Nghiên cứu tế bào gốc, đạo đức sinh học và Phật học

Lời giới thiệu

Khi Phật giáo tiếp tục lan rộng ở các nước phương Tây, sự tiếp cận Phật giáo với khoa học hiện đại ngày càng được nghiên cứu và ứng dụng trong việc lý giải một số vấn đề về nền tảng đạo đức cơ bản. Phật giáo xuất pháttừ Ấn Độ một đất nước thuộc truyền thống văn hóa châu Á, do vậy người ta thường tò mò về cách thức truyền thống châu Á cổ đại này sẽ đáp ứng như thế nào đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức đang đối mặt với thế giới hiện đại. Đạo đức sinh học Phật giáolà một lĩnh vực nghiên cứu học thuật ở phương Tây không phải là mới mẻ, nhưng trong những năm gần đây cũng đã có sự gia tăng đáng kể ở các nước Châu Á. Các trường phái Phật giáo có truyền thống phong phú về tư tưởng đạo đức sinh học. Nhà nghiên cứu đạo đức Phật giáo phải đối mặt bây giờ là phải tạo ra một sự thích ứng đối với vấn đề mới, phù hợp với tinh thần của các giá trị Phật giáo và phù hợp với truyền thống kinh điển phong phú của nó. Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng vì có rất ít bài kinh và sự nghiên cứu bài bản trong lĩnh vực mới mẻ này. Bởi lẽ, nền văn học tiên phong nhất của Phật giáo đã hơn 2600 năm nay, và nhiều vấn đề chúng taphải đối mặt ngày nay là kết quả của sự phát triển kinh tế, xã hội hiện đại mà gần như không thể tưởng tượng được trong thời cổ đại. Trong việc xây dựng cây cầu từ cũ đến mới, có rất nhiều vấn đề khập khiểng và bất đồng có thể xảy ra, và còn quá sớm để nói đến những giải pháp dứt khoát. Đồng thời, nó trở nên thích hợp để điều tra làm thế nào những vấn đề trong thực tế giữa các Phật tử, những người hoạt động tự nhiên trong một thế giới trong đó vai trò của tôn giáo ảnh hưởng lớn đến hành vi của họ.

Những cuộc tranh luận về nghiên cứu tế bào gốc thường được đóng khung như là giữa khoa học và tôn giáo. Nghiên cứu tế bào gốc là một kỷ thuật mới áp dụng trong các thí nghiệm khoa học liên quan đếnđiều trị y tế đang tiến triển với tốc độ nhanh trong kỷ nguyên hiện đại. Mặc dù ban đầu, nó nhằm mục đích tái thiết các cơ quan quan trọng của cơ thể, nhưng bây giờ nó có xu hướng nhân bản con người. Có một sự tiến bộ nhanh chóng và đáng ngạc nhiên trong lĩnh vực nhân bản từ khi tạo ra con cừu ‘Dolly’ – con cừu nhân bản đầu tiên, cách đây hai thập kỷ. Vì vậy, bây giờ chúng ta cần đánh giá tình hình và quyết định xem liệu chúng ta nên tiếp tục nhân bản toàn bộ con người hay không? Nghiên cứutế bào gốc và nhân bản nên được xem xét với trọng tâm rằng nó gây ra thương tích đối với các loài động vật và thực vật trong các nghiên cứu thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Các vấn đề đạo đức và quan điểm tôn giáo cần được đánh giá để đưa ra quyết định cuối cùng trên diễn đàn khoa học. Mặc dù Do thái giáo và Hồi giáo ủng hộ việc nghiên cứu nhân bản, nhưng Cơ đốc giáo hoàn toàn không đồng ývà ngăn cấm việc làm này. Đánh giá mức độ tham vọng và trí khôn của con người trong việc nghiên cứutế bào gốc hiện nay vẫn chưa được rõ ràng. Đứng về mặc đạo đức sinh học thì công nghệ nhân bảncũng không được khuyến khích, áp dụng. Các nhà khoa học nhận thấy tiềm năng rất lớn trong việc sử dụng các tế bào gốc ở người để điều trị nhiều bệnh trạng, bao gồm bệnh Parkinson và bệnh Alzheimer, bệnh tiểu đường, chấn thương cột sống và bệnh thoái hoá tim.

Nội dung tư tưởng chủ đạo của Phật giáo là nhấn mạnh vào hai đức tính, đó là: trí tuệ (prajña) và từ bi (karuna) và truyền thống lâu đời của nó về thực hành y học trong các tu viện, nên rất hoan nghênhtriển vọng phát triển các phương pháp chữa bệnh và điều trị giảm bớt đau khổ cho con người. Tuy nhiên, Phật giáo cũng coi trọng nguyên tắc bất bạo động (ahimsa), hoặc không gây tổn hại, do đó Phật giáo lên án mạnh mẽ về bất kỳ thủ tục khoa học nào phá hoại cuộc sống – dù là con người hay động vật. Trong khi Phật giáo không có cơ quan có thẩm quyền về pháp lý để phát biểu về những vấn đề đạo đức, do vậy quan điểm của Phật giáo chỉ có tác dụng ở mặt nhận thức nhân bản của con người, đánh thức lương tri con người hành động theo lẽ thiện, có ích cho con người trong hiện tại và tương lai. Những nghiên cứu liên quan đến sự cố ý phá hủy cuộc sống con người, chẳng hạn như thu hoạch các tế bào gốc phôi là không thể chấp nhận được về mặt đạo đức.

Trong phạm vi bài nghiên cứu nhỏ này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát về các báo cáo đề xuất liên quan đến các lợi ích của nghiên cứu tế bào gốc, đạo đức sinh học và các vấn đề liên quan khác từ quan điểmđạo đức Phật giáo.

