VII. Tịnh Độ Tông của Việt Nam
Quyển sách này tôi viết với hai mục đích chính:
Mục đích thứ nhất là muốn hệ thống hóa lại tư tưởng Tịnh Độ cho có lề lối và rõ ràng. Vì lâu nay những người tu và thực hành theo Tịnh Độ Tông tuy có thực hành đó; nhưng chưa rõ nguồn gốc; cũng như tôi mong mỏi những người Phật tử Việt Nam, đọc thêm cách hành trì về Tịnh Độ của các nước Phật Giáo khác và từ đó bổ sung thêm cách thực hành lâu nay của mình để được thành tựu hơn.
Mục đích thứ hai, tôi muốn giới thiệu tác phẩm nầy đến với những người Phật tử Đức, lâu nay vốn theo Phật giáo; nhưng không biết Phật Giáo Việt Nam một cách rõ ràng; nhất là pháp môn niệm Phật. Sau khi sách tiếng Việt được ấn tống xong, Thầy Hạnh Giới, Trụ trì Chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, sẽ dịch sách nầy ra tiếng Đức để quý Phật tử Đức có cơ hội nghiên cứu thêm.
Hai mục đích nêu trên rất rõ ràng; cho nên tôi mong mỏi quý độc giả trước tiên nên hiểu sơ qua về lịch sử Phật Giáo được truyền vào nước Việt Nam của chúng ta qua các nhà sử học, Phật học và qua kinh sách. Để từ đó chúng ta dễ nhận diện chỗ đứng của chúng ta vốn có tự ngàn xưa trong vấn đề vận hành bánh xe pháp ấy vào quê hương Đại Việt vậy.
Nguồn sử liệu thứ nhất khi tôi đọc được là quyển “Phật Giáo Việt Nam sử lược” của cố Hòa Thượng Thích Mật Thể. Quyển sách tuy khiêm tốn; nhưng cũng đã nói lên được những điều cần yếu cho người muốn tìm hiểu, học hỏi, có được sách vở để nghiên cứu. Quyển này Ngài cũng đã dựa vào quyển viết bằng tiếng Pháp của ông Trần Văn Giáp viết về “Lịch sử Việt Nam từ thời kỳ khởi nguyên cho đến thế kỷ thứ 13”. Quyển sách đã chia rõ từng giai đoạn lịch sử và các triều đại trong suốt 1.300 năm ấy. Riêng cá nhân chúng tôi, chỉ muốn minh định về sự truyền vào và nhất là Tịnh Độ Tông mà thôi, chúng tôi không có tham vọng viết về lịch sử Phật Giáo Việt Nam, vì cho đến nay đã có bốn người viết rồi. Đó là ông Trần Văn Giáp, cố Hòa Thượng Thích Mật Thể, Nguyễn Lang tức Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát và ngoài ra ông Nguyễn Hiền Đức cũng đã có viết thêm về lịch sử Phật Giáo Việt Nam Đàng Trong nữa.
Cố Hòa Thượng Thích Mật Thể thì cho rằng: Đạo Phật dược du nhập vào Việt Nam chúng ta vào năm 198 sau Tây lịch; nghĩa là cuối thế kỷ thứ 2. Có các Ngài Khương Tăng Hội, Mâu Bác và Chi Cương Lương là những người đầu tiên hành đạo tại Giao Chỉ. Thuở ấy Việt Nam chúng ta bị Bắc Thuộc lần thứ 2; cho nên đa phần kinh điển hay cách tu đều rập khuôn theo Trung Quốc. Chỉ riêng Thiền Tông là có ghi chép sự truyền thừa rõ ràng từ Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi (? – 594) đến Giao Chỉ vào năm 580; nghĩa là cuối thế kỷ thứ 6 và Ngài đã đến Trung Hoa gặp Tổ Tăng Xán (529 – 613) và Tổ bảo hãy xuôi Nam để truyền giáo. Do vậy Thiền Tông đã chính thức có mặt tại Việt Nam từ thuở ấy. Rồi Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm Yên Tử, Lâm Tế, Tào Động v.v…; nhưng tuyệt nhiên không có đề cập đến ai là vị Tổ truyền Tịnh Độ Tông đến Việt Nam. Đây là một nghi vấn lớn, vì lẽ trong hiện tại những Phật tử Việt Nam tuy nói rằng thuộc Thiền Lâm Tế hay Tào Động; nhưng đa phần lại tu theo pháp môn Tịnh Độ, lý do vì sao thì chưa có ai trả lời thích đáng.
Vào giữa thập niên 80, 90 ở ngoại quốc chúng tôi đã đọc được bộ sách của tác giả Nguyễn Lang tức là Thiền Sư Thích Nhất Hạnh viết về “Việt Nam Phật Giáo sử luận 1, 2 và 3”. Đây là những tài liệu thật quý hiếm, vì ở ngoại quốc; nên Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh có nhiều cơ hội sưu tập tài liệu bằng chữ Hán và tiếng Pháp, tiếng Anh rất dễ dàng. Điều đặc biệt của sách nầy chứng minh rằng: Phật Giáo Việt Nam không phải được truyền vào trực tiếp từ Trung Hoa, mà trước khi Phật Giáo Đến Trung Hoa, Phật Giáo đã có mặt tại Giao Châu rồi. Thay vì thế kỷ thứ 2 thì Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh chứng minh là Phật Giáo từ Ấn Độ trực tiếp được truyền vào Giao Châu từ thế kỷ thứ nhất.
Ngài lý luận rằng: Những thương thuyền Ấn Độ ngày xưa trước khi sang buôn bán với người Trung Quốc tại kinh đô Bành Thành thì các tàu buôn phải ghé qua kinh đô Luy Lâu của Giao Chỉ trước. Khi đi họ có mang theo Tăng sĩ Ấn Độ để cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa và khi đến được đất Giao Châu họ phải ở lại đây mấy tháng chờ gió nồm mới có thể giăng buồm để tiếp tục sang Trung Quốc. Đây là thời gian để người Giao Chỉ làm quen với các nhà Sư và Phật Giáo lúc ban đầu.
Lý do khác mà nhà Sử học Nguyễn Lang đã đưa ra rằng: Ngày xưa đường bộ rất nguy hiểm, vì núi cao và thú dữ; cho nên những đoàn lái buôn không ai dám đi ngang qua rừng và sa mạc cả. Ngoài những sự hiểm trở của thiên nhiên ra còn có cả trộm cướp, lục lâm, thảo khấu nữa. Do vậy những người đi buôn giữa hai nước chẳng ai dại gì vừa bị mất mạng vừa tiêu tan tài sản nữa; nên họ đã chọn con đường biển.
Từ những lý do chính đáng trên, Thiền Sư Nhất Hạnh đã khẳng định rằng: Phật Giáo trước khi đến Trung Hoa đã có mặt tại Việt Nam rồi và điều chứng minh khác hơn cố Hòa Thượng Thích Mật Thể là không phải cuối thế kỷ thứ 2, mà là thế kỷ thứ nhất. Nhưng nếu đọc cho kỹ thì trong 3 quyển sử luận nầy cũng không chứng minh được về Tịnh Độ bắt nguồn phát xuất tại Giao Châu lúc nào và ai là vị Tổ Sư đầu tiên?
Khoảng giữa thập niên 90 có một tập sách đặc biệt về lịch sử Phật Giáo Việt Nam ra đời. Đó là “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tập I, II và III” do Giáo Sư Lê Mạnh Thát biên soạn. Đây là một tài liệu đáng tin cậy, vì lẽ Giáo Sư tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Hoa Kỳ và thông thạo nhiều ngôn ngữ cũng như có công tra cứu thật là tỉ mỉ, nhất là “Lục Độ Tập Kinh” có mặt trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Căn cứ vào bộ kinh cổ nhất của Giao Châu, Giáo Sư đã lập luận rằng: Phật Giáo Việt Nam đã được truyền vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch và 2 người Phật tử đầu tiên là Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung thuộc đời vua Hùng Vương thứ 18.
Điểm thứ hai đối với chúng tôi rất quan trọng. Đó là câu chuyện của Ngài Đàm Hoằng đã tu theo kinh Quán Vô Lượng Thọ và cuối đời tự thiêu ở núi Tiên Du Bắc Việt và mọi người trong thôn thấy toàn thân Ngài sáng chói và đi về hướng Tây. Dữ liệu nầy là một dữ liệu rất quan trọng để chúng ta có thể tìm ra manh mối của Tịnh Độ Tông bắt nguồn từ lúc nào.
Điều thứ ba mà Giáo Sư Lê Mạnh Thát muốn chứng minh cho chúng ta thấy rằng: Vua A Dục thuở ấy vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch có thể đã cho xây tháp tại xứ Giao Châu của chúng ta.
Nếu Phật Giáo Việt Nam được truyền qua ngả Ấn Độ từ thời vua Hùng Vương thứ 18; có nghĩa là trước cả Trung Hoa. Vì dưới thời vua Hán Minh Đế Phật Giáo mới được truyền vào Trung Hoa và vào năm 67 sau Tây lịch, kinh Tứ Thập Nhị Chương mới được hai vị Sư Ấn Độ là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dịch ra tiếng Trung Hoa tại kinh đô Lạc Dương. Điều nầy cũng có thể, vì ngày xưa nước Lâm Ấp có diện tích khá rộng, bao phủ cả nước Việt Nam, Thái Lan, Cao Miên và có biên giới giáp với Ấn Độ. Do vậy người Ấn Độ đến Lâm Ấp (tức là Chiêm Thành cũ) dễ dàng hơn là đi qua Trung Hoa cả đường bộ lẫn đường thủy, cho nên Phật Giáo được truyền vào Giao Châu sớm hơn Trung Quốc vào thời vua Hùng Vương thứ 18 cũng là điều có thể tin được.
Từ điểm nầy liên hệ với điểm thứ ba như đã được trình bày ở trên là nước Lâm Ấp (Chiêm Thành cũ) đa phần theo Ấn Độ giáo vì dòng văn tự giống như chữ Phạn, mà ngày nay một số người Chiêm Thành còn sót lại tại Nha Trang, Phan Rang họ vẫn còn theo đạo nầy và dùng ngôn ngữ ấy. Từ đó chúng ta có thể tin được rằng một trong 84.000 ngọn tháp mà vua A Dục cho dựng lên vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch cũng có thể đã có mặt tại Lâm Ấp chăng?
Thế nhưng trong Đại Đường Tây Vức Ký, chúng tôi đã có cơ hội dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt cách đây mấy năm không thấy Ngài Huyền Trang đề cập đến có phù đồ (Stupa) nào được Vua A Dục cho dựng xây tại Lâm Ấp cả. Vì vào thời Ngài Huyền Trang ở thế kỷ thứ 7, Lâm Ấp vẫn còn có mặt trên bản đồ thế giới, cho nên Ngài Phật Triệt mới có thể mời Thầy mình là người Ấn Độ là Ngài Bồ Đề Tiên Na đến Lâm Ấp dừng chân mấy năm trước khi qua Trung Quốc và sau đó sang Nhật Bản làm Khai nhãn Sư tượng Đại Phật chùa Đông Đại ở Nara vào năm 752!
