BƯỚC TỚI THẢNH THƠI

Giới Luật và Uy Nghi của Các Vị Sa Di

Thiền Sư Nhất Hạnh

—o0o—

CÁC THIÊN UY NGHI

Uy nghi là vẻ đẹp biểu hiện ra trong những tư thế, động tác, ngôn từ và cách tiếp xử của hành giả trong đời sống hằng ngày. Sống trong chánh niệm, từ từ ta có thêm chất liệu của sự vững chãi, thảnh thơi và an lạc. Uy nghi là dấu hiệu của sự có mặt của những chất liệu ấy. Có những chất liệu này, uy nghi mới thực sự là uy nghi, nếu không thì đó chỉ là những ngụy trang mà ta gọi là giả trang thiền tướng. Có bốn mươi mốt chương uy nghi mà ta cần học hỏi và rèn luyện. Để thực tập các uy nghi này, ta cũng cần học thuộc lòng những bài thi kệ trong phần I (Thi Kệ Thực Tập Chánh Niệm) của sách.

Chương I – Tôn kính Thầy và các vị có hạ lạp cao

Không gọi thẳng tên của Thầy. Nếu cần nói đến tên Thầy thì nói: pháp hiệu của Thầy chữ trước là ___ và chữ sau là ___. Có ai chê bai Thầy thì tìm cách giải tỏa những hiểu lầm của họ về Thầy. Nếu không đủ sức thì nói: ‘‘Người mà quý vị đang nói xấu là Thầy tôi (hoặc ngang hàng với Thầy tôi). Tôi không muốn nghe nói xấu Thầy tôi.’’ Rồi tìm cách xin lỗi và bỏ đi nơi khác.

Đang ngồi mà Thầy đến thì đứng dậy, trừ những lúc đang tụng kinh, cạo tóc, thọ trai, chấp tác hay bệnh. Trước khi đi đâu phải xin phép Thầy. Mỗi khi đi về cũng trình Thầy. Nếu bắt buộc phải sống xa Thầy, hoặc khi Thầy sắp tịch, thì phải lập tức thỉnh ý Thầy là nên nương tựa vào vị nào và cư trú ở đâu.

Không được nghe lén những buổi thuyết giới hay các buổi họp riêng của các vị thọ giới lớn. Không nói và kể về những khuyết điểm của các vị với bất cứ ai. Lỡ có khi đang ở một nơi mà có các vị thọ giới lớn lớn tiếng với nhau thì im lặng tìm cách rút lui khỏi nơi ấy. Khi các vị lớn hạ lạp hơn mình bị Thầy quở trách thì mình cũng im lặng tìm cách rời khỏi chỗ đó.

Lần đầu tiên trong ngày gặp các vị có hạ lạp cao thì nên chắp tay xá chào. Nên chào hỏi khi các vị đi đâu xa về hoặc sắp đi đâu xa. Thấy các vị xách gì hoặc đang làm gì thì cũng nên xách phụ hoặc làm phụ. Thấy các vị đi ngang, nên đứng sang một bên chắp tay để nhường bước. Nếu có phải đi ngang qua các vị, nên cúi đầu và chắp tay. Chỗ ngồi, chỗ ở, vật dụng và mọi thứ nên để ưu tiên cho các vị trước. Khi xếp hàng, thấy các vị tới nên để chỗ của mình cho các vị đứng trước. Không tự tiện vào phòng các vị, trừ trường hợp: được phái tới, được mời tới, được đến giúp việc, đến để báo tin và đến để tham vấn. Trong khi thưa chuyện với các vị, phải đứng ngay ngắn, chắp tay. Không được cùng đùa giễu với các vị. Không được nạn vấn để gây lúng túng cho các vị, cũng như không nên để ý và tìm kiếm những sơ sót của các vị. Không được nhái giọng nói và điệu bộ của các vị. Khi được các vị nhắc nhở đến những sơ sót trong sự tu học thì chắp tay tạ ơn mà không được biểu lộ sự bực mình hay hờn giận. Địa vị của những người thọ giới lớn sau năm năm là địa vị của giáo thọ (A xà lê), sau mười năm là địa vị của thân giáo sư (hòa thượng), vị Sa di nên biết điều đó để tỏ lộ sự tôn kính, như tôn kính Thầy của mình. Đối với người có hạ lạp cao, nên xưng con thật lễ phép, dù đó là người đồng sư với mình.

Lúc gia đình đến thăm và kể cả lúc rời tự viện, nên đưa thân nhân đến chào các vị lớn.

Chương II – Hầu Thầy

Làm thị giả cho Thầy là một cơ hội quý báu để được gần gũi và học hỏi trực tiếp với Thầy. Trong thời gian làm thị giả, thầy trò có cơ hội để hiểu nhau hơn và do đó Thầy có thể ban cho ta những giáo huấn thích hợp với căn cơ ta. Nếu Thầy có răn dạy điều gì phải chắp tay lắng nghe cung kính và tạ ơn Thầy, đừng nên tìm cách nói lời minh oan và chống trả. Học với Thầy không phải chỉ là học những điều Thầy giảng dạy và căn dặn; học với Thầy còn là học cách Thầy đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, tiếp xử và độ người. Vì vậy phải biết đem hết tâm ý mà học hỏi trong thời gian được làm thị giả.

Phải thức dậy trước Thầy để pha trà, xếp mền và dọn giường khi Thầy thức giấc. Trước khi vào phòng Thầy, phải theo dõi hơi thở và gõ cửa ba tiếng khoan thai. Đem đổ ống nhổ hay chậu nước tiểu, nên giữ nụ cười tươi, đừng tỏ vẻ khó chịu. Mỗi ngày, đổ thùng rác trong phòng và trong buồng tắm Thầy, dù là thùng chưa đầy. Khi pha trà không được đổ nước nóng xuống đất, làm tổn hại sinh vật. Rót trà cho nhẹ nhàng, đừng để gây ra tiếng. Lễ lạy Thầy, phải xin phép trước; không nên lễ lạy khi Thầy đang ngồi thiền, đi kinh hành, thọ trai, nói pháp thoại, chải răng, tắm rửa, nghỉ ngơi… Thầy mặc áo, hay đắp y, giúp sửa y áo Thầy cho thẳng thắn. Giày dép của Thầy phải luôn lau chùi sạch sẽ và đặt ngay ngắn trước cửa. Phải chuẩn bị đầy đủ mọi thứ Thầy cần khi ra ngoài.

Trước khi dọn thức ăn, tất cả vật dụng phải rửa và lau chùi sạch sẽ, tránh dùng những chén, tô và dĩa đã bị sứt mẻ. Dâng thực phẩm lên Thầy, phải nâng bằng hai tay và không đặt ngón tay lên thành chén hoặc thành ly. Thầy thọ trai xong, nên thu dọn từ tốn, lau rửa sạch sẽ và để vào nơi quy định. Hầu Thầy không đứng hoặc ngồi đối diện, ngang hàng, chỗ cao hơn hay quá xa. Đứng hay ngồi ở vị trí nào mà dù Thầy nói nhỏ mình cũng vẫn nghe được, để Thầy khỏi phí sức. Đang quỳ mà cần di chuyển, nên đứng dậy mà đi, đừng lết. Trời nực, quạt gió cho Thầy, nên quạt ngang, chậm rãi và nhẹ nhàng. Khi thưa hỏi, phải chắp tay lại một cách cung kính. Không hiểu điều gì thì sau đó chắp tay để xin Thầy lặp lại. Thầy lớn tuổi, nên học cách bấm huyệt và xoa bóp cho Thầy. Khi xoa bóp và bấm huyệt, không được bước ngang qua thân Thầy. Khi Thầy bệnh, phải hết lòng chăm sóc, chuẩn bị thuốc men, túi nước nóng, bình nước nóng, lò sưởi và chỗ nằm của Thầy cho chu đáo. Làm thế nào để khi Thầy cần đến mình là mình có mặt ngay. Làm bất cứ điều gì mình có thể làm, đừng đợi Thầy sai bảo. Nếu đang làm việc khác cho Thầy thì phải nhờ một vị khác thay thế. Chỉ nên rời Thầy khi Thầy cho phép.

Thầy tiếp khách, để ý xem Thầy có cần gì không. Khi Thầy khai thị cho khách về đạo pháp, nên lắng nghe để học hỏi. Đừng để khách đi vào khi Thầy cần nghỉ ngơi. Nếu nhận thấy Thầy mệt và cần nghỉ ngơi thì tìm cách khéo léo để những người khách ấy chấm dứt cuộc hội kiến sớm.

Khi có vị lớn trình lên Thầy chuyện chúng hay có ai thưa chuyện riêng với Thầy, nên im lặng rời khỏi chỗ đó. Nếu có lỡ nghe được chuyện gì, không nên đi kể lại cho người khác. Thư từ của Thầy gửi đi hay nhận tới không được xem lén, cũng không đưa người khác xem. Đi công việc cho Thầy, không ghé đâu cả, việc xong thì trở về ngay, nếu có việc bất thường xẩy ra, phải nhắn hoặc gọi điện thoại về, đừng để Thầy trông.

Thầy có hỏi thăm về tăng thân, phải thực lòng thưa cho Thầy biết về những gì mình đã trực tiếp thấy và nghe. Đừng sợ mang tiếng nói xấu ai, nếu mình thực sự vì cung kính và vì tình thương mà nói. Với thái độ khiêm cung, thành thật, mình thưa với Thầy rằng đó là cái thấy riêng của mình, đó không chắc là sự thật. Thầy hỏi về tình trạng học hỏi và tu tập của mình, đừng cố ý che dấu. Phải nói hết những khó khăn và những thành công của mình cho Thầy nghe và cầu Thầy chỉ dạy. Những thư từ có liên hệ tới đời sống lý tưởng và tình cảm của mình thì trình lên và chia sẻ với Thầy trước khi gửi đi hoặc sau khi nhận. Nếu thấy mình đã vì thất niệm hoặc dại dột phạm vào những lỗi lầm thì phải đến phát lộ với Thầy, cầu xin sám hối và hứa với Thầy sẽ không lặp lại những lỗi lầm ấy trong tương lai.

Được Thầy cho ăn cơm chung với Thầy thì đợi Thầy cầm đũa ăn rồi mình mới cầm đũa. Ăn cơm như thế nào để khi Thầy ăn xong thì mình cũng ăn xong, để có thể dọn dẹp và dâng trà lên Thầy. Dừng nhai để lắng nghe mỗi khi Thầy có dạy bảo điều gì.

Được Thầy cho ngồi uống trà với Thầy là một trong những giây phút hạnh phúc nhất của người xuất gia. Nên trân quý những giờ phút đó. Có dịp nên tìm cách trình lên Thầy những tiến bộ và những hạnh phúc của mình trong quá trình tu học. Nên trình lên Thầy những thành quả tu học của các vị đồng tu, điều này sẽ làm cho Thầy vui và có tác dụng nuôi dưỡng Thầy. Nếu hoàn cảnh cho phép, nên xin Thầy cho các vị đồng tu khác cùng được tham dự. Tránh nói về những khó khăn trong chúng, hãy đợi những dịp khác để thưa trình và thỉnh ý Thầy. Chắp tay lại mỗi khi có điều gì muốn thưa trình, và xá trước khi nhận chén trà hoặc cái bánh.

Trước khi vào phòng Thầy, dù Thầy vắng mặt, cũng nên gõ cửa và xá. Vào xong, đóng cửa rồi cũng nên chắp tay xá chỗ Thầy ngồi. Mỗi khi đi ngang nơi Thầy ngồi đều nên cúi đầu, dù không có sự hiện diện của Thầy. Không ngồi vào chỗ Thầy ngồi, nằm vào chỗ Thầy nằm hoặc sử dụng áo, nón hay dép guốc… của Thầy. Khi Thầy vắng mặt, chỉ vào phòng Thầy để dọn dẹp, không ở lại ngồi chơi hoặc ăn uống trong phòng Thầy. Trước khi thu dọn hoặc vứt bỏ vật gì của Thầy cũng phải xin phép trước.

Khi dùng bếp riêng để nấu ăn cho Thầy, không nên tụ tập nói chuyện, đùa giỡn trong bếp. Không nên ăn uống trong bếp của Thầy. Không nên dùng vật dụng nấu nướng cho Thầy để xài riêng. Thức ăn dư của Thầy, nên đem ra cúng dường đại chúng.

Cùng làm thị giả với người khác, phải hết lòng nâng đỡ nhau và giữ hòa khí.

Chương III – Đi theo Thầy

Trước khi đi phải chuẩn bị tất cả những gì Thầy có thể cần đến trong chuyến đi như y, áo, thuốc men, túi nước nóng, tọa cụ, tài liệu, kinh sách, pháp khí… Không để Thầy xách nặng. Nếu Thầy muốn tự xách một cái túi thì phải vâng lời Thầy. Luôn đi gần phía sau Thầy, bước thật thảnh thơi, có chánh niệm, không nhìn ngang ngửa, không dừng lại và không nói chuyện với người khác. Lái xe cho Thầy phải để ý xem Thầy có bị nắng chiếu vào mặt hay bị gió thổi vào người không.

Đến tự viện khác, khi Thầy lạy Bụt và lạy Tổ, đừng tự ý sử dụng chuông khánh. Trong khi Thầy ngồi, nên đứng hầu sau lưng Thầy, Thầy cho phép ngồi mới được ngồi. Khi vượt suối khe, phải đi trước cầm gậy dò thử chiều sâu. Khi lên dốc hoặc xuống dốc, phải đi sát Thầy để giúp Thầy vượt qua những chỗ khó bước. Nếu có hẹn với Thầy ở một nơi nào thì phải có mặt ở nơi ấy trước khi Thầy đến. Nếu cùng với các vị Sa di khác đi theo Thầy, thì anh em phải điều hợp với nhau để tạo thành một tăng thân có hòa hợp, có thương yêu và hạnh phúc, làm đối tượng tin cậy cho những ai được tiếp xúc với Thầy và với tăng thân.

Chương IV – Tiếp nhận lời dạy của Thầy

Khi Thầy dạy, lắng lòng nghe mà đừng vội đem tâm phê phán hay kết luận đúng sai, dù có những điều Thầy nói không phù hợp với nhận thức của mình. Nếu nghe với thái độ phê phán và phản ứng ngay trong giờ phút nghe thì có thể ta không hiểu và không tiếp nhận được ý Thầy. Phải học nghe với tâm không thành kiến. Sau vài ba hôm chiêm nghiệm, có thể ta sẽ hiểu được ý Thầy và thấy được những điều Thầy nói là quan trọng và đã phát xuất từ kinh nghiệm và tuệ giác của Thầy. Nếu có những điều gì để thưa trình giúp Thầy có đủ dữ kiện phán xét thì hãy đợi vài ba hôm sau và tìm cách xin gặp Thầy. Trong khi thưa trình, phải giữ thái độ khiêm cung, tĩnh lặng và sử dụng ngôn ngữ hòa kính. Nếu đang có cảm xúc thì không nên mở lời. Phải đợi cho cảm xúc lắng xuống mới nên thưa. Thầy dạy chưa hết câu không được mở lời. Thầy bảo lui thì lui, không nên nấn ná. Đối với các vị có giới phẩm và hạ lạp cao hơn, nên tiếp xử như thế đã đành, mà đối với các vị tuổi tu và kinh nghiệm ít ỏi hơn mình, cũng nên học xử sự như thế để hai bên đều có lợi lạc. Bình tĩnh lắng nghe không thành kiến là một phép thực tập rất quan trọng. Thầy và các bậc trưởng thượng khác không đòi hỏi mình vâng lời không điều kiện, vì vậy mình vẫn có cơ hội để thưa trình, tham vấn và đóng góp ý kiến. Những gì Thầy dạy mà mình chưa hiểu rõ thì phải hỏi lại cho đến khi biết chắc rằng mình đã hiểu rõ, mới chắp tay bái lĩnh và lui ra. Khi muốn hỏi Thầy, phải lựa đúng lúc, đúng chỗ và hỏi những điều có liên quan đến sự tu học của mình và hạnh phúc của tăng thân, tránh nói với mục đích để phô bày sự am tường và kiến thức của mình.