Đạo đức sinh học (Bioethics)

Đạo đức sinh học là một xu hướng hiện tượng trong thế giới mới của nền văn minh hiện đại. Nó như là một lĩnh vực nghiên cứu nhằm theo dõi một số nguyên nhân và nguyên nhân quan trọng trong các lĩnh vực công nghệ khoa học và những giá trị cơ bản của con người, nhất là vấn đề sức khỏe. Vấn đề này đã trở nên nóng bỏng và được quan tâm rất lớn đối với các nhà Đạo đức học, khoa học và những nhà quản lý có thẩm quyền. Mặc dù nhiều vấn đề về đạo đức sinh học đã được thảo luận từ thời cổ đại, việc giới thiệu các công nghệ y sinh học hiện đại, đặc biệt là từ những năm 1950, nghành nghiên cứu này đã có những thành tựu đáng kể. Thứ nhất, nó đã khám phá ra khá nhiều điều mới mẽ, trong đó chủ yếu là việc làm sao kéo dài cuộc sống của con người, chẩn đoán trước khi sinh, phá thai, thử nghiệm của con người, các can thiệp di truyền và công nghệ sinh sản, sự tử tế, kiểm soát hành vi và tâm lý học, định nghĩa về cái chết, quyền bảo vệ động vật, phân bổ các nguồn lực sức khoẻ và những khó khăn trong việc duy trì sức khoẻ môi trường… Thứ hai, có sự quan tâm sâu rộng đối với đạo đức sinh học, bởi nó tạo ra một thách thức về trí tuệ và đạo đức. Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực đạo đứcsinh học đã tạo điều kiện một cách cởi mở đối với các nghiên cứu đa ngành, cho nhiều học giả và các viện hàn lâm ngày nay, đặc biệt là trong các vấn đề liên quan đến các khía cạnh hành vi con người cá nhân và xã hội.

Đạo đức sinh học là một thuật ngữ hỗn hợp có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp ‘bios’ nghĩa là life, (đời sống) và ethike (ethics, đạo đức). Nó có thể được định nghĩa là nghiên cứu có hệ thống về hành vi của con người trong lĩnh vực khoa học về sự sống và chăm sóc sức khoẻ. Công việc này được kiểm tra dưới ánh sáng của các giá trị đạo đức và nguyên tắc chặt chẻ. Sinh đạo đức được G. Hottois định nghĩa như: “Một toàn thể nghiên cứu, phát biểu và thực hành, thường là đa ngành, nhằm mục đích làm sáng tỏ hoặc giải quyết những vấn đề mang tính chất đạo đức, gây nên bởi những phát triển và áp dụng kỹ thuật khoa học trong sinh học và y học.”[1] Đạo đức sinh học mở rộng đến các vấn đề liên quan đến giá trịnghiên cứu về sinh học và hành vi. Mặc khác nó cũng tìm hiểu các vấn đề xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con người, nhằm làm sáng tỏ mối liên hệ hữu cơ giữa con người với môi trường thiên nhiên, các hệ sinh thái, động và thực vật. Khái niệm về đạo đức sinh học đã cung cấp một nền tảng đạo đức và triết học, đồng thời làm rõ khái niệm và đồng đánh giá đúng nghĩa về hòa bình, sự hài hòa giữa nhân loại và môi trường sinh học. Nó có thể được coi là một khoa học khái niệm có chiều hướng triết học, đồng thời là một hướng hoạt động thực tiễn. Từ góc độ triết học, đạo đức sinh học liên quan chặt chẽ đến nguyên tắc tôn trọng cuộc sống. Điều quan trọng nhất đối với đạo đức sinh học là ý tưởng triết họcrằng bất kỳ cá nhân, bất kỳ hình thức bios nào cũng có giá trị tuyệt đối duy nhất. Ý tưởng triết học cơ bản về sự thống nhất nội tại của cuộc sống con người và các sự sống khác đòi hỏi trách nhiệm của con người đối với tất cả các bios. Sự phát triển của đạo đức sinh học đòi hỏi phải vượt qua những thái độbiểu hiện cho rằng các sinh vật chỉ những công cụ hữu ích, và thái độ xem nhẹ đối với cuộc sống, phủ nhận sự khác biệt chủ yếu giữa chúng sinh và vật chất không phải là sinh vật.

Một trích dẫn dưới đây từ bài Kinh Tướng ở Trường Bộ Kinh nêu lên những câu hỏi căn bản về vấn đề thiện ác như sau: “Bạch Tôn giả, thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện? Thế nào là có tội? Thế nào là không có tội? Điều nào nên làm? Điều nào không nên làm? Điều nào làm sẽ đưa đến cho ta bất hạnh và đau khổ lâu dài? Điều nào nếu làm sẽ đưa đến cho ta hạnh phúc và an lạc lâu dài? Với tác động, chất chứa, tích tụ, tăng thịnh của nghiệp này…”(Lakkhana Sutta D. III.157)[2]

