Chương 10:
Kết Luận: Khoa Học, Tâm Linh, và Nhân Loại
Nhìn lại quãng đời 70 năm của cuộc sống, tôi thấy rằng sự gặp gỡ cá nhân mình với khoa học đã bắt đầu khi mình còn trong một thế giới hầu như hoàn chưa có khoa học, nơi mà công nghệ dường như đã là sự kỳ diệu. Tôi cho rằng niềm đam mê của mình trong khoa học vẫn còn dừng nghỉ trên sự ngạc nhiên với những kỳ diệu về điều mà nó có thể thành tựu. Từ những điểm ban đầu này, cuộc hành trình vào khoa học đã dẫn dắt tôi đến với các vấn đề thật phức tạp, như là tác động của khoa học lên sự hiểu biết của chúng ta về thế giới, năng lực của nó để chuyển hóa cuộc sống con người và chính trái đất mà chúng ta đang sống, và tình trạng đạo đức tiến thoái lưỡng nan đáng kinh khiếp mà những khám phá mới của nó đặt ra. Nhưng người ta không thể và không nên quên sự kỳ diệu và đẹp đẽ của những gì đã được làm cho có thể thành hiện thực.
Sự thấu suốt của khoa học đã phong phú hóa nhiều khía cạnh của thế giới quan Phật giáo của tôi. Lý thuyết tương đối của Einstein với các thí nghiệm suy tưởng sống động của nó, đã cung cấp một kết cấu kiểm tra một cách thực nghiệm lên sự nắm bắt giáo thuyết Long Thụ về tính tương đối của thời gian. Bức tranh chi tiết lạ thường về động thái của các hạt hạ nguyên tử ở các mức khoảnh khắc đã làm rõ thêm giáo pháp của đức Phật về bản chất vô thường chóng vánh của vạn vật. Sự phát hiện về gen di truyền nêu bật thêm cho quan điểm Phật giáo về tính bình đẳng nền tảng của tất cả chúng sinh về tất cả chúng sinh.
Đâu là vị trí của khoa học trong nỗ lực của toàn thể nhân loại? Nó đã khảo sát mọi thứ từ con amoeba[1] nhỏ nhất cho đến hệ thống thần kinh sinh học phức tạp của con người, từ sự hình thành của vũ trụ và sự xuất hiện của sự sống trên trái đất cho đến chính bản chất của vật chất và năng lượng. Khoa học thật là ngoạn mục trong việc thám hiểm thực tại. Nó không chỉ cách mạng hóa kiến thức của chúng ta mà còn mở ra những con đường lớn cho việc hiểu biết. Nó đã bắt đầu thâm nhập vào trong vấn đề phức tạp của ý thức – tức là tính năng chủ chốt khiến chúng ta là loài hữu tình. Câu hỏi là liệu rằng khoa học có thể cung cấp một hiểu biết đầy đủ về toàn thể phổ hàm của thực tại và sự hiện diện của con người hay không.
Từ quan điểm Phật giáo, một hiểu biết đầy đủ về con người không chỉ cống hiến một lời giải thích mạch lạc về thực tại, các giá trị của chúng ta về việc nắm bắt nó, và vị trí của ý thức mà còn bao hàm một sự thấy biết rõ ràng về cách mà chúng ta nên hành động. Trong mẫu hình hiện tại của khoa học, chỉ có kiến thức nào được dẫn xuất từ phương pháp thực nghiệm chặt chẽ được chống đỡ bởi quan trắc, suy luận, và kiểm nghiệm mới có thể được xem là có hiệu lực. Phương pháp này bao gồm việc sử dụng định lượng và đo lường, khả năng lập lại [của thí nghiệm], và chứng thực bởi những người khác. Nhiều khía cạnh của thực tại cũng như là một số yếu tố then chốt về nhân cách của con người, như là khả năng phân biệt tốt xấu, tâm linh, sáng tạo nghệ thuật – một số trong những điều này chúng ta hầu như để đánh giá về nhân cách – thì lại không thể tránh khỏi bị loại ra ngoài nội hàm của phương pháp [khoa học] này. Tri thức khoa học, như vị trí của nó hiện nay, là không toàn mãn. Tôi tin rằng việc công nhận sự thật này và chấp nhận rõ ràng các giới hạn của tri kiến khoa học là một điều thiết yếu. Chỉ bởi sự công nhận như thế thì ta mới có thể nhận thức một cách chân chính nhu cầu hợp nhất khoa học với toàn bộ tri kiến của nhân loại. Nếu không, khái niệm của chúng ta về thế giới bao gồm cả sự tồn tại của chính chúng ta, sẽ bị giới hạn trong các sự kiện nào được viện dẫn bởi khoa học, dẫn đến một thế giới quan sâu nặng về chủ trương quy giảm, chủ nghĩa vật chất, và ngay cả chủ nghĩa hư vô.