Chương V – Nương tựa y chỉ sư

Khi mới vào tu, ta được đại chúng cho nương tựa nơi một vị y chỉ sư. Vị này thường là một vị giáo thọ ở trong chúng. Vị y chỉ sư là người trực tiếp hướng dẫn sự tu tập của ta, có thể trong suốt thời gian ta làm Sa di hoặc cả thời gian ta làm tân tỳ kheo. Ta tu tập có thành công, có hạnh phúc hay không là tùy thuộc rất nhiều vào liên hệ giữa ta và y chỉ sư. Nếu liên hệ giữa ta và vị y chỉ sư tốt đẹp, thì cũng có nghĩa là ta có cơ hội cắm rễ dễ dàng vào đại chúng. Vị y chỉ sư thường chăm sóc nhiều y chỉ đệ. Mỗi tuần, thường có một giờ ngồi chơi chung giữa y chỉ sư với các y chỉ đệ. Trong giờ họp mặt đó, ta thực tập lắng nghe những lời hướng dẫn của vị y chỉ sư, đồng thời có cơ hội cho ta chia sẻ về sự tu tập của mình với vị y chỉ sư với mục đích là để được hướng dẫn thêm. Ngoài buổi họp mặt hằng tuần, ta nên tìm cơ hội gần gũi vị y chỉ sư để học hỏi. Thỉnh thoảng ta nên viết thư trình bày cho y chỉ sư rõ tình trạng thực tập của mình hoặc cho y chỉ sư xem sổ công phu của ta. Lúc có khó khăn hay những gút mắc trong sự thực tập, ta nên trình bày với vị y chỉ sư để được hướng dẫn cặn kẽ ngay lúc đó mà đừng chờ đợi đến đúng ngày họp mặt trong tuần.

Nếu có cuốn sách nào muốn đọc, ta cần hỏi ý kiến y chỉ sư. Nếu phải viết thư hay tặng quà cho một người khác phái, ta phải trình trước lên y chỉ sư. Khi được một vị khác phái cho quà, ta cũng thưa lên y chỉ sư. Nếu có ý kiến nào muốn trình lên đại chúng, ta cũng nên thưa trước với y chỉ sư. Nếu ta có việc cần rời tu viện, phải đến xin phép và trình cho vị y chỉ sư rõ lý do. Trước khi phải vắng mặt trong một sinh hoạt với đại chúng, ta cũng cần xin phép y chỉ sư. Nếu có ai muốn xin phép đại chúng cùng ta đi hướng dẫn khóa tu, ta nên hỏi ý vị y chỉ sư trước khi xin chúng. Nếu đại chúng đề cử ta sang một tu viện khác để tu tập một thời gian lâu, ta nên hỏi ý kiến vị y chỉ sư rằng nên nương tựa nơi vị giáo thọ nào một khi đến chỗ mới.

Chương VI – Nương tựa tăng thân

Ngoài sắc thân, tức là hình hài của mình, ta còn Phật thân, Pháp thân và Tăng thân của ta. Nhờ công đức tu tập mà ba thân ấy từ từ hiển lộ. Tăng thân là đoàn thể mà ta nương tựa vào để tu học, đó cũng là thân thể của ta. Tăng thân của ta có mặt trong mười phương, nhưng đoàn thể các vị xuất gia đang tu học với ta là tăng thân gần gũi nhất. Quy y Tăng nghĩa là nương tựa nơi đoàn thể tu học của mình, trong đó có Thầy, có các sư anh, sư chị, sư em mình và mình. Đừng vì giận hờn một vài cá nhân trong tăng thân mà thốt ra những lời bất kính đối với Tăng, một trong ba ngôi của Tam bảo.

Phải nguyện hết lòng thực tập nương tựa Tăng. Cái gì xảy ra cho tăng thân cũng là xảy ra cho ta. Ta hãy tập sống hòa hợp trong tăng thân, chia sẻ thì giờ, công việc và sự thực tập với tăng thân. Hãy tập hành xử như một tăng thân mà đừng hành xử như một cá nhân. Cần phải tin tưởng ở tuệ giác của tăng thân, bởi vì cái biết và cái thấy của tăng thân lớn hơn cái biết và cái thấy của mỗi người trong đại chúng. Nên biết rằng Thầy và đại chúng cũng cần đến cái thấy của mình và mình cũng rất cần đến tuệ giác của đại chúng. Chính Thầy mình cũng nương tựa vào cái thấy của tăng thân để quyết định những gì cần quyết định. Phải tin tưởng vào sự giáo huấn và soi sáng của tăng thân và phải vui lòng nhận chịu tất cả những quyết định của tăng thân về ngày giờ xuất gia, ngày giờ thọ giới lớn, ngày truyền đăng đắc pháp, và những quyết định khác về cư trú, thực tập và hành đạo của mình. Ta có quyền và có bổn phận trình bày cho Thầy và cho tăng thân biết những gì ta biết và thấy về ta và về những thành phần khác của tăng thân, nhưng ta cũng nguyện sẽ chấp nhận mọi quyết định của tăng thân mà không oán trách và giận hờn. Luôn lắng nghe những lời cảnh sách và giáo giới của tăng thân. Mỗi khi được ai nhắc nhở thì đều chắp tay tiếp nhận mà không tìm cách minh oan, oán trách hoặc giận hờn.

Phải nguyện đi theo tăng thân với tinh thần của một dòng sông, không bao giờ chịu làm hạt nước nhỏ. Ý thức rất rõ, chỉ có dòng sông mới có thể vượt qua những trở ngại trên đường đi để thảnh thơi về tới đại dương mênh mông. Đừng ham đi lập am cốc hay chùa riêng để sống một mình một cõi. Không được có sở hữu riêng: trương mục ngân hàng, xe hơi, xe máy, máy vi tính cầm tay, điện thoại di động, địa chỉ điện thư (e-mail) v.v… Không buôn bán, làm lụng để kiếm tiền riêng. Càng cắm rễ sâu vào tăng thân chừng nào thì nền tảng của sự thực tập của mình càng vững chắc chừng ấy.

Chương VII – Sinh hoạt với chúng

Nghe chuông tập chúng, nên khởi sự đến nơi hẹn ngay, không được chần chừ. Sử dụng phép thiền hành trong khi đi. Phải tôn trọng thời khóa và tham dự vào tất cả những sinh hoạt của đại chúng. Trong trường hợp phải vắng mặt, nên xin phép.

Trong những buổi sinh hoạt như pháp đàm, thiền trà, làm mới, v.v… tuy không cần ngồi theo thứ tự tuổi đạo, nhưng theo nguyên tắc vào trước ngồi hàng trước, để không làm cản trở người đến sau và không làm tản mát năng lượng buổi sinh hoạt. Không nên dành chỗ ngồi mà cĩng không nên ngồi tách riêng ra một nơi. Ngồi xuống rồi, nên lập tức nhiếp tâm theo dõi hơi thở, giữ thân cho ngay thẳng. Không được nói cười lớn tiếng, đùa bỡn qua lại, nhái giọng điệu của người khác, chế nhạo hoặc nói chuyện đẩy đưa. Chỉ khi nào cần nói thì mới nói, khi nói không khoa chân, múa tay hay chỉ tay vào mặt người kia. Trước khi nói, cung kính chắp tay xá. Tránh dùng chữ tôi, nên xưng con. Nên nói ra những điểm tốt đẹp, đừng nói đến những điểm tiêu cực của người khác. Tập nói năng nhỏ nhẹ, khoan thai. Đừng bỏ lửng nửa chừng câu nói. Trong khi nói chuyện, không liếc mắt nhìn quanh, chớp mắt lia lịa hay le lưỡi liếm môi. Không thề thốt, dọa nạt, hù nhát hay giấu đồ đạc của người khác. Không tụ năm họp ba nói những chuyện không có ích lợi hoặc nhắc tới chuyện thị phi của người khác. Không nói chuyện xì xào trong giờ thực tập im lặng làm giảm năng lượng tu tập của tăng thân. Không khạc nhổ, hỉ mũi, nôn ọe lớn tiếng ở bất cứ nơi nào. Phải sử dụng khăn túi và phải hướng vào góc tường nếu cần làm những việc ấy. Khi ngáp hoặc ho phải đưa tay che miệng. Không xướng tán kinh kệ hoặc ca hát không đúng lúc đúng chỗ để tránh làm động chúng. Được mời nước, bánh hay trao cho vật gì, trước phải chắp tay xá rồi mới nhận. Phải giữ bình tĩnh khi gặp chuyện không vừa ý. Đừng nuôi súc vật với mục đích tiêu khiển hoặc bán buôn.

Trong các buổi họp chúng, luôn luôn giữ thái độ khiêm cung. Chỉ sử dụng ái ngữ và lắng nghe để buổi họp đưa lại kết quả tốt đẹp nhất trong tinh thần ý hòa đồng duyệt và kiến hòa đồng giải. Lắng nghe ý kiến của mọi người. Trong khi lắng nghe, nên nhìn người đang chia sẻ mà đừng nhắm mắt lim dim. Phát biểu ý kiến một cách từ hòa, nhã nhặn và không mở lời nếu nhận thấy trong lòng có tâm hành bực bội. Tránh tạo ra thế tam giác, nghĩa là đừng theo phe một người để chống lại một người khác. Phải tìm mọi cách để đưa hai người lại với nhau. Nếu có lỡ tạo ra sự căng thẳng trong buổi họp, phải lập tức sám hối tại chỗ để trả lại cho đại chúng không khí ý hòa đồng duyệt. Hết lòng chia sẻ ý kiến của mình và sau khi rời buổi họp, không tụm năm họp ba để phê bình và chỉ trích.

Phải học nhìn những người xuất gia đệ tử của Thầy mình là sư anh, sư chị và sư em của mình, và phải thiết lập liên hệ anh em một cách chân thành với những vị ấy. Dù người sư anh hay sư chị của mình có thể còn có những yếu kém, người ấy vẫn đích thực là sư anh hay sư chị của mình. Không được tự bảo: ‘‘Người ấy có hơn gì tôi đâu mà làm sư anh hay sư chị của tôi’’ hoặc ‘‘Người ấy đáng tuổi con tôi, kinh nghiệm có là bao mà dạy tôi’’. Nếu mình có may mắn thành công hơn các vị ấy trên đường tu học thì phải tìm cách giúp đỡ các vị ấy một cách khiêm cung và khéo léo. Mình có quyền chơi thân với một người bạn tu, nhưng phải biết bắt đầu từ liên hệ ấy để phát triển sự thân tình rộng ra với các vị khác, bắt đầu từ các vị dễ thương rồi tiến dần đến các vị khó tính hơn, cho đến khi mình có thể sống hài hòa với tất cả mọi người trong đại chúng. Chơi thân với một người bạn đồng tu không có nghĩa là vướng mắc vào nhau và đi tới luyến ái không lành mạnh, dù đó là trường hợp nam với nam, nữ với nữ. Tình thương đích thực trong đạo Bụt được làm bằng chất liệu Từ, Bi, Hỷ và Xả. Xả có nghĩa là bình đẳng và không vướng mắc, không kỳ thị. Đây là công trình xây dựng tăng thân rất cần thiết cho hạnh phúc và sự thành đạt của một đời tu.

Chương VIII – Làm việc với tăng thân

Phải vâng theo sự sắp đặt của vị tri sự. Nhận việc xong phải làm với tất cả tâm ý và khả năng mình. Nên thực tập chánh niệm trong khi chấp tác. Nên duy trì sự thảnh thơi và an lạc trong khi làm việc, đừng để công việc hay những suy nghĩ miên man kéo đi. Sắp xếp thế nào để có thể làm xong những công việc đó một cách thoải mái, không cần gấp gáp. Và khi đầu óc bắt đầu lo lắng về những công việc phải làm sau đó, thì nên lập tức quay trở về sống trong hiện tại. Không được chạy hay đi gấp gáp. Luôn luôn đi theo lối thiền hành, tỏ lộ sự vững chãi và thảnh thơi, dù khoảng cách chỉ là vài ba thước. Phải bảo quản dụng cụ làm việc, và sử dụng đúng chức năng của chúng. Lấy dụng cụ từ đâu thì phải trả về đó, không vứt bỏ ở nơi chấp tác. Nghe gọi tên mình, phải niệm Bụt đáp lại, hoặc trả lời: thưa có con đây.

Nên xem công việc là một cơ hội để tu tạo phước đức và phụng sự tăng bảo, nhờ đó mà ta chấp tác với một niềm vui. Không được ngồi không trong khi đại chúng làm việc. Không lánh công việc nặng tìm công việc nhẹ, không sanh nạnh hay so đo công việc. Hãy nhận lãnh công việc tùy theo sức lực và tài năng mình. Nhận một trách nhiệm đại chúng giao phó, như tri xa, tri viên, tri khố… hãy đảm trách công việc hết lòng và đừng cho đó là một quyền hành. Phải thấy rằng mình chỉ đang đại diện tăng thân để đảm trách công việc, vì vậy phải tuân theo ‎ý chúng mà không tự tiện làm theo ‎ý riêng. Không lấy vật thường trụ làm của riêng. Không sử dụng vật liệu của chúng tăng cho riêng mình hoặc đem cho người khác mượn mà không xin phép. Không sử dụng tài vật của thường trụ một cách phung phí hoặc trái với ý nguyện của chúng tăng. Nếu chưa có kinh nghiệm, nên tìm học thêm từ những vị đã đảm trách công việc đó trước mình.

Làm việc chung với tăng thân cũng là một cơ hội để hòa mình trong tăng thân, học hỏi với tăng thân và tạo thêm những mối thiện cảm giữa mình với những thành phần khác của tăng thân. Nên phối hợp công tác với những vị khác trong tinh thần tương thân tương trợ, tránh làm việc một mình hoặc để bạn đồng tu làm việc một mình. Mỗi người có kinh nghiệm và cách thức làm việc riêng, đừng ép người khác phải làm theo giống hệt cách mình làm, tuy nhiên có thể chia sẻ với nhau cách thức làm việc để cùng được học hỏi từ kinh nghiệm của nhau.