Các vấn đề đạo đức sinh học

Đạo đức sinh học đã trở thành một hiện tượng quốc tế thật sự. Đạo đức sinh học có cơ sở và ý nghĩađối với các yếu tố tôn giáo, chính trị và pháp lý của các nền văn hoá. Là một lĩnh vực nghiên cứu, đạo đức sinh học đã thèm muốn một diễn đàn chính trị quốc tế. Các nhà đạo đức sinh học Tây phươngmuốn có một tiếng nói chung, phổ quát về sự đúng đắn của luân lý đạo đức chính đáng và đạo đức, bao gồm cả nền tảng của luật pháp và chính sách công, cũng như quyền đạo đức cho các thể chế trong nước và quốc tế để đảm bảo tính đồng nhất của thực tiễn, đảm bảo các quyền cơ bản của con người và thúc đẩy công bằng xã hội. Chuyên môn về đạo đức học được tìm kiếm rộng rãi trong khuôn khổ của chính sách công và các thể chế. Sự đa dạng đạo đức tôn giáo và văn hoá đang tiến sâu trong đời sống con người. Đạo đức sinh học đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, chúng tách biệt với các viễn cảnh y sinh học, đạo đức khu vực, tôn giáo và văn hoá. Nghiên cứu này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về trạng thái phản chiếu sinh học trên khắp thế giới ở ngưỡng cửa của thế kỷ 21. Một mặt, họ chứng minh rằng sự quan tâm đến đạo đức sinh học lan tỏa và có sức ảnh hưởng trên toàn cầu. Nó cũng rất hữu ích để xem xét một số trục dọc theo đó sự khác biệt đạo đức trong đạo đức sinh học có thể được hiển thị. Chúng tôi đã cố gắng để thảo luận về các vấn đề nghiên cứu tế bào gốc trong đạo đức sinh học. Mục đích của chúng tôi là nêu lên tất cả các vấn đề có liên quan đến đạo đức sinh học đang phải đối mặt với thế giới do kết quả của nền công nghệ mới, những quan điểm thế giới khác nhau và sự đống góp của Phật giáo đến các xã hội khác nhau. Khi thế kỷ 21 mở ra một chân trời mới rộng lớn hơn về các thành tựu khoa học công nghệ, đó là một trong những thách thức lớn nhất mà Phật giáo phải đối mặt. Trong thế giới hiện đại này, việc thiết lập một hệ thống nền tảng đạo đức toàn diện là điều rất cần thiết. Mặc dù, nó vượt quá phạm vi của bất kỳ một nghiên cứu nào để đạt được cả hai mục tiêu này.

Những thập kỷ gần đây đã chứng kiến một sự bùng nổ về sự quan tâm đến tất cả các khía cạnh trong nghiên cứu Phật giáo, đặc biệt là các đặc tính cơ bản của Phật giáo, liên quan đến ranh giới của các tông phái Phật giáo đã trở thành một xu thế trong nghiên cứu. Gần đây có các dấu hiệu cho thấy rằng điều này đang bị lãng quên, cần phải được khắc phục và những sáng kiến đã không đến từ các nghiên cứu Phật học, mà đến từ những nghiên cứu so sánh về đạo đức tôn giáo. (Little, D. and Twiss: 1978). Trong khi Reynolds cho rằng cần có những tạp chí nghiên cứu Phật học và khoa học mang tính định kỳ để tìm hiểu sâu hơn về sự đống góp của đạo đức Phật giáo cho các ngành khoa học hiện đại. (Reynolds, 1979). Một số học giả cho rằng phần lớn các nghiên cứu về Phật giáo là dưới hình thứcchung chung, và chưa có một nghiên cứu nào có hệ thống nhằm cung cấp cho mọi người một cách cụ thể về đặc tính, cấu trúc chính thức của hệ thống đạo đức Phật giáo làm chuẩn mực để sử dụng trong việc đánh giá các giá trị đạo đức triết học khác. Vấn đề này chúng tôi sẽ giới thiệu một cách cụ thể về quan điểm đạo đức học Phật giáo được trích dẫn trong kinh tạng để xem xét đối chiếu và ứng dụng rộng rãi trong việc giải quyết các vấn đề đạo đức trong thời hiện đại.

Đạo đức sinh học và Phật học (Bio -Ethics and Buddhism)

