua. Lại có thông cáo rằng nếu có điểm nào trong ấy bị bác, thì tác giả tình nguyện hiến đầu cho người thắng cuộc. Suốt ngày cho đến sẫm tối, đám thính giả đông đảo không dám nêu lên một lời bác nào. Buổi họp được hoãn lại trước sự hân hoan của vua Siladitya. Suốt năm ngày liền, những nghi thức tương tự được tiếp diễn và vẫn không ai dám đương đầu với Pháp sư cả.
Vào cuối ngày thứ năm, một vài người tiểu thừa giáo âm mưu với một số người tà phái để ám sát Pháp sư. Nhưng vua mật hay tin này liền ra chiếu chỉ sẽ bêu đầu những ai động đến Pháp sư và cắt lưỡi kẻ nào nói xấu Ngài. Vua cũng minh xác rằng ai muốn tranh luận với Pháp sư đều được phép tự tiện, không bị cản trở gì. Lời tuyên bố của nhà vua phá tan ngay mầm mống âm mưu ấy, và trong 10 ngày, cuộc hội họp được tiếp diễn im lặng. Và ngày cuối cùng khi buổi học bế mạc theo chương trình đã định, Pháp sư lên diễn đàn và một lần nữa tán dương sự vô thượng thậm thâm của giáo lý đại thừa.
Lời nói hùng hồn của Ngài đoan quyết, lý lẽ của Ngài vững chắc đến nỗi nhiều người bỏ ngay tà kiến của họ và quy y theo đại thừa tại chỗ. Vua Siladitya vô cùng hân hoan trước kết quả rực rỡ của Pháp sư và ca tụng Ngài không ngớt; để diễn tả niềm vui sướng và sự kính trọng sâu xa của mình, vua cúng dường Ngài 10.000 đồng vàng, 30.000 đồng tiền bạc và 100 bộ tăng phục. Mười tám vị vua kia cũng tranh nhau cúng dường rất nhiều phẩm vật quý giá, nhưng Ngài từ chối tất cả các đồ cúng dường.
Vua sai thắng một kiệu voi vô cùng lộng lẫy với thảm gấm và cờ lọng, cung thỉnh Pháp sư lên kiệu để đi vòng quanh hội trường, có đình thần theo hầu, để dân chúng biết được chính Ngài đã thắng cuộc. Nhưng đức khiêm cung của Pháp sư không bao giờ mất ngay cả khi Ngài ở trên tuyệt đỉnh của danh vọng. Ngài từ chối lời cầu thỉnh, nhưng Vua khẩn khoản Ngài, bảo rằng đó là cổ tục từ nghìn xưa cần phải tuân theo một cách triệt để. Khi ấy bộ tăng phục của Pháp sư được đặt lên kiệu voi và những lời tuyên bố sau đây được truyền rao cho công chúng:
“Vị Pháp sư Trung Quốc đã thiết lập đại thừa và phá hủy mọi tà thuyết. Trong 18 ngày, không ai dám đối lập. Nay tin cho công chúng biết.”
Mọi người đều hân hoan trước sự thành công ấy và tiến lên chúc tụng Pháp sư. Người đại thừa phong tặng cho Pháp sư danh hiệu là Đại thừa thiên và những vị tiểu thừa thì xưng tụng Ngài là Mộc-Xoa-Đề-Bà (Giải thoát thiên).
3. Chống lại những người Đại thừa
Một đôi khi Pháp sư còn phải bênh vực Đại thừa giáo chống lại chính những người Đại thừa, chẳng hạn chống lại Tỳ-kheo Simhaprabha (Sư tử Quang). Vị này là người uyên thâm Bách luận và Trung quán luận. Trong các lớp học và các cuộc đàm luận, Ngài thường chủ trương loại bỏ thuyết Du-già về bản chất của thực tại tuyệt đối. Ông cho rằng vì Trung quán chủ trương mọi sự đều không, không có thực tính, cho nên thuyết Du-già cũng phải bị bác bỏ? Nhưng Pháp sư rất thông đạt nghĩa lý của Trung quán, Bách luận và Du-già Sư-địa luận. Theo Pháp sư, những luận sư khi lập thuyết thường tuyên dương nhiều quan điểm sai khác. Nhưng trên lý thuyết căn bản thì giữa họ không có mâu thuẫn nào.
Những đồ đệ sau này vì không hiểu được phần vi diệu của giáo lý các Ngài nên nắm lấy vài mâu thuẫn bên ngoài mà trở thành xung đột nhau. Pháp sư bảo Simhaprabha (Sư tử Quang) rằng giáo lý của Trung quán luận và Bách luận chỉ bài bác những kiến giải cho là có thực tính những gì giả ảo. Nhưng nó không phủ nhận bản chất của duyên khởi và thực tại tuyệt đối. Để đưa ra một sự tương đồng dễ hiểu giữa Trung-quán và Du-già, Pháp sư viết một luận án nhan đề là “Hội Tông luận” gồm 3.000 đoạn.
Pháp sư Giới Hiền ca tụng là một tác phẩm xuất sắc và giới thiệu nó với tất cả các vị thầy và học tăng. Sư tử Quang cảm thấy hổ thẹn bỏ đi đến chùa Bồ Đề và nhờ bạn học là Candrasimha (Sư Tử Nguyệt) ở Đông Ấn tranh luận với Pháp sư để trả thù cho mình. Nhưng khi Candrasimba (Sư tử Nguyệt) đến trước Pháp sư, ông ta cảm thấy vô cùng quy phục Ngài và giữ im lặng. Một lần nữa Pháp sư lại tỏ ra một nhà biện luận vô địch và danh tiếng Ngài lan xa rộng.
