Kinh văn đưa ra một kết luận chắc thực, rằng nếu quán sát được tất cả những điều ấy một cách đúng như thật, một hành giả sẽ dần dần xa lìa được mọi nỗi khổ của sinh tử.

Điều giác ngộ thứ nhất trong kinh Bát Đại Nhân Giác được thế hiện trong 11 câu kệ chữ Hán gồm 44 chữ, phiên âm như sau:

Đệ nhất giác ngộ: Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ, tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu, như thị quán sát, tiệm ly sanh tử. Có nghĩa là: điều đầu tiên mà các bậc đại nhân thấy biết một cách rõ rệt là mọi sự vật trong cuộc đời vốn không mãi mãi tồn tại một cách cố định; các cõi nước đều mong manh; bốn yếu tố tạo nên hình sắc con người thực chất là trống không và chỉ mang lại khổ não; năm yếu tố tạo nên một chúng sinh không hề mang lại một bản ngã chắc thực; tất cả đều được sinh ra rồi diệt mất, thay đổi khác lạ, chỉ là những thứ giả dối không có chủ; tâm chúng sinh chính là nguồn ác còn hình sắc của chúng sinh là nơi tập trung mọi tội lỗi; bậc đại nhân quán sát rõ như vậy mà dần dần rời được sự sinh tử.

Cảm nhận về điều giác ngộ thứ nhất trong kinh Bát Đại Nhân Giác

Có thể nói đoạn kinh văn này thể hiện toàn bộ vũ trụ quan, thế giới quan và nhân sinh quan của người học Phật.

Về phương diện vũ trụ, đoạn kinh văn nói trên khẳng định môi trường sinh sống của mọi chúng sinh luôn có sự biến đổi một cách bất thường, không hề ổn định để nâng đỡ cho cuộc sống của mọi sinh vật như có nhiều nguồn tư tưởng cho rằng vũ trụ này được tạo dựng để phục vụ cho cuộc sống của con người vì con người đã được ban cho vai trò làm chủ thế giới. Quả thật, những sự kiện về sự biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như những hiện tượng biến đổi của thiên nhiên không nhằm phục vụ sự sống mà giới khoa học khám phá gần đây đã khiến loài người mở mắt để thấy con người là người không hề có vai trò là người chủ của vũ trụ.

Về phương diện thế giới, kinh văn khẳng định mọi sự tổ hợp thành các cộng đồng người có thể xây dựng những đế quốc hùng mạnh, những dân tộc văn minh, những xã hội tiến bộ… đã từng lúc trở nên yếu hèn, dã man, trì trệ. Nếu có những bộ tộc kết hợp lại thành các quốc gia hùng mạnh thì cũng đã có những quốc gia bị phân liệt trở lại thời kỳ bộ tộc yếu hèn; nếu có những dân tộc văn minh có những phát kiến tân kỳ thì những phát kiến đó cũng không làm cho họ trở nên thuần hậu hơn, thay vào đó, đã có những kẻ lợi dụng những phát kiến tân kỳ ấy để xây dựng những cuộc sống đầy bản năng đầy dã man, chỉ nhằm thỏa mãn dục vọng riêng mình trên đau khổ của đồng loại; nếu có những xã hội tiến bộ đến mức độ tưởng như đạt đến lý tưởng của loài người thì cũng chính những xã hội ấy đã có lúc rơi vào khủng hoảng trì trệ vì tham vọng của xã hội ấy đã mang lại những xáo trộn không cần thiết. Rõ ràng, không một quốc độ nào tồn tại vững chắc mãi mãi.