Khi đọc đến câu chuyện của Ngài Đàm Hoằng tự thiêu, tôi lại liên tưởng đến Ngài Đàm Loan, Sơ Tổ Tịnh Độ Tông của Trung Hoa chắc có cái gì đó liên hệ chăng? do vậy mới tìm Phật Quang Đại Từ Điển của Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch tra cứu thì thấy như sau:
A- Ngài Đàm Hoằng và tư tưởng Tịnh Độ
“Đàm Hoằng (? – 455)
Vị Tăng ở đời Lưu Tống thuộc Nam Triều, người Hoàng Long. Sư xuất gia từ nhỏ, chuyên tinh giới luật. Trong năm Vĩnh Sơ (420 – 422), Sư đến Quảng Đông, dừng chân ở Đài tự. Sau đó Sư đến chùa Tiên Sơn đất Giao Chỉ, thường tụng kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, phát nguyện vãng sanh Tây Phương. Năm Hiếu Kiến thứ 2 (455) Sư Vào núi tự thiêu rồi tịch. Mọi người trong thôn đều thấy toàn thân Sư sáng chói, ngồi trên lưng con nai bằng vàng đi về phương Tây. Thâm cảm sự lạ lùng ấy, mọi người thu nhặt tro xương của Sư, dựng tháp cúng dường”. (Phật Quang Đại Từ Điển trang 1587). (Xem Lương Cao Tăng truyện quyển 12).
Căn cứ vào truyện trên ta có thể đoán rằng Ngài Đàm Hoằng sinh ít nhất là vào cuối thế kỷ thứ 4 và đầu thế kỷ thứ 5; nghĩa là khoảng từ 390 – 400. Như vậy thời gian nầy là thời gian mà Ngài Huệ Viễn (334 – 416) có mặt tại Lô Sơn và đang chủ trương thành lập Bạch Liên Xã tại đó. Không biết lúc đương thời tại Trung Quốc, Ngài Đàm Hoằng có thọ giáo với Ngài Huệ Viễn để học kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ không? để đến năm (420 – 422) ít ra Ngài Đàm Hoằng cũng đã 20 – 30 tuổi mới có thể một mình hay cùng bạn hữu Tăng nhân đi đến đất Giao Chỉ và trú tại chùa Tiên Sơn được. Khi Ngài đến có lẽ Ngài không nói được tiếng Việt; nhưng Ngài tụng kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ bằng chữ Hán thì chắc rằng người Giao Châu hiểu nội dung nhưng không nói được (vì thuở ấy Giao Châu đang thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 2 của Trung Quốc).
Nhưng trong quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tập 1” của Giáo Sư Lê Mạnh Thát thì còn diễn tả tỉ mỉ hơn như tiểu sử đã ghi trên rằng: Ngài Đàm Hoằng có ý định tự thiêu nên đã vào núi tìm củi để đó, chờ ngày phát nguyện thiêu thân cúng dường; nhưng dân làng Tiên Du Bắc Việt biết được ý định của Ngài; nên họ đã cho cất giấu tất cả củi đi. Thế rồi nhân ngày hội lớn của làng. Tất cả mọi người đều đi dự lễ, một mình ngài vào núi tìm củi tiếp, rồi tự hỏa thiêu, lúc dân làng phát hiện được thì sự việc đã xảy ra như đã trình bày ở trên.
Còn Ngài Đàm Loan (476 – ?) tuy cùng pháp danh với ngài Đàm Hoằng; nhưng khi Ngài Đàm Loan sinh ra thì ngài Đàm Hoằng đã viên tịch (455) cũng có thể hai vị này cùng thờ chung một vị Thầy chăng? vì lẽ Ngài Đàm Loan nhận được kinh Quán Vô Lượng Thọ từ Ngài Bồ Đề Lưu Chi tại kinh đô Lạc Dương (xem Phật Quang Đại Từ Điển trang 1589) và cũng tu theo pháp môn nầy có nguồn gốc liên tục từ Ngài Long Thọ đến Ngài Thế Thân; cho nên Phật Giáo Nhật Bản chọn Ngài Đàm Loan của Trung Quốc làm Sơ Tổ Tịnh Độ Tông Trung Quốc và Đệ tam Tổ Tịnh Độ Tông của Nhật Bản, mà không chọn Ngài Huệ Viễn.
Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng Tịnh Độ Tông được truyền vào Việt Nam vào năm 420 sau Tây lịch. Ngài có thể là vị Sơ Tổ Tịnh Độ Tông của Việt Nam chăng? nếu được vậy thì Tịnh Độ Tông được truyền vào Việt Nam còn trước cả Thiền Tông 160 năm; nghĩa là năm 580 Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi mới đến Việt Nam và từ đó Thiền Tông mới bắt đầu truyền thừa. Nhưng trước Ngài Đàm Hoằng là vị nào tu Tịnh Độ hay chỉ có Ngài Đàm Hoằng tu theo kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ mà thôi và sau Ngài Đàm Hoằng là vị nào đã tu theo pháp môn Tịnh Độ? ở đây cũng có thể đem ra một kết luận sơ khởi là chúng ta nên chọn Ngài Long Thọ làm Sơ Tổ Tịnh Độ Tông, Ngài Thế Thân đệ nhị Tổ và khi Phật Giáo truyền thẳng vào Giao Châu ở thế kỷ thứ 5 (420) thì Ngài Đàm Hoằng chúng ta tạm tôn xưng là Sơ Tổ Tịnh Độ Tông Việt Nam và là Đệ tam Tổ Tịnh Độ (sau Ngài Long Thọ, Thế Thân) như người Nhật đã chọn Ngài Đàm Loan làm Đệ tam Tổ Tịnh Độ cho Phật Giáo Nhật Bản vậy. Điều này không phải chúng ta thấy sang bắt quàng làm họ, mà có chứng cứ lịch sử và kinh điển rõ ràng. Đây chỉ là sự phát hiện tình cờ của chúng tôi thôi và mong rằng các bậc cao minh có thể chỉ giáo thêm.
Về phần tư tưởng và cách lập Tông của các Ngài Long Thọ và Ngài Thế Thân chúng ta không cần phải đề cập đến ở đây nữa; nhưng riêng vị Tổ Sư Đàm Hoằng tương đối đặc biệt đối với những người Phật tử Việt Nam tu theo pháp môn Tịnh Độ; nên chúng ta cần nghiên cứu sâu xa thêm một ít nữa.
Ngài Đàm Hoằng đến Việt Nam tu trên chùa Tiên Sơn núi Tiên Du thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Đây là tỉnh lỵ mà được nhiều triều đại vua chúa Việt Nam sau khi độc lập giành tự chủ cho đất nước (năm 938) đến thời vua Lý Thái Tổ (1010) đã cho chọn làm kinh Đô. Do địa thế thuận lợi và qua lại dễ dàng với Trung Quốc vì trước đó từ năm 43 trước Tây lịch đến năm 938 sau Tây lịch gần 1000 năm như thế Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ 2. Cho nên người Trung Quốc có mặt thường xuyên tại Giao Châu; giống như người Trung Quốc có mặt tại Tây Tạng từ năm 1959 đến nay (2011). Người Tây Tạng vẫn giữ văn hóa và Tôn Giáo của Tây Tạng; còn người Trung Quốc thì cai trị, muốn cho dân Tây Tạng bị đồng hóa như họ đã muốn thực hiện chính sách nầy đối với người Việt Nam gần 1000 năm nhưng vẫn không thành công. Vì lẽ dân tộc nào cũng có quyền tự trị của họ cả. Họ có văn hóa riêng, ngôn ngữ riêng, tập quán riêng… thì không thể đồng hóa họ được.
Như vậy Ngài Đàm Hoằng đã đến Giao Châu (Bắc Ninh) từ Quảng Đông (biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc). Lúc ấy có lẽ không phải Ngài đến để tỵ nạn mà đến để hoằng pháp lợi sanh cho người Trung Quốc và người Việt Nam đang sinh sống tại Giao Châu thuở ấy. Việc này cũng tương tự như tình hình của người Việt Nam trong hiện tại. Trước và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã có hơn 2 triệu người Việt Nam có mặt khắp nơi trên thế giới. Đi đến đâu, sau khi đã được sống an cư, lạc nghiệp thì người Việt Nam đều xây dựng Chùa chiền để làm chỗ dựa tinh thần trong lúc gia đình có quan, hôn, tang, tế v.v… đây là điều cần thiết. Do vậy Phật tử có thể thỉnh những vị Thầy cùng đi chung với mình đến đất nước ấy, Chùa ấy trú ngụ; hoặc giả liên lạc về Việt Nam để thỉnh chư Tăng, Ni sang hoằng hóa tại các nước có người Việt Nam.
Câu chuyện hơn 1.500 năm trước tại Giao Châu chắc cũng như vậy thôi, không khác gì bây giờ mấy. Nghĩa là Ngài Đàm Hoằng đã có mặt tại Việt Nam vào năm 420 – 422. Thời gian nầy đất Giao Châu chắc chỉ rộng đến Nghệ An, Thanh Hóa là cùng và người Giao Châu cũng có tín tâm với đạo Phật nên đã xây Chùa trên núi cho Sư ở; nên gọi là Tiên Sơn tự. Chùa núi thì chắc rằng đơn giản hơn chùa ở phố thị. Nơi ấy hằng ngày Sư Đàm Hoằng vào núi đốn củi, hái rau, trái cây rừng về để dùng bữa qua ngày. Đêm đến tụng kinh A Di Đà. Nếu những ngày vía lớn thì kinh Vô Lượng Thọ và trước khi đi ngủ cũng như sau khi ngủ Ngài Đàm Hoằng ngồi tọa thiền để quán 16 phép quán như Đức Phật đã dạy cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy thuở Phật còn tại tiền.
Đến năm 455 thì Ngài Đàm Hoằng tự thiêu. Trong các kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà chúng ta không thấy đề cập đến vấn đề tự thiêu; nhưng trong kinh Pháp Hoa phẩm thứ 23 nói về Ngài Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát khi muốn cúng dường Phật, đã tự đốt cánh tay và thân của mình. Đây là hạnh nguyện cúng dường bố thí Ba La Mật. Trong kinh Kim Cang cũng có đoạn nói về việc khi Đức Thế Tôn còn là một vị Bồ Tát cũng đã hy sinh thân nầy mà không trụ vào chỗ nào cả; nên bị Tiên Nhơn xẻ thịt; nhưng Ngài không chấp vào đó. Như vậy hình thức cúng dường bằng thân thể của mình lên chư Phật và chư Bồ Tát đã có từ lâu; nhưng không phải là một việc thường được khuyến khích, mà là việc đáng quan tâm.