Trong các cuộc tranh luận, thói thường là phe bại luôn luôn đem lòng thù hận kẻ thắng. Nhưng chúng ta nhận thấy trong các cuộc tranh luận của Pháp sư, Ngài luôn luôn cố gắng làm dịu tình thế để nâng đỡ phe bại, và nhờ thế Ngài vượt trên đối thủ không chỉ về tài học rộng mà còn về đức quảng đại của Ngài.
Khi Pháp sư đánh bại một tà phái Bà-la-môn ở Nalanda, người này xin nạp đầu mình như đã hứa trước khi tranh luận. Pháp sư bảo ông ta rằng những Phật tử không bao giờ sát sanh, và Ngài sẽ vui lòng để cho ông ta theo hầu một thời gian. Người Bà-la-môn sung sướng vâng lời Ngài và đến làm việc trong phòng Ngài ở Nalanda. Về sau, khi người này giảng cho Pháp sư một bản văn tiểu thừa do Prajnàgupta viết để bác Đại thừa giáo, Ngài liền trả tự do cho ông ta, ông này rất vui mừng trước lòng độ lượng của Pháp sư. Ông ta đến Kumarapa và nhiệt liệt ca ngợi giới đức của Ngài cho Vua Kumara xứ ấy. Như thế không những người Bà-la-môn thất bại đã không đem lòng thù oán Pháp sư mà còn ca tụng sự vinh quang của Ngài trong cuộc tranh luận.
Lại bức thư sau đây do Pháp sư gửi từ Trung Quốc cho Ngài Prajnadeva (Bát-nhã Đề Bà) người mà Ngài đánh bại trong cuộc hội thảo ở Kanyakubja (Khúc Nữ thành) chứng tỏ sự tế nhị của Pháp sư đối với đối thủ một thời của Ngài:
“Ngày trước khi đi chiêm bái bần tăng đã hân hạnh gặp Ngài. Và trong thành phố Kanỳakubja, bần tăng đã tranh luận với Ngài để dò sự nông sâu của nhau về chánh pháp, trước sự hiện diện của các vị vua và đông đảo dân chúng. Một bên thiết lập những nguyên lý của Đại thừa giáo; trong khi bên kia giữ vững lý thuyết của Tiệm giáo. Trong khi trao đổi quan niệm qua lại, không sao tránh khỏi có lời lẽ nóng nảy thiếu nhã nhặn. Tiêu chuẩn của chúng ta là duy trì chánh lý, bất chấp tình cảm riêng tư. Do đó mà rất có thể bần đạo đã làm phật ý tôn huynh.
Nhưng một khi cuộc tranh luận đã xong, thì mọi xung đột cá nhân phải tan biến. Nay tôn huynh còn cho người chuyển đến bần tăng những lời xin lỗi của tôn huynh, điều ấy chứng tỏ tôn huynh đã nghĩ ngợi quá nhiều. Ngài chính thực là một Pháp sư hùng hồn uyên bác và giới đức hoàn toàn. Ngài có mục đích vững vàng, vi diệu và cao vời. Nước hồ Anavatapta (vô nhiệt) không thể nào sánh được với bể kiến thức mênh mông của tôn huynh và ngọc mani cũng còn thua sự tinh khiết của giới hạnh Ngài.”
Với một bức thư như thế, thì tánh tình người khó khăn đến đâu cũng phải bị thu hút và thật chúng ta không lấy làm lạ khi những cuộc tranh biện của Pháp sư với nhiều đối thủ như thế đã không để lại một dấu vết nào của sự thù hằn cay độc.
VI. HUYỀN TRANG, NHÀ DỊCH THUẬT
Nếu lúc ở Ấn Độ, hoạt động chính của Pháp sư là học hỏi, thuyết pháp, tranh biện và chiêm bái các thánh địa, thì sau khi trở về Trung Quốc cho đến ngày mất, Pháp sư để phần lớn thì giờ vào việc dịch các bản Phạn văn ra tiếng Trung Hoa. Vì một trong những mục đích cuộc Tây du của Ngài là sưu tầm các bản Phạn văn quan trọng về phổ biến trong nước Trung Hoa, nên Ngài đã mang về rất nhiều kinh Phạn văn để dịch ra Hoa ngữ.
Ngài đến thủ đô Trung Hoa vào năm 645 sau Tây lịch và từ năm này cho đến khi từ trần, Ngài chuyên chú dịch 75 tác phẩm ra thành 1335 tập. Sau khi hội kiến với Hoàng đế Trung Hoa, Pháp sư dọn đến ở chùa Hoằng Phước và chuẩn bị mọi việc để khởi sự dịch 600 cuốn kinh Phạn văn Ngài đã mang về.
Vào ngày mồng một tháng ba, Pháp sư đến chùa Hoằng Phước, và gợi lời thỉnh nguyển đến viên quan Thượng thư Huyền Linh yêu cầu cung cấp những dịch giả, nhà văn phạm, người tốc ký và người biên chép để giúp Ngài trong việc phiên dịch.