Đừng đánh giá người khác qua công việc. Phẩm chất tu học của người tu phải được xem quan trọng hơn là số lượng công tác người ấy có thể làm. Đóng góp quan trọng nhất cho tăng thân là uy nghi, đức độ, an lạc và sự chuyển hóa của mình. Được Thầy hoặc tăng thân giao cho một công tác đặc biệt, đừng nên cho công việc mình quan trọng hơn công việc của người khác. Nên biết tất cả các loại công việc được làm để phục vụ tăng thân đều quan trọng như nhau. Nên nhớ rằng, nhờ những thành phần khác của tăng thân đang phụ trách những công việc khác cho nên mình mới có thể làm thành tựu được công tác mình đang làm, và như vậy công tác đặc biệt của mình cũng đang do tăng thân thành tựu. Trong những giờ rảnh rỗi hoặc khi công việc của mình đã sớm hoàn tất, nên nghĩ đến những bạn đồng tu khác bằng cách giúp đỡ hoặc chia sẻ kinh nghiệm. Đây là phép thực tập đồng sự. Đặt mình vào vị trí cũng như công việc mà người kia đang gánh vác, mình sẽ hiểu và dễ cảm thông với những thuận lợi và khó khăn mà người kia đang gặp phải. Người thực tập đồng sự sẽ có nhiều truyền thông tốt trong chúng. Sự thực tập này cũng giúp ta xả bỏ các mặc cảm tự ti hay tự tôn. Đây cũng là sự thực tập tùy hỷ công đức của Bồ Tát Phổ Hiền.

Mỗi khi được giao phó một công tác đặc biệt, không được lấy cớ vì công tác đó mà bỏ những giờ sinh hoạt với đại chúng. Nếu công tác có tính cách cấp bách, phải thưa trình với đại chúng, xin một hoặc hai ngày được vắng mặt trong những sinh hoạt khác để có thể hoàn tất cho kịp thời. Thời gian này không được kéo dài quá ba hôm. Nếu công tác không có tính cách cấp bách thì nên xin chỉ được làm mỗi ngày một hai giờ để mình còn có thể tham dự những sinh hoạt khác với tăng thân như thiền tọa, thiền hành, thọ trai, pháp đàm, pháp thoại… Nếu được giao công tác nhiều hơn sức mình có thể cáng đáng, thì phải biết thưa trình lại để công tác ấy cũng được đại chúng giao bớt cho một người thứ hai, đừng vì sợ phiền lòng mà lãnh lấy hết công việc để rồi lo âu, mệt mỏi và chán nản. Nên biết sử dụng việc chấp tác như những phương tiện tu tập và cúng dường tăng để bồi dưỡng phước đức. Đừng tìm sự trú ẩn và quên lãng trong công việc. Đừng vì say mê công việc mà đánh mất liên hệ tốt giữa mình và các thành phần khác trong tăng thân. Đừng đánh mất mình trong công việc mà mình tưởng là Phật sự, nhưng bản chất là sự tìm kiếm tiếng khen, địa vị và lợi lộc, dù đó là việc xây chùa, đúc tượng, tổ chức, lễ lược hay tổ chức khóa tu.

Làm trách vụ hương đăng, dâng hoa cúng Bụt, chỉ nên dâng hoa thật tươi đã nở tròn hoặc còn hàm tiếu. Đừng cắt bông búp. Hoa héo thay ra phải để vào nơi đã được quy định, không nên vứt bỏ bừa bãi. Chân nhang cũng thế, chỉ để lại một cây chân nhang ngay giữa bát nhang. Cắm nhang nên cầm bằng hai tay, hoặc nếu cầm một tay thì bàn tay kia phải đặt trên cánh tay của bàn tay này. Ý nghĩa là đặt hết toàn diện thân, khẩu và ý vào động tác cắm nhang. Mở cửa thiền đường và chánh điện cũng phải như thế. Cầm chổi quét thiền đường hay Phật đường không nên hất chổi để bụi bay lên. Cuối mỗi lát chổi, giữ chổi cao hơn mặt đất một chút và rảy nhẹ cho bụi rơi xuống. Nếu cần đốt lò vào mùa lạnh, nên sử dụng nhiên liệu có chừng mực, không nên để phòng quá nóng, tối đa là hai mươi độ. Chất củi cho gọn gàng và sạch sẽ. Đốt lò đừng để khói xông vào phòng. Tránh dùng củi mục vì sẽ tàn hại nhiều loại côn trùng.

Nhặt được của rơi, nên đem đến cho vị tri sự.

Chương IX – Bảo vệ sinh môi

Tình trạng trái đất bị hâm nóng đang đưa đến những nguy cơ ngập lụt tất cả các thành phố ven biển, làm chết hàng trăm triệu người và làm phát sinh nhiều bệnh tật mới và những thiên tai khủng khiếp khác. Vì vậy vị Sa di phải sống chánh niệm và luôn mở lòng học hỏi để biết cách bảo vệ sinh môi trong đời sống hằng ngày. Bảo vệ sinh môi là bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Đây chính thật là sự thực tập từ bi.

Không đốt phá cây rừng. Dùng điện nước phải hết sức tiết kiệm. Chỉ nên dùng đèn khi học hoặc lúc trời nhá nhem. Hạn chế dùng máy giặt tối đa. Bất đắc dĩ phải dùng máy thì nên giặt khi quần áo đầy cối. Nhớ tắt máy vi tính hoặc các máy khác sau khi sử dụng. Nên dùng loại bóng đèn tiết kiệm năng lượng. Rời phòng xá phải nhớ tắt đèn. Nếu là đèn nê-ông hay những bóng đèn tiết kiệm năng lượng thì chỉ nên tắt nếu không dùng trong vòng ít nhất là 45 phút. Khi phòng mở máy sưởi, không mở cửa sổ để không phí điện hoặc hơi đốt. Nếu đi vắng, nên hạ sưởi. Chỉ nên tắt sưởi nếu không dùng trên 24 giờ đồng hồ. Nếu đã có nước sôi trong nhà ăn cho đại chúng, đừng nấu nước riêng với bình nấu cá nhân. Hạn chế việc đi lại bằng xe hơi, dồn nhiều chuyến vào một chuyến đi để tiết kiệm xăng. Nên ưu tiên dùng xe hơi chạy bằng điện, bằng dầu hữu cơ hoặc bằng máy nửa điện nửa xăng (hybrid) để giảm bớt sự phun ra quá nhiều chất CO2. Mỗi tuần, cùng với toàn thể đại chúng, nên có một ngày không dùng xe máy hay xe hơi, một ngày không dùng điện và một ngày không dùng nước máy. Thuốc lau chùi, xà phòng giặt, giấy vệ sinh, giấy viết thư, v.v… nên dùng loại hữu cơ để các thứ này có thể dễ dàng chuyển hóa trở lại. Trong vườn chùa, nên trồng rau trái theo phương thức hữu cơ, nghĩa là không sử dụng thuốc độc trừ sâu và phân bón hóa học. Ra chợ, nên mua hàng để yểm trợ cho những nông dân hoặc những người bán hàng địa phương sản xuất thực phẩm theo đường hướng này. Nên tìm hiểu để biết rõ về các doanh nghiệp để tránh làm giàu cho những nhóm người đang làm nhiễm ô môi trường. Tránh sử dụng chai, hộp và bọc làm bằng chất ni-lông.

Trước tình trạng trái đất đang bị tràn ngập bởi rác, ta không bỏ rác bừa bãi. Tránh mua các hàng hóa trong hộp hoặc bọc nhỏ để không xả rác nhiều. Chuyển hóa tất cả những thứ rác nào có thể chuyển hóa được như giấy, nhựa, hộp thiếc, thủy tinh, dầu ăn đã chiên nhiều lần, dầu từ máy móc, pin, gỗ cũ, cành lá, v.v… Trước khi đem đến trung tâm chuyển hóa, ta phải phân loại kỹ lưỡng. Giấy màu, giấy dầu, giấy báo, giấy có chất nhôm và bìa cứng, mỗi loại đều phải để riêng và cột lại thành từng bó. Các chai nhựa phải được súc sạch, tháo nắp để riêng và đạp dẹp để không chiếm chỗ. Các hộp bằng kim loại cũng phải được rửa sạch thì mới chuyển hóa được.

Sau khi xắt gọt và lặt rau, các loại vỏ trái cây, củ, cuống rau và lá hư đều được cắt nhỏ để dùng làm phân xanh. Trong trường hợp chưa làm kịp, nên đậy lại để tránh ruồi muỗi. Cỏ, lá của các loại rau từ vườn rau là một loại rác thanh, nhẹ và dễ thối, vì vậy ta có thể để riêng một chỗ, trộn thêm với rơm cho nóng để rác mau rục và thành phân xanh. Các cành và lá khô rục lâu hơn, vì vậy nên để riêng. Khi đem rác rau cải ra thùng đựng phân xanh, đổ vào thùng một cách nhẹ nhàng, cào cho bằng phẳng rồi lấy cỏ khô, rơm khô hay mạt cưa đổ lên khoảng 3-5 phân để tránh ruồi muỗi. Đậy nắp thùng nhẹ nhàng và thật kỹ để gió mưa không lọt vào được. Không nên dùng trúc, tre và nhánh sen để làm phân xanh vì những thứ này cần nhiều năm tháng mới rục. Cũng không nên dùng các thức ăn chín để tránh làm phát sanh thêm chuột và rắn. Nơi làm phân xanh phải được quét dọn sạch sẽ mỗi ngày. Thau đựng rau làm phân xanh phải được rửa sạch và úp xuống sau khi dùng.

Chương X – Đi, Đứng, Nằm và Ngồi

Trong bốn tư thế đi, đứng, nằm và ngồi, chánh niệm của người Sa di phải được hiển lộ. Khi đi, mỗi bước chân đều phải có chánh niệm. Nên học phối hợp hơi thở với bước chân. Đi như thế gọi là thực tập thiền đi, mỗi bước chân có thể đem lại cho ta sự an lạc, vững chãi và thảnh thơi. Đừng đi hấp tấp như bị ma đuổi. Đừng chen lấn hoặc chạy, trừ khi có nguy biến. Đi như thế nào để ta có cảm giác là mỗi bước chân ta đều như bước ở Tịnh độ. Đi ở đâu mà có vững chãi, thảnh thơi và an lạc tức là đang đi trong Tịnh độ, bởi vì kinh dạy Tịnh độ nằm trong tâm người. Không được vừa đi vừa nói chuyện, cười giỡn, huýt gió, ca hát, gọi từ xa. Không choàng cổ hoặc choàng ngang hông mà đi. Không được vừa đi vừa nhai thức ăn, xỉa răng hoặc nói chuyện điện thoại. Đừng vừa đi vừa xá chào, búng tay, gãi, đánh đồng xa, lắc lư chạy nhảy, ngẩng đầu lên trời. Đừng vừa đi vừa chỉnh sửa pháp phục. Phải nhìn thẳng mà không láo liên. Không lết dép guốc, bước chân quá dài hoặc nện gót xuống nền. Không vắt y áo trên vai mà đi. Không bước qua thức ăn thức uống hoặc kinh sách. Không đi, đứng hoặc ngồi một mình với một người khác phái ở chỗ khuất. Đừng đi, đứng hay ngồi với một đám người đang uống rượu, ăn thịt, cờ bạc, chửi mắng, cợt nhả, nói xấu kẻ khác hay kể những câu chuyện tục tĩu hoặc phi lễ.

Khi đứng, phải đứng thẳng, đừng chống tay hay gác tay lên bàn, đừng ưỡn người hoặc chồm ra phía trước. Đừng nghiêng mình dựa vào tường hoặc thân cây, dù là đang đứng sắp hàng chờ mua vé hoặc chờ lên xe. Đừng chắp tay sau lưng hoặc chống nạnh. Muốn lượm vật gì, ngồi thấp xuống lượm, đừng đứng và gập người xuống. Không vươn vai hoặc vặn người nơi có người qua lại. Đừng đứng ở nơi có những cảnh tượng ồn ào, rối loạn hoặc phi lễ.

Ngồi đâu, dù là trên cỏ, trên một phiến đá, trên một chiếc rễ cây cũng phải ngồi thanh thản như ngồi dưới cội bồ đề. Dù là ngồi chơi, cũng phải giữ lưng cho thẳng và hai chân khép lại, trừ khi ngồi theo tư thế hoa sen. Trước khi ngồi xuống, kéo vạt áo dài lên một cách nhẹ nhàng, không quá cao mà cũng không quá chặt. Ngồi trên ghế, đừng để tà áo sau phết sàn nhà. Trong tư thế hoa sen, nhớ phủ tà áo lên cho thẳng thắn và kín đáo. Đừng ngồi duỗi chân, gác chân lên cao hoặc tréo chân lên nhau. Không ngồi ngả nghiêng hoặc dựa vào tường. Không ngồi lắc lư, rung đùi, đong đưa hai chân hay nhịp chân. Không nên gõ nhịp trên đùi hay trên bàn với các ngón tay. Tránh ngồi chống hai tay hay hai cùi chỏ lên bàn. Đừng ngồi chò hõ (xổm). Không vào ngồi trong nhà hàng, quán rượu hoặc quán cà phê. Trước khi rời chỗ ngồi, nhớ xếp ghế hoặc bồ đoàn lại cho ngay ngắn.

Chỉ nên nằm trong phòng dành riêng cho mình. Chỉ nên nằm khi thật sự cần nghỉ ngơi hay buông thư. Đừng nằm chỗ có người qua lại. Nên tập nằm nghiêng bên hông phải. Đừng nằm chung với người khác, nhất là cư sĩ. Đừng ngủ trong phòng riêng của người cư sĩ khác phái, trừ trường hợp bệnh nặng và được tăng thân cho phép.

Chương XI – Vào chùa, tháp, chánh điện, thiền đường

Vào chùa phải đi vào cửa trái hoặc cửa phải, tránh đi vào cửa giữa. Theo dõi hơi thở, bước đi chánh niệm, không nói chuyện. Để nón, dù, khăn quàng cổ, áo khoác ngoài và giày dép ở chỗ đã được quy định. Guốc dép cần được xếp thật nhẹ nhàng và ngay ngắn trước khi đi vào chánh điện. Không nên đạp lên giày dép của người khác, dầu là đi chân không. Bước vào tháp miếu, chánh điện hoặc thiền đường, chắp tay hướng về tháp hoặc bàn thờ Bụt và Tổ để xá. Không nên đội mũ hoặc trùm khăn. Phải đi vòng từ trái sang phải. Tránh việc hỉ mũi, ho, ợ và nhổ nước bọt, dù là trong khăn. Đừng ngồi duỗi chân hoặc quay lưng về phía bàn thờ. Chiêm ngưỡng tôn tượng và tham khảo câu đối hoặc văn bia một cách im lặng. Không đối thoại ồn ào hoặc khoe khoang kiến thức của mình về lịch sử tự viện, tôn tượng, tổ sư và pháp khí. Trong thiền đường, đến chỗ ngồi nên đứng ngay thẳng trước tọa cụ, chắp tay xá trước khi ngồi xuống. Dùng bồ đoàn và tọa cụ xong rồi nên sửa lại cho ngay ngắn trước khi rời chỗ. Nên quỳ xuống và dùng tay sửa bồ đoàn và tọa cụ, đừng bao giờ dùng chân. Tuyệt đối không tự tiện xê dịch hoặc lấy đi những pháp khí. Không được tự tiện đem bồ đoàn hoặc kinh sách ra khỏi thiền đường hoặc chánh điện.