Tôi không có vấn đề gì với chủ nghĩa quy giảm như thế. Có nhiều phát triển to tát của chúng ta quả đã được tạo ra bởi việc áp dụng cách tiếp cận quy giảm vốn được đặc tả nhiều trong thí nghiệm và phân tích khoa học. Vấn đề nảy sinh là khi chủ trương quy giảm trở thành một phương pháp cốt lõi, thì nó sẽ chuyển biến thành lập trường siêu hình học. Có thể hiểu được rằng điều này phản ánh một xu hướng thông thường để quy các giá trị về một chung cuộc, nhất là khi một phương pháp đặc biệt có hiệu quả cao. Trong một ẩn dụ mạnh mẽ, kinh Phật nhắc nhở chúng ta rằng khi một người nào đó chỉ ngón tay mình đến mặt trăng, thì chúng ta không nên ngó vào đầu ngón tay mà hãy ngó đến mặt trăng vốn đang được chỉ ra.
Xuyên suốt sách này, tôi hy vọng đã tạo ra được một tình huống mà người ta có thể nhìn nhận khoa học một cách nghiêm túc và chấp nhận giá trị về các khám phá thực nghiệm của nó mà không tán thành chủ nghĩa vật chất khoa học. Tôi đã tranh luận về nhu cầu và trách nhiệm về một thế giới quan đặt nền tảng trên khoa học, nhưng phải là nền khoa học không phủ nhận sự phong phú của bản chất nhân loại cũng như là giá trị của các cơ chế về hiểu biết vốn khác với khoa học. Tôi nói điều này là vì tín tâm mạnh mẽ rằng có một sự nối kết bản năng giữa việc hiểu biết có tính khái niệm về thế giới, khả năng quan sát về sự hiện hữu của con người và năng lực của khả năng đó, cùng với các giá trị đạo đức vốn hướng dẫn cho sự ứng xử. Cách chúng ta quan niệm về mình và thế giới xung quanh như thế nào thì có thể không giúp ích gì nhưng lại có ảnh hưởng đến thái độ và các quan hệ của chúng ta với các chúng sinh thành viên khác và với thế giới mà chúng ta đang sống. Đây là điều cốt yếu của vấn đề đạo đức.
Các khoa học gia có một trách nhiệm đặc biệt, một trách nhiệm về đạo đức trong việc đảm bảo rằng khoa học sẽ phụng sự cho các quyền lợi của nhân loại trong cách tốt nhất khả dĩ. Điều mà họ thực hiện trong các phân môn đặc biệt của họ có năng lực gây ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả chúng ta. Vì các lý do lịch sử nào đó, mà các nhà khoa học hưởng một tầm mức cao về sự tín nhiệm công chúng hơn là các chuyên nghiệp khác. Đó là sự thật, dẫu sao, thì sự tín nhiệm này không còn là lòng tin tuyệt đối. Đã có quá nhiều thảm kịch liên hệ hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến khoa học và công nghệ vì sự tin cậy vào khoa học được duy trì vô điều kiện. Trong đời của tôi, chúng ta chỉ cần nghĩ đến Hiroshima, Chernobyl, đảo Three Mile, hay Bhopal[2] trong nội dung về các thảm họa hạt nhân và hóa học, và sự thoái hóa của môi trường – bao gồm sự suy kiệt của tầng ozone[3] – trong số các khủng hoảng sinh thái.
Lời kêu gọi của tôi là hãy hòa nhập tâm linh của chúng ta, cùng với sự phong phú tràn đầy và thiện tính đơn thuần của các giá trị nhân bản, vào dòng diễn tiến của khoa học và sự định hướng của công nghệ trong xã hội con người. Một cách cốt lõi, khoa học và tâm linh, dù khác biệt trong các cách thức tiếp cận, vẫn chia sẻ cùng một chung cuộc, đó là sự hoàn thiện hơn của nhân loại. Ở mức độ cao đẹp nhất, thì khoa học được thúc đẩy bởi một sự truy tầm cho việc hiểu biết nhằm giúp dẫn dắt chúng ta đến với hưng thịnh và hạnh phúc to tát hơn. Trong ngôn ngữ nhà Phật, loại khoa học này có thể được mô tả như là trí huệ có nền tảng và được hòa nhập với từ bi. Tương tự, tâm linh là cuộc hành trình đi vào các nguồn tài nguyên nội tâm, với mục tiêu tìm hiểu chúng ta là ai, ý nghĩa sâu xa nhất cũng như là phát hiện ra cách sống thuận với mẫu mực lý tưởng cao đẹp nhất khả dĩ. Điều này cũng chính là sự hợp nhất giữa trí huệ và từ bi.