Nếu Phật giáo không vượt qua những thách thức của thế giới hiện đại, thì sẽ bị lụi tàn và diệt vong. Phật giáo có thể cung ứng tất cả những thắc mắc và lý giải đến tận cùng về bản chất thật của sự vật hiện tượng trong đó bao gồm cả vấn đề đạo đức sinh học. Khi động lực của hiện đại hoá tập trung, khó có thể duy trì một thái độ dững dưng và hy vọng những vấn đề của hiện đại sẽ biến mất. Sự phát triển toàn cầu trong khoa học và công nghệ y tế có nghĩa là thế giới hiện đại xâm nhập bất cứ điều gì chúng ta thích hay không. Đức Phật đã dạy về sự tồn tại của một đạo luật luân lý vĩnh cửu (dhamma sanātano) và tin rằng qua lý trí, phân tích, suy tư và thiền định, người ta có thể biết được các yêu cầu của luật này trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Đạo đức sinh học là một khía cạnh liên quan trực tiếp đến giáo lý Phật giáo và đã được sử dụng rộng rãitrong nhiều kinh điển Phật giáo. Lời dạy của Đức Phật về bất bạo động (non-violence) và không xâm lược (non-aggression), không hận thù (non-anger) là sự thể hiện những lẽ thật tuyệt vời của đạo đứcsinh học. Khái niệm Brahmavihāras hay ‘tứ vô lượng tâm’ bao gồm từ (maitrī), bi (karuṇā), hỷ (muditā) và xã (upekkhā) và Lục Độ Ba La Mật: bố thì (dāna), trì giới (sīla), nhẫn nhục (kṣanti), tinh tấn (vīraya), thiền định (samādhi) và trí tuệ (paññā) có thể được diễn giải để tái cấu trúc đạo đức Phật giáo cho thế giới hiện đại. Hơn nữa mô tả về giới (sīla) đầu tiên xuất hiện trong văn học Phật giáo là không giết hại sinh vật sống (panatipāta vermāni) cũng thể hiện rõ quan điểm của Phật giáo đối với đạo đức sinh học. Trong kinh Sa Môn Quả (Samaññaphala) của Trường Bộ Kinh (Dīgha Nikāya), có nhắc đến năm loại hạt giống như “hạt giống từ rễ sanh, hạt giống từ nhánh cây sanh, hạt giống từ đốt cây sanh, hạt giống từ chiết cây sanh, hạt giống từ hạt giống sanh, (mūlabījam, khandhavījam, phalubījam, aggavījam và vījavījam) và có những hướng dẫn rõ ràng về việc đừng làm hại chúng. “Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hạt giống, và các loại cây cỏ”.[3] Tức không làm tổn hại đến bất kỳ sự sống nào, ngay cả những mầm sống mới bắt đầu. Trong kinh Từ bi (Mettā Sutta) của Kinh tập (Suttanipāta) dạy rằng, những tạo vật thậm chí không có hình dạng của chúng, cũng không được giết hại (bhūta vā sambhevesia vā sabbe sattā bhavantu sukkhitatta). Còn Kinh Pháp cú (Dhammapada) cho rằng: ‘Thân người là khó được, việc duy trì đời sống lại càng khó hơn. Bất kỳ loại giết chóc nào cũng gây ra bất thiện nghiệp, và nhận kết quả là bất thiện. Do đó chịu đau khổ và thọ báo trong luân hồi sinh tử.’ Trong kinh Chánh kiến (Sammādiṭṭhi) của Trung bộ kinh (Majjhima Nikāya), có một mô tả rõ về nghĩa jāti ‘sinh’. “Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự sanh, hiện khởi, xuất hiện, hiện diện, hiện hành các uẩn, tụ đắc các xứ; Chư Hiền, như vậy gọi là sanh.”[4] Sinh được mô tả thành bốn loại đó là, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh. Noãn sanh là chúng sinh sanh ra từ trứng, như gà vịt, chim chóc…, thai sinh là sinh từ bầu thai như người, trâu bò…thấp sanh là các loại côn trùng sanh ra từ nơi ẩm thấp, và hóa sanh là sanh do biến hóa, như ong, bướm, tằm, kén… Trong cùng một kinh điểnchúng ta tìm thấy mô tả về cái chết. Cái chết đã được định nghĩa là “Chư Hiền thế nào là chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài; chư Hiền, như vậy gọi là chết.”[5] (cutti cavantā bhedo antardhanan maccu marnaṃ kālaṅdiriyā khandhānaṅ bhedo kalavarassanākkhepo jivītindriyassupacchado).

Sinh và chết được kinh điển định nghĩa rõ ràng, đó là tiến trình của quy luật tự nhiên. Mọi hành động của con người can dự và làm trái ngược vào hai tiến trình này được xem là không chánh đáng và cần nghiêm cấm. Như vậy, có rất nhiều hình thức của sự sống được mô tả trong kinh điển. Bất kỳ hình thứccủa sự sống nào, theo Phật giáo cũng không được giết hại. Phật giáo luôn đề cao tinh thần tôn trọng và bảo vệ sự sống kể cả động, thực vật. Sự tôn trọng và bảo vệ sự sống này rất hợp với quan niệm của đạo đức sinh học hiện đại.

Sự giải thích của Phật giáo về nghiên cứu Tế bào gốc

Phật giáo luôn đáp ứng với tất cả những vấn đề về đạo đức và luân lý cơ bản, trong đó thiết lập một nền tảng vững chắc về đạo đức lối sống cho con người hoàn thiện nhất, cao đẹp nhất có thể. Đức Phật luôn khuyến tấn tất cả chúng đệ tử thực hiện nếp sống đạo đức, xây dựng đời sống đạo đức cao quý nhất để làm mô phạm cho đời. Đó là sống và thực hành theo một đời sống như những gì đức Phật đã sống, nhìn và hành động như những gì ngài đã hành động. Mục đích không chỉ đơn giản là đạt được một tầm nhìn trí tuệ về thực tại hay sự chủ đạo của học thuyết mà chủ yếu là cuộc sống đầy đủ và tròn đầy của con người. Tuy nhiên, không một bộ giáo lý đạo đức nào, dù là sâu rộng, có thể xác định trước tất cả các hoàn cảnh trong đó vấn đề đạo đức có thể nảy sinh. Mỗi thời đại đều phải đối mặt với những vấn đềmới, và chẳng có một hướng dẫn cụ thể trong các nguồn kinh điển của Phật giáo, ví dụ như về các vấn đề đạo đức mà chúng ta phải đối mặt ngày nay là kết quả của những tiến bộ khoa học và công nghệ trong thế kỷ hai mươi mốt này. Tuy nhiên, chiếu theo những gì đức Phật đã dạy, chúng ta có thể linh động để vận dụng chúng một cách hợp lý nhất có thể, vì tất cả điều không vượt ra ngoài nền tảng luân lý đạo đức nhân bản về sự sống.

Tế bào gốc là các tế bào trống có tiềm năng phát triển thành bất kỳ loại tế bào nào trong cơ thể: tế bào thần kinh hoặc các tế bào thận. Các nhà khoa học đang cố thu hoạch các tế bào trước khi chúng được phân biệt, sau đó nuôi dưỡng chúng thành những dạng nhất định. Từ quan điểm này, đạo đức Phật giáochấp nhận và ủng hộ các kết quả nghiên tế bào gốc để phòng ngừa ban đầu và điều trị các bệnh mãn tính và suy nhược cơ thể như bệnh tiểu đường, bệnh mạch vành, bệnh Alzheimer, Parkinson (bệnh thoái hóa hệ thần kinh), đột quị, ung thư … Ở đây, nghiên cứu tế bào gốc tương đối là một kỷ luật mới áp dụng cho các thí nghiệm khoa học liên quan chủ yếu đến điều trị y tế.[6] Theo Phật giáo, hiến tạng hoặc mô là một hành động đáng khen ngợi. Nhưng đó là vấn đề lương tâm cá nhân. Do đó, theo Đạo Phật, hiến mô cơ thể là một hành động đáng trân trọng, phù hợp với đạo đức vô ngã Phật giáo. Vì thông qua thành tựu nghiên cứu khoa học này sẽ giúp điều trị một số bệnh nan y, mang lại niềm vui an lạc cho con người.