Chương XII – Lễ lạy, tụng kinh

Không nên đứng ở khoảng giữa trước bàn thờ mà lễ lạy, vì đó là chỗ của vị thủ tọa. Khi có người đang lạy, không đi ngang qua trước mặt người ấy. Khi muốn thực tập lễ lạy, nên vào sớm trước khi có chuông báo giờ tọa thiền của chúng, hoặc sau khi đại chúng đã xong buổi công phu để tránh gây trở ngại cho những người khác đang đi lại  trong thiền đường. Chắp tay phải ngay ngắn, các ngón tay không so le, tay không cầm vật gì. Nếu quán tưởng hai bàn tay là búp sen, thì có thể có chỗ trống giữa lòng hai bàn tay. Không đụng các ngón tay vào cằm hoặc vào lỗ mũi. Thở nhẹ và sâu ba hơi rồi quán tưởng trước khi lạy. Khi lạy, đưa búp sen hai tay lên ngang trán, rồi hạ xuống ngang ngực trước khi xòe hai tay sang hai bên để lạy xuống. Đưa tay lên ngang trán và đi ngang qua bình diện trái tim ngụ ý đem cả tim và óc mình mà lễ lạy. Khi lạy xuống, năm vóc phải thực sự sát đất. Trong tư thế năm vóc sát đất, ngửa hai bàn tay ra hai bên đầu, tỏ ý trình bày hết con người thật của mình lên Bụt, không dám dấu diếm một điều gì. Lạy xuống, phải buông bỏ hoàn toàn ý niệm về ngã. Mình không là gì cả, mình không có gì cả, tất cả cơ thể, sức khỏe, tài năng, thông minh, kiến thức của mình đều là những gì của tổ tiên tâm linh và huyết thống trao truyền lại. Lạy như thế nào mà hòa nhập được vào dòng sống của tổ tiên và các thế hệ hậu lai, để không thấy mình còn một cái ta riêng rẽ và khổ đau. Trong tư thế năm vóc sát đất, nên thở thật thoải mái ba lần, để cảm thấy thảnh thơi, nhẹ nhàng và không lo lắng gì trong giờ phút ấy. Đây là một phép thực tập quay về nương tựa nơi dòng sống bất diệt của tổ tiên.

Nếu Phật đường đông người quá thì có thể chọn những lúc vắng người để lễ lạy. Nên thực tập năm cái lạy, ba cái lạy hoặc Sám pháp địa xúc mỗi ngày, vì lạy như thế giúp ta chuyển hóa khổ đau và trị liệu tâm lý cô đơn và giải trừ những mặc cảm.

Tụng kinh, nên để tâm ý vào lời kinh, đừng nên chỉ chú trọng vào kỹ thuật tán tụng và âm điệu. Niệm Bụt đừng niệm suông bằng miệng, phải tiếp xúc với nội dung đại từ, đại bi, đại trí và đại nguyện của Bụt. Nên biết sử dụng mười danh hiệu Bụt để làm sống dậy trong tâm những chất liệu ấy của Bụt. Xướng tụng không nên bắt giọng quá cao hay quá thấp.

Không nên sử dụng bùa phép, xem tướng, bói quẻ, chủ trương đốt vàng mã và tiền giấy, không cúng giải trừ sao hạn, thực tập đồng bóng, trừ tà yếm quỷ. Không nên biến sự thực tập hộ niệm thành nghề cúng bái, đưa ra giá cả cho những đám tang hoặc những buổi cầu siêu.

Chương XIII – Ngồi thiền

Nghe chuông báo giờ ngồi thiền, phải lập tức ngưng mọi công việc và xem như giờ thiền tập bắt đầu ngay từ lúc ấy. Theo dõi hơi thở chánh niệm trong từng cử chỉ và bước chân trong khi đi đến thiền đường. Ngồi thiền là cơ hội để thu nhiếp thân tâm, chế tác chất liệu an lạc, vững chãi, thảnh thơi và nuôi lớn niệm, định và tuệ. Ngồi thiền với đại chúng, ta có thể thừa hưởng năng lượng tập thể và ta sẽ thực tập dễ dàng hơn.

Chọn cho mình một bồ đoàn phù hợp với cơ thể mình. Trước khi ngồi xuống, chắp tay xá và quán tưởng theo bài kệ ngồi thiền:Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề. Vững thân chánh niệm không hề lãng xao. Ngồi xuống rồi, lập tức khởi sự điều chỉnh thế ngồi và hơi thở, đừng đợi người khác, cũng đừng đợi tiếng chuông. Ngồi lưng thật thẳng mà không cứng. Đầu ngay ngắn, không cúi xuống mà cũng không ngửa ra. Đầu và sống lưng làm thành một đường thẳng. Bàn tay phải đặt nhẹ lên bàn tay trái. Buông thư tất cả các bắp thịt, từ các bắp thịt trên mặt xuống đến các bắp thịt trên vai, lưng, cánh tay, bụng và chân. Ngồi thật thoải mái, thật buông thư, đừng gò bó, đừng gồng mình. Thế ngồi dù hoa sen hay nửa hoa sen thì hai đầu gối cũng phải sát đất, để giúp thế ngồi vững vàng. Mắt có thể hoặc nhắm hoặc mở hé, nhìn xuống chừng một thước phía trước mặt. Ta nắm lấy hơi thở vào và hơi thở ra để điều phục thân và tâm. Trong suốt buổi ngồi thiền, sử dụng hơi thở chánh niệm, ta đưa tâm về lại với thân, tạo ra trạng thái thân tâm nhất như, duy trì sự tĩnh lặng, sáng suốt và tỉnh táo. Với hơi thở chánh niệm, ta nhận diện, làm lắng dịu lại những cảm thọ hoặc cảm xúc trong ta và làm phát sinh cảm thọ hỷ lạc. Thực tập những bài có công hiệu nuôi dưỡng an lạc thân tâm trước; khi thân và tâm đã an tịnh, ta có thể sử dụng những đề mục thích hợp để quán chiếu. Quán chiếu là nhìn sâu vào thực tại để thấy. Cái thấy này có tác dụng cởi mở và trị liệu cho thân và tâm. Có rất nhiều phép quán chiếu, nhưng những chìa khoá căn bản để mở cửa thực tại vẫn là vô thường, vô ngã, tương tức, duyên sinh và niết bàn. Nếu có đau nhức thì cũng có quyền sửa lại thế ngồi, miễn là động tác được đặt trong chánh niệm và đừng tạo ra tiếng động để không làm động tâm người ngồi bên cạnh. Tuyệt đối tuân theo hiệu lệnh của chuông khánh. Nếu đến thiền đường trễ, sau tiếng chuông khởi đầu buổi thiền tọa thì đừng vào. Hãy thực tập thiền đi ngoài trời, đợi cho đến khi có chuông xả thiền thì mới nên vào.

Nếu mình làm duy na, duyệt chúng hay hướng dẫn thiền ngồi, phải nắm vững kỹ thuật hướng dẫn và tới sớm để chuẩn bị. Làm thiền hướng dẫn, phải hướng dẫn những bài thiền tập một cách rõ ràng, rành mạch, và đừng để cho tiếng chuông nhỏ quá hoặc chát quá. Nên nhớ hạnh phúc và sự thành công của buổi thiền tập tùy thuộc rất nhiều ở người hướng dẫn.

Xả thiền cần nhẹ nhàng, không nên thô tháo. Trước tiên, diêu động thân về phía trái rồi sang phía phải. Từ từ tháo chân ra và xoa bóp nhẹ nhàng cho máu huyết lưu thông. Đừng bẻ đốt xương ngón tay hoặc bẻ người kêu răng rắc. Xát nhẹ hai bàn tay rồi ấp lên hai mắt cho có sức ấm. Dùng tay này xoa bóp tay kia trước khi dùng cả hai tay xoa bóp các bắp thịt trên mặt, vai và bắp chân. Luôn luôn thực tập hơi thở ý thức trong khi làm các việc này.

Sau giờ ngồi thiền, ta thực tập đi kinh hành hoặc tụng kinh. Kinh hành là đi chậm, mỗi bước chân phối hợp với một hơi thở vào hay một hơi thở ra. Ta đi thật tự nhiên và duy trì được khoảng cách giữa ta và người đi trước như lúc ban đầu. Đừng nhìn qua nhìn lại. Chú tâm tới sự xúc chạm giữa bàn chân và sàn chánh điện, đi an lạc, thảnh thơi như bước trên Tịnh độ không khác. Mỗi bước chân phải đem lại thêm chất liệu chánh niệm, vững chãi và thảnh thơi vào cơ thể và vào tâm thức.

Chương XIV – Đi thiền

Là người xuất gia, mỗi khi cần cất bước chân đi, ta nên thực tập thiền đi. Ta phối hợp hơi thở với bước chân. Thở vào, có thể bước hai hoặc ba bước, tùy theo nhu yếu của hai lá phổi. Thở ra cũng thế. Để tâm ý xuống lòng bàn chân, đi từng bước vững chãi, thực sự tiếp xúc với mặt đât. Ta đi thật tự nhiên; chánh niệm giúp ta đi an lạc và thảnh thơi như đi trong Tịnh độ. Ta có thể đi thiền nhiều lần trong một ngày, với tăng thân hay đi một mình.

Hễ cần di chuyển, dù chỉ vài ba thước, ta cũng sử dụng phép đi thiền. Thiền đi tập cho ta sống sâu sắc từng giây phút của đời sống hằng ngày. Khi đi, ta không nói. Nếu cần nói gì, ta hãy dừng lại. Khi đi, ta đầu tư một trăm phần trăm thân tâm vào bước chân đi, khi nói cũng vậy. Như thế ta mới chế tác được niệm và định. Đi thiền, ta có thể sử dụng bài kệ ‘‘Đã về, đã tới, bây giờ, ở đây’’. Nếu khi thở vào ta bước hai bước thì ta thầm niệm: ‘‘Đã về, đã về’’. Nếu khi thở ra ta bước ba bước thì ta thầm niệm: ‘‘Đã tới, đã tới, đã tới,’’ v.v.. Bài kệ sẽ giúp ta an trú trong chánh niệm. Mỗi khi ta có buồn phiền, lo lắng hoặc hờn tủi, đi thiền giúp ta buông bỏ những năng lượng tiêu cực đó và ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và an vui hơn sau vài mươi phút thực tập. Khi vô sự, đi thiền giúp ta nuôi dưỡng niềm vui cũng như năng lực của niệm, định và tuệ rất cần thiết để ta đạt tới vững chãi và thảnh thơi.

Chương XV – Nghe pháp thoại

Nghe chuông báo giờ pháp thoại phải đến pháp đường ngay, đừng bao giờ vào pháp đường sau vị pháp sư. Giáo pháp của đức Thế Tôn được ví như một cơn mưa, có thể giúp cho những hạt giống tuệ giác và từ bi nằm trong đất tâm của ta thấm nhuận, nẩy mầm và lớn lên. Vì vậy trong khi nghe giảng pháp, ta phải ngồi cho thẳng với tất cả sự cung kính, giống như khi ta lễ Bụt, tụng kinh hoặc ngồi thiền. Không được ăn uống trong lúc nghe pháp thoại. Không được nói chuyện với người ngồi bên cạnh và cũng đừng viết giấy chuyền tay cho người khác, trừ khi đó là việc cấp tốc có liên hệ tới sự an vui của đại chúng. Ta chớ nên đứng dậy, di chuyển hoặc gây ra những tiếng động. Tránh việc nửa chừng pháp thoại bỏ ra ngoài; nên đi nhà vệ sinh trước khi vào pháp đường.

Nghe pháp thoại không nên chỉ nghe với trí năng mà phải biết sử dụng tâm không so sánh để nghe. Nghe pháp thoại không phải là để chứa chất thêm kiến thức về Phật pháp, mà là để có cơ hội cho những lời giảng dạy đi thẳng vào chiều sâu của tâm thức, đánh động được những hạt giống trí tuệ và từ bi chôn vùi trong chiều sâu ấy; cũng như mưa xuân thấm được vào lòng đất và làm cho các hạt giống có sẵn có dịp nẩy mầm. Nếu nghe pháp thoại mà chỉ dùng trí năng so sánh những điều đang nghe với những điều đã học thì mưa pháp không thấm sâu được vào đất tâm. Nên học nghe với tâm không so sánh, không phán xét và với tâm không thành kiến. Có những người giác ngộ trong khi nghe pháp, đó là nhờ họ đã nghe với phương pháp ấy. Nếu đã có máy thu thanh đang ghi mà còn cố gắng ghi chép, thì ta sẽ đánh mất ít nhiều định lực của ta và mất cơ hội tiếp nhận trực tiếp những lời khai thị quan trọng khác của vị pháp sư. Nếu cần ghi chép thì chỉ nên ghi chép rất ít, vài từ ngữ và vài ý tứ quan trọng mà thôi.

Chương XVI – Học kinh và đọc sách

Ngoài những kinh được học chung với chúng, nếu muốn học thêm kinh nào cũng hỏi ý kiến của Thầy hay vị y chỉ sư. Vấn đề không phải là học cho thật nhiều kinh, mà là được học những kinh căn bản có liên hệ trực tiếp đến sự thực tập giới định tuệ trong đời sống hàng ngày. Các kinh căn bản như Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Kinh Niệm Xứ, Kinh Người Biết Sống Một Mình, Kinh Người Bắt Rắn… cần được học cho thật thấu đáo làm nền tảng cho sự tu học. Những kinh lớn như Kim Cương, Bát Nhã, Bảo Tích, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma, Viên Giác… đều có liên hệ mật thiết đến các kinh căn bản ấy. Khi học kinh nên luôn luôn tự hỏi: những tư tưởng siêu việt trong các kinh này có liên hệ gì đến sự thực tập trong đời sống hằng ngày? Làm sao áp dụng được giáo lý các kinh này vào đời sống hằng ngày để chuyển hóa khổ đau và đạt tới giải thoát? Học kinh không phải chỉ để thưởng thức tư tưởng uyên áo của kinh và để diễn bày lại những tư tưởng ấy cho kẻ khác nghe mà là để soi sáng cho sự thực tập của mình.

Về các bộ luận cũng như về các trước tác hiện đại của đạo Bụt, nên tham vấn ý kiến của Thầy hoặc y chỉ sư trước khi đọc. Đừng nên chứa chất quá nhiều sách, đừng làm con mọt sách.

Phải có thái độ cung kính đối với kinh điển và băng giảng. Không để kinh sách dưới đất, trên ghế hoặc trên bồ đoàn. Chỉ đặt kinh nơi sạch sẽ và tôn nghiêm. Không ghi chép trên kinh. Cầm kinh luôn luôn phải cầm hai tay. Nếu có bụi bám trên kinh, không dùng miệng thổi, mà phải dùng khăn sạch để phủi bụi. Trên bàn kinh không để vật tạp. Khi bìa kinh hư hỏng phải tu bổ liền, đừng để hư hoại thêm. Nghe pháp thoại từ băng giảng không được nằm hoặc ngồi không chỉnh đốn. Phải ngồi nghiêm trang như đang ngồi nghe pháp trong pháp đường với tất cả sự cung kính. Không được vừa làm việc vừa nghe pháp thoại từ băng giảng.