Vào ngày mồng 2 tháng 6, 12 vị sư danh tiếng đến. Các vị này đều tinh thông kinh điển đại thừa lẫn tiểu thừa và sẽ giúp Pháp sư phiên dịch. Những vị sư này tên là Linh Nhuận và Văn Bị chùa Hoằng Phước ở kinh đô, Tỳ-kheo Huệ Quý chùa La Hán, Tỳ-kheo Minh Diễn chùa Thực Tế, Tỳ-kheo Pháp Tường chùa Bảo Xương, Tỳ-kheo Phổ Hiền chùa Tinh Pháp, Tỳ-kheo Đạo Thâm chùa Pháp Giảng ở Quách Châu, Tỳ-kheo Huyền Trung chùa Diễn Giác ở Biện Châu, Tỳ-kheo Phổ Cú ở Bồ Châu, Tỳ-kheo Kính Minh chùa Trấn Hưởng ở Miên Châu và Tỳ-kheo Đạo Nhân chùa Đa Bảo ở Ích Châu.
Ngoài những người cộng sự danh tiếng này, còn có chín nhà văn phạm là Tỳ-kheo Thê Huyền chùa Phổ Quang ở Kinh đô, Tỳ-kheo Minh Tuấn chùa Hoằng Phước, Tỳ-kheo Biện Cơ chùa Hội Xương, Tỳ-kheo Đạo Tuyên chùa Phong Đức trên núi Chung Nam, Tỳ-kheo Tịnh Mai chùa Phước Tụ ở Giản Châu, Tỳ-kheo Hành Hữu chùa Phổ Cứu ở Bồ Châu, Tỳ-kheo Đạo Trác chùa Thê Nham, Tỳ-kheo Huệ Lạp chùa Chiếu Nhân ở U Châu và Tỳ-kheo Huyền Tắc chùa Thiên Ưng ở Lạc Châu. Một nhà nguyên ngữ học là Tỳ-kheo Huyền Ứng chùa Tổng Trì ở thủ đô và một nhà học giả về Phạn ngữ là Tỳ-kheo Huyền Mộ chùa Hưng Thiên ở thủ đô cũng giúp Pháp sư trong việc dịch thuật. Họ họp thành một khối cùng làm việc rất đắc lực giúp Pháp sư dịch những kinh Phạn văn ra Hoa ngữ.
Pháp sư khởi sự phiên dịch vào ngày mồng 1 tháng 7 và bắt đầu dịch các cuốn kinh Bồ tát tạng, kinh Phật Địa, kinh Lục môn Đà-la-ni và luận Hiển dương Thánh giáo. Cùng ngày hôm đó Ngài dịch xong cuốn Lục môn kinh và vào ngày 15 xong cuốn Phật địa kinh. Cuối năm ấy kinh Bồ tát tạng và Hiển dương luận cũng được hoàn thành.
Vào ngày mồng 1 tháng Giêng mùa xuân đệ nhị thập niên (646 sau Tây lịch), Pháp sư bắt đầu dịch Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tập luận và xong vào tháng hai. Sau đó Ngài lại khởi dịch Du già sư địa luận, thành 100 cuốn xong vào ngày 14 tháng 5 mùa hạ.
Hoàng đế Trung Quốc chú ý đặc biệt đến công việc phiên dịch của Pháp sư. Một hôm hỏi Ngài về giá trị bản dịch cũ của Kinh cang Bát nhã, Pháp sư giảng cho vua nghe rằng bộ kinh ấy dạy vô phân biệt trí để trừ vọng chấp. Vì bản dịch cũ bỏ chữ “năng đoạn” (Chedika), có nghĩa là cắt đứt, trong nhan đề quyển kinh, nên nó không diễn đạt chính xác giá trị cao siêu của bộ kinh ấy. Hơn nữa một trong ba câu hỏi, 1 trong 2 bài tụng và 3 trong 9 thí dụ đã bị bỏ không dịch. Vua yêu cầu Pháp sư khởi sự dịch lại bộ kinh ấy. Bởi thế Ngài bắt đầu dịch lại bộ Năng đoạn Kim cang Bát nhã Ba-la-mật-đa hoàn toàn căn cứ trên cuốn kinh Phạn văn Ngài đã mang về.
Khi Pháp sư ở chùa Hoằng Phước do vua xây, Ngài hoàn thành bản dịch bộ luận Nhiếp Đại thừa với những lời chú của Bồ tát Asvabhasa (Vô Tánh) thành 10 quyển, cũng quyển luận ấy với lời chú của Thế Thân thành 10 quyển, bộ Nhân duyên kinh thành 1 quyển và bộ luận Bách pháp Minh môn thành 1 quyển.
Vì sợ kinh mang về bị cháy hoặc hư hại nên Pháp sư định dựng một tháp để chứa kinh vào tháng 3 mùa xuân năm Vĩnh Huy thứ ba (652 sau tây lịch). Tháp xây bằng gạch, ở phía tây chùa Từ Ân hoàn toàn theo kiểu Ấn Độ, cao 5 tầng, 180 bộ Anh gồm cả chân và đỉnh. Mỗi tầng dài 140 bộ Anh (khoảng 34 m). Pháp sư thân dự phần trong cuộc xây dựng ngôi tháp ấy. Ngài mang gạch đá, giúp nơi này một tay và nơi khác một việc, việc gì Ngài làm được là Ngài làm để góp phần công đức trong việc xây cất kéo dài 2 năm.