Sau khi tự thiêu xong dân làng thấy Ngài ngồi trên lưng con nai vàng đi về hướng Tây. Hướng Tây có nghĩa là Tây Phương Cực Lạc. Vì trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Đức Phật đã chỉ cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy và những chúng sanh đời sau nầy nên quán như thế nầy, nên quán như thế kia … và việc quán ấy đã được thành tựu; cho nên chư Thánh chúng đến đón về Tây. Con nai vàng tượng trưng cho hào quang của Đức Phật A Di Đà. Vì Vô Lượng Quang (A Di Đà) là ánh sáng màu vàng chiếu khắp cả vô lượng thế giới, đến khi niệm niệm đã thành thục khi thân trung ấm đã lìa khỏi thân tứ đại thì tâm thức được sanh lên thế giới Tây Phương Cực Lạc và chứng vào quả vị Thượng Phẩm Thượng Sanh. Lúc ấy ngồi trên hoa sen, sẽ nghe Đức Phật A Di Đà thuyết pháp.
Hình ảnh con nai vàng và hình ảnh hướng về Tây là hình ảnh giải thoát sanh tử của Ngài Đàm Hoằng để sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đây chỉ là biểu hiện qua hình tướng, mà là kết quả một đời tu hành, thanh tịnh giữ giới của Ngài. Nếu Ngài viên tịch năm 455, tức là Ngài đã ở Việt Nam được 35 năm. Trong 35 năm ấy chắc Ngài đã giáo hóa không ít đồ chúng tại Chùa Tiên Sơn tu theo pháp môn Tịnh Độ. Tuy rằng trước đó và sau đó không có vị Tổ Sư nào đã cho ta thấy rõ ràng là đã tu pháp môn nầy; nhưng điều ấy không quan trọng. Nếu chúng ta xem lại lịch sử thì chúng ta sẽ thấy từ vị Tổ thứ nhất đến vị Tổ thứ 2 cách xa rất nhiều thế kỷ. Ví dụ như:
Sau khi Đức Phật nói kinh A Di Đà (tiểu bổn) cho Ngài Xá Lợi Phất nghe tại nước Xá Vệ; nơi vườn cây của Thái Tử Kỳ Đà và Trưởng giả Cấp Cô Độc; sau đó Đức Phật nói kinh Vô Lượng Thọ (đại bản A Di Đà) cho Ngài A Nan và ngài A Thuyết Thị nghe tại núi Kỳ Xà Quật và cuối cùng Đức Phật đã nói kinh Quán Vô Lượng Thọ cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy và Ngài A Nan nghe tại núi Linh Thứu. Kể từ đó cho đến sau khi Đức Thích Tôn nhập diệt và trải qua 4 thời kỳ kết tập kinh điển khác nhau, chúng ta không nghe vị Tổ nào đề cập đến 3 kinh căn bản nầy cả. Mãi cho đến khi Ngài Long Thọ ra đời tại miền Nam Ấn Độ (thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch); nghĩa là sau Đức Phật nhập diệt gần 900 năm, Ngài Long Thọ mới xiển dương pháp môn Tịnh Độ qua Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận và Ngài không phải chỉ là Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông tại Ấn Độ mà còn là Tổ Sư của 8 Tông phái khác nữa. Rồi đến Ngài Thế Thân em ruột Ngài Vô Trước là Tổ thứ 2 của Tịnh Độ Tông Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam và Trung Hoa cũng cách nhau hàng 200 năm. Vì Ngài Thế Thân sinh vào thế kỷ thứ 4, thứ 5 sau Tây lịch. Từ Vãng Sanh Luận trong Du Già Sư Địa Luận, người ta biết rằng Ngài Thế Thân đã dùng Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của Ngài Long Thọ làm căn bản để phát triển Tịnh Độ. Do vậy mà Tịnh Độ Tông Nhật Bản mới dễ dàng chấp nhận như vậy và dĩ nhiên là Ngài Thế Thân cũng như Ngài Long Thọ đã dựa theo 3 kinh Tịnh Độ làm tư tưởng của pháp môn nầy.
Từ Ngài Thế Thân qua Ngài Đàm Hoằng hay Ngài Đàm Loan rất hữu lý, vì chỉ cùng nhau trong thế kỷ thứ 5 hay trễ hơn là vài ba chục năm sau, tư tưởng Tịnh Độ nầy được truyền vào Trung Quốc để đến cuối thế kỷ thứ 5, đầu thế kỷ thứ 6, Ngài Đàm Loan đã trở thành Sơ Tổ Tịnh Độ Tông của Trung Hoa. Rồi từ Ngài Thiện Đạo (613 – 681) Tổ thứ 3 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa truyền tư tưởng nầy cho Ngài Nguyên Tín của Nhật Bản (942 – 1017) cách xa nhau đã là trên dưới 300 năm. Trong 300 năm ấy là thời gian cần thiết để tư tưởng của ba kinh Tịnh Độ thâm nhập vào xứ mặt Trời ấy. Rồi từ Ngài Nguyên Tín đến Ngài Nguyên Không Pháp Nhiên (1133 – 1212) cũng cách nhau trên dưới 200 năm như vậy, Ngài Pháp Nhiên mới có thời gian nắm bắt được sự truyền thừa và Tông chỉ của Tịnh Độ Tông. Chỉ trừ Ngài Thân Loan và Ngài Pháp Nhiên là Thầy trò trực tiếp truyền cho nhau về Tông Tịnh Độ nầy, ngoài ra giữa các vị Tổ với nhau, thời gian xa nhau như muôn vạn dặm. Ở đây không gian không quan trọng bằng tư tưởng. Vị nào có tư tưởng khế hợp với khế cơ và khế lý của vị đi trước hay đúng với tinh thần của 3 kinh Tịnh Độ, thì vị ấy đời sau sẽ được suy tôn làm Tổ. Ít có vị nào khi còn sống được vinh hạnh nầy; chỉ trừ Ngài Ca Diếp lãnh hội trực tiếp tâm thiền từ Đức Phật cũng như nhiều vị Tổ Sư Thiền Tông khác.
Từ đó chúng ta có một cái nhìn thông thoáng hơn về Tịnh Độ Việt Nam cũng vậy. Nghĩa là sau khi đã tạm thiết lập được các vị Tổ Sư Tịnh Độ ban đầu rồi, thì những vị sau, chúng ta sẽ lần lượt dò tìm theo sử liệu để đề nghị và nếu có nhiều vị Tôn Túc hoan hỷ, đúng theo lịch sử thì chúng ta sẽ có một sự truyền thừa rõ rệt. Dẫu cho vị Tổ thứ 2 của Tịnh Độ Tông Việt Nam cách Ngài Đàm Hoằng 1.000 năm hay 1.500 năm cũng không có gì quan trọng cả.
Đọc lịch sử Nhật Bản nói về Việt Nam, họ cũng chỉ bắt đầu vào năm 938 khi Ngô Quyền dẹp tan quân Nam Hán và xưng Vương. Như vậy Bà Trưng, Bà Triệu (thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch) Lý Nam Đế (thế kỷ thứ 6) đi đâu hết rồi? ngoài ra còn 18 đời Hùng Vương nữa? nếu đọc sử Trung Quốc lại còn thê thảm hơn nữa. Họ xem đất nước Giao Châu, Lâm Ấp là những nước chư Hầu, triều cống họ thì trước sau cũng thuộc về họ thôi! Đây là mộng đế vương của Tần Thủy Hoàng, của Thành Cát Tư Hãn vẫn còn hiện diện trong đầu óc của những người Trung Quốc bảo thủ ngày nay.
Quý vị nào có cơ hội đi Trung Quốc đến Hàng Châu tại chùa Bạch Ẩn, quý vị sẽ thấy một dãy núi họ gọi là “Thiên Trúc Tây lai phùng” có nghĩa là “núi từ phía Tây đến – Thiên Trúc (Ấn Độ). Đâu có núi nào bay được. Thế mà người Trung Quốc còn làm cho núi bay được. Đó là chưa kể tứ đại danh sơn của Phật Giáo như: Phổ Đà Sơn nơi thị hiện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát; Cửu Hoa Sơn nơi thị hiện của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát; Nga Mi Sơn nơi thị hiện của Đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát và Ngũ Đài Sơn nơi thị hiện của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Nghĩa là: Bi, trí của các vị Bồ Tát đều dồn về hết Trung Quốc; trong khi đó tại Việt Nam, Đại Hàn, Ấn Độ v.v… các vị Bồ Tát ấy ở chỗ nào?
Thế kỷ thứ 20, khi Ngài Tuyên Hóa đến hoằng pháp tại Hoa Kỳ, Ngài cũng đã dùng tinh thần của Trung Quốc để lập nên 4 đạo tràng cho 4 vị Bồ Tát nầy tại Mỹ Quốc như sau:
San Diego: Nơi thị hiện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Los Angeles: Nơi thị hiện của Đức Đại Thế Chí Bồ Tát.
San Francisco: Nơi thị hiện của Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Seattle: Nơi thị hiện của Đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Rồi 100 năm sau, 200 năm sau hay nhẫn đến 1.000 năm sau nữa những nơi nầy sẽ trở thành những đạo tràng linh hiển của những vị Bồ Tát nầy.
Nhìn lịch sử Việt Nam từ sau thời Lý Nam Đế khởi nghĩa vào thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 10 chúng ta rất đau lòng. Vì dân tộc vốn bị ách đô hộ lầm than của các Thái Thú ngay cả đời Đường là đời văn minh nhất của lịch sử Trung Hoa và lịch sử thế giới; nhưng tìm đâu ra được những Đỗ Thuận giả làm người chèo đò để đối đáp với Lý Giác sứ giả của Trung Hoa về con ngỗng đang bơi lội trên sông ấy.
Rồi tới Khuông Việt Thái Sư đời vua Lê Đại Hành. Vào năm 981 Ngài là vị Tăng Thống đầu tiên của Đại Việt nhưng cho tới giờ này chúng ta cũng không còn được lưu truyền những gì thuộc về phương pháp tu hành của Ngài và ngay như cả Thiền Sư Vạn Hạnh làm Quốc sư cho triều nhà Lý cũng vậy. Dĩ nhiên nhờ bài thơ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân dinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo, đầu phô.
Hòa Thượng Mật Thể dịch:
Thân như bóng xế chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rồi
Sá chi suy thạnh cuộc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
Nhờ đó chúng ta biết được quan điểm về cuộc đời, thế thái nhân tình, ngôi cao chức trọng v.v… rồi cũng chỉ là sương rơi trên đầu ngọn cỏ theo tinh thần Thiền Học mà thôi. Còn Tịnh Độ thì sao?
Dĩ nhiên cho tới các đời sau vẫn thường không thấy nhắc đến. Mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ thứ 20, khi mà Thiền Tông không còn thịnh hành như những thế kỷ trước ở Việt Nam nữa, thì Tịnh Độ bắt đầu khởi sắc; nhưng chưa biết vị Sư nào vừa tu Thiền vừa tu Tịnh, rồi cổ xúy Tịnh Độ để Tịnh Độ phát huy được như ngày hôm nay. Mong rằng những nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục làm việc ấy.