Từ việc xuất hiện của khoa học hiện đại, nhân loại vẫn sống còn qua một giao ước giữa tâm linh và khoa học như là hai nguồn quan trọng về tri thức và phúc lạc. Đôi khi mối quan hệ này đã khá gần gũi – một loại tình bằng hữu – trong những lúc khác nó lại lãnh đạm, với nhiều phát hiện về bất khả tương hợp của hai bên. Ngày nay, trong thập niên đầu của thế kỷ thứ 21, khoa học và tâm linh lại có tiềm năng để được gần gũi nhau hơn bao giờ hết, và để bắt tay nỗ lực cộng tác với tiềm năng xa rộng nhằm hỗ trợ nhân loại chạm mặt với các thử thách ở phía trước. Chúng ta tất cả hãy cùng chung nhau trong việc này. Xin cho mỗi người trong chúng ta, như là thành viện của gia đình nhân loại, nhận lấy trách nhiệm về nghĩa vụ đạo đức để biến sự cộng tác này thành khả thi. Đây là lời kêu gọi thành khẩn của tôi.
[1] Thường được dịch thành a-míp là một động vật nguyên sinh đơn bào. “Amoeba (genus)”. Wikipedia. Truy cập 01/01/2010
[2] Hiroshima (広島市) là thành phố lớn nhất của vùng Chūgoku thuộc phía Tây đảo Honshū, nước Nhật. Đây là thành phố đầu tiên trên thế giới bị tiêu hủy do bom nguyên tử mang tên “Little Boy” (dịch nghĩa “Thằng Bé”) được quân đội Hoa Kỳ dùng phi cơ B-29 thả vào ngày 6 tháng 8 năm 1945 khi thế chiến thứ II đã gần kết thúc. Con số tổn thất vào khoảng 90.000 đến 140.000 người chết và khoảng 96% các ngôi nhà của thành phố bị hủy hoại hoàn toàn.
Chernobyl (Чорнобиль), là thành phố thuộc phía Bắc Ukraine trong địa phận Kiev Oblast gần giáp giới nước Bạch Nga (Belarus). Thành phố này đã phải di tản vào 1986 do thảm họa bởi lò phản ứng hạt nhân Chernobyl cách đó khoảng 14,5 km. Ngày 26 tháng 4 năm 1986, lò phản ứng số 4 đã phát nổ 4 công nhân chết ngay lập tức. Sau đó 36 giờ cư dân sống và làm việc tại đó đã được lệnh di tản và hầu hết đều không trở về.
Tai nạn tại Đảo Three Mile [nghĩa là “Ba Dậm”] một phần gây ra là do các lõi trong lò phản ứng bị chảy trong đơn vị số 2 (là một lò phản ứng dùng nước nặng). Tai nạn tại Trạm Phát Điện Hạt Nhân đảo Three Mile là tai nạn tồi tệ nhất trong lịch sử công nghiệp phát điện hạt nhân cho thương mãi của Hoa Kỳ khiến cho thải ra môi trường khoảng 481 PBq khí phóng xạ nhưng đặc biệt nguy hại là vào khoảng 740 GBq là chất phóng xạ iodine-131
Bhopal đã từng là thủ đô và cơ quan đầu não của nội các địa phận Bhopal của bang Madhya Pradesh thuộc nước Ấn. Thành phố này nổi tiếng với nhiều hồ nước được mệnh danh là thành phố của các hồ nước và cũng là một thành phố “sinh thái” nhất trong nước Ấn. Vào đêm 3 tháng 12 năm 1984, một lượng khí cực độc methyl isocyanate đã bị rò rỉ và thoát ra từ nhà máy sản xuất thuốc diệt trùng Union Carbibe. Sự kiện khí rò rỉ này đã là một trong những thảm họa tồi tệ nhất lịch sử công nghiệp khiến hàng ngàn người bị thiệt mạng và nhiều ngàn người khác phải gánh các vấn đề sức khỏe như là tàn tật tâm lý và thần kinh, mù lòa vân vân. Các xáo trộn về hô hấp, thị giác và xúc giác trở nên phổ biến và tỉ lệ hư thai còn rất cao.
“Atomic bombings of Hiroshima and Nagasaki”, “Chernobyl Disaster”, “Three Mile Island accident”, hay “Bhopal”. Truy cập 01/01/2010
[3] Tầng Ozone là một lớp khí quyển của trái đất có chứa một mật độ Ozone tương đối cao. Tầng này hấp thụ từ 90% đến 93% các sóng ánh sáng cực tím (ultraviolet) của mặt trời vốn có khả năng gây tổn hại cho sự sống trên trái đất. Nó thuộc một phần của tầng bình lưu (stratosphere) trên độ cao khoảng từ 10 km đến 50 km. Tầng ozone được phát hiện bởi hai nhà vật lý Pháp Charles Fabry và Henri Buisson vào năm 1913. Tầng ozone có thể bị bào mỏng và làm xẹp bởi các xúc tác như NO, N2O, OH, nguyên tử Cl và Br; nồng độ cao của Cl và Br đáng kể do lượng hợp chất halogen hữu cơ nhân tạo đặc biệt là chlorofluorocarbons (CFCs) and bromofluorocarbons.
“Ozone layer”. Wikipedia. Truy cập 01/01/2009.
Nguyên tác: The Universe in a Single Atom của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Dịch Việt: Làng Đậu Võ Quang Nhân