Vào ngày 23 tháng Giêng mùa xuân đời vua Hiển Khánh nguyên niên (656 sau Tây lịch), một buổi lễ tấn phong Thái tử được tổ chức trọng thể tại chùa Từ Ân. Năm ngàn vị Tỳ-kheo được mời dự và nhiều người tai mắt trong triều đình. Vào dịp ấy, Pháp sư giải thích cho Tiết Nguyên Siêu, Lý Nghĩa phủ về việc phiên dịch kinh điển Phật giáo đã được nhiều nâng đỡ của triều đình ngoài các vị sư, kể từ thời vua Phù kiên và Giao Hưng (351-417 TL).
“Tam tạng giáo điển rất vi diệu, khó hiểu được tận tường. Tuy nhiên nhiệm vụ của tăng sĩ là phải truyền bá giáo lý và cũng phải nhờ các vị vua nâng đỡ. Vì những thời Hán và Ngụy đã xa vời, chúng ta không thể nào bàn về chúng thật chi tiết. Nhưng bần tăng chỉ xin kể lại những vị đã cộng tác với tăng sĩ trong việc phiên dịch Phật kinh từ thời Phù Kiên và Giao Hưng.
Vào thời Phù Kiên khi Dharmanandi (Đàm-ma-nan-đề) dịch Phật kinh, có vị cận thần triều đình là Triệu Chính phụ tá. Vào thời Giao Hưng khi Cưu-ma-la-thập dịch Phật kinh có quan thái thú ở An Thanh là Dao Tung và vị quan là Dao Phụ giúp. Và khi Bồ đề Cưu Chi dịch Phật kinh vào thời Hậu Ngụy (386-534 TL) quan cận thần là Thôi Quang giúp phiên dịch và đề tựa cho các dịch phẩm. Và những trường hợp tương tự đã xảy ra trong các triều vua Tề, Lương, Châu và Tùy. Cả đến đầu triều Trình Quán khi Prab hanala (Ba-pha-la-na) phiên dịch kinh điển có quan Tả bộc Phòng Huyền Linh, Triệu Quân Vương, Thái tử Lý Hiếu Cung, quan Đảm sự Đỗ Chính Luân, quan Thái phu Tiêu Cảnh, viên thủ khố của triều đình đều được Hoàng đế sai coi sóc giúp đỡ công cuộc phiên dịch.
Đoạn Pháp sư lưu ý cho hai vị quan triều này thấy rằng hiện giờ không có chuyện như thế và nhờ họ tâu lại với Hoàng đế để yêu cầu cung cấp nhân lực phụ tá. Hôm sau khi thiết triều, hai vị ấy tâu vua lời thỉnh cầu của Pháp sư. Vua liền ra một chiếu chỉ chấp thuận điều cầu thỉnh:
“Việc phiên dịch kinh luận của Pháp sư Huyền Trang là một công trình mới mẻ, bản dịch cần được trau chuốt thật hoàn hảo về từ lẫn lý. Nay trẫm chỉ định cho các quan sau đây phải giúp đỡ việc phiên dịch ấy và nhuận sắc nếu cần: quan Tả bộc Yên Quốc Công Vu Chí Ninh, quan Trung thư lệnh kiêm kiểm giảo Lại bộ Thượng thư Nam Dương huyện Khai quốc nam Lai Tế, quan Lễ bộ Thượng thư Cao Dương huyện Khai quốc Nam Tiết Nguyên Siêu, quan Thị Lang khai quốc Nam Lý Nghĩa Phủ và Trung thư thị lang Đỗ Chính Luân. Nếu cần thêm học giả, có thể phái thêm vào người nữa.”
Pháp sư nhận lãnh chiếu chỉ với những giọt nước mắt cảm ơn và từ đấy công việc dịch thuật càng tiến mạnh với sự giúp đỡ quý báu của triều đình.
Pháp sư đã dịch xong bộ luận A-tỳ-đạt-ma Phát trí luận thành 30 quyển. Khi Ngài ở kinh đô, Ngài cũng khởi dịch bộ Đại-tỳ-bà-sa-luận và đã xong hơn 70 quyển chỉ còn 130 quyển. Bấy giờ Ngài bắt đầu dịch cho xong tác phẩm vĩ đại ấy. Pháp sư ở luôn trong chùa Từ Ân để dịch. Ngài vẽ ra một chương trình đều đặn và theo đúng như thế để khỏi mất giờ khắc nào. Nếu Ngài vì những việc khác không thể làm hết công việc như đã vạch định, thì Ngài thức khuya hơn thường lệ để làm nốt. Ngài thường thức dịch đến canh hai.
Đoạn xếp các việc lại thiền định và cầu nguyện suốt canh ba để gạn lọc tâm ý. Sau đó mới đi nghỉ. Canh năm Ngài đã thức dậy và sau vài phút tẩy rửa, Ngài tụng các bản kinh Phạn và làm dấu mực đỏ những đoạn phải dịch ngày hôm đó. Ăn điểm tâm xong, Ngài để ra hai giờ để giảng những kinh luận vừa dịch; những tăng sĩ và cư sĩ từ xa đều đến nghe Ngài. Mặc dù Ngài có chương trình hàng ngày rất bận rộn, Ngài vẫn làm việc rất có phương pháp và không để cho nhịp điệu công việc hàng ngày bị xáo trộn.