Phải tham vấn Thầy hoặc y chỉ sư về những sách có thể đọc. Chỉ khi nào đã nắm vững được nội minh rồi thì mới bắt đầu học thêm về lịch sử tư tưởng con người và các nền văn minh trên thế giới, về đại cương lịch sử, giáo lý các tôn giáo, về đại cương tâm lý học áp dụng và về đại cương những khám phá hiện đại nhất trong lĩnh vực khoa học. Những sách này có thể giúp ta so sánh và quán chiếu về những điều ta học trong kinh điển và giúp ta sau này trong sự diễn bày giáo lý cho đời một cách khế cơ hơn.

Chương XVII – Y, bát, tọa cụ và vật dùng cá nhân

Y và bát thân thiết với người xuất gia như hai cánh chim thân thiết với con chim, người xuất gia đi đâu cũng cần đem theo y và bát.

Ngày xưa y có ba thứ: Thứ nhất là y tăng già lê (sanghati), có chín điều (cho đến hai mươi lăm điều), do đó cũng được gọi là y chín điều, còn gọi là đại y (y thượng) hoặc y lớn. Y này được sử dụng khi được mời vào cung vua, trong các lễ lớn hoặc khi đăng đàn thuyết pháp. Thứ hai là y uất đa la tăng (uttarasanga), đó là y bảy điều, còn gọi là y trung. Y này được sử dụng trong lúc lễ tụng, bố tát, sám hối, nghe pháp. Thứ ba là y an đà hội (antaravasa) là y năm điều, hoặc gọi là y hạ. Y này được sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày như chấp tác hoặc đi chợ.

Ngày nay người xuất gia có thường phục, tương đương với y an đà hội, giáo phục, tương đương với y uất đa la tăng và lễ phục, tương ưng với y tăng già lê. Y của các vị Sa di là man y, là y trơn chưa có điều. Trước khi đắp y, vị Sa di phải nâng y ngang trán và quán niệm theo bài kệ khoác y. Khi đắp y, không đội mũ hoặc trùm khăn; không để y phủ che bàn tay, luôn nắm hai tay lại và đặt ở vị trí dưới ngực khi đi.

Thường phục là áo vạt hò hoặc áo nhật bình ngắn, giáo phục là áo tràng hay áo nhật bình dài, và lễ phục là y và áo hậu. Về thường phục và giáo phục, vị Sa di chỉ cần ba bộ cho mỗi loại, trừ y phục lao động, áo quần lót bên trong và áo ấm cần thiết cho xứ lạnh. Không được sử dụng các loại vải mỏng, bóng loáng, trơn mướt, sặc sỡ, chế ra những kiểu quần áo theo thời trang của thế tục hay bắt chước ăn mặc theo kiểu dáng của kẻ giàu sang quyền quý. Không nên dùng nước thơm ngâm y phục. Nếu có vải dư thì nên đem cúng dường đại chúng. Không nên đùa giỡn hay nói chuyện khi mặc y phục. Nên thong thả cột hoặc tháo từng nút một trong khi thực tập thi kệ mặc áo.

Bát hay bình bát là vật dụng chứa đựng thức ăn của người xuất gia. Bình bát thường được gọi là ứng lượng khí, nghĩa là vật dụng mà mầu sắc, chất liệu và dung lượng thích ứng với chánh pháp. Chất liệu thì bằng đất, bằng sành, bằng nhôm hay bằng nhựa, không bao giờ bằng vàng, bạc hay bằng ngọc; mầu sắc là mầu nâu, mầu lam, không bao giờ là mầu tươi chói; dung lượng thì biểu trưng cho sự biết đủ, không ham hố tham lam. Nâng bát, vị Sa di sử dụng tay trái đỡ bát phía dưới và tay phải đỡ phía ngoài với ngón tay cái đè lên nắp bình. Cầm bình bát đi thành hàng, vị Sa di nhìn thẳng xuống phía trước mặt, và phải chừa khoảng trống chừng một thước cách người đi trước, giữ gìn chánh niệm trong từng bước chân. Giữ gìn bình bát một cách trân quý như giữ gìn y và kinh sách. Cất giữ nơi cao ráo, sạch sẽ. Luôn luôn cầm với hai tay.

Tọa cụ là vật dụng để trải ngồi. Tiếng phạn là ni sư đàn (nisadana). Người xuất gia trải tọa cụ để phòng ngừa gai góc, các loài côn trùng, và những gì có thể bám vào y và thân thể. Sắc mầu của tọa cụ cũng cần đi đôi với y phục. Không nên dùng mầu tươi, phải dùng các mầu như xanh đậm, nâu, hoặc khói hương. Tọa cụ cũng không được quá lớn, chỉ nên khoảng trên dưới một thước vuông.

Không nên sử dụng những loại giày cao gót, túi xách sang trọng hoặc kiểu dáng thời trang. Không đeo các thứ vàng bạc, đá quý hoặc trồng hay bịt răng bằng vàng bạc. Không sử dụng các loại chuỗi hoặc tràng hạt bằng ngọc đắt tiền, màu sắc sặc sỡ. Không cất giữ những vật dụng mà người xuất gia không cần đến như nước hoa, mỹ phẩm, v.v… Không chất chứa quá nhiều vật dụng cá nhân như dầu gội đầu, kem đánh răng, v.v…

Chương XVIII – Ăn cơm

Nghe chuông báo giờ thọ thực thì lập tức dừng lại mọi việc để mang bát đến thực đường, sắp hàng lấy thức ăn. Đừng lấy cớ là hàng sắp còn dài, mình có thể đến sau. Sự có mặt của mình ngay từ đầu sẽ mang lại năng lượng cần thiết cho mỗi người trong đại chúng. Theo dõi hơi thở, mỉm cười và tiếp xúc với tăng thân bằng chánh niệm, không nói chuyện, dù là thì thầm. Trong khi xếp hàng xới cơm và lấy thức ăn, ta cũng nhiếp tâm thực tập các bài thi kệ và năm phép quán. Thực tập chánh niệm khi để thức ăn vào bát, cũng không khác gì khi khất thực. Nên lấy thức ăn nhẹ nhàng, gọn, đẹp, không nên bới và chỉ chọn thức ăn ngon. Không nên đưa thức ăn lên mũi hoặc cúi xuống ngửi trước khi để thức ăn vào bát. Lấy vừa đủ, hoặc ít hơn một chút. Từ nơi lấy thức ăn, ôm bát đi đến chỗ ngồi của mình, thực tập đi thiền hành cho vững chãi và thảnh thơi. Ngồi đúng vị trí của mình, đặt bát ngay ngắn phía trước mặt, ngồi giữ lưng thẳng và lập tức khởi sự thực tập phép quán niệm hơi thở, đừng đánh mất thì giờ tu tập trong khi chờ đợi những người khác. Trước khi ăn, ta thực tập năm phép quán. Trong khi ăn không nói chuyện, không suy nghĩ việc quá khứ, tương lai, chỉ nhiếp tâm tiếp xúc sâu sắc với thức ăn và với tăng thân quanh mình. Ngồi ăn như thế nào để có thể nuôi dưỡng sự hân hoan và niềm biết ơn trong suốt bữa ăn, như đang được cùng với Bụt và tăng đoàn nguyên thỉ ngồi ở tịnh xá Kỳ Hoàn cùng thọ trai. Trân quý mỗi hạt cơm, mỗi lát thức ăn, không để động tâm về chuyện ngon dở. Nhai thật kỹ thức ăn, từ ba mươi tới năm mươi lần. Khi đưa thức ăn vào miệng, nâng cao bát khoảng trước ngực, đưa muỗng (thìa) lên tới miệng để giữ lưng và đầu thẳng. Khi nhai nên ngậm miệng lại; không nên chép miệng, nhai nhóp nhép hoặc lua húp thành tiếng. Đừng ăn miếng quá lớn. Tránh khua bát đũa. Uống nước nên nâng ly hay chén bằng cả hai tay, không nên vừa uống vừa xá chào người. Không nên vừa uống vừa nhai thức ăn. Xỉa răng nên che miệng lại. Không được đứng dậy giữa bữa ăn. Lâu lâu, ta ngừng lại để tiếp xúc với sự có mặt của tăng thân, để thực sự thấy mình may mắn đang được thực tập chánh pháp với tăng thân. Không nên bỏ thừa thức ăn. Ăn xong, không nên đặt bát xuống liền nếu những người lớn tuổi tu hơn mình chưa ăn xong. Không nên ăn xong đứng dậy trước. Không được ngồi ăn riêng một mình xa tăng thân, trừ trường hợp ốm đau. Không nên tụ tập ăn uống trong nhà bếp. Buổi chiều nên ăn thức ăn nhẹ và ăn ít. Ăn, uống, luôn luôn ngồi xuống đàng hoàng.

Chương XIX – Vào nhà tắm

Vị Sa di phải giữ cơ thể sạch sẽ, móng tay cắt ngắn. Tắm rửa cũng là một cơ hội để quán chiếu hình hài mình, tiếp xúc được với tổ tiên và con cháu, thấy mình là sự tiếp nối của dòng sinh mạng và để ý thức được vai trò của mình trong sự nuôi dưỡng thân tâm của tổ tiên và của con cháu nơi mình. Nên duy trì sự nhẹ nhàng và chánh niệm trong khi tắm. Đừng vặn nước quá mạnh khiến nước gương sen văng ra ngoài phòng tắm. Tắm rửa và giặt giũ phải biết tiết kiệm nước và điện. Không nói cười, ca hát, xướng tán kinh kệ trong khi tắm. Đừng chiếm phòng tắm quá lâu, để người tới sau không phải chờ đợi. Không tiểu tiện trong nhà tắm. Không nên treo khăn hoặc quần áo của mình chồng lên vật của người khác. Không để vật cá nhân trong phòng tắm để tránh làm cản trở người đến sau. Xà phòng tắm và gội đầu phải được sử dụng vừa phải, sử dụng xong phải để vào chỗ được quy định. Các chậu thau sau khi được sử dụng cũng cần được rửa sạch và úp lại. Nên có bình hoa nhỏ trong nhà tắm để nhắc nhở rằng phòng tắm cũng là nơi thực tập chánh niệm và thiền quán.

Khi chải răng, không đi qua đi lại, nói chuyện và cười giỡn. Đứng yên một chỗ, thực tập chánh niệm theo bài kệ đánh răng và an trú thảnh thơi trong việc chải răng. Cúi thấp người xuống bồn khi chải răng, xỉa răng, để tránh làm dơ kiếng soi gương hay làm nước văng tung tóe xung quanh.

Chương XX – Vào cầu tiêu

Muốn đi đại tiện hay tiểu tiện thì nên đi ngay, đừng chần chờ, đừng đợi đến lúc bị thúc bách mới đi. Trước khi vào phải gõ cửa ba lần dầu biết trong ấy không có người. Không nên thúc dục người trong cầu ra nhanh. Trong thời gian ở cầu tiêu cũng phải thực tập chánh niệm, và giờ phút ở đấy cũng quan trọng không kém giờ phút ở pháp đường hay thiền đường. Phải có vững chãi, thảnh thơi và an lạc trong nhà cầu. Không được đem kinh sách vào đọc. Không khạc, nhổ hoặc rặn ra tiếng. Không nói chuyện và cười giỡn với người ở cầu bên. Dùng cầu xong, dội nước sạch sẽ. Giấy vệ sinh dùng xong bỏ vào thùng cẩn thận, không được vứt bừa bãi, không được bỏ vào cầu, sợ làm nghẹt cầu. Nếu giấy vệ sinh hết thì đi lấy cuộn mới lắp vào cho người đến sau. Đại tiểu tiện xong phải rửa tay bằng xà phòng cho sạch. Đến phiên mình lau chùi cầu tiêu, nên hết lòng lau chùi cho cầu tiêu trở nên thơm tho. Nên cắm một bình hoa nhỏ trong cầu để nhắc nhở rằng cầu tiêu cũng là nơi thực tập chánh niệm và thiền quán.

Người nữ khi tới chu kỳ, phải bọc kín rác trước khi bỏ vào thùng.

Chương XXI – Giặt áo, phơi áo

Không nên ngâm quần áo lâu ngày. Giặt áo phải sử dụng những thau chậu chỉ dành để giặt áo quần, đừng bao giờ lẫn lộn với những chậu để rửa rau cải, chén bát. Đừng đổ nước xà phòng vào những nơi có thể làm ô nhiễm và ứ đọng. Dùng máy giặt, nên chọn những thứ bột giặt không làm ô nhiễm sinh môi. Làm mọi cách để tiết kiệm điện và nước. Đừng giặt bằng máy nếu số lượng áo quần cần giặt quá ít. Chọn giờ điện rẻ, và chọn giờ không làm náo động sự yên tĩnh cần có của đại chúng. Canh giờ để khi máy vừa giặt xong thì đem đi phơi. Tránh dùng máy sấy hoặc bàn ủi để làm khô quần áo.

Phơi áo nhớ dùng kẹp để áo khỏi bay. Khi phơi phải giăng cho gọn, ngay ngắn và khéo. Không nên phơi áo quần nơi có nhiều người đi lại. Phơi quần phải kéo hai ống lại gần nhau. Không phơi quần và tất ở hàng dây ngang hay cao quá đầu người mà phải ở trên hàng giây thấp hơn. Áo quần lót phải phơi kín đáo, đúng nơi quy định. Tránh phơi và để nước giọt lên áo quần của người khác. Áo quần vừa khô liền đem đi cất.

Chương XXII – Ở trong phòng, ngủ nghỉ

Phải ở chung với ít nhất là một bạn đồng tu. Thường hỏi thăm nhau bằng ngôn ngữ từ ái. Được ở chung phòng với một vị đã có kinh nghiệm tu học lâu hơn mình là một sự may mắn lớn, vì mình có thể học hỏi thêm rất nhiều từ người ấy, nhất là về uy nghi và cách tiếp xử với các bạn đồng tu. Tuy nhiên, sau thời hạn một năm nên xin ở với một vị khác. Điều này là để tránh sự thân thiết chỉ với một người và làm mình xa cách với những người khác trong tăng thân. Nếu ở với một người mà kinh nghiệm tu học còn ít, nên làm sao để người ấy có thể học hỏi được từ mình về chánh niệm, uy nghi và cách tiếp xử. Nếu thấy người kia thiếu uy nghi thì tìm cách nhắc nhở một cách khéo léo và có tình thương. Nếu người ấy có tập khí nặng, chưa có khả năng tiếp nhận sự soi sáng và nhắc nhở của mình thì đừng vội thất vọng, phải học kiên nhẫn. Khi thấy bạn đồng tu xuất gia sắp phạm giới luật hoặc cố tình che giấu những lầm lỡ gây ra, phải lên tiếng can ngăn và khuyên vị đó đi sám hối. Nếu không thành công, phải nhờ một người khác để tìm cách giúp vị đó. Nếu được ai chỉ bảo cho mình những chỗ sơ sót trong sự hành trì uy nghi thì chắp tay tạ ơn, đừng tìm cách bào chữa loanh quanh hoặc so sánh phân bì với những người khác. Có việc phải vắng mặt hơi lâu nên báo cho người bạn cùng phòng biết.