Tuy nhiên, có một số rủi ro trong nghiên cứu tế bào gốc, mà các nhà đạo đức Phật giáo cảnh báo vì những lý do sau đây. Thứ nhất, đạo đức Phật giáo dựa trên nền tảng phổ quát, không vì có lợi cho người này mà gây tác hại cho người khác, kể cả động vật và môi trường. Tiến sĩ Ian Wilmut, người đã tạo ra con Cừu Dolly năm 1997, cũng phản đối ý tưởng nhân bản con người thông qua nghiên cứu tế bào gốc. Bởi vì trong quá trình này, một số loài động vật nhân bản như chuột và dê sẽ chết sớm. Một kết quả tương tự cũng có thể được dự kiến ​​trong trường hợp nhân bản của con người. Có một sự lo ngại nếu không sử dụng đúng cách, các cơ quan nhân bản vô tính sẽ bị phá hủy, cuối cùng gây thương tích cho chúng sinh.[7] Do đó sự cố gắng nhân bản vô tính của con người sẽ hoàn toàn ngược lại với tuyên bố liên quan đến sự không tổn thương đến cuộc sống như được mô tả trong Kinh Phạm Võng(Brahmajāla Sutta) và Kinh Sa Môn Quả (Sāmañaphala Sutta) của Trường Bộ kinh (Dīgha Nikāya): “Trong khi một số Sa môn, Bà la môn dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn làm hại các hạt giống và cây cối. Như các hạt giống từ rễ sanh, hạt giống từ nghành cây sanh, hạt giốngtừ đất sanh, hạt giống từ chiết cây sanh và thứ năm là hạt giống từ hạt giống sanh. Còn Sa mônGotama thì không làm hại hạt giống hay cây cối nào.”[8]

Một cách tổng quát, khoa sinh vật học chứng minh rằng một nhân phôi là sự hợp nhất của hai thành tố, tinh trùng của người đàn ông và noãn của người đàn bà. Phật giáo cho rằng ngoài hai thành tố này còn có một thành tố thứ ba nữa là cái thức tái sinh (patisandhivinnâna) xuất hiện vào lúc thụ thai: điều ấy có nghĩa rằng khi những điều kiện di truyền được thể hiện trong hoàn cảnh thuận tiện, một hình thức tâm vật lý xâm nhập vào, và giúp cho sự sống tương tục của một hữu thể người, như đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ-kheo, nơi nào có ba thành tố ấy hợp lại thì tại nơi đó một mầm sống được gieo.”

Như thế, cái thức tái sinh này được xem như chủng tử (bija) phối hợp với sức mạnh của hành động (karma-nghiệp lực) và khát ái (tanhâ), nhất là hữu ái (bhavatanha – khao khát được hiện hữu) làm sinh khởi sự sống mới của các chúng sinh.

 Và một giải thích chi tiết hơn: “Do tin chắc rằng có một nguyên lý sống là cái thức (vinnâna), Phật giáocho rằng một hữu thể người không phải chỉ là một tập hợp của các thành tố vật chất, thừa hưởng từ một cặp nam nữ, mà là một hữu thể (chúng sinh) toàn diện, gồm cả gia tài sống hay bản chất (nghiệp, karma) riêng của nó, hiện hữu tiềm tàng trong chính nó vào lúc thụ thai, trong thai bào của người mẹ, và trong thời thơ ấu của nó, vì rõ ràng rằng một đứa bé sơ sinh không phải là một cấu trúc trống rỗng, mà gồm chứa ngay từ đầu một chương trình tiên sơ, có thể thấy được qua thái độ của nó, như là thiên hướng tình cảm, các nhu cầu thiết yếu, sinh lý, giới tính, sự sân hận. Này Malunkyaputta, một đứa bé sơ sinh thơ dại, nằm ngửa ra đấy, nếu không có dục tính (kâmâ), thì tại sao sự ham muốn(kâmachanda) những khoái lạc cảm giác (kâmesu) lại xuất hiện ở trong nó? Quả thực cái khuynh hướng bám chặt vào những khoái lạc dục tính (kâmarâgânusaya) tồn tại tiềm tàng trong nó.”(Mn, I, 433). Theo Phật giáo, một hữu thể trở thành một hữu thể người sau khi đã được nhân hóa bởi cha mẹ và môi trường của con người, là một sự việc rất logic. Con người được sinh ra như vậy sẽ ôm trọn tất cả các mối quan hệ, đó là ân cha, nghĩa mẹ, công đức sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dưỡng để trở thành người, do đó người ấy có hiếu với cha mẹ, có trách nhiệm bổn phận đối với xã hội, biết cảm nhận nỗi khổ, niềm đau và cảm thông chia sẽ với nỗi khổ niềm đau ấy …