Vào ngày mồng 1 tháng Giêng, mùa xuân năm thứ năm (660 TL), Pháp sư khởi dịch Đại-bát-nhã-ba-la-mật kinh, gồm tất cả 20.000 câu Phạn ngữ. Mặc dù đồ đệ Ngài khuyên nên rút ngắn lại, Pháp sư vẫn so sánh cân nhắc các bản dịch khác nhau mà Ngài mang về. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ càng và suy nghĩ chín chắn Ngài mới khởi sự dịch ra Hoa ngữ. Trong thời gian dịch tác phẩm vĩ đại này, Pháp sư cứ lo mình sẽ chết trước khi hoàn thành công việc. Ngài nói để khích lệ các tăng sĩ:
“Nay Huyền Trang này đã 65 tuổi và chắc rằng sẽ chết ở trong chùa này. Vì bộ kinh này rất vĩ đại, tôi chỉ sợ tôi không sống được để dịch cho xong, vậy chúng ta phải cố gắng làm việc và đừng để mất phút nào.”
Vào ngày 23 tháng 10 mùa xuân năm thứ ba niên hiệu Long Sóc (663 TL), Ngài hoàn tất bản dịch bộ kinh thành 600 quyển dưới đầu đề Đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh. Khi dịch đến trang cuối cùng, Pháp sư vô cùng phấn khởi hân hoan nói với các Tỳ-kheo rằng:
” Bộ kinh có nhân duyên với nơi này lắm. Chính nhờ thần lực của kinh mà tôi đến điện Ngọc Hoa này. Nếu tôi ở lại kinh đô rối ren phiền toái thì tôi đã không có thì giờ dịch xong được. Nhờ ơn Phật và chư vị Long thần, nay dịch phẩm đã xong. Bộ kinh cao cả là hòn ngọc quý của xứ sở, quý vị nên hoan hỷ thọ trì.”
Vào ngày mồng 1 tháng Giêng mùa xuân năm Lân Đức nguyên niên (664 TL), Pháp sư được thỉnh cầu dịch bản kinh Đại bảo tích ra Hoa ngữ. Pháp sư cố gắng thể theo lời cầu thỉnh, nhưng chỉ dịch được vài dòng Ngài liền xếp bản Phạn văn lại mà bảo rằng vì tuổi già sức yếu Ngài không thể nào có đủ nghị lực dịch bộ kinh này cũng đồ sộ không kém bộ Đại Bát nhã. Từ lúc đó trở đi, Ngài nghỉ tất cả các việc dịch thuật và chuyên chú vào thiền định tu tập.
Để phán đoán giá trị của dịch phẩm của Ngài, cần kê ra đây tất cả các dịch phẩm và hiểu quan điểm triết lý của Pháp sư cùng sự đóng góp của Ngài trong địa hạt trí thức Phật học.
A. Những dịch phẩm của Ngài Huyền Trang
1. Đại-bát-nhã-Ba-la-mật-đa kinh, 600 quyển, dịch từ năm 660-663; N.1; T.220.
2. Năng đoạn Kim cang Bát-nhã-ba-la-mật kinh, 1 quyển, 648 TL; N. 13.
3. Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh, 1 tập, 649 TL; N. 20; T. 251.
4. Đại Bồ tát tạng kinh, 20 quyển, 645 TL; T. 310; N. 23.
5. Đại thừa Đại tập Địa tạng thập luận kinh, 10 quyển, 651 TL; N. 64; T. 411.
6. Hiển vô biên Phật độ công đức kinh, 1 quyển, 654 TL, N. 95; T. 289.
7. Phật lâm niết bàn ký pháp trụ kinh: kinh về sự trường tồn của pháp Phật đã nói trước khi nhập Niết bàn; 1 quyển, 652 TL; N. 123; T. 390.
8. Phân biệt duyên khởi sơ thắng pháp môn kinh: Kinh giảng về luật nhân duyên tối thượng, 2 quyển, 650 TL; N. 140; T. 717.
9. Thuyết vô cấu xứng kinh 6 quyển, 650 TL; N. 149; T. 476.
10. Dược sư Lưu Ly Quang Như Lai bản nguyện công đức kinh, 1 quyển, 650 TL; N. 171; T. 450.
11. Xưng tán Tịnh độ Phật nhiếp thọ kinh, 1 quyển; 650 TL; N. 199; T. 367.
12. Giải thâm mật kinh, 5 quyển, 647 TL; N. 247; T. 676.
13. Như Lai thị giáo thắng quân vương kinh, 1 quyển, 649 TL; N. 249, T. 515.
14. Phật thuyết thậm hy hữu kinh, 1 quyển, 649 TL; N. 261; T. 689.
15. Phật thuyết tối vô tỉ kinh, 1 quyển, 649 TL; N. 269; T. 691.
16. Xưng tán Đại thừa công đức kinh, 1 quyển, 654 TL; N. 276; T. 840.
17. Duyên khởi Thánh đạo kinh, 1 quyển; 649 TL; N. 272; T.714.
18. Bất khoông quyền sách thần chú tâm kinh, 1 quyển, 659 TL, N. 316; T. 1094.
19. Thập nhất diện thần chú tâm kinh, 1 quyển, 659 TL; N. 328, T. 1071.
20. Chú ngũ thư kinh, 1 quyển, 664 TL; N. 330; T. 1034.
21. Thắng tràng trí ấn đà-la-ni kinh, 1 quyển, 654 TL; N. 361; T. 1363.
22. Chư Phật Tâm đà la-ni kinh, 1 quyển, 650 TL; N. 361; T. 918.
23. Bát tế cứu khổ nạn Đà-la-ni kinh, 2 tờ, 654 TL; N. 490; T. 1395.
24. Bát danh phổ mật đà la ni kinh, 3 tờ, 654 TL; N. 491; T. 1365.
25. Phật thuyết trì thế Đà-la-ni kinh, 4 tờ, 654 T; N. 492, T. 1162.
26. Phật thuyết lục môn Đà-la-ni kinh, 1 tờ, 646 TL; N. 493; T. 1360.
27. Phật thuyết Phật-địa kinh, 12 tờ, 645 T; N. 502, T. 680.
28. Tịnh chiếu Thần biến Tam-ma-địa kinh, 1quyển, 664 TL; N. 522: T. 648
29. Thọ trì thất Phật danh hiệu sở sanh công đức kinh, Kinh nói về công đức do sự niệm danh hiệu 7 đức Phật, 6 tờ, 651 TL; N. 528, T. 436.