Buổi sáng, nên thức nhau dậy và cùng đi công phu. Ra khỏi giường nên xếp mền ngay. Thay áo quần hoặc treo phơi áo quần nên kín đáo và có ý tứ. Đừng nên phơi bít tất, bao tay, khăn và áo quần trên lò sưởi. Đừng trang trí phòng ốc sang trọng và đầy tiện nghi như nhà thế tục. Không lấy xương, sừng hay da thú vật để trang trí phòng ốc. Không lấy vật dụng của chúng để đem về dùng trong phòng riêng. Không chất chứa thức ăn, thức uống trong phòng. Nên cùng nhau chịu trách nhiệm về sự ngăn nắp và sạch sẽ của căn phòng. Sự hòa hợp với bạn đồng tu chung phòng là điều quan trọng nhất. Nên giữ ý tứ để không làm phiền ai. Nên hỏi ý nhau trước khi bật đèn, mở cửa sổ, vặn sưởi hoặc tắt sưởi. Tôn trọng vật dụng của nhau, nếu muốn dùng chung, nên hỏi mượn trước. Đi đứng, mở và đóng cửa nhẹ nhàng để tránh gây tiếng động. Không nói chuyện ồn ào, cười giỡn khi phòng kế bên có người cần nghỉ ngơi. Không nói chuyện rì rào hoặc dùng máy vi tính cầm tay trong phòng khi có người cần nghỉ ngơi. Trước khi vào phòng, dầu là vào phòng mình, nên gõ cửa nhẹ.

Tôn trọng giờ chỉ tịnh hoặc giờ Im Lặng Hùng Tráng theo qui định. Im lặng này không phải là một thứ im lặng tẻ nhạt hoặc nặng nề mà là một thứ im lặng linh động đầy sức sống, rất cần thiết cho khung cảnh thực tập và tạo ra năng lượng chuyển hóa và trị liệu. Nên đi ngủ, tắt đèn phòng và đèn cá nhân đúng giờ quy định. Nếu thật sự cần học hoặc làm việc thêm, nên đi tìm một nơi khác như thư viện và thắp đèn riêng.

Mặc quần áo vạt hò khi ngủ. Nằm nghiêng bên hông phải mà ngủ, đó là thế nằm an lành nhất. Bụt thường nằm như thế. Không ngủ chung với chó mèo. Không được ngủ cùng giường với người khác. Trong trường hợp đặc biệt thiếu giường thì cũng có thể tạm ngủ chung, nhưng không cùng đắp một chăn. Nếu bất đắc dĩ phải đắp chăn chung thì phải mặc áo quần đầy đủ. Đừng tìm cách dỗ giấc ngủ bằng cách đọc sách hoặc nghe băng. Không nên thắp nến trên bàn ngủ, vì ngủ quên có thể gây ra hỏa hoạn. Nằm vào giường, có thể bắt đầu thực tập phép buông thư toàn thân. Sau đó có thể thực tập các bài thi kệ như ‘‘Vào, ra, sâu, chậm’’hay ‘‘Quay về nương tựa hải đảo tự thân’’. Không nên nhớ nghĩ chuyện quá khứ hoặc suy tưởng về những dự tính tương lai. Nếu có ác mộng, đừng ngủ lại ngay. Nên ngồi dậy, xoa bóp cho máu chảy đều hoặc bước ra ngoài đi thiền hành năm hoặc mười phút trước khi nằm xuống ngủ lại. Nếu có chất hữu cơ tiết ra trong giấc ngủ, nên dậy sớm để tắm và thay quần áo để kịp giờ đi công phu.

Chương XXIII- Thân Thứ Hai

Đây là một pháp môn giúp người Sa di xây dựng tình huynh đệ và cắm rễ vào tăng thân của mình. Theo pháp môn này, mỗi người trong tăng thân cũng đều có thân thứ hai để chăm sóc. Cố nhiên ta không thể chăm sóc và gần gũi tất cả mọi người trong tăng thân. Vì vậy mỗi người được chọn một thân thứ hai để chăm sóc. Theo thể thức này, ai trong tăng thân cũng có người để chăm sóc và vì vậy ai cũng được chăm sóc. Nếu mỗi người chăm sóc cho thân thứ hai của mình thật đàng hoàng thì cả tăng thân cũng đều được chăm sóc đàng hoàng.

Mình và thân thứ hai của mình cần được xem là một. Bất cứ lúc nào, mỗi người trong tăng thân đều có bổn phận lo chăm sóc và có trách nhiệm về tình trạng sức khỏe, hạnh phúc, sự thực tập cũng như sự hành trì giới luật và uy nghi của thân thứ hai mình. Đến giờ ngồi thiền, đi thiền, thọ trai, v.v… mình phải biết người ấy có mặt hay không, nếu không, mình phải biết lý do và khi được hỏi phải trình ra cho đại chúng rõ lý do vắng mặt của thân thứ hai mình. Người ấy bệnh thì mình báo tin cho vị tri bệnh biết, và giúp vị tri bệnh cung cấp thuốc men và cơm cháo cho người ấy. Lên máy bay, xe buýt hoặc xe lửa, mình phải biết là người ấy đã có mặt trên máy bay hoặc trên xe chưa. Nếu phẩm chất tu tập của người ấy thấp thì mình nâng đỡ người ấy, nếu cần thì mình cầu một vị khác trong tăng thân yểm trợ mình để làm việc này. Nên gần gũi tiếp xúc để biết được những khó khăn và những ước vọng của người ấy để có thể giúp đỡ.

Chương XXIV – Thỉnh chuông và nghe chuông

Phải nghe chuông như nghe tiếng của đức Thế Tôn gọi mình về với chánh niệm. Mỗi khi có tiếng chuông, dừng lại mọi câu nói, mọi động tác và mọi suy tư, trở về hơi thở và thực tập bài kệ nghe chuông. Thở nhẹ, sâu, mỉm cười và trở về có mặt nơi giây phút hiện tại trong trạng thái thân tâm nhất như. Nếu đây là đại hồng chung, tiếng này nối tiếp tiếng khác trong một thời gian lâu thì có thể tiếp tục công việc chấp tác, nhưng phải đồng thời theo dõi hơi thở và thực tập chánh niệm trong khi làm việc. Nghe tiếng chuông không được duy trì tư thế nằm, phải ngồi dậy hoặc đứng dậy, trừ khi mình đau ốm.

Nếu là tri chung thì phải thực tập thở theo bài kệ thỉnh chuông trước khi khai chung. Thân tâm có hợp nhất và niệm định có mặt, ta mới có quyền thỉnh chuông. Trong thời gian thỉnh đại hồng chung buổi sáng và buổi tối, ta có thể xướng kệ lớn tiếng, nhưng sau mỗi tiếng chuông ta cũng phải thở chánh niệm, đợi cho cường độ âm thanh dịu bớt thì mới nên xướng kệ. Trước khi thỉnh chuông, phải thực tập xá chuông và thực tập hơi thở chánh niệm, bởi vì chuông đóng vai trò của vị bồ tát đi đến để thức tỉnh mỗi người trong chúng ta. Nhấp chuông hay thức chuông trước khi thỉnh tiếng đầu để đại chúng không giật mình. Mỗi tiếng chuông cách nhau ít nhất ba hơi thở đều đặn để đại chúng được thở thong thả. Trong giờ pháp thoại, khoảng chừng mỗi hai mươi phút, nên thỉnh một tiếng chuông để thính chúng có cơ hội buông thư và theo dõi hơi thở. Không thỉnh chuông ngắt lời vị giảng sư hoặc làm gián đoạn những gì vị giảng sư đang làm. Nếu có trách nhiệm cho buổi tụng kinh hoặc tụng giới, nên đến sớm để sắp xếp chuông khánh và kinh sách cho sẵn sàng.

Chương XXV – Dự pháp đàm

Pháp đàm là cơ hội đàm luận và trao đổi về Phật Pháp, nhất là những buổi pháp đàm về pháp thoại vừa được nghe, để hiểu sâu hơn nội dung bài pháp thoại và khai triển thêm về phương diện nhận thức cũng như phương diện tu tập. Mục đích của pháp đàm là học hỏi từ kinh nghiệm tu học và từ cái thấy của tăng thân, cũng như chia sẻ kinh nghiệm tu học và cái thấy của chính mình. Nếu có khó khăn gì trong việc hiểu hoặc thực tập thì phải đưa ra để nhờ tăng thân soi sáng. Nếu có những kiến giải có thể đóng góp vào kinh nghiệm tu tập của người khác thì nên chia sẻ, nhưng không nên nói chỉ vì muốn phô bày kiến thức của mình, hoặc để chê bai quan điểm của kẻ khác. Chắp tay xá trước khi xin chia sẻ. Sau khi chia sẻ xong, chắp tay xá để mọi người biết rằng mình đã chia sẻ xong. Không ngắt lời người đang chia sẻ, không tìm cách bắt bí kẻ khác để chứng tỏ mình đa văn hoặc thông minh hơn. Thực tập lắng nghe sâu để thấy được quan điểm của người khác mà học hỏi. Làm sao để sau một buổi pháp đàm, ta có cảm tưởng đã học hỏi được thêm và có thể thực tập được hiệu quả hơn về giới, định và tuệ.

Người chủ tọa pháp đàm phải có kinh nghiệm và và khả năng đúc kết lại những ý chính của bài pháp thoại để đưa ra những đề tài thảo luận phù hợp với sự thực tập và đời sống tăng thân. Phải biết khéo léo đưa đại chúng về với đề tài pháp đàm, đừng để đi lạc đề. Đừng để sự đàm luận trở nên lý thuyết suông không lợi ích cho sự thực tập. Sự tươi mát và tình thương của vị chủ tọa sẽ đem đến không khí thân mật và hòa điêu cho buổi pháp đàm, giúp mọi người có thẻ chia sẻ hết lòng. Tránh tạo không khí chỉ có hát ca hay kể chuyện đời tư của một người, hay đùa giỡn và nói qua lại trong những buổi pháp đàm. Phải biết sử dụng chuông chánh niệm để nâng cao phẩm chất của buổi pháp đàm. Trước khi chấm dứt buổi pháp đàm, vị chủ tọa nên trả lời những thắc mắc chưa được giải đáp và đúc kết lại một cách khéo léo để buổi pháp đàm có nhiều lợi lạc. Cuối cùng, nên nói lời cảm tạ về sự đóng góp cũng như việc cống hiến sự có mặt của mọi người cho buổi pháp đàm.

Chương XXVI – Dự thiền trà

Thiền trà là một cơ hội để trân quý sự có mặt của nhau trong đạo tình và trong tinh thần hòa hợp. Thiền trà có hai phần: phần đầu là nghi lễ, phần thứ hai là trao đổi. Phần nghi lễ gồm có đón tiếp, dâng hương, lễ Bụt, pha trà, chuyền trà, chuyền bánh và uống trà: tất cả đều được diễn ra trong sự trang trọng của nghi lễ và chánh niệm. Sau phần đón chào, dâng hương và lạy Bụt, mọi người ngồi xuống thành một vòng tròn, theo dõi hơi thở chánh niệm, giống như trong một buổi thiền ngồi. Ta theo dõi những động tác của người trà giả (người pha trà) và thở trong chánh niệm, an trú trong giờ phút hiện tại. Khay trà bánh của Bụt sẽ được người trà giả mang tới cho người trà chủ. Sau khi người trà chủ dâng trà bánh lên Bụt, người trà giả và vị trà chủ đồng trở về chỗ của mình. Sau đó, khay bánh và trà sẽ được chuyển tới đại chúng trong chánh niệm: mỗi vị trong chúng chắp tay xá trước khi nhận bánh hoặc trà, sau đó nhận khay trà bánh bằng hai tay và chuyển tiếp đến người bên cạnh với nụ cười tươi. Mọi động tác đều phải biểu lộ chánh niệm, tỏa chiếu sự an lạc và thảnh thơi. Nếu cần thêm trà hoặc bánh, chỉ cần làm dấu cho vị trà giả thì khay trà bánh sẽ được chuyền đến. Tránh không sử dụng lời nói nhiều hay đứng lên ngồi xuống trong phần nghi lễ. Sau khi mọi người đều có trà và có bánh, vị trà chủ sẽ nâng ly trà lên và chờ đại chúng cùng nâng trà lên, rồi mời mọi người thưởng thức hương vị của trà và bánh bằng chính hành động chánh niệm của mình mà không phải bằng lời nói. Đó là thời điểm im lặng hùng tráng để mọi người đích thực có mặt cho nhau, có mặt cho những mầu nhiệm của vũ trụ trong tách trà hay miếng bánh. Trong phần này, trà chủ, trà khách và trà giả, ai cũng theo dõi hơi thở, thực tập có mặt thật sự trong tăng thân và nhận diện sự có mặt của mỗi người trong tăng thân. Hơi thở, ánh mắt, nụ cười và mọi động tác đều được đi theo với chánh niệm trong từng giây phút: đây đích thực là thiền tập.

Sau lời mời của vị trà chủ, mọi người nâng chén trà lên, vị trà chủ đọc bài kệ uống trà rồi cùng uống trà và ăn bánh trong chánh niệm. Sau mươi phút uống trà và ăn bánh im lặng, vị trà chủ sẽ mời mọi người chia sẻ niềm vui và kinh nghiệm tu học. Phần thứ hai gồm có trao đổi những lời thăm hỏi kính ái, những kinh nghiệm tu tập và có khi có cả những bài thơ, bài hát hay câu chuyện. Phần này tuy có tính cách thân mật và ít nghi lễ hơn, nhưng vẫn được đặt trong chánh niệm. Nội dung phần này có thể bồi đắp tuệ giác, niềm vui, sự hiểu biết lẫn nhau và sự tương thân tương kính. Chắp tay xá trước và sau khi chia sẻ. Phát biểu hoặc chia sẻ, chỉ nên vắn tắt năm phút là nhiều nhất, để những người khác cũng có cơ hội. Không nên đưa những câu chuyện không lợi lạc để nói trong thiền trà. Trà vị phải đi đôi với thiền vị.

Nếu là trà chủ hay trà giả, thì nên thực tập trước để khỏi vấp váp. Mọi động tác phải từ tốn, khoan thai, đi theo chánh niệm. Vị trà chủ nên nói những lời chào hỏi và chúc tụng trân trọng, lúc bắt đầu và kết thúc phần hai.

Thiền trà đừng nên đông người quá. Theo truyền thống, con số tối đa là mười sáu vị, như thế để duy trì sự thân mật và để mọi người có cơ hội đóng góp. Bất đắc dĩ mới có những thiền trà đông người, gọi là đại thiền trà. Thư mời, số tọa cụ và số chén trà, người trà giả phải nắm vững, tránh việc đợi đến lúc cần thiết mới đứng dậy đi lấy thêm. Nên sử dụng khăn vải hoặc những chiếc lá để đặt bánh. Tránh dùng khăn giấy để giúp bảo vệ sinh môi. Khung cảnh chánh niệm được duy trì cho đến phút chót khi vị trà chủ và các vị trà giả đứng chắp tay tại cửa để xá chào tiễn đưa và cảm ơn từng vị trà khách.