Những lời dạy của Phật giáo đã được soạn thảo với những hàm ý sâu rộng trong một từ đơn giản, giới (sīla), vốn tạo thành nền tảng của nó với hai cột trụ được tăng cường của lòng từ (mettā) và ‘tâm bi’ (Ratnakula: 1999). Giới luật Phật giáo trên nền tảng của tâm từ bi tôn trọng sự sống được coi là một di sản đúng đắn, là một tập hợp các quy tắc đạo đức phổ quát bao quát toàn bộ nhân loại. Sự đánh giásâu sắc của Đức Phật đối với khổ đau trong cuộc đời đã gợi lên cho chúng ta thấy tâm từ (karuṇā) và tâm bi (mettā) của ngài cho tất cả chúng sinh. Quan điểm đầu tiên trong Ngũ Giới (pañcasīla) là không sát sanh tạo thành quy tắc đạo đức tối thiểu đối với tất cả những người con Phật. Do đó, bất cứ sự nỗ lực nhân bản vô nhân đức sẽ hoàn toàn ngược lại với quan niệm về từ bi tôn trọng sự sống như đã đề cập trong Trường Bộ kinh (Dīgha Nikāya) của văn học Pāli (Dīgha Nikāya 1890-1911). Bất cứ mọi hình thức đao trượng, giết hại sinh mạng phải được từ bỏ, thay vào đó con người phải nuôi dưỡng và phát triển tâm từ bi thương yêu mọi loài. Với Phật Giáo, bất kỳ hành động việc làm nào được chi phối bởi tâm tham, tâm sân và tâm si cần phải được từ bỏ. Các thiện hành bởi tâm vô tham, vô sân và vô si cần phảiđược khuyến khích phát huy.

Trong giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa (Pātimokkha Pāli) (Vinaya Piṭaka: 1956) của Luật tạng đã phân loại sự vi phạm giới thứ nhất như là một hành vi phạm trọng tội (Pācittiya). Ở đây, tôi muốn thu hút sự chú ý của các học giả về một thuật ngữ cụ thể trong Phật giáo là bīja có nghĩa là hạt giống, mầm mống, tinh dịch, sinh sản thường được sử dụng theo nghĩa bóng hình. (Gupta, S: 2001) Theo Aṭṭhāsalini, một từ khác là bīja-gāma có nghĩa là các nhóm hạt giống, hạt giống-vương quốc, sự tạo hạt. Có 5 loại hạt giốngthường được liệt kê trong Văn học Phật giáo như mūla, khandha, phala, agga, bīja hoặc các loại cây được nhân giống, cành, mối nối, thân, chồi, và hạt giống (Hienberg: 2001). Kinh tạng Pāli còn nhấn mạnh đến sự nghiêm cấm, sự kiêng cữ không chỉ phá hủy cuộc sống con người mà còn cả cây cối, động thực vật hay nói cách khác là tất cả chúng sinh (Davis: 1906-07).

Theo quan điểm đạo đức Phật giáo, không gây tổn thương (ahiṃsā) cho tất cả các dạng thức sống là đều đáng khen ngợi. Kinh Tăng chi khuyến khích việc thực hiện tâm từ bi thương yêu tất cả chúng sinhbao gồm các loại: nhút nhát và liều lỉnh, ngắn và dài, nhỏ và lớn, loại có tuổi thọ ngắn, loại có tuổi thọ dài, vô hình và hữu hình, gần và xa, chưa sinh và đã sanh (Aṅguttara Nikāya: 1885-1900). Kinh Từ Bi (Mettā Sutta), đưa ra một mô thức của lòng nhân ái, đó là lòng từ bi thương yêu vô bờ bến, nên thực hành tâm từ vô phân biệt (Sutta Nipāta), như lòng từ bi của đức Phật mô tả trong kinh Pháp Hoa (Saddharmapuṇḍarika Sūtra), giống như một trận mưa pháp, ban phát hạnh phúc cho mọi người, và đưa đến Niết Bàn (Soothill, WE: 1956). Trên thực tế, kinh Mahāmaṅgala Sutta (Dharmarakshita: năm 1977) của Kinh Tập (Sutta Nipāta) ‘đặt đời sống trong một vòng tương thân, tương ái (paṭirūpadesavāsa) như một phước lành, may mắn có được’ (maṅgala).

Học giả Damien, K cho rằng, ‘nghiên cứu tế bào gốc không nên được khuyến khích trong bất kỳ trường hợp nào’ (Damien, K: 1995). Theo quan điểm của Phật giáo, karuṇā có nghĩa là từ bi, đó là cảm xúctuyệt vời thúc đẩy con người luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác gặp khó khăn (Saṃyutta Nikāya: 1884-1898). Trong kinh Vajracheddikā Prajñāpāramitā Sūtra, Đức Phật nói: ‘Sự thân thiện được đánh dấubằng cách cung cấp những gì có ích; Lòng trắc ẩn vĩ đại bằng cách bảo vệ nâng đở người khác’. Ngài cũng dạy chúng đệ tử của mình nên thể hiện ‘lòng bi mẫn đối với mọi sinh vật’ (SaṃyuttaNikāya: 1884-1898) và ‘không bao giờ phá hủy sinh mạng của bất kỳ sinh vật sống nào, dù nhỏ bé như thế nào’ (Sarao: 2010). Đức Phật đã mạnh mẽ ủng hộ sự thanh tịnh của tâm hồn tràn ngập lòng nhân ái được đánh dấu bằng nguyên tắc ‘sống và để sống’ để thúc đẩy lòng khoan dung, từ bi và tình yêu đối với tất cả chúng sanh/vạn vật. Nếu chúng ta thực hành giáo lý của Đức Phật và thực sự tuân theo nguyên lý của tình yêu và lòng trắc ẩn đối với tất cả chúng sinh bao gồm cả núi rừng và dân cư, điều đó sẽ tạo ra một môi trường cân bằng và hạnh phúc, nghĩa là mỗi người chúng ta phải nỗ lực thực sự nghiêm túc vì lợi ích cho người khác và môi trường tự nhiên (Batchelor, S., & Brown, K: 1994).