Về phương diện nhân sinh, kinh văn nêu rõ con người chỉ là tập hợp của tứ đại và ngũ uẩn, là những thành tố trống không, không hề biểu hiện cho một bản ngã chắc thật; tất cả đều sinh ra rồi mất đi với sự thay đổi liên tục, hoàn toàn giả dối không có điều gì làm chủ, trong đó tâm chỉ là nguồn ác và thân là nơi tập trung tội lỗi. Về mặt này, nếu không hiểu rõ về thân và tâm, về tứ đại và ngũ uẩn, một người bình thường khó mà có thể lĩnh hội được ý của kinh văn. Qua sự quán sát, Đức Phật đã chỉ ra con người chỉ là một tập hợp không thể tách rời của thân và tâm, trong đó, thân là tập hợp của tứ đại; còn tâm là tập hợp của thọ, tưởng, hành, và thức là bốn bộ phận chính của ngũ uẩn; bộ phận kia là sắc, tượng trưng cho thân. Theo phân tích của giáo lý nhà Phật, thân được duy trì bởi các phần cứng chắc như xương, thịt, da, móng, gân…gọi là địa đại; các phần có thể dịch chuyển ở thể lỏng như máu, nước miếng, nước tiểu, nước mắt… gọi là thủy đại; các phần chứa năng lượng như nhiệt phát sinh trong quá trình chuyển hóa thực phẩm trong cơ thể… gọi là hỏa đại; các phần dịch chuyển ở thể khí như không khí để thở, như các chất khí xuất sinh trong quá trình chuyển hóa thực phẩm trong cơ thể… gọi là phong đại. Những yếu tố duy trì thân xác đó đều không thật có một cách bền vững mà luôn thay đổi; chẳng những thế, khi những yếu tố đó thiếu sự hòa hợp chúng sẽ đem lại sự đau đớn cho thân xác, đó là một trong những nỗi khổ mà con người phải chịu. Đức Phật lại quán sát thấy thân và tâm là hai mặt không thể tách rời của mỗi chúng sinh; trong đó, tâm thể hiện từ cạn đến sâu qua thọ, tưởng, hành, rồi thức. Thọ là cảm giác tiếp nhận bởi thân khi thân tiếp xúc với ngoại sắc. Những cảm giác đó tạo thành kinh nghiệm làm cơ sở cho chúng sanh có sự nhận biết mang tính phân biệt; chính sự nhận biết có tính phân biệt này được gọi là tưởng. Dẫn xuất từ những nhận thức mang tính phân biệt, chúng sinh bắt đầu có những suy tính so đo, gọi chung là hành; và toàn bộ những nhận thức đó được lưu trữ, được phân loại, được xử lý để chúng sinh đưa ra những phản ứng có tính toán mỗi khí tiếp xúc với ngoại sắc, gọi là thức. Khi thân tiếp xúc với ngoại sắc, toàn thể năm tầng nhận biết từ sắc đến thức đều được kích hoạt cùng một lúc. Sắc có nội sắc và ngoại sắc; nội sắc là tập hợp tứ đại tạo nên thân chúng sinh, ngoại sắc là tập hợp tứ đại bên ngoài biên giới thân thể ấy. Nội sắc lại có thô và tế, thô là các bộ phận của cơ thể, tế là hệ thống thần kinh não tủy. Do khát vọng sống, mọi chúng sanh đều tìm cách chiếm hữu ngoại sắc để bồi đắp cho sự sống của chính mình, hy vọng nhờ đó có thể xây dựng cho mình một sự tồn tại miên viễn. Do tưởng, chúng sinh phân biệt được những ngoại sắc mang lại cảm giác êm dịu, thích ý với những ngoại sắc mang lại sự khó chịu, đau đớn, bực dọc. Nhờ vào hành, chúng sinh so đo tính toán sao cho luôn luôn chiếm hữu được những ngoại sắc được yêu thích và triệt tiêu những ngoại sắc bị ghét bỏ. Tổng hợp tất cả những kinh nghiệm có trước, thức sẽ đưa ra những hành vi nhằm đạt được sự tính toán so đo của hành. Vì không nhận thức được tính cách của vô thường của vạn sư vạn vật, chúng sinh trở nên đau khổ mỗi khi những so đo tính toán của hành uẩn không thực hiện được, hoặc đã thực hiện được rồi nhưng không duy trì được; hơn nữa, ngay khi thực hiện rồi lại thấy không vừa ý. Điều đó khiến nỗi khổ là một thực tế chắc thật nhất mà mọi chúng sinh trên khắp thế gian đều phải chịu đựng. Chính yếu tố hành trong nhận thức của chúng sinh đã đưa chúng sinh đến chỗ phải có những hành vi tạo nghiệp ác , và hành chính là một phần của tâm; vì thế mà kinh văn khẳng định tâm là đầu mối của mọi ác nghiệp. Nhưng nếu không có sự tiếp xúc của thân với ngoại sắc mang lại những cảm giác thì không hề có sự so đo tính toán của hành uẩn, vì vây, kinh văn nói hình sắc chính là nơi mà mọi tội lỗi tập trung về (tội tẩu).

Kinh văn đưa ra một kết luận chắc thực, rằng nếu quán sát được tất cả những điều ấy một cách đúng như thật,  một hành giả sẽ dần dần xa lìa được mọi nỗi khổ của sinh tử.

Có thể thấy đoạn kinh văn trên đây đã nhắc nhở cho người học Phật nhớ đến khổ đế, tập đế và đạo đế trong giáo lý nhà Phật. Xét về mặt tu tập, đây là đoạn kinh văn cô đọng và đầy sự thiết tha nhằm nhắc nhở người học Phật phải luôn nghĩ đến mục đích của việc tu tập là đạt đến việc xa lìa nỗi khổ của sự sinh tử. Đoạn kinh văn này phải được tụng đọc hàng ngày đối với những người đã hiểu sâu sắc giáo nghĩa, đã lấy lý tưởng giải thoát làm mục tiêu tối hậu của đời minh. Tuy nhiên, về một mặt khác, sự cô đọng của đoạn kinh văn này cũng có một tác dụng khiến người sơ cơ lấy làm ngạc nhiên về kết luận của nó, buộc người đó phải tìm hiểu sâu hơn, vì lý do nào và phải quán sát những gì kinh văn đã nêu ra có thể dần dần xa rời sự sinh tử; từ đó, một người chưa biết gì về Phật học, lần đầu tiên tiếp xúc với đoạn kinh văn này, cũng phải bỏ công sức tìm hiểu, để được dẫn dắt vào sâu trong Phật pháp.

Phải chăng, khi soạn lại toát yếu giáo lý nhà Phật bằng những bài kệ trong kinh Bát Đại Nhân Giác, ngài An Thế Cao đã có cả hai dụng ý như trên cùng một lúc?

Liễu Tâm
(TC. Văn Hóa Phật Giáo)