30. Duyên khởi kinh, 3 tờ, 664 TL; N. 628; T. 124.
31. Bổn sự kinh, 7 quyển, 650 TL; N. 714; T. 765
32. Thiên thỉnh vấn kinh, 4 tờ, 648 TL; N.753; T.592.
33. Bồ tát giới Yết ma văn 7 tờ, 649 TL; N.1097; T.1499.
34. Bồ tát giới bổn 1 quyển, 649 TL; N.1098; T.1501.
35. Du già Sư địa luận, 100 quyển, 646-647 TL; N.1170, T.1579.
36. Nhiếp Đại thừa luận thích, 10 quyển, 648-649 TL; N.1171; T.159.
37. Nhiếp Đại thừa luận thích, 10 quyển, 647-649 TL; N.1171; T. 1598.
38. Quán sở duyên duyên luận, 3 tờ, 657 TL; N. 1173; T. 1624
39. Đại thừa ngũ uẩn luận, 10 tờ, 647 TL; N. 1176; T. 1621
40. Hiển dương thánh giáo luận; luận về sự hiển dương chánh pháp; 20 quyển, 645-646 TL; N. 117; T. 1602
41. Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận, 16 quyển, 646 TL; N. 1178; T. 1606
42. Quảng bách luận bổn, 1 quyển, 650TL; N. 1189; T. 1570
43. Phật địa kinh luận 7 quyển, 649 TL; N. 1195; T. 1530
44. Thành duy thức luận, 10 quyển; 659 TL; N. 1197; T. 1585
45. Quảng bách luận thích luận, 10 quyển; 650 TL; N. 1198 ; T.1571
46. Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tập luận, 7 quyển; 652 TL; N.1199 ; T. 1605
47. Vương pháp chánh lý luận, 1 quyển; 649 TL; N. 1200; T. 1615
48. Du già sư địa luận thích, 1 quyển; 654 TL; N. 1201 ; T. 1580
49. Hiển dương thánh giáo luận tụng, 1 quyển; 645 TL; N. 1202 ; T. 1603
50. Đại thừa bách pháp minh môn luận, 2 tờ; 648 TL; N. 1213 ; T. 1614
51. Duy thức tam thập luận, 6 tờ; 648 TL; N. 1215 ; T. 1586
52. Nhân minh nhập chánh lý luận, 6 tờ, 647 TL; N. 1216 ; T. 1630
53. Đại thừa thành nghiệp luận, 1 quyển; 651 TL; N. 1221 ; T. 1609
54. Nhân minh chánh lý môn luận, 1 quyển; 648-649 TL; N. 1224; T. 1628
55. Đại thừa chưởng trân luận, 2 quyển, 649 TL; N. 1237; T. 1578
56. Duy thức nhị thập luận, 11 tờ; 661 TL; N. 1240; T. 1590
57. Biện trung biện luận, 3 quyển, 661 TL; N. 1244; T. 1600
58. Biện trung biện luận tụng, 9 tờ, 661 TL; N. 1245; T. 1601
59. Nhiếp đại thừa luận bổn, 3 quyển, 648-649 TL; N. 1247; T. 1594
60. A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, 200 quyển, 658-659 TL; N. 1263; T. 1545
61. A tỳ đạt ma thuận chánh lý luận, 80 quyển, 653-654 TL; N. 1265; T. 1562
62. A tỳ đạt ma tạng Hiển tông luận, 40 quyển, 651-652 TL; N. 1266; T. 1563
63. A tỳ đạt ma Câu xá luận tụng, 30 quyển, 651-654 TL; N. 1267; T. 1558
64. A tỳ đạt ma Câu xá luận bổn tụng, 2 quyển, 651 TL; N. 1270; T. 1560
65. A tỳ đạt ma Phát trí luận, 20 quyển, 657-660 TL; N. 1275; T. 1544
66. A tỳ đạt ma Tập dị môn túc luận, 20 quyển, 660-663 TL; N. 1276; T. 1536
67. A tỳ đạt ma phẩm Loại túc luận, 18 quyển, 659 TL; N. 1277; T. 1542
68. A tỳ đạt mà Thức thân túc luận, 16 quyển, 649 TL; N. 1261; T. 1539
69. A tỳ đạt ma Giới thân túc luận, 2 quyển, 663 TL; N. 1282; T. 1540
70. Ngũ sự Tỳ bà sa luận, 2 quyển, 663 TL; N. 1283; T. 1555
71. Dị bộ Tông luận, 10 tờ, 662 TL; N. 1286; T. 303
72. A tỳ đạt ma luận, 2 quyển, 658 TL; N. 1291; T. 1554
73. Thắng tôn thập cú nghĩa luận, 1 quyển, 648 TL; N. 1295; T. 2138
74. A tỳ đạt ma pháp uẩn túc luận, 12 quyển, 659 TL; N. 1295; T. 1537
75. Đại A La Hán Nan đề mật đa la sở thuyết pháp chú ký, 3 tờ, 654 TL; N. 1466; T. 2030
76. Đại thừa Tây du ký, 12 quyển, 646 TL; cộng tác với Biện cơ; N. 1503; T. 2087
77. Đại từ ân tự Tam Tạng Pháp sư truyện, do Huệ Lập soạn năm 665, 16 quyển; N. 1494
B. Số dịch phẩm:
Gồm 77 dịch phẩm. Nhưng chúng ta nên chú ý những điểm sau đây:
1. Dịch phẩm số 2 thuộc về bộ Đại Bát nhã đáng lẽ không kể.
2. Dịch phẩm số 4 mặc dù thuộc về bộ Maharatnakuta (Đại bảo tích) được xem như một dịch phẩm của Pháp sư.
3. Dịch phẩm số 33 và 34 chỉ rút từ số 35, đáng lẽ không kể.
4. Dịch phẩm 64 chứa những câu của 63, đáng lẽ khôngkể.
5. Dịch phẩm 42 chứa những câu của 45, đáng lẽ không kể.
6. Dịch phẩm 58, chứa những câu của 57, đáng lẽ không kể.
7. Dịch phẩm 49, chứa những câu của 40, đáng lẽ không kể.
8. Tác phẩm 76 và 77 không phải dịch phẩm, đáng lẽ không kể.
Như vậy, tổng cộng chỉ có 68 dịch phẩm.
C. Phân loại các tác phẩm trên
Thật khó phân loại cho cùng, bởi vì có nhiều tác phẩm không thể phân loại; nếu không đọc kỹ tất cả thì chúng ta thật khó bao gồm chúng trong bảng phân loại này. Tuy nhiên, bảng này ít nhất cũng giúp ta có một khái niệm về sự học uyên bác của Ngài Huyền Trang, xác định điển tích học và sở trường của Ngài.
1. Đại thừa Tỳ-nại-da: số 33, 34
2. Tiểu thừa A-tỳ-đàm: số 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69, 70, 72, 74
3. Các bộ thuộc Du già hay Đại thừa A-tỳ-đàm số 12, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41, 44, 46, 48, 49, 50, 51, 56, 57, 58, 59
4. Các bộ thuộc Bát-nhã: số 1, 2, 3, 42, 45
5. Các bộ thuộc Tịnh-độ: 9, 10, 11.
6. Các bộ thuộc Mật tông: số 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26
7. Nhân minh luận bộ: số 52, 54
8. Sử: số 76, 77
9. Tiểu thừa phái: 71
10. Ngoại giáo: số 73
11. Không phân loại: số 4, 5, 6, 7, 8, 13, 14, 15, 16, 17, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 43, 47, 53, 55, 75.
D. Sự bác học của Ngài Huyền Trang
Sự phân loại trên cho ta thấy rõ sự uyên bác của Pháp sư đến mức nào. Ngài khởi đầu bằng Đại thừa Tỳ-nại-da vì Ngài thiên về lý tưởng Bồ tát và hoàn toàn bỏ qua Tiểu thừa Tỳ-nại-da vì những người trước Ngài đã đề cập đến phái này nhiều. Dịch phẩm của Ngài về Tiểu thừa A-tỳ-đàm gồm Lục túc, Phát-trí-luận, bộ Đại-tỳ-bà-sa danh tiếng và vài tác phẩm khác liên quan đến Luận câu xá. Sự đóng góp của Ngài trong phạm vi này rất giá trị vì duy trì hầu hết Nhất thế hữu bộ, gồm cả bộ Đại Tỳ-bà-sa.
Thật đáng tiếc Pháp sư đã không dịch bộ A-hàm mà những người tiền bối của Ngài dịch không hoàn hảo lắm. Ngài thiên về văn học Du già rất rõ rệt, và chính vì vậy Ngài đã nuôi khát vọng Tây du để mang về bộ Du già Sư địa luận phổ biến cho người Trung Quốc. Ngài cũng dịch bộ Đại-bát-nhã có thể xem như là nguồn cội của giáo lý Trung Quán và vì Pháp sư muốn nối nhịp cầu thông cảm giữa hai thuyết Trung Quán và Du già.
Những sách Ngài dịch về Mật tông phản ảnh đức tin của Ngài về sự niệm thần chú và giảng nghĩa vai trò của những cơn mộng mị phép mầu và sự bói toán trong đời Ngài. Ngài cũng không quên dịch vài tác phẩm về Nhân minh, về Tịnh độ và hai tác phẩm về Ngoại giáo.
E. Quan niệm triết lý của Ngài Huyền Trang
Từ những dịch phẩm, chúng ta có thể đặt ra những tư tưởng của Pháp sư. Ngài dịch tác phẩm số 71 (Dị bộ tông luận) có thể xem như là nhập đề giới thiệu những khuynh hướng tư tưởng tà phái có đồng thời với Đức Phật.
Ngài dịch Lục túc, Phát-trí-luận, Đại-tỳ-bà-sa và Câu-xá-luận, nhập đề cho Tiểu thừa A-tỳ-đàm dựa trên bộ A-hàm.
Ngài dịch Du già Sư địa và những bộ luận liên hệ để phổ biến Đại thừa A-tỳ-đàm.