Quan điểm của Đức Phật về các vấn đề nghiên cứu tế bào gốc được miêu tả trong Văn học Pāli

Tất cả các vụ giết chết cố ý (vadhacetanā) theo đạo đức Phật giáo đều được xem là hành vi vô đạo đức. Cho dù sự giết được thực hiện với mục đích chấm dứt khổ đau cũng không thể chấp nhận về mặt đạo đức, vì đó là một sự vi phạm giới thứ nhất (pānātipāta). Nội dung của giới thứ nhất không sát sanh, gồm ba nghĩa hoặc tự mình giết, hoặc bảo người khác giết, hoặc thấy giết mà sanh tâm vui mừng thì điều phạm tội này. Nó bao gồm cả ý nghĩa không gây thương tích cho chúng sinh, từ một con côn trùng nhỏ bé đến con người. Thái độ của Phật giáo đối với bất bạo động được minh hoạ rõ ràng như miêu tả trong kinh Pháp Cú như sau: “Ai cũng sợ dao gậy, ai cũng sợ chết; hãy lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết.   Ai cũng sợ dao gậy, ai cũng thích sống; hãy lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết.” (Dhp 129-130). Không nên giết hay gây ra sự chết chốc đối với tất cả sự sống; không nên xử phạt hay gây ra những hành động xử phạt đối với con người. Hảy nên kiềm chế tâm mình lại, không nên gây thương tổn đến bất kỳ sinh vật nào, ngay cả con người mạnh mẽ hoặc yếu ớt run rẩy trên thế giới này. (Sn 393)

Đức Phật đã đặt ra quy luật rằng một vị Tỷ kheo cố ý tước đoạt mạng sống của con người, vị ấy phạm tội Ba la di (pārājika), bất cộng trú.Theo đạo đức Phật giáo, con người không phải do Thiên Chúa, Thánh thần tạo ra, nhưng nó được tạo ra bằng nghiệp lực hay hành động của chính mình. Do đó không ai có quyền tước đoạt sự sống của người khác. Ngay cả vấn đề tự tử, trợ tử và tất cả các hình thức giết người hoặc gây tổn hại cho chúng sinh…là trái với nguyên tắc đạo đức cơ bản của Phật giáo. Và hành động đó cũng trái với quy luật tự nhiên của đời sống theo năm yếu tố sau:

1) Utuniyāma: Luật vô hình vật lý, đó là bốn yếu tố (dhātu), tức là đất (pathavī), nước (āpo), lửa (tejo), và gió (vāyo), vv, nó cũng được gọi là sắc năng tạo, cấu nên cơ thể con người.

2) Bījaniyāma: Luật hữu cơ vật lý hoặc thứ tự của gene và hạt giống, như trong tuyên bố: “Như hạt giống, vì vậy trái cây”. Lý thuyết khoa học về tế bào và gien thuộc luật này, tức các dạng thức sống, phôi hay mầm sống.

3) Cittaniyāma: Quy luật tâm linh hay trật tự vận hành của tâm, như các chức năng của ý thức trong tiến trình cảm giác (vedanā) và nhận thức (saññā).

4) Kammaniyāma: Quy luật nghiệp báo liên quan đến tiến trình nhân quả luân lý, hoặc trật tự hành động và hiệu quả của nó.

5) Dhammaniyāma: Định luật về mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau của mọi sự vật, tức là mọi thứ xuất hiện, tồn tại và chấm dứt, như tất cả chúng sinh đều trải qua sinh (jāti), lão (jarā), bệnh (bayādhi) và tử (marana), như là một quy luật tất yếu. Nói một cách đơn giản, đó là quy luật của nguyên lý Duyên khởi (patticcasamuppāda), định lý phổ quát nhất, trong thế giới tương duyên giữa vạn vật và con người.

Can dự vào cuộc sống và sử dụng bất kỳ phương tiện nào để can dự vào nó được coi là chống lại quy luật tự nhiên này. Phật giáo tin rằng chừng nào mà một người đang thở và tâm ý vận hành (citta) thì người ấy có thể đạt được một số thành tựu tâm linh. Theo đạo đức Phật giáo, việc giết hại những loại động vật dù nhỏ bé cũng không phải là hợp lý về mặt đạo đức. Mọi hành động tức giận, giết chết các loại vật, giết hại vô cớ…cũng được xem là việc làm vô đạo đức và không thể chấp nhận. Sự kiện một loạt các vụ giết động vật ở các nước phương Tây do bệnh lở mồm long móng, vào đầu năm 2001, có thể được coi là ‘điều ác cần thiết’.

Phần kết luận

Phật giáo là tôn giáo được tôn kính rộng rãi vì những giá trị đạo đức và lòng nhân từ vô hạn. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu một đề cập có hệ thống tiêu chuẩn về đạo đức trong kinh điển và luận tạng để áp dụngnhằm giải quyết một số vấn đề trong trong đạo đức sinh học hiện đại. Điều này làm cho các học giảPhật học khó để tìm kiếm một giải pháp căn cơ cho các vấn đề mới nảy sinh trong thế giới hiện đại mà con người đang gặp phải. Vấn đề này sẽ ngày càng trở nên nổi bật khi cuộc gặp gỡ giữa Phật giáo và hoa học phương Tây hiện đại quan tâm. Song, trên nền tảng của Bát chánh đạo mà tựu trung là giới định và tuệ, Phật giáo có thể đáp ứng hết tất cả các tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức đang đối mặt với thế giới hiện đại. Đạo đức sinh học được đề cập rất nhiều trong các nguồn cổ xưa và đã thu hút được ít chú ý trong nhiều trong vài thập kỷ gần đây. Thách thức này sẽ là tạo ra một phản ứng đối với những vấn đề mới phù hợp với tinh thần của các giá trị Phật giáo và phù hợp với truyền thống kinh điển phong phú của nó. Đây sẽ là một thử thách lớn bởi vì văn học Phật giáo trên 2000 năm tuổi và nhiều vấn đề về đạo đức sinh học là kết quả của sự phát triển xã hội, kinh tế và công nghệ hiện đại.