Ví dụ như Ngài Nguyên Tín ở Nhật vào thế kỷ thứ 10, 11 (942 – 1017) Ngài tu ở núi Tỉ Duệ; một mặt Ngài cổ xúy Tịnh Độ Tông; nhưng Ngài vẫn tu Thiền tại đó. Vì núi Tỉ Duệ là nơi tổ hợp các Tông phái của Thiên Thai. Sau này nhờ đó mà Ngài Nguyên Không Pháp Nhiên mới dựa vào lời nguyện thứ 18 của Đức Di Đà qua Ngài Nguyên Tín mà Ngài Thiện Đạo đã truyền đạt. Từ đó Tông Tịnh Độ tại Nhật mới phát triển mạnh mẽ và rõ ràng được.
Hoặc giả Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư (904 – 975) cũng vậy. Ngài là Tổ Sư Thiền và chủ trương rằng: “Dù cho có nghìn thuyết khác nhau, rốt cuộc cũng quy về một pháp và muôn pháp quy về một tâm; các kinh như: Pháp Hoa, Bát Nhã, Tư Ích, Hoa Nghiêm, Viên Giác, Lăng Nghiêm, Đại Tập… cũng chỉ là nhiều tên của một pháp mà thôi. Điều quan trọng là ở chỗ quán xét tâm và đạt được nhất tâm…”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 7138). Một tâm ấy là gì? đó là giác ngộ, tâm giải thoát sanh tử luân hồi.
Trong 13 vị Tổ Thiền Tông của Trung Hoa đã có 7 vị Tổ cuối đời nghiêng về Tịnh Độ và người ta cho rằng Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư đã nói ra những điều nầy:
– “Đời mạt pháp, mười người tu Thiền chỉ chứng có một người.
– Mười người tu Tịnh Độ đều chứng cả mười.
– Nếu người nào vừa tu Thiền lẫn tu Tịnh Độ thì chẳng khác nào chúa tể Sơn lâm còn có thêm móng vuốt.
– Đời mạt pháp mà Thiền cũng không tu, Tịnh Độ cũng không tu; chết xuống chỉ có cột đồng và nước sôi”.
Đây là lời dạy rất quan trọng; nhưng mới đây, tôi có đọc sách ngữ lục của cố Hòa Thượng Thích Ấn Thuận do Hạnh Đoan dịch ra tiếng Việt thì được biết rằng: Ngài Ấn Thuận không nghĩ là những lời bên trên là của Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư chủ trương.
Thế kỷ thứ 10 là thế kỷ Thiền và Tịnh tại Trung Quốc đều phát triển mạnh và dĩ nhiên lúc ấy cũng đã bắt đầu đến gần kề thời mạt pháp rồi; nếu có một Thiền Sư nào đó chủ trương việc trên, quả là lợi lạc cho cả Thiền và Tịnh Độ.
Ví dụ như trường hợp của chúng tôi thuộc thế hệ truyền thừa thứ 41 của dòng Thiền Lâm Tế, Chúc Thánh của Ngài Minh Hải, Pháp Bảo. Thế mà có được bao nhiêu Chùa thuộc môn phái này tại Việt Nam cũng như hải ngoại chuyên tu Thiền, mà trong hiện tại chỉ thấy tu Tịnh Độ là chính; Còn Thiền phụ thuộc mà thôi. Đây là một bằng chứng cụ thể để chúng ta có thể tham khảo thêm việc thay đổi từ Thiền sang Tịnh Độ hay từ Tịnh Độ sang Thiền để những thế hệ đi sau dễ bề hành xử hơn.
Nếu những người tu theo Tịnh Độ Tông của Việt Nam chúng ta chấp nhận Ngài Đàm Hoằng làm Tổ Sư khai sáng Tông này thì chúng ta nên nghiên cứu thêm về pháp tu của Ngài.
Theo lịch sử cho biết thì Ngài hay tụng Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ có hai phần Thượng và Hạ. Phần Thượng Kinh này nói về nội dung của 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà khi Ngài còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo đã lập nguyện dõng mãnh trước Ngài Thế Tự Tại Vương Như Lai. Trong 48 lời nguyện này quan trọng nhất là lời nguyện thứ 18, 19 và 20.
Lời nguyện này có nội dung như sau: Giả sử khi thành Phật, chúng sanh mười phương hết lòng tin ưa, mong muốn sanh về cõi nước tôi, xưng danh hiệu tôi cho đến mười niệm mà chẳng được sanh, tôi không giữ ngôi chánh đẳng chánh giác, chỉ trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch, chê bai chánh pháp.
Lâu nay các vị Đại Sư và Phật tử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều chú trọng đến “10 niệm nhất tâm” mới được vãng sanh; nhưng đa phần đã quên đi vấn đề quan trọng về bản nguyện lực của Đức Phật A Di Đà. Bản nguyện đó là gì? đó là mệnh đề đầu và mệnh đề cuối của tất cả 48 lời nguyện. Nghĩa là: “Giả thử khi thành Phật… mà chẳng được sanh, tôi không giữ ngôi chánh đẳng chánh giác”. Đây chính là việc quyết định để hành giả được vãng sanh. Chữ giả sử có nghĩa là lúc chưa thành Phật mà còn như vậy; nhưng bây giờ thì Đức Phật A Di Đà đâu còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo nữa; mà Ngài đã giữ ngôi chánh giác từ lâu rồi, từ vô lượng kiếp kia. Cho nên việc sanh về theo lối đới nghiệp vãng sanh của các chúng sanh trong 10 phương vô biên quốc độ là do tha lực của Ngài, do bản nguyện lực của Ngài giúp cho chúng ta về đó; chứ không phải do tự lực niệm Phật hay trong 10 niệm nhất tâm. Nói như Ngài Thân Loan rằng: Chỉ cần niệm Phật là được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Vì việc vãng sanh ấy không phải do tự mình làm mà do bổn nguyện lực của Đức A Di Đà đã phát nguyện ra như vậy.
Tôi, một Tăng sĩ Việt Nam sinh ra giữa thế kỷ thứ 20 (1949) và đang sống vào đầu thế kỷ thứ 21 này (2011) hoàn toàn đồng ý với lối lập luận của Ngài Thân Loan Nhật Bản và Ngài Thiện Đạo Trung Hoa. Có nghĩa là cứ niệm Phật; Ấy là nhân. Còn Quả, tự nhiên chúng ta sẽ được tha lực của Đức Phật A Di Đà đưa về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc.
Bổn nguyện lực ấy cũng giống như những loại chim nói Pháp, gió thổi, hoa sen nở, nhạc trời chúc tụng… nơi cõi Tây Phương Cực Lạc trong Kinh Tiểu bản A Di Đà đã diễn tả. Tất cả đều do Đức Phật A Di Đà hóa hiện nên. Vậy thì việc dùng tha lực và bổn nguyện để đưa một chúng sanh sau khi lâm chung từ Ta Bà về Tịnh Độ đối với Đức Phật A Di Đà đâu có gì là khó khăn mà lâu nay chúng ta chỉ quanh quẩn ở 10 niệm nhất tâm hay không nhất tâm?
Về quyển Hạ của Kinh Vô Lượng Thọ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho biết rằng ai tu Pháp gì, giữ giới gì thì sanh về nơi chín phẩm liên hoa ở thế giới Cực Lạc. Đồng thời Ngài cũng nhắc cho chúng sanh biết về đời ác năm trược; chúng sanh, đã phạm nhiều lỗi lầm, phải biết ăn năn sám hối thì không bị sanh vào thai cung biên địa nơi Hạ phẩm Hạ sanh. Tuy rằng niệm Phật có thể Phật đến tiếp dẫn về Tây Phương được; Nhưng 500 tiểu kiếp nằm trong Hạ phẩm Hạ sanh quả là thời gian không phải là ngắn. Chỉ có một điều duy nhất là không bị luân hồi sanh tử trở lại Ta Bà mà thôi.
Việc tiếp theo chúng ta thấy như lịch sử cho biết rằng: Ngài Đàm Hoằng tu theo Kinh Thập Lục Quán tức là Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Ngài quán 16 phép tuần tự như sau:
– Quán mặt trời sắp lặn
– Quán tưởng nước như băng đá
– Quán tưởng mặt đất
– Quán tưởng cây báu
– Quán tưởng nước tám công đức
– Quán tưởng cõi Cực Lạc toàn là sự quý lạ
– Quán tưởng tòa sen báu
– Quán tưởng hình tượng
– Quán khắp tướng toàn sắc thân của Phật
– Quán tưởng sắc thân chơn thật của Bồ Tát Quan Thế Âm
– Quán tưởng sắc thân của Đức Đại Thế Chí
– Quán tưởng cùng khắp khi được sanh về thế giới Cực Lạc
– Quán tướng Phật A Di Đà cùng nhị vị Bồ Tát và chúng sanh đều có thân giống nhau
– Quán tưởng vãng sanh của những người thuộc bậc Thượng phẩm
– Quán tưởng vãng sanh của những người thuộc bậc Trung phẩm
– Quán tưởng vãng sanh của những người thuộc bậc Hạ phẩm.
Chữ quán có nghĩa là xem xét, soi rọi, chiếu đến, nhất tâm, tập trung chú ý v.v… trong khi quán tưởng bà Vy Ðề Hy đã thành tựu. Ngài Ðàm Hoằng cũng thành tựu; nên sau khi Ngài Ðàm Hoằng tự thiêu vào năm 455 tại núi Tiên Du Bắc Việt Nam mới được vãng sanh.
Như vậy là trong Thiền luôn luôn có Tịnh và trong Tịnh luôn luôn có Thiền. Nếu chỉ tụng kinh niệm Phật mà không quán tưởng thì tâm ta sẽ loạn động. Do vậy 16 cách quán trên theo kinh Quán Vô Lượng Thọ là giúp cho hành giả tu theo pháp môn vãng sanh Tịnh Ðộ có cơ hội tập trung tư tưởng vào một nơi để việc quán sát được thành tựu.
Kinh A Di Ðà là một bản kinh cổ. Ngày nay các học giả Âu Mỹ đã tìm ra được cả bản tiếng Sanskrit và Hán Văn. Riêng bản kinh Quán Vô Lượng Thọ thì chỉ còn Hán Văn chứ không có bản chữ Phạn. Do vậy có nhiều người nghi ngờ. Nhưng điều nầy không quan trọng. Vì có lẽ sau khi bản kinh Quán Vô Lượng Thọ từ Ấn Ðộ truyền qua Trung Quốc và sau khi đã được dịch sang chữ Hán rồi thì bản gốc mất đi. Nếu cần, các học giả tiếng Sanskrit bây giờ cũng có thể dịch ngược lại từ chữ Hán sang tiếng Sanskrit cũng không có gì khó khăn. Vì lịch sử đã chứng minh 3 bản kinh trên là kinh gốc của những người tu theo pháp môn Tịnh Ðộ và kinh nầy do chính Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra, chứ không phải chư Tổ về sau tạo ra 3 kinh nầy.