Ngài dịch những bộ luận Duy thức tông và những tác phẩm liên hệ để ghi lại những đặc điểm của tông phái mới mà Ngài tự cho là chính Ngài sáng lập ở Trung Quốc.
Ngài dịch Đại-bát-nhã để khỏi bị cho là đi ngược giáo lý Trung Quán, đồng thời ngài cố dung hòa hai giáo lý Trung Quán và Du già.
Ngài dịch vài tác phẩm về Mật tông và Tịnh độ tông để bênh vực đức tin riêng của Ngài vào sự thực hành hai môn phái ấy, với suốt thời gian Ngài chiêm bái và trở về. Ngài cũng muốn chứng tỏ ước nguyện của Ngài được tái sinh trên cõi trời Đâu Suất để học Du già Sư địa luận với Bồ tát Di Lặc.
Theo những xét đoán trên, Ngài Huyền Trang có thể xem là một nhà đại thừa dũng mãnh, đã tuyên dương giáo lý Duy thức và sự tu hành thiên về nguyện tái sinh ở trời Đâu Suất. Ngài được xem là vị sáng lập tông phái Pháp tướng Duy thức và ảnh hưởng của Ngài chói lọi đến nỗi làm lu mờ cả Tam luận tông. Tông này bênh vực Trung Quán. Sự đóng góp của Ngài trong địa hạt trí thức Phật học rất giá trị và sâu rộng vì Ngài đã giúp duy trì hầu hết bộ Tiểu thừa A-tỳ-đàm, Đại thừa A-tỳ-đàm, v.v… nhưng nguyên bản Phạn văn này bây giờ không còn thấy ở Ấn nữa.
F. Sự chính xác trong các dịch phẩm của Ngài
Để phán đoán sự chính xác ấy, cách độc nhất là so sánh những bản văn Ngài dịch với nguyên tác chữ Phạn, từng chữ và từng câu. Nhưng rủi thay tất cả nguyên tác Phạn văn đều đã mất. Mặc dù mới đây có tìm được một ít bản thảo Phạn ngữ vẫn rất khó mà quả quyết đấy chính là bản mà Ngài đã dịch ra.
Vì thời gian và khuôn khổ sách này rất giới hạn, tôi chỉ xin so sánh ở đây bản dịch hàng đầu bài kệ thứ nhất của Luận Câu-xá do Ngài dịch với bản do Tam tạng Chân đế dịch, như thế chúng ta hy vọng dò xét sự chính xác theo đúng nguyên văn bản dịch của Ngài.
Hàng đầu của bài kệ tiếng Phạn như sau:
“Yah sarvatha sarvahatandhakarah”
Ngài Chân Đế dịch:
“Nhất thiết chủng trí diệt chư minh
Trí huệ Phật phá tan các mê mờ.”
Pháp sư đã dịch:
“Chư nhất thiết chủng chư minh diệt
Người đã hoàn toàn phá tan mê mờ.”
Chân Đế có lẽ đã dịch danh từ ‘Yah’ bằng “Trí” (huệ), trong khi Huyền Trang duy trì nghĩa nó bằng danh từ “Chư”. Sự dùng danh từ ‘Yah’ này rất quan trọng vì nó chỉ sự bình đẳng của Phật tử luôn luôn sẵn sàng cung kính trước bất cứ người nào đã đạt được chánh đẳng chánh giác.
Lại nữa, đối với danh từ Sarvatha sarvandhakarah, Ngài Chân Đế dịch là “nhất thiết chủng trí diệt chư minh” (trí Phật diệt hết mê mờ). Trước tiên sự dịch “Sarvatha” là trí nhất thiết chủng không được chính xác vì từ ngữ này ở đây nên dùng như một trạng từ hơn là một tĩnh từ. Pháp sư dùng “Nhất thiết chủng minh” để dịch “Sarvathaandhakarah” và “chư minh” để dịch “Sarva andhakarah”. Vì Andhakarah ở đây có hai nghĩa. Akhishatan ajnanam và klishtasammoham, bản dịch của Pháp sư bao gồm cả hai ý nghĩa. Hơn nữa, với danh từ hata, Chân Đế đã đặt nó trước danh từ “chư minh” trong khi Pháp sư đặt nó ở sau cả hai từ ngữ nhất thiết chủng minh và chư minh, bởi thế bản dịch Huyền Trang chỉ rõ sự diệt trừ cả klishtasammoham và klishtanajnanam. Sự giảng giải Abhidharma Kosabhashya như sau chứng tỏ Pháp sư dịch rất sát nghĩa:
“Tacca Bhagavato Baddhasya pratipakshalabhenatyantam sarvatha sarvatra jneye punaranutpatthidharmatvaddhatam. Ato’ sausarvathasarvahatandhakarah. Pratyekabuddhasravaka api kamam sarvatra hatandhakarah. Klishtasammohatyantavigamat. Na tu sarvatha. Tatha hyeshamBuddhadharmeshvativiprakrshtadesakaleshu artheshu artheshu canantaprabhedeshu bhavatyevaklishtama jnanam.”
Đoạn văn ngắn này chứng tỏ bản dịch của Pháp sư chính xác và sát nguyên văn đến mức nào. Ngày nay, ở Nhật Bản, Trung Hoa cũng như Việt Nam, chúng ta đều học Câu-xá-luận qua bản dịch của Ngài Huyền Trang và dùng bản dịch của Chân Đế để tra cứu.