Chương XXVII – Bẽ gãy thế tam giác

Mỗi khi có khó khăn với một người trong tăng thân, phải tìm mọi cách để hóa giải nội kết. Không đi than phiền về người đó với những người khác trong chúng, nhất là để tìm đồng minh chống lại người đó. Đây là thế tam giác, mầm mống của sự chia rẽ và xáo trộn mà bất cứ ai cũng có bổn phận phải bẻ gãy ngay từ ban đầu. Luôn ý thức rằng mỗi cử động, mỗi lời nói của ta, ai rồi cũng sẽ biết và ta chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì ta đã làm và đã nói. Nói ra một điều gì về một người nào, tốt hơn là ta nên nói thẳng ra với người đó, đừng qua trung gian một người thứ hai. Có điều gì nghi ngờ, ta cũng nên hỏi thẳng.

Nếu có một người đến với ta để than thở về những vấn đề của họ với một người khác, ta sẽ tập ngồi lắng nghe để cho người ấy bớt khổ. Lắng nghe với tâm rỗng rang và từ bi để hiểu cho hết cội nguồn. Căn cứ trên nhận thức độc lập của ta, ta nhìn sâu để hiểu được cả hai phía. Nếu nhận thấy có những tri giác sai lầm trong những điều người ấy nói, ta giúp người ấy điều chỉnh lại những tri giác ấy để người ấy bớt khổ ngay trong lúc đó. Ta cũng nói cho người ấy nghe những khó khăn, những đau khổ, những điểm tích cực và dễ thương của người kia để người ấy hoặc nhớ lại hoặc nhìn nhận đó là những sự thực. Ta cũng khuyên người ấy đi tới với người kia để ngồi lại với nhau, mà thiết lập lại truyền thông. Nếu cần, ta tình nguyện đi với người ấy, để yểm trợ cho người ấy có khả năng nói hết được những gì mà người ấy chưa thể hoặc không thể nói ra được với người kia. Ta tránh không liên minh với một người để chống lại một người thứ ba, để tạo thành một thế tam giác của sự tranh chấp. Nếu không bẻ gãy được thế tam giác trong vòng một hay hai ngày, ta nên cầu cứu một người khéo léo hơn trong tăng thân hoặc cầu cứu Thầy mình.

Chương XXVIII – Đối trị cơn giận

Người xuất gia phải biết đối trị cái giận của mình. Cái giận là ngọn lửa có thể thiêu rụi tất cả mọi công trình xây dựng, là cái búa có thể đập cho vỡ tan tình huynh đệ. Ta không nên đè nén cơn giận. Khi thấy cái giận bắt đầu phát khởi, phải dừng lại tất cả mọi nói năng và hành động, quay về với hơi thở chánh niệm, để chế tác năng lượng chánh niệm, nhận diện và ôm ấp năng lượng giận bằng năng lượng chánh niệm ấy.

Nên sử dụng bài tập ‘Thở vào tôi biết tôi đang giận, thở ra tôi biết việc quan trọng nhất tôi cần làm bây giờ là điều phục cơn giận của tôi’ hoặc bài kệ ‘Cái giận làm tôi xấu, biết vậy tôi mỉm cười, quay về thủ hộ ý, từ quán không buông lơi’, mỗi câu đi theo một hơi thở. Đừng tiếp tục nghe và chú ý tới người mà mình cho là nguyên do của cơn giận, nên khéo léo để có thể đi ra ngoài để thực tập thiền đi, thiền chạy, thiền ngồi hoặc thiền chấp tác. Luôn luôn nắm lấy hơi thở để có đủ năng lượng chánh niệm mà ôm ấp cơn giận. Ta cứ thở tự nhiên trong bất cứ tư thế nào của thân thể, và chỉ cần để hết tâm ý vào hơi thở. Thở như thế chỉ trong vài phút là hơi thở trở nên êm dịu, sâu lắng. Ta sẽ có cảm giác dễ chịu hơn. Năng lượng chánh niệm do hơi thở chế tác tiếp tục bảo hộ ta, giúp ta nhận diện và ôm ấp cơn giận. Sau khi tâm đã lắng xuống, ta quán chiếu để thấy rằng người làm ta giận cũng có khổ đau và vụng về, giống hệt như ta vậy. Người ấy cần được giúp đỡ chứ không cần bị trách phạt. Trừng phạt không phải là giải pháp. Khuynh hướng muốn trừng phạt người kia, làm cho người kia đau khổ để cho mình bớt khổ là khuynh hướng bạo động trong ta, ta phải thấy được điều này trong khi thực tập hơi thở chánh niệm và bước chân ý thức. Lại quán chiếu để thấy rằng hạt giống giận hờn và tập khí hay nổi nóng trong ta còn lớn quá, và đó là nguyên do căn bản của nỗi khổ ta. Thấy như thế thì lòng ta sẽ dịu lại. Ta thấy rằng chỉ có sự thực tập hiểu và thương mới giúp được cho ta và cho cả người ấy và ta sẽ thấy tâm từ bi phát hiện. Ta phải thực tập hằng ngày để chuyển hóa gốc rễ của cái giận trong ta thì ta mới thật sự có an lạc.

Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi
Con người tu có khác gì
Sống cho tươi mát, sân si hư đời
Hiểu thương chẳng trách móc người
Hiện thân bồ tát giữa nơi đạo tràng.

Chương XXIX- Nghe và nói điện thoại

Nghe chuông điện thoại nên phát khởi chánh niệm, theo dõi hơi thở và mỉm cười có ý thức như khi nghe chuông báo chúng hoặc chuông gia trì. Trong khi thở, ngưng mọi suy nghĩ và nói năng, thực tập hơi thở chánh niệm theo bài kệ nghe chuông. Khi chuông điện thoại reo lần thứ ba, từ từ đi tới máy nói với từng bước chánh niệm, trong khi vẫn duy trì hơi thở và nụ cười. Nhấc ống nghe lên, lập tức xưng danh tu viện, nói lời đón chào và hỏi xem mình giúp được gì không. Đôi khi có những người rất đau khổ tuyệt vọng tìm gọi đến tu viện, ta hãy thực tập lắng nghe với tâm từ bi và tìm cách làm vơi đi nỗi khổ của họ. Nên duy trì chánh niệm trong khi nói điện thoại. Trả lời gọn gàng và chỉ nói những điều cần thiết. Nếu cần năm phút để đi gọi một người, thì xin người ở đầu giây gọi lại trong vòng mười lăm phút.

Không được sử dụng điện thoại di động trong giờ ngồi thiền, tụng kinh, họp chúng hay trong lớp học. Không gọi điện thoại cho người khác phái vào ban đêm. Sử dụng bài kệ điện thoại trước khi bấm số gọi. Khi nghe chuông điện thoại reo bên đầu giây kia, ta cũng thực tập hơi thở chánh niệm theo bài kệ nghe chuông. Sử dụng ngôn ngữ từ ái khi nói, không nói quá lớn tiếng hoặc cười giỡn trong điện thoại. Đứng hoặc ngồi nghiêm chỉnh trong khi nói, không múa tay để diễn đạt ý tứ. Chỉ nên dùng điện thoại để nói những điều cần thiết. Nếu người ở đầu giây bên kia nói những câu chuyện không cần thiết thì dùng lời nhã nhặn xin lỗi trước khi gác ống nói.

Chương XXX – Sử dụng máy vi tính

Nên học cho thông cách sử dụng và chăm sóc máy. Không biết sử dụng thì không nên động tới máy. Không để tự đánh mất mình trong sự ham mê sử dụng máy. Gài bộ phận cảnh tỉnh mỗi mười lăm phút để có cơ hội dừng lại, thở và mỉm cười trong thời gian làm việc. Ngồi lưng phải thẳng, hai bàn chân đặt vững trên mặt đất, máy đánh chữ phải ngang tầm bụng. Khi sử dụng máy xách tay cũng phải đặt máy trên bàn và ngồi cho có uy nghi. Trong khi làm việc, nếu thấy hơi mệt thì nên dừng lại, xoa bóp hai mắt, hoặc đi thiền hành, hoặc tập các động tác chánh niệm ngoài trời khoảng mươi phút trước khi làm tiếp công việc. Nếu còn quay lại sử dụng máy tiếp tục, thì cho máy vào vị trí ‘‘stand by’’ để tiết kiệm điện đồng thời khi sử dụng lại không bị mất dấu tích. Dùng máy xong, nên cho vào vị trí ‘‘shut down’’ trước khi tắt điện. Nên tắt toàn bộ hệ thống điện của máy để bảo trì máy. Khi rời máy, nhớ dọn dẹp nơi làm việc cho gọn và sạch. Không nên nghĩ rằng làm việc trên máy vi tính là quan trọng hơn các công việc khác.

Nếu không có phép của tăng thân thì không được có địa chỉ điện thư riêng. Khi muốn lên mạng, phải trình lý do chính đáng với y chỉ sư và phải có một người bạn đồng tu bên cạnh để giúp bảo hộ mình khỏi lạc vào những chương trình độc hại.

Chương XXXI – Làm việc trong bếp

Phải xem bếp như một đạo tràng. Trước khi khởi sự làm bếp, ta dâng hương trên bàn thờ Sứ Giả Giám Trai. Sau đó, rửa tay và giữ gìn sạch sẽ trong suốt thời gian làm việc. Nấu ăn cho đại chúng, ta không chỉ chú ý đến khẩu vị. Điều quan trọng hơn cả là yếu tố lành, sự tinh khiết và năng lượng chánh niệm của ta trong những món ăn đó. Ta làm việc với tất cả tình thương, ý thức rằng đây là một phép thực tập cúng dường. Phải tính toán thì giờ cho rộng rãi để có thể hoàn tất công việc một cách khoan thai, không phải hấp tấp. Đi đứng, xay đậu, gọt khoai, nấu canh, xào rau, v.v… tất cả mọi hành động cần được làm nhẹ nhàng trong uy nghi. Phải theo dõi hơi thở và mỉm cười trong khi làm việc. Đừng ca, ngâm hoặc xướng tán kinh kệ. Không nên nói chuyện, nhất là những chuyện thị phi không dính líu gì đến việc tu học. Nếu cần hỏi hay nói gì về công việc với người anh em đồng tu, nên nói ngắn, nhỏ đủ nghe. Làm việc chung với người anh em đồng tu trong bếp cũng là một dịp để hiểu và thương nhau hơn. Nên luôn luôn hội ý với nhau để công việc được điều hợp tốt đẹp. Nên để mắt nhìn xem người bạn đồng tu có cần sự giúp đỡ nào hay không. Đừng để ai phải nâng vác quá nặng.

Rửa rau nên rửa ba nước, và chỉ sử dụng những chiếc chậu dùng riêng cho rửa rau. Khi nấu nướng, luôn có những cái thìa riêng dùng để nêm nếm. Khi cần trộn thức ăn bằng hai tay, phải đeo găng tay. Khi sắp thức ăn, phải dùng đũa hoặc thìa. Không gãi đầu, ho hay khạc nhổ trong nhà bếp. Luôn luôn giữ hai tay cho sạch, không liếm hoặc mút tay. Đi vệ sinh xong, phải rửa tay trước khi tiếp tục công việc. Tránh đổ nước sôi vào bồn nước, ống cống hoặc đổ ra đất. Các dụng cụ làm bếp sau khi sử dụng, phải được lau rửa sạch sẽ và để lại chỗ cũ.

Tránh vào nhà bếp nếu không có phận sự trong ấy. Tránh tụm ba tụm năm ăn uống, đùa giỡn trong bếp. Nên ra ngồi ăn với đại chúng khi phận sự trị nhật đã xong. Không nên nấu nướng riêng cho mình. Không sử dụng chén bát của đại chúng để đựng thức ăn của các con vật được nuôi trong chùa. Không nên nấu thức ăn mặn cho chó mèo.

Chương XXXII – Đi ra ngoài

Nếu không có lý do chánh đáng, không nên đi đâu. Không nên ra khỏi tự viện vào ban đêm. Trước khi đi đâu đều phải xin phép vị y chỉ sư, vị trụ trì và Thầy. Bước ra khỏi tự viện, phải luôn đi chung ít nhất với một người xuất gia. Nên mặc áo nhật bình chỉnh tề và mặc áo lót qua khỏi lưng quần. Mặc áo quần kín đáo, không để thấy áo lót bên trong. Vị Sa di nữ nên nhớ chít khăn. Dù đi bộ, đi xe đạp, xe gắn máy hay xe hơi, cũng phải có uy nghi và nhớ luôn luôn an trú trong chánh niệm để hộ trì sáu căn. Đừng để những hào nhoáng bên ngoài của thành phố cám dỗ. Gặp những đám đánh nhau, cãi nhau, múa võ hoặc trò chơi ảo thuật, những nơi trưng bày tranh ảnh quảng cáo độc hại thì không dừng lại xem. Không đi gần người say và người điên. Gặp một vị tôn túc, phải dừng lại, chắp tay thăm hỏi. Gặp người xuất gia đạo khác, cũng làm như thế. Sự có mặt chánh niệm của người xuất gia giữa đám đông phải là một bài thuyết pháp không lời về nếp sống thảnh thơi, vững chãi của người có giải thoát. Phải thấy được sự may mắn của mình được sống trong thiền viện an tĩnh, tươi mát, có không khí trong lành và có tăng thân che chở và yểm trợ. Xong việc, phải lập tức trở về tu viện. Chỉ được đến những nơi nào đã được tăng thân cho phép. Không tùy hứng ghé hết chỗ này đến chỗ kia. Về lại tự viện, nhớ đến chào Thầy.

Sa di nam đến ni viện hoặc Sa di nữ đến tăng viện, ít nhất là phải hai người cùng đi. Đi bên nhau trong uy nghi, giữ gìn chánh niệm, không được nói cười tíu tít. Tất cả những trao đổi phải nằm trong phạm vi tu học và lý tưởng xuất gia. Đừng ở lại lâu quá, xong việc phải trở về. Thư từ qua lại, nếu cần, chỉ được nói về đề tài tu học, lý tưởng xuất gia hay công việc của tăng thân, không được trao đổi thư từ về phương diện tình cảm. Không hiến tặng quà cáp có tính cách riêng tư và kỷ niệm. Không nên than phiền túng thiếu hay sức khỏe yếu kém để được cúng dường. Không nên kể chuyện không hay hoặc những khó khăn bên tự viện của mình. Lúc trở về viện mình, không nên nói những chuyện thị phi về nơi mình đã thăm viếng.

Trước khi đi chợ, phải biết trước mình cần mua những gì và số lượng thực phẩm cần mua. Luôn luôn hộ trì sáu căn. Không vào chỗ bán sách báo hoặc tranh ảnh độc hại. Không nên mua sắm những vật dụng cá nhân loại thượng hạng. Không nên vì quảng cáo hay mà mua những phẩm vật không cần thiết. Cẩn thận về việc cất giữ tiền bạc. Không nên kỳ kèo trả giá. Đừng bĩu môi chê bai phẩm chất hàng hóa và chê đắt. Có thể nhẹ nhàng xin người bán tính một giá đặc biệt cho chùa. Nên thận trọng trong khi chọn hàng, đừng làm đổ xuống và bầm dập hoa quả, hư vỡ hàng hóa. Đã hứa mua cho người này rồi thì không được vì bên kia rẻ hơn mà không mua. Không được mua chịu. Không nên nói đùa với người bán hàng.