Ngay như Tịnh Ðộ và Tánh Không vẫn có trong kinh A Hàm (Phật Giáo Nguyên Thủy); chứ không phải là không có. Sau nầy vào thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch, Ngài Long Thọ mới chú thích rõ ràng hơn qua Trung Quán và Tánh Không hay Tịnh Ðộ; nhưng vẫn dựa vào căn bản từ ban đầu để phát triển.
Ví dụ, Phật bảo rằng: Ai hiểu được pháp duyên sanh là hiểu Phật và ai hiểu được Phật thì người ấy hiểu pháp. Vậy pháp duyên sanh là gì vậy?
Ðó là: “Các pháp đều do nhân duyên sanh, các pháp đều do nhân duyên diệt và tự tánh của các pháp là không”.
Theo Ngài Ấn Thuận cho biết rằng cái không qua nhân duyên sanh ấy là cái không của Trung Quán và Bát Nhã sau nầy; không phải tự nhiên mà không được. Cái không nầy ngay từ buổi ban đầu Ngài Xá Lợi Phất mới nghe qua từ Ngài A Thuyết Thị đã chứng quả dự lưu; mà chưa phải cần gặp trực tiếp với Ðức Phật, để từ đó Ngài Xá Lợi Phất về rủ Ngài Mục Kiền Liên cùng dẫn 1.000 đệ tử của 2 Ngài đến quy y với Ðức Phật. Vì lâu nay Ngài Xá Lợi Phất vốn là thủ lãnh của nhóm mình và đã đi cầu học khắp Ðông Tây; nhưng chưa nghe hoặc thấy một vị Ðạo Sư nào nói được như vậy. Sau đó Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đến trực tiếp đảnh lễ xin xuất gia thọ pháp cùng với 1.000 vị Ðệ Tử của mình với Ðức Phật.
Ðiều căn bản ở đây là hành trì lễ bái, tụng kinh A Di Ðà và niệm Phật. Ở chốn u tịch của núi rừng Tiên Du thuộc chùa Tiên Sơn ấy Ngài Ðàm Hoằng tuy là người Trung Quốc; nhưng ở đó suốt 35 năm (từ 420-455) Ngài đã gây được ảnh hưởng lớn trong quần chúng người Việt Nam. Do vậy chắc chắn đã có rất nhiều người đến tu và học pháp môn Tịnh Ðộ với Ngài; nhưng vì lẽ Tịnh Ðộ không trực tiếp truyền từ Thầy qua trò như Thiền Tông cho nên việc truyền thừa không trở thành một dòng kệ liên tục; nhưng hy vọng rằng từ đây về sau chúng ta có nhiều phương tiện hơn để làm cho sáng tỏ vấn đề nầy.
Việc niệm Phật cũng vậy. Có lẽ Ngài niệm theo tiếng Trung Hoa là: Nam Mô A MI TÀ FO. Ðây là âm vận của tiếng Quảng Ðông và ngay cả tiếng Phổ Thông ngày nay cũng vậy. Sở dĩ người Trung Hoa niệm như vậy, vì trong những chữ cái của Hán ngữ không có vần D và không có vần Ð như tiếng Việt Nam. Trong khi Việt Nam chúng ta niệm là: Nam Mô A Di Ðà Phật thì Trung Quốc niệm là: Nam Mô A MI TÀ FO. Trong khi đó người Nhật thì niệm rằng: Namu Amida Butsu. Chữ Butsu sau cùng có nghĩa là Phật và Amida có nghĩa là A Di Ðà. Dầu cho có niệm theo nguyên thủy tiếng Sanskrit Namo Amitabha Buddha thì cũng không sao cả. Vì trong chữ: Amitabha, A Di Ðà, A MI TÀ, Amida v.v… tất cả nó cũng chỉ có nghĩa là Vô Lượng Quang. Chúng ta không cần phải phân tích là niệm đúng hay sai âm điệu. Vì lẽ người nước nào thì niệm theo nước ấy. Chư Phật và Chư Bồ Tát vẫn hiểu như thường.
Chúng ta nên hiểu cặn kẽ về Tịnh Ðộ và Tịnh Ðộ Tông để có một cái nhìn cụ thể hơn.
“Tịnh Ðộ gọi đủ là Thanh Tịnh Ðộ, Thanh Tịnh quốc độ, Thanh Tịnh Phật sát cũng gọi là Tịnh Sát, Tịnh giới, Tịnh phương, Tịnh vực, Tịnh thế giới, Tịnh Diệu Ðộ, Diệu Ðộ, Phật sát, Phật quốc. Ðối lại với Tịnh Ðộ là uế độ, uế quốc.
Chỉ cho cõi nước thanh tịnh, là nơi an trụ của Phật. Trái lại, những nơi mà chúng sanh cư trú có các phiền não ô uế nên gọi là uế độ, uế quốc. Tịnh Ðộ là giáo thuyết nói trong các kinh Ðại Thừa, còn Tiểu Thừa thì lấy Niết Bàn Vô Dư thân tro trí bặt làm lý tưởng; nên không có thuyết nầy. Vì Phật Giáo Ðại Thừa cho rằng Niết Bàn có tác dụng tích cực, chư Phật đã được Niết Bàn, mỗi vị đều ở Tịnh Ðộ của mình để giáo hóa chúng sanh, cho nên hễ nơi nào có Phật an trụ thì đó là Tịnh Ðộ. Kinh A Súc Phật Quốc quyển thượng, kinh Phóng Quang Bát Nhã quyển 19, kinh Vô Lượng Thọ quyển thượng… đều cho rằng Tịnh Ðộ là thế giới thanh tịnh trang nghiêm do Chư Phật kiến lập bằng những công đức đã được tích lũy trong vô lượng vĩnh kiếp khi các Ngài hành đạo Bồ Tát ở địa vị tu nhân, đã khởi thệ nguyện tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh. Phẩm Phật quốc trong kinh Duy Ma quyển thượng thì cho rằng hễ tâm tịnh thì độ tịnh, thế giới Ta Bà tức là Tịnh Ðộ Thường Tịch Quang. Nếu tâm chúng sanh bất tịnh thì cõi nầy chính là cõi uế ác bất tịnh, còn chỗ Phật thấy thanh tịnh thì trở thành vô lượng công đức trang nghiêm. Tịnh Ðộ Linh Sơn của kinh Pháp Hoa, thế giới Liên Hoa Tạng của kinh Hoa Nghiêm, Tịnh Ðộ Mật Nghiêm của kinh Ðại Thừa Mật Nghiêm… đều lấy thuyết Tâm Tịnh Ðộ tịnh làm gốc. Còn kinh Vô Lượng Thọ thì nói rằng ngoài thế giới Ta Bà ra còn có các Tịnh Ðộ khác, cũng có Tịnh Ðộ ở vị lai được thành tựu mỗi khi có vị Bổ xứ Bồ Tát thành Phật; hai loại Tịnh Ðộ nầy đều là các cõi nước được hoàn thành sau khi có vị Bồ Tát Bổ xứ thành Phật qua giai đoạn tu nhân theo bản nguyện của mình, là nơi chúng sanh nguyện sanh về.
Còn các Tịnh Ðộ ở các phương khác thì có thế giới Cực Lạc ở phương Tây của Ðức Phật A Di Ðà, thế giới Diệu Hỷ ở phương Ðông của Ðức Phật A Súc, thế giới Tịnh Lưu Ly ở phương Ðông của Ðức Phật Dược Sư… vì các Tịnh Ðộ của Chư Phật nói trên cách thế giới Ta Bà với một phương vị nhất định nên gọi là Thập Phương Tịnh Ðộ.
Thế giới Cực Lạc (Phạn: Sukhavati) cũng được gọi là Diệu Lạc, An Lạc, An Dưỡng, Lạc Bang, là Tịnh Ðộ ở phương Tây rất được Tông Tịnh Ðộ xem trọng. Tịnh Ðộ nầy là chỉ cho báo độ do Bồ Tát tu nhân hạnh mà cảm được quả báo; hoăc chỉ cho ứng Hóa Ðộ mà Ðức Phật giả hiện ra để cứu độ chúng sanh hoặc chỉ cho Tịnh Ðộ có thật ở phương Tây cách thế giới Ta Bà hơn 10 vạn ức Phật độ; hoặc lại chỉ cho Tịnh Ðộ hiện ra trong tâm chúng sanh. Ngoài ra Tịnh Ðộ còn có biên địa, nghi thành, Thai cung giải mạn giới… là Hóa độ dành cho những người còn hoài nghi Phật trí được sanh đến.
Tông Tịnh Ðộ cho rằng Báo độ thực tại ở phương Tây, những người sanh về cõi nầy sẽ được hưởng 10 điều lợi lạc sau đây.
1) Thánh chúng đến đón: Lúc lâm chung được Ðức Phật A Di Ðà và hai vị Bồ Tát Quan Âm, Thế Chí đến đón về Tịnh Ðộ.
2) Hoa sen vừa mới nở: Gá sinh trong hoa sen sinh về Tịnh Ðộ, cho nên lúc hoa sen vừa mới nở thì liền được thấy cõi Tịnh Ðộ rất trang nghiêm thanh tịnh.
3) Thân tướng có thần thông: Thân được 32 tướng tốt đẹp và 5 thứ thần thông như Thiên nhãn…
4) Năm cảnh giới vi diệu: Ðược năm cảnh thù thắng sắc, thanh, hương, vị, xúc.
5) Vui sướng vô lượng: Ðược hưởng các niềm vui vô tận.
6) Tiếp dẫn kết duyên: Ðược những ân nhân kết duyên từ trước thân đến Tịnh Ðộ đón tiếp.
7) Thánh chúng cùng hội họp: Các chúng Bồ Tát đều đến nhóm họp ở một chỗ.
8) Thấy Phật nghe pháp: Sinh về Tịnh Ðộ được thấy Ðức Phật và nghe Ngài nói pháp.
9) Tùy tâm cúng dường Phật: Tùy tâm cúng dường chư Phật ở 10 phương.
10) Tăng tiến Phật đạo: Tu hành tinh tấn, cuối cùng chứng quả thành Phật.
Về vị trí Tịnh Ðộ, sự trang nghiêm, chủng loại dân cư… các kinh nói không giống nhau, vì khi còn ở địa vị tu nhân, các vị Bồ Tát phát nguyện không đồng. Nếu đứng trên lập trường sử học mà nhận xét sự miêu tả khác nhau giữa Tịnh Ðộ của Phật A Súc và Tịnh Ðộ của Phật A Di Ðà thì có thể thấy được sự biến thiên của một loại phát triển; như cõi Phật A Súc có người nữ, nhân dân đều mặc y phục được lấy ra từ cây, có 3 đường thềm báu đi suốt đến cõi trời Ðao Lợi, có thể xem đây là tư tưởng tương đối sớm. Tịnh Ðộ của Ðức Phật A Di Ðà thì không có người nữ, đều là hóa sanh, được thân thể hư vô tự nhiên. Luận Nhiếp Ðại Thừa quyển hạ thì cho Tịnh Ðộ là xứ sở vi diệu ở ngoài 3 cõi. So sánh sự hơn, kém khác nhau giữa các Tịnh Ðộ của chư Phật, trong các kinh đều có ghi chép.