Phật giáo được xem là ‘lối sống tốt đẹp’ hay ‘cuộc sống hoàn hảo’ nên nghiên cứu tế bào gốc cho bất cứ mục đích nào, bất kể nhu cầu và tính cấp bách của nó, không thể được khuyến khích. Đạo Phậtnghiêm chỉnh kiêng cữ không chỉ giết hại cuộc sống con người, mà còn với tất cả chúng sinh. Sự hiểu biết về sinh và chết như định nghĩa ở trên được coi là một quá trình vận hành theo quy luật tự nhiên, và không phải là một sự kiện, do đó vấn đề hỗ trợ phương pháp tiếp cận tổng thể chết não và việc cấy ghép tạng sớm là không phù hợp với quan điểm đạo đức Phật giáo. Mặc dù nghiên cứu tế bào gốc có chọn lọc, có thể được xem xét, nhưng không có giới hạn đối với tham vọng của con người. Vì vậy có rất nhiều khả năng công nghệ nghiên cứu và nhân bản tế bào gốc này có thể bị lạm dụng trong tương lai để gây ra mối đe dọa cho xã hội. Do đó, nghiên cứu tế bào gốc và công nghệ nhân bản cho bất kỳ mục đích nào, bất kể nhu cầu và sự khẩn cấp của nó, không bao giờ được khuyến khích bởi bất kỳ truyền thống Phật giáo nào cả. Mặc dầu, nghiên cứu này là một nghiên cứu khoa học, nhưng mục đích của nó nếu đặt trọng tâm phục vụ cho lòng tham của con người thì Phật giáo hoàn toàn bác bỏ. Mọi sự sống là một sự mầu nhiệm tự nhiên, do đó con người không nên can thiệp vào bất kỳ sự sống nào dù là động vật nhỏ bé nhất.

References:

Aṅguttara Nikāya: Ed. R. Morris & E. Hardy, 5 vols. London: PTS, 1885-1900.

Barua D.K. 2005. Buddhist Ethics with Reference to Stem Cell. Applied Buddhism: Studies in the Gospel of Buddha from Modern Perspectives. Varanasi, India: Banaras Hindu University: 13-19.

Batchelor, M and Brown, Kerry, (ed.), Buddhism and Ecology, Delhi: Motilal Banarasidass, 1994.

Bhikkṣu Dharmarakṣits, Mahāmaṅgala Sutta, Sutta Nipāta (Cullavagga). Sutta No. 4, Delhi, 1977.

Damien, K. 1995. Buddhism & Bioethics. London: Macmillan.

Davis, R.1906-7. Similes in the Nikāyas. Journal of the Pāli Text Society: London: 52.

Dīgha Nikāya, Vol. I, sutta No. 2, Nalanda edition, 1956.

Dīgha Nikāya: Ed. T.W. Rhys Davids & J.E. Carpenter, 3 Vols. London: PTS, 1890-1911.

Gupta, S. 2001. The Stem Cell Saga. The Week (Kochi India): 41-44.

Heinberg, R. 2001. Cloning the Buddha: The Moral Impact of Biotechnology. Health Harmony, B. Jain Publishers (P) Ltd., New Delhi, India: 183-98 & 226-31.

Little, D. and Twiss, S.B., Comparative Religious Ethics, San Francisco: Harper & Row, 1978.

Ratanakul, Pinit. Love in Buddhist Bioethics, Journal of Asian and International Bioethics, IX, 1999.

Saṃyutta Nikāya: Ed. M.L. Feer, 5 vols. London: PTS, 1884-1898.

Sarao, K. T. S., The Origin and Nature of Ancient Indian Buddhism, Delhi: MRML Pvt. Ltd., 2010.

Soothill, W. E., The Lotus of the Wonderful Law, Delhi: Motilal Banarasidas, 1956:122- 125.

Sutta Nipāta: Eds. D. Andersen & H. Smith, reprint, London: PTS, 1984.

Tharien, A.K. 1998. Human Cloning: The Global Response. Health for the Millions: 27- 28.

Vinaya Piṭaka Pāli, Pācittiya Rule No. 10, 11, Nalanda edition, ed. Rahul Sankritayana 1956.

Chú thích

[1] HOTTOIS G., PARIZEAU M.H., Les mots de la bioéthique. Un vocabulaire encyclopédique, De Boeck-Université, coll “Sciences Ethiques Sociétés”, 1993

[2] Trường Bộ Kinh, Kinh Tướng số 30.

[3] Trường Bộ, Kinh Sa Môn Quả.

[4] Trung Bộ kinh, kinh Chánh kiến.

[5] Ibid,

[6] Barua D.K. 2005. Buddhist Ethics with Reference to Stem Cell. Applied Buddhism: Studies in the Gospel of Buddha from Modern Perspectives. Varanasi, India: Banaras Hindu University: 13-19.

[7] Barua D.K. 2005. Buddhist Ethics with Reference to Stem Cell. Applied Buddhism: Studies in the Gospel of Buddha from Modern Perspectives. Varanasi, India: Banaras Hindu University: 13-19.

[8] Trường Bộ Kinh, Kinh Phạm Võng.

Nguồn: Stem Cell Research and Bioethical Issues: A Buddhist Perception, by, Dr. Arvind Kumar Singh (Director, International Affairs & Assistant Professor), School of Buddhist Studies & Civilization, Gautam Buddha University.

(Thích Trung Định dịch)