Về chủng loại Tịnh Ðộ, ở thời đại Ngài Vô Trước (khoảng thế kỷ thứ IV, V) có thuyết 3 thân là Tự tính thân, Thọ dụng thân và Biến hóa thân. Thân biến hóa của Phật thị hiện 8 tướng ở uế độ; thân thọ dụng trụ trong thế giới Liên Hoa tạng có 18 thứ viên mãn thanh tịnh; tức tùy theo Báo thân, Hóa thân của Phật mà có thanh tịnh, ô uế khác nhau. Luận Duy Thức quyển 10 có thuyết tứ thân tứ độ (4 thân 4 cõi); Ðại Thừa nghĩa chương quyển thứ 19 chia Tịnh Ðộ làm 3 loại là Sự Tịnh Ðộ, Tướng Tịnh Ðộ và Chân Tịnh Ðộ; Duy Ma kinh lược sớ quyển 1 thì lập 4 loại Tịnh Ðộ; Phàm Thánh đồng cư độ; Phương Tiện Hữu Dư độ; Thật Báo vô chướng ngại (Trang Nghiêm) độ và Thường Tịch Quang độ. Hoa Nghiêm kinh thám huyền ký quyển 3, y cứ vào sự bất đồng giữa Tam Thừa và Nhất Thừa mà nói các Tịnh Ðộ khác nhau”. (Trích Phật Quang Ðại Từ Ðiển trang 6142-6144).
(Xem thêm Phật độ, Cực Lạc Thế Giới)
Như vậy Tịnh Ðộ thì có rất nhiều cõi, mà Cực Lạc chỉ có một mà thôi. Vì cõi nầy là cõi do Ðức Phật A Di Ðà làm giáo chủ ở phương Tây và khi còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo, Ngài đã phát ra 48 lời nguyện để trang nghiêm cõi Phật ấy. Cõi Cực Lạc còn gọi là cõi: Phàm Thánh đồng cư độ. Vì lẽ có những kẻ thai cung biên địa cũng được sanh vào đây phải chờ trong hoa sen đến 500 Tiểu Kiếp mới nghe được chư vị Bồ Tát thuyết pháp
Cõi Cực Lạc là cõi hóa sanh. Tất cả đều do sự hóa hiện của Ðức Phật A Di Ðà. Vì đây là bổn nguyện lực của Ngài. Do tha lực ấy mà những chúng sanh ở thời kỳ mạt pháp nầy nương vào danh hiệu của Ngài để nhớ nghĩ, tụng niệm thì Ngài sẽ đưa về cảnh giới Cực Lạc sau khi lâm chung.
Cõi Tịnh Ðộ của Phật A Súc lại có người nữ trong khi cõi Tịnh Ðộ của Ðức Phật A Di Ðà thì không. Vì lời nguyện thứ 35 của Ðức Phật A Di Ðà đã xác nhận như vậy.
Chư Tổ ra đời ở cõi Ta Bà nầy đa phần nối tiếp tư tưởng nầy của Ðức Phật A Di Ðà và nương theo pháp trì danh hay quán tưởng để được sanh về cõi Cực Lạc sau khi lâm chung. Vì là cõi hóa sanh và hóa thân; nên ở đó dự được 10 niềm vui thù thắng như trên vừa kể.
Còn Phương Tiện Hữu Dư Ðộ thì đó là cõi Tịnh Ðộ mà chư Phật dùng phương tiện để hóa hiện ra và còn những điều kiện cần thiết nữa, để được sanh về cõi Tịnh Ðộ chân thật. Ðiều nầy hay cõi nầy cũng giống như Hóa Thành Dụ trong kinh Pháp Hoa vậy.
Thường Tịch Quang độ là cõi Tịnh Ðộ nơi đó chỉ có ánh sáng chiếu suốt. Các chúng sanh sanh về đây toàn những bậc có trí tuệ, thượng căn thượng trí, đã thoát ly sanh tử luân hồi.
Thật Báo trang nghiêm hay Thật Báo vô chướng ngại độ là cõi Tịnh Ðộ chân thật trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng, không có gì làm chướng ngại cho con đường tu hành cả.
Trên đây chỉ là cách gọi cõi giải thoát sanh tử mà thôi và cũng tùy theo từng thời gian, trường hợp và môn phái khác nhau mà gọi về cõi giải thoát nầy. Ví dụ như Ngài Thánh Nghiêm gọi có 4 cõi Tịnh Ðộ là: Nhân gian Tịnh Ðộ, Thiên quốc Tịnh Ðộ, Phật quốc Tịnh Ðộ và Tự tâm Tịnh Ðộ. Trong khi đó những vị Thiền Sư thì gọi rằng: Tịnh Ðộ là đây, chốn nầy v.v… nghĩa là tất cả đều tùy thuộc vào cách gọi của mỗi Tông riêng biệt để chỉ về cõi thanh tịnh giải thoát ấy.
Từ khi Phật Giáo được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch cho đến nay (2011) kể ra cũng đã trên dưới 2.000 năm lịch sử. Chỉ có Thiền Tông là tương đối có sự truyền thừa rõ ràng; nay Tịnh Ðộ Tông cũng đang bắt đầu nối kết lại; còn những Tông khác như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Thiên Thai, Luật Tông, Mật Tông v.v… chưa thấy có nơi nào hoàn thành được sử liệu truyền thừa nầy. Mong rằng trong mai hậu những người thuộc những Tông phái trên thực hành được việc nầy.
Trong khi Trung Quốc và Nhật Bản từ khi Phật Giáo được truyền vào, họ đã lập thành 13 Tông rõ rệt và mỗi Tông đều có những vị Tổ kế tiếp nhau truyền thừa cho môn phái của mình. Ðây là một bức tranh phối cảnh rất đẹp cho Phật Giáo mỗi nước. Vì vậy sau đây chúng ta thử tìm hiểu về Tịnh Ðộ Tông của Trung Hoa và Nhật Bản như thế nào.
“Tịnh Ðộ Tông là Tông Phái Phật Giáo lấy việc vãng sanh Tịnh Ðộ Cực Lạc làm mục đích. Một trong 13 Tông của Trung Quốc và một trong 13 Tông của Nhật Bản.
Tịnh Ðộ là chỉ cho cõi nước thanh tịnh, cõi nước trang nghiêm, tức là xứ sở được trang nghiêm bằng các công đức thanh tịnh. Tịnh Ðộ Tông cũng gọi là Liên Tông, vì Ngài Huệ Viễn đời Ðông Tấn kết Bạch Liên Xã (Hội sen trắng) ở Lô Sơn, lấy ý nghĩa người sanh về Tịnh Ðộ phương Tây đều hóa sinh trong hoa sen, do đó cõi nước Cực Lạc cũng gọi là Liên Bang (cõi nước hoa sen). Tông nầy đặc biệt lấy việc xưng niệm Phật làm pháp tu hành, chủ yếu nhờ vào tha lực của bản nguyện Di Ðà, cầu mong được sanh về Tịnh Ðộ Cực Lạc phương Tây, vì thế nên còn được gọi là Niệm Phật Tông.
Tư Tưởng Tịnh Ðộ là y cứ vào 3 bộ kinh do Ðức Phật Thích Ca giảng thuyết. Ðó là kinh Vô Lượng Thọ do Phật giảng nói ở núi Kỳ Xà Quật; kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói ở thành Vương Xá và kinh A Di Ðà Phật nói ở vườn Kỳ thọ Cấp Cô Ðộc. Sau khi Ðức Phật nhập diệt khoảng 900 năm, Ngài Thế Thân soạn luận vãng sanh Tịnh Ðộ, rồi đến các luận sư Mã Minh, Long Thọ trình bày ý nghĩa then chốt của 3 bộ kinh trên mà hoằng truyền tông Tịnh Ðộ. Niên hiệu Vĩnh Bình năm đầu (508) đời Bắc Ngụy, Ngài Bồ Ðề Lưu Chi đến Trung Quốc, dạy kinh Quán Vô Lượng Thọ cho Ngài Ðàm Loan, trao truyền đầy đủ kinh luận Tịnh Ðộ, mở ra một thời đại mới cho sự tiến triển của pháp môn Tịnh Ðộ ở Trung Quốc.
Về việc truyền dịch kinh điển Tịnh Ðộ ở Trung Quốc thì đầu tiên là các Ngài Chi Câu Ca Sấm và Trúc Phật Sóc cùng dịch kinh Bát Chu Tam Muội (năm 179); Ngài Chi Khiêm đời Tam Quốc dịch kinh Ðại Bản A Di Ðà 2 quyển (kinh Vô Lượng Thọ); Ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác 2 quyển. Ngoài ra còn có kinh Tuệ Ấn Tam Muội và kinh Vô Lượng Môn Ni Mật Trì do Ngài Chi Khiêm dịch; kinh Ðức Quang Thái Tử, kinh Quyết Ðịnh Tổng Trì và A Di Ðà Phật kệ… do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch.
Năm Hoàng Thủy thứ 3 (401) đời Diêu Tần, Ngài Cưu Ma La Thập dịch kinh A Di Ðà, luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa… nói qua về sự trang nghiêm Tịnh Ðộ Cực Lạc, là các bộ kinh luận được đọc tụng thịnh hành nhất xưa nay. Về sau tiếp tục có Ngài Ðàm Vô Sấm đời Bắc Lương dịch kinh Bi Hoa 10 quyển (năm 419); Ngài Bảo Vân đời Lưu Tống dịch kinh Tân Vô Lượng Thọ 2 quyển (năm 421); Ngài Cương Lương Da Xá đời Lưu Tống dịch kinh Quán Vô Lượng Thọ 2 quyển (424). Người đời sau gọi chung là Kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Ðà là Tịnh Ðộ tam bộ kinh. Ðến đây, sự truyền dịch kinh điển đã được hoàn bị.
Pháp môn Tịnh Ðộ ở Trung Quốc chủ yếu là Di Lặc Tịnh Ðộ và Di Ðà Tịnh Ðộ. Về tín ngưỡng Tịnh Ðộ Di Lặc thì đầu tiên là Ngài Ðạo An đời Tây Tấn; Ngài có soạn luận Tịnh Ðộ 6 quyển, nguyện sanh Tịnh Ðộ Di Lặc ở cõi Ðẩu Suất; các Ngài Huyền Trang và Khang Cơ đời Ðường cũng hành trì và quy y Tịnh Ðộ Di Lặc. Nhưng từ đó về sau, vì ít người tu và người hoằng dương cũng ít nên Tịnh Ðộ Di Lặc dần dần suy vi, nhường chỗ cho sự hưng thịnh của tín ngưỡng Di Ðà và Tịnh Ðộ Di Ðà bèn trở thành đại biểu cho Tịnh Ðộ của chư Phật. Người hoằng dương Tịnh Ðộ Di Ðà mạnh nhất là Ngài Huệ Viễn đời Ðông Tấn; Ngài kết Bạch Liên Xã ở Lô Sơn, cùng với mọi người chuyên tu tam muội Niệm Phật, theo yếu chỉ kinh Bát Chu Tam Muội để mong được vãng sanh thấy Phật. Ðây là tổ chức kết đoàn niệm Phật đầu tiên ở Trung Quốc và cũng là dòng chính của Tịnh Ðộ Trung Quốc. Thời Tuyên Vũ Ðế nhà Bắc Ngụy, Ngài Bồ Ðề Lưu Chi dịch Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Ðề Xá nguyện sinh kệ của Ngài Thế Thân, Ngài Ðàm Loan chú giải, soạn thuật vãng sanh luận chú, lại y cứ vào luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa của Ngài Long Thọ mà nêu rõ sự khác nhau giữa Nan hành đạo (đạo khó thực hành) và Dị hành đạo (đạo dễ thực hành); giữa tự lực và tha lực; cho rằng nương nhờ vào bổn nguyện tha lực là đạo phương tiện dễ thực hành trong cõi đời có 5 thứ nhơ nhớp, xấu ác, bắt đầu mở ra nghĩa căn bản của việc lập giáo Tịnh Ðộ, đồng thời chuyên chú trong việc trì danh niệm Phật để cầu sinh Tịnh Ðộ. Ðến đời Ðường các Ngài Ðạo Xước, Thiện Ðạo… noi theo giáo chỉ của Ngài Ðàm Loan hết sức đề cao năng lực bản nguyện, lại chủ xướng tư tưởng mạt pháp để vạch ra con đường then chốt thích ứng với thời giáo. Ngài Ðạo Xước soạn An Lạc tập, bác bỏ kiến giải sai lầm của những người khác, mở ra con đường trọng yếu cho chúng sanh trong thời mạt pháp, đồng thời căn cứ vào thuyết Dị hành đạo và Nan hành đạo của Ngài Ðàm Loan mà lập giáo phái Tịnh Ðộ môn và Thánh Ðạo môn. Ngài Thiện Ðạo soạn Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ, nêu rõ các kiến giải sai lầm xưa nay, xác định giáo nghĩa và giáo tướng Tịnh Ðộ; đồng thời theo các Ngài Ðàm Loan, Ðạo Xước mà lập Chính Hạnh, Tạp Hạnh để đặt vững nền tảng cho hệ thống giáo nghĩa độc lập của Tịnh Ðộ. Về sau, Ngài Hoài Cảm soạn luận Thích Tịnh độ quần nghi; Ngài Thiếu Khang mở rộng Tông nầy. Từ Ngài Đàm Loan đến Ngài Thiếu Khang được gọi là: “Chấn Đán ngũ Tổ” (5 vị Tổ Sư Tịnh Độ Trung Quốc). Thời bấy giờ, các vị Đại Sư ở Trường An mỗi vị cũng có soạn chú sớ các kinh A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ… sự nghiên cứu kinh điển Tịnh Độ đã đạt đến điểm cao.
Vào đầu năm Khai Nguyên đời Đường, Ngài Tuệ Nhật từ Ấn Độ trở về Trung Quốc, thấy các Thiền gia đương thời coi Tịnh Độ là “Thuyết Phương Tiện” để dẫn dắt người ngu; nên đã cực lực phản đối và đề xướng sự cần thiết phải niệm Phật cầu vãng sanh. Ngài Tuệ Nhật chủ trương trì giới và niệm Phật cùng thực hành, Thiền Định và Tịnh Độ đều tu, Giáo và Thiền hợp nhất, hồi hướng tất cả công đức tu hành nguyện cầu vãng sanh Tịnh Độ. Các Ngài Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Phi Tích… kế thừa thuyết nầy, lấy Tam Muội niệm Phật làm pháp môn Thiền Định sâu xa mầu nhiệm không gì hơn, cực lực bài xích sự tọa thiền để lòng trống rỗng của Thiền Tăng. Do đó, tông Tịnh Độ Trung Quốc ở đời Đường có thể chia làm 3 hệ thống, đó là hệ thống Ngài Huệ Viễn (phái luận lý, có tánh thường thức); hệ thống Ngài Thiện Đạo (phái Phật nguyện, đặt nặng tín ngưỡng) và hệ thống Ngài Từ Mẫn Tuệ Nhật (phái Diệu Hữu, không bỏ môn hạnh). Bấy giờ, Thiền Tăng có những vị chủ trương gần giống với phái Ngài Tuệ Nhật, như Ngài Tuyên Thập học trò Ngũ Tổ đề xướng phái Nam Sơn niệm Phật môn Thiền Tông, Ngài Nam Dương Tuệ Trung đệ tử Lục Tổ đề xướng Giải Hành kiêm tu (hiểu và làm cùng tu). Đến Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ là cháu đích tôn của Ngài Pháp Nhãn đời Hậu Chu lại tận lực hoằng dương Thiền Tịnh song tu, Tăng tục đời Tống đều kế thừa di phong nầy của Ngài Diên Thọ. Tông Thiên Thai cũng có nhiều vị kỉnh tin Tịnh Độ và hiểu nghĩa Tịnh Độ, trong đó Ngài Tứ Minh Tri Lễ đời Tống là nổi tiếng nhất với bộ Quán kinh sớ diệu tông sao do Ngài soạn, thuyết “Ước tâm quán Phật” của Ngài chính là “Thai Tịnh dung hợp luận” vốn được các nhà Thiên Thai xem trọng. Từ đời Nguyên về sau, phong cách Thiền Tịnh song tu lại càng thịnh hành hơn, các Ngài Trung Phong Minh Bản, Thiên Như Duy Tắc… đều quy tâm Tịnh Độ. Đến đời Minh, các vị như Sở Sơn Thiệu Kỳ, Không Cốc Cảnh Long, Nhất Nguyên Tông Bản, Vân Thê Châu Hoành, Hoành Sơn Đức Thanh, Cổ Sơn Nguyên Hiền… nối tiếp nhau đề xướng thuyết “Thiền Tịnh hợp hành”. Nhất là Ngài Vân Thê Châu Hoành chuyên tu tam muội niệm Phật, chú giải kinh Di Đà, soạn các sách hoằng dương ý chỉ Thiền Tịnh nhất trí, cảm hóa được giới Phật Giáo nói chung rất rộng rãi. Các nhà Thiên Thai cũng có những vị như Cừ Am Đại Hựu, U Khê Truyền Đăng, Linh Phong Trí Húc đề xướng luận thuyết Tam học nhất nguyên, chủ trương tam học Thần, Giáo, Luật đều quy về pháp môn Tịnh Độ. Bấy giờ, các vị Cư sĩ như Trang Quảng Hoàn, Viên Hoành Đạo… cũng đều soạn sách để hoằng truyền Tịnh Độ. Đến đời Thanh, tín ngưỡng Tịnh Độ phần nhiều do các Cư sĩ đề xướng. Bành Thiệu Thăng, cha con Hi Tốc, biên soạn vãng sinh truyện và chỉ tán Tây Phương. Khoảng các năm Khang Hy, Càn Long, Ngài Thật Hiền Tư Tề, kế thừa di phong của Ngài Châu Hoành, kết liên xã ở Hàng Châu, giáo hóa rất rộng, tôn các Ngài Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo là 3 vị Tổ Sư Tịnh Độ đầu tiên, được mọi người tín ngưỡng. Vào đầu đời Dân Quốc, trừ Cư sĩ Dương Nhân Sơn tận lực đề xướng, Ngài Ấn Quang còn chủ trương pháp môn Tịnh Độ là bản hoài xuất thế của Đức Phật, ra sức làm các việc cứu giúp xã hội, tăng trụ các nơi lần lượt làm sống lại phong trào kết xã niệm Phật.
Tại Nhật Bản Ngài Nguyên Không (1133-1212) có soạn bộ Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập, trong sách nầy Ngài đã dự định tuyên ngôn khai tông. Đặc biệt tôn sùng tam kinh nhất luận (ba bộ kinh Tịnh Độ và luận Tịnh Độ) và giáo thuyết của Ngài Thiện Đạo thuộc Tịnh Độ giáo Trung Quốc, cho nên đề cao luận thuyết “Thiên y Thiện Đạo” (Nương riêng vào Ngài Thiện Đạo). Trong ba cặp đối lập: Nan hành và Dị hành; Thánh Đạo và Tịnh Độ; Tự lực và Tha lực thì chỉ chọn lấy Dị hành, Tịnh Độ và Tha lực niệm Phật. Năm Thừa An thứ 5 (1175) Ngài Nguyên Không từ núi Tỷ Duệ dời đến ở Các Thủy, đề cao chuyên tu niệm Phật, chủ trương hạnh tu an tâm (lòng tin), sau đó khởi hành (trong 5 chánh hạnh lấy hạnh niệm Phật làm chủ yếu) rồi đến tác nghiệp (tứ tu), đồng thời nhấn mạnh tính chất quan trọng của việc xưng niệm danh hiệu Phật. Tông phái nầy tuy phủ định công đức của giới luật và việc xây Chùa, Tháp, nhưng nói chung vẫn xem trọng giới hạnh.
Sau khi Ngài Nguyên Không thị tịch, đệ tử chia ra làm 5 phái:
1) Phái Trấn Tây của Ngài Biện A: Chủ trương nghĩa chư hạnh vãng sanh.
2) Phái Tây Sơn của Ngài Chứng Không: Chủ trương nghĩa các hạnh bản nguyện.
3) Phái chùa Trường Lạc của Ngài Long Khoan: Chủ trương nghĩa vãng sanh hóa sinh.
4) Phái chùa Cửu Phẩm của Ngài Trường Tây: chủ trương nghĩa các hạnh bản nguyện.
5) Phái Nhất Niệm của Ngài Hạnh Tây: chủ trương nghĩa Nhất niệm hiệp thành.
Tông Tịnh Độ lấy 3 kinh một luận (kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ và luận Vãng Sanh) làm điển cứ trọng yếu để thành lập tông. Về chú thích ba kinh một luận thì có lược luận an lạc tịnh độ nghĩa (giải thích sơ lược kinh Vô Lượng Thọ), Vãng sanh luận chú (chú thích luận vãng sanh) do Ngài Đàm Loan soạn, An Lạc tập (căn cứ theo kinh Quán Vô Lượng Thọ trình bày nghĩa cốt yếu của việc vãng sanh Tịnh Độ) do Ngài Đạo Xước soạn, Quán Vô Lượng Thọ kinh sớ (phát huy nghĩa sâu kín của Quán kinh và giải thích câu văn trong kinh nầy), do Ngài Thiện Đạo soạn.
Ngoài ra, Pháp sự tán, Vãng sanh lễ tán, Quán niệm pháp môn bát chu tán cũng do Ngài Thiện Đạo soạn, quy định hành nghi vãng sanh Tịnh Độ, đều là căn cứ vào yếu điểm của tông nầy và cũng nổi tiếng một thời.
Tông nghĩa của Tông nầy là lấy hành nghiệp trong tâm hành giả (người tu Tịnh Độ) làm nhân bên trong, lấy nguyện lực của Phật Di Đà làm duyên bên ngoài; nếu nhân trong duyên ngoài ứng hợp nhau thì sinh về cõi nước An Lạc. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 6153-6156)
(xem thêm: Niệm Phật, Đâu Suất Vãng Sanh, Tịnh Độ)
Xem về ý nghĩa của Tịnh Độ và lịch sử Tịnh Độ Tông của Trung Hoa và Nhật Bản, chúng ta người Việt Nam không khỏi mủi lòng. Vì lẽ họ có những vị Tổ Sư Tịnh Độ khai Tông lập giáo rõ ràng. Còn chúng ta có cả 2.000 năm làm quen, tiếp xúc tu học với pháp môn nầy mà hầu như vắng bặt những bậc hiền nhân ấy. Có lẽ đây là những lý do chính đáng chăng?
Lý do thứ nhất về ngôn ngữ văn tự. Chữ Phạn và tiếng Hán hoàn toàn khác nhau. Cho nên muốn cho người Trung Quốc hiểu ý kinh, bắt buộc các vị Đại Sư ban đầu đến Trung Hoa phải học tiếng Trung Quốc để dịch những kinh, luật, luận ấy ra tiếng Hoa. Ví dụ như Ngài Cưu Ma La Thập, Ngài Bồ Đề Lưu Chi v.v… Sau một thời gian Phật pháp được truyền vào sâu rộng của đất Trung Hoa rồi, các Đại Sư như: An Thế Cao, Pháp Hiển, Huyền Trang, Khuy Cơ v.v… tự dịch thẳng từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Quốc. Đây là những cái mốc của lịch sử lúc ban đầu.
Lý do thứ hai mà người Việt Nam dễ dàng chấp nhận trong thời gian 1.000 năm đô hộ của người Trung Quốc (từ năm 43 trước Tây lịch đến năm 938) những kinh sách nào đã được dịch ra tiếng Trung Hoa rồi thì người Việt Nam cứ lấy đó làm kinh sách gối đầu để đọc tụng, hành trì và hầu như không cần sáng tạo nữa. Vì đã có người làm sẵn rồi.
Mặc dầu tiếng Hán Việt có khác tiếng Hán Nôm. Cũng là chữ Nho; nhưng chỉ có người Việt Nam đọc hiểu; trong khi đó người Trung Quốc đọc không hiểu. Tại sao các bậc Đại Sư Việt Nam chúng ta thuở ấy không dùng loại văn tự nầy để khai tông lập giáo? Ngay như Nhật Bản và Đại Hàn, chữ Hán họ còn dùng cho đến ngày hôm nay (2011); trong khi đó Việt Nam chúng ta đã chính thức không còn dùng chữ Hán ở học đường cách nay chừng một trăm năm; nhưng so với Nhật và Đại Hàn chúng ta có tiến xa hơn họ hay chăng?
Ngài Hoằng Pháp, Chơn Ngôn Tông Nhật Bản là cha đẻ của tiếng Hiragana và Katakana từ thế kỷ thứ 13 và những Kinh, Luật, Luận nào được truyền vào Nhật Bản hầu hết đã được dịch, chú giải ra tiếng Nhật để đọc cho dễ hiểu. Vì cách phát âm và văn phạm của Nhật ngữ và Hán ngữ hoàn toàn khác nhau. Trường hợp Đại Hàn cũng tương tự như Nhật. Trong khi đó Việt Nam chúng ta nếu cái gì nơi Trung Quốc sản xuất ra thì chỉ cần đem về Việt Nam tiêu thụ, chứ không cần phiên âm, giải thích, lập tông gì cả thì quả là một mất mát quá lớn lao cho lớp người sinh sau muốn tìm ra cội nguồn của Tịnh Ðộ tại quê hương Ðại Việt nầy.
Ngay cả trong Chùa, Viện Phật Giáo Việt Nam cho đến ngày nay (2011) đa phần cũng còn tụng kinh bằng âm Hán Việt, chỉ một ít kinh điển được dịch ra hẳn tiếng Việt như: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lương Hoàng Sám thì được tụng hoàn toàn bằng ngôn ngữ tiếng Việt từ giữa năm 1950 trở lại đây; nhưng rất tiếc đây không phải là những bộ kinh chính yếu của những người tu theo pháp môn Tịnh Độ.
May thay cách đây hơn 10 năm có Thượng Tọa Thích Thiện Thông sang Đức thăm người em ruột đang ở Koblenz, Đức quốc, sau đó ghé thăm Chùa Viên Giác tại Hannover. Thầy ấy gặp tôi 2 lần và mỗi lần gặp đều mang theo những bản thảo đã dịch và đánh máy xong và có ý trao lại cho tôi để được xuất bản ở ngoại quốc. Tôi lấy đó làm vui và nhờ vậy mà bây giờ Ba Kinh Tịnh Độ chúng ta đã có hoàn toàn bằng tiếng Việt. Ba kinh nầy Thầy đã dịch ra Việt ngữ từ năm 1983 – Phật lịch 2526 tại Việt Nam và năm 2005 xuất bản lần đầu tiên tại Đức để năm 2008 – Phật lịch 2552 lại tái bản một lần nữa. Văn Thầy dịch rất hay, trong sáng, dễ hiểu. Thường thường Thầy dịch theo lối 4 chữ rất dễ đọc và dễ tụng.
Thầy tâm sự với tôi rằng: Trình độ văn hóa của Thầy mới học tới lớp 9 thôi; nghĩa là chưa xong Trung Học; con nhà nghèo phải nghỉ học sớm và sau đó đi xuất gia; nhưng mắt kém cũng chẳng học được bao nhiêu; nên Thầy đã học Thiền với Hòa Thượng Thích Thanh Từ; nhưng sau đó Thầy đau phổi nặng; nhất là thời kỳ sau năm 1975 Việt Nam chúng ta chẳng có đủ phương tiện để chữa trị. Thầy bảo rằng: Tôi phát tâm niệm Phật, thay vì ngồi Thiền. Thế mà bịnh lại hết. Từ đó Thầy tin sâu pháp môn Tịnh Độ cũng như bắt đầu dịch những kinh căn bản thuộc Tông nầy. Có như thế chúng ta ngày hôm nay mới có cơ hội đọc, tụng bằng tiếng Việt.
Một điều đặc biệt nữa là Thầy tự học chữ Hán; nhưng Hán văn Thầy rất giỏi. Trong Đại Tạng Kinh 10 chữ, Thầy đọc thông hết cả 10. Quả là một vị Thầy có chí và đã đóng góp cho Tịnh Độ Tông Việt Nam không ít trong thời buổi ban đầu ấy. Chẳng may giữa chừng của chuyến thăm lần thứ hai tại Đức quốc, Thầy đã ra đi ở tuổi đời và đạo còn quá trẻ; chỉ trên dưới 60, sau khi Thầy đã giảng xong 48 lời nguyện Đức Di Đà vào ngày 30 tháng 6 năm 2000 lúc 10 giờ 30 phút. Cố Thượng Tọa còn để lại Chùa Viên Giác một số bản thảo nữa, tôi sẽ cố gắng in thành sách và đây là những tài liệu cần thiết cho những người học Phật sau nầy khi muốn nghiên cứu hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ.
Nhìn vào Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại chúng ta tìm được Cố Hòa Thượng Thích Thiện Thanh, Trụ trì chùa Phật Tổ tại Long Beach, California, Hoa Kỳ, cũng là người có tâm Việt hóa kinh điển để lớp sau khỏi bỡ ngỡ khi chữ Hán Việt càng ngày càng ít người biết đọc, biết viết; nhất là lớp người được sinh ra ở ngoại quốc ngày nay. Nhưng Hòa Thượng Thích Thiện Thanh cũng chủ trương dịch các kinh căn bản ra tiếng Việt chứ không phải riêng cho Tông Tịnh Độ.
Nhìn toàn bộ kinh sách Việt Nam đã, đương xử dụng ngày nay hầu hết được trích dịch, tham cứu, tra khảo theo tinh thần của kinh điển Trung Hoa và ngay cả người Việt Nam tu Tịnh Độ cũng lấy 13 vị Tổ Tịnh Độ Trung Hoa làm Tổ của mình. Quả là điều hơi chướng. Vì 13 vị Tổ nầy không có vị nào đến hoằng pháp giáo hóa tại Việt Nam cả. Do vậy chúng tôi đề nghị nên lấy Ngài Đàm Hoằng ( ? – 455) làm Sơ Tổ Tịnh Độ Tông Việt Nam. Vì Ngài đã ở Giao Châu từ năm 420 đến 455, cả 35 năm như thế, Ngài là người có công không nhỏ cho việc truyền thừa pháp môn Tịnh Độ cho người Việt Nam thuở ấy. Nếu chúng ta chấp nhận được Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi là Sơ Tổ của Thiền Tông Việt Nam thì chúng ta cũng có thể chấp nhận Ngài Đàm Hoằng là Sơ Tổ của Tịnh Độ Việt Nam vậy. Vì Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi người Ấn Độ, đến Trung Quốc và gặp Tổ thứ 3 Tăng Xáng, Ngài bảo Ngài Tỳ Ni nên xuôi Nam. Do vậy Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi mới trở thành Sơ Tổ Thiền Tông tại Việt Nam. Ở đây Ngài Đàm Hoằng cũng người Trung Quốc, mà cũng đã ở tại Giao Châu trong một thời gian lâu, tu theo pháp môn Tịnh Độ. Vậy, tại sao chúng ta không thể dễ dàng chấp nhận cho vấn đề nầy?
Một lộ trình sâu xa và dài thăm thẳm để tìm lại căn nguyên của 2.000 năm lịch sử nó không đơn thuần chỉ trong một vài quyển sách như thế nầy. Vậy chúng tôi mong rằng những vị nào quan tâm đến Tịnh Độ Tông Việt Nam từ lúc mới được truyền vào cho đến thế kỷ thứ 21 nầy thì xin bổ túc cho những đề nghị của chúng tôi cũng như tìm thêm sử liệu và dẫn chứng, để người đi sau dễ dàng tra cứu hơn.
Ngay cả bây giờ, nếu có hỏi một người tu Tịnh Độ Việt Nam nào đó, bất cứ ở trong hay ngoài nước, hỏi: Ai là Tổ Tịnh Độ Tông Việt Nam? thì họ sẽ không ngần ngại trả lời là Hòa Thượng Thiền Tâm hay Hòa Thượng Trí Tịnh. Vậy những phần sau chúng tôi để dành cho những nghiên cứu nầy về hai vị Hòa Thượng đương đại và sau khi tìm hiểu chúng ta thử đưa ra một nhận xét về việc phiên dịch, trước tác cũng như tư tưởng của các Ngài về Tịnh Độ Tông như thế nào?
(Còn tiếp)
HT Thích Như Điển biên soạn