Chương XXXIII – Lái xe, đi xe hoặc đi bộ

Nên nhớ luôn luôn mang theo bằng lái xe và giấy tờ xe. Kiểm tra các bộ phận xe, biết chắc là có đủ an toàn, trước khi cho máy nổ. Nhớ vén gọn tà áo và cài dây an toàn. Quán niệm theo bài thi kệ lái xe trước khi rồ máy. Theo dõi hơi thở và duy trì chánh niệm, sự tươi mát và an lạc trong suốt thời gian lái xe. Mỗi khi dừng lại ở đèn đỏ, mỉm cười, dựa lưng vào ghế, buông thư và trở về với hơi thở chánh niệm. Không vừa lái xe vừa sử dụng điện thoại, nói chuyện huyên thuyên, đùa giỡn hoặc ăn uống. Sử dụng hộp số cẩn thận, không nên sang số bừa. Không lái quá tốc độ đã được ấn định, không phóng nhanh, vượt ẩu; chỉ qua mặt xe khác khi không thể không qua mặt, nhưng phải biết chắc là qua mặt sẽ không có nguy hiểm. Lái vào phố chợ hoặc qua nơi đông người nên đi chậm lại và rất cẩn thận, không nên nói chuyện để đừng bị phân tâm. Khi đường kẹt xe, theo dõi hơi thở chánh niệm, mỉm cười và thực tập ‘đã về, đã tới’. Nếu đi đường dài thì cũng có thể nói chuyện để tránh hôn trầm đưa đến ngủ gục. Trời mưa, nhất là khi đường có đóng băng, nên đi chậm để được an toàn, và tránh sử dụng bàn thắng. Khi lái xe vào lúc trời còn khuya hay tối, không nên bật đèn pha khi có xe ở phía trước mình, dù khoảng cách giữa hai xe là trên mười thước. Không nên vừa xem bản đồ vừa lái xe. Nên kiếm chỗ dừng lại để nghiên cứu bản đồ, biết rõ đường đi rồi mới lái xe đi. Đường xa, nếu thấy hơi mệt thì hãy đổi cho người khác lái xe. Nếu không có người lái thế thì dừng lại để ngủ cho đến khi hồi phục được sự tỉnh táo. Nên nhớ sinh mạng người ngồi trên xe nằm trong sự thận trọng của mình. Không nên bực bội hoặc tức giận nếu có xe khác đi ẩu. Không được bóp còi để trách móc xe kia. Đậu xe phải đậu thật ngay ngắn và đúng phép. Nếu dùng xe của người khác, nên kiểm lại xăng, dầu, nhớt, nước và các bộ phận xe để xem có đủ an toàn không trước khi lái xe đi. Trước khi trả xe cũng thế.

Khi ngồi trong xe người khác lái ta cũng thực tập như thế. Tìm cách khéo léo nhắc người lái xe và những người khác ngồi trong xe thực tập chung, để trong suốt chuyến đi có dịp chế tác được chánh niệm, chánh định và niềm vui. Trước khi rời xe, nhớ đóng kín các cửa sổ. Vào mùa đông, nên che mặt kiếng xe để tránh tuyết phủ đầy.

Đi xe đạp hoặc xe gắn máy phải đội mũ an toàn, mặc áo nhật bình và nhất là phải thực tập uy nghi. Đừng phóng hoặc đạp xe quá mau. Đừng đi song song với người khác để nói chuyện. Tránh sự đèo theo một người khác trên xe.

Đi bộ luôn đi lề bên trái (luật tại nước Pháp). Chỉ băng qua đường khi đèn xanh, chỗ dành riêng cho người đi bộ. Vào ban đêm, phải mang áo dạ quang và dùng đèn pin để người lái xe dễ nhận ra mình và tránh đường.

Chương XXXIV – Tiếp xử với người cư sĩ

Trước sự cung kính lễ lạy của người cư sĩ, người xuất gia phải luôn nhớ rằng ta đang đại diện Tăng, một trong ba ngôi của Tam bảo, vì vậy người cư sĩ đang lễ lạy Tăng chớ không phải lễ lạy cá nhân ta. Với ý thức sáng tỏ này, ta sẽ không trở thành nạn nhân của sự cống cao ngã mạn.

Các vị cư sĩ nam và nữ đến chùa không phải chỉ để lễ bái, cúng dường mà cũng là để được hưởng không khí thanh tịnh, an lạc của chùa và cũng để có cơ hội học hỏi các pháp môn có thể đem về thực tập trong gia đình họ. Nên tìm mọi cách để tạo cơ duyên cho các vị ấy được thừa hưởng những tặng phẩm quý giá ấy mà chùa có thể cung cấp. Tạo cho họ cơ hội được tụng kinh, nghe pháp, đi thiền, ngồi thiền, tập thở, tập ăn cơm im lặng và làm công quả trong chánh niệm. Chỉ nói chuyện với họ về những vấn đề tu tập, những pháp môn có thể áp dụng được trong đời sống hằng ngày mà đừng để thì giờ vào việc đàm luận những đề tài có tính cách thuần lý thuyết, dù là giáo lý. Đừng tham dự vào những câu chuyện thị phi ngoài đời và đừng khuyến khích họ nói những câu chuyện như thế. Nếu có người ưa nói tới những khuyết điểm của các thầy và các đạo tràng khác, thì nên nhẹ nhàng khuyên nhủ họ đừng làm như thế và cương quyết từ chối không lắng tai nghe những câu chuyện họ nói. Nếu có người chưa biết quy luật thiền môn mà nói năng và có những cử chỉ thô tháo thì từ tốn nhẹ nhàng chỉ bày cho họ, đừng nóng nảy khiển trách họ.

Mục đích của người xuất gia là tạo hạnh phúc cho thế gian, vì vậy người xuất gia trẻ phải học ngồi lắng nghe những nỗi khổ niềm đau của người cư sĩ để có thể hiểu được nguồn gốc của những nỗi khổ niềm đau ấy. Căn cứ trên kinh nghiệm thực tập của mình mà cống hiến cho họ những phương pháp tu tập để họ có thể chuyển hóa và tự hòa giải được trong bản tâm, cũng như giữa gia đình và ngoài xã hội. Những kinh nghiệm này sẽ rất bổ ích cho người xuất gia sau này, khi đi ra diễn giảng Phật pháp và mở những khóa tu học cho người cư sĩ. Là người xuất gia trẻ, nên đặc biệt chiếu cố đến thiếu nhi, giúp cho các em bớt bỡ ngỡ, dạy cho các em biết tham dự các sinh hoạt thiền đi, thiền trà, thiền ngồi, thiền lạy, ăn cơm im lặng, v.v…

Đừng sống cẩu thả, bê bối, làm mất tín tâm của người cư sĩ đối với Tam bảo. Không làm mai mối cho người cư sĩ. Không làm do thám và lấy tin tức của tăng thân cung cấp cho bất cứ ai. Không được kết nghĩa cha, mẹ, anh, chị, em hoặc con cháu với họ. Đừng quá thân với một vài người và dành cho họ quá nhiều thì giờ trong khi lơ là với những người khác. Phải học tiếp xử với mọi người một cách đồng đều và bình đẳng, không phân biệt giàu, nghèo, trí thức hoặc ít học. Nên khuyến khích họ cúng dường cho tăng thân hơn là cúng dường cho cá nhân. Không quyên góp tài vật làm của riêng. Nếu có ai muốn cúng dường cho cá nhân mình, khuyên họ nên cúng dường cho tăng thân. Trong trường hợp họ vẫn khăng khăng muốn cúng dường mình thì nên trao vật cúng dường ấy lại cho đại chúng. Không vì lý do được cúng dường mà có sự tiếp xử đặc biệt hoặc để cho người thế tục sai khiến. Không mở lời chê bai phẩm vật của tín thí dâng cúng. Không cất giữ tiền bạc hoặc nữ trang dùm người khác. Không gửi tiền đầu tư, cho vay, hùn vốn kinh doanh, chơi hụi, chơi xổ số hoặc số đề.

Chương XXXV – Đến nhà đàn việt

Đến nhà đàn việt chỉ ngồi vào đúng chỗ dành cho mình. Nếu cần nói pháp, thì nói cho đúng thời, đúng căn cơ và đừng nói dài quá. Tránh sự phô bày kiến thức để cầu sự khâm phục của người. Bài pháp phải có tính cách thực tiễn, giúp người đương sự vượt thoát những khó khăn hiện thời của họ bằng phương pháp thực tập. Chỉ nói pháp khi người nghe pháp ngồi nghiêm chỉnh và ăn mặc chỉnh đốn. Không nên cười lớn, cười khúc khích với nhau. Ngồi thọ trai phải giữ uy nghi, như ăn cơm trong đại chúng. Không nên đến nhà đàn việt vào buổi tối, dự tiệc tùng hoặc tìm cách ở lại đêm. Không nên cùng người khác phái ngồi riêng ở chỗ không có người thứ ba. Phải nhìn thẳng phía trước, mắt không được láo liên. Nói chuyện với người khác phái, không nên nói nhỏ hoặc thầm thì. Không được ngồi vào một bàn ăn có rượu và các thức ăn mặn. Không nên khen những vật dụng trong nhà khiến người ta có thể nghĩ đến việc cúng dường những vật ấy cho mình. Không được nói gần nói xa hay than vãn túng thiếu để mưu cầu sự cúng dường tài vật. Không nên kể về tình trạng tu học khó khăn của mình hay của các vị khác trong tự viện làm thối thất đạo tâm của người đàn việt. Không nên la cà nơi nhà cư sĩ hay phố thị để nói chuyện phiếm hay ăn quà bánh.

Về thăm gia đình cũng nên mời một vài bạn đồng tu cùng đi. Vào nhà, trước là thăm hỏi cha mẹ, anh em, sau đó lạy Bụt, lễ bàn thờ tổ tiên, rồi mới đi thăm bà con giòng họ. Không nên nói về những khó khăn gặp phải trong đời sống xuất gia, khiến gia đình lo cho mình. Nên biểu lộ tính cách tươi mát, vững chãi, thảnh thơi và an lạc của mình để gia đình cùng được lợi lạc và có thêm niềm tin nơi nếp sống giải thoát. Nên nhớ người xuất gia có bổn phận độ cho được gia đình mình. Trong thời gian thăm viếng, giữ gìn đầy đủ phong độ người xuất gia, duy trì chánh niệm trong mọi câu nói và mọi động tác. Ngồi trong tư thế hoa sen để trình bày cái thấy của mình về tình trạng gia đình và đề nghị những pháp môn và những giải pháp giải quyết các tình trạng ấy. Sắp đặt để cả gia đình cùng được thực tập ăn cơm chánh niệm, thiền tọa, thiền hành, tụng giới và pháp đàm với mình trong thời gian thăm viếng. Giữ công khóa giống hệt như ở thiền viện. Về thăm gia đình, không nên hết xin cái này đến xin cái khác. Được gia đình hiến tặng gì cũng nên đem về chia đều cho tăng thân. Nên viết thư đều về gia đình để có thể chia sẻ hạnh phúc và thành quả tu học của mình để gia đình có thêm đức tin và hạnh phúc.

Chương XXXVI – Hướng dẫn các khóa tu

Ít nhất cũng phải được thực tập ba năm tại tu viện, mới được tăng thân cử đi hướng dẫn một khóa tu. Trong thời gian thực tập tại tu viện, phải học và nắm cho được kỹ thuật tổ chức những khóa tu, khóa bảy ngày, khóa năm ngày, khóa cuối tuần, khóa một ngày. Khóa một ngày được gọi là Ngày Quán Niệm. Các pháp môn thiền ngồi, thiền đi, thiền nằm, thiền trà, thiền lạy, pháp đàm, ăn cơm chánh niệm, hơi thở ý thức, phải nắm cho thật vững và phải có kinh nghiệm. Không được chỉ dạy lý thuyết, phải đem kinh nghiệm tu chứng của mình ra để hướng dẫn người.

Đi hướng dẫn khóa tu không được đi một mình, trừ trường hợp bất khả kháng. Nên đi với ít ra là ba bạn đồng tu khác. Trong thời gian đi mở các khóa tu, mình và các vị cộng sự mỗi ngày phải họp nhau ít nhất một lần để trao đổi và cùng quyết định về cách thức tổ chức và hướng dẫn. Không nên tự ý một mình quyết định, dù mình có hạ lạp lớn nhất trong đoàn. Tinh thần hòa hợp và hạnh phúc của tăng thân là bài pháp thoại hùng hồn nhất. Nên sắp đặt để mọi người trong ban hướng dẫn đều có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm tu tập.

Phải lắng nghe và tìm hiểu những khó khăn, khổ đau và ước vọng của những người ghi tên trong khóa tu để có thể cống hiến những bài pháp thoại và những pháp môn thực tập thích hợp. Trong các buổi pháp đàm và vấn đáp, khuyến khích thiền sinh chỉ nên nêu ra những câu hỏi có tính cách thực tập, và đừng để cuộc đàm luận đi vào lãnh vực thuần lý thuyết. Nếu có thời gian để cho thiền sinh tham vấn, nên dành cơ hội cho những người có nhu yếu lớn nhất.

Chương XXXVII – Du phương cầu học

Chỉ nên xin Thầy và chúng đi học khi thấy trong hoàn cảnh tu học hiện tại mình không có đủ điều kiện tu tiến. Chỉ đi với mục đích tìm cầu pháp môn tu tập mà không đi với mục đích tìm kiếm bằng cấp hoặc chất chứa kiến thức, nhất là kiến thức không phải Phật học. Nên chọn học viện trong đó có tăng thân tu học hài hòa và hạnh phúc. Đừng nên xin đi du học ở các nơi trong đó mình không được ở và tu học với tăng thân. Không được mướn nhà trọ hoặc ở nhà người cư sĩ mà đi học. Không được học ngành kỹ sư, nha sĩ, y sĩ và các ngành chuyên môn khác của thế học, bởi vì đó không phải là mục đích của người xuất gia. Môn học chính phải là Phật học, nhưng kiến thức Phật học phải có tác dụng soi sáng cho sự tu học của mình chứ không phải chỉ để giúp mình trở thành một nhà học giả. Ngoài môn Phật học, có thể học thêm một trong những cổ ngữ có liên hệ tới Phật học như Nam Phạn (Pali), Bắc Phạn (Sanskrit), chữ Hán hay chữ Tây Tạng. Cũng có thể học thêm căn bản các môn tâm lý học áp dụng, lịch sử các nền văn minh thế giới và lịch sử tôn giáo. Các môn này có thể giúp ta hiểu thêm về Phật học và giúp ta sau này trong việc giảng dạy Phật pháp cho khế cơ.

Chương XXXVIII – Thể dục thể thao

Theo Bụt dạy, thân và tâm là một. Để có thể đi xa trên con đường tu tập, người xuất gia phải biết cách chăm sóc thân. Thể dục thể thao giúp cho thân thể được cường tráng mạnh khỏe. Thể dục thể thao cũng giúp cho người Sa di trẻ kiểm soát được năng lượng tình dục, vốn là một năng lượng tự nhiên. Nếu không vận động, không thể thao, năng lượng dư thừa không được sử dụng sẽ có khuynh hướng làm năng lượng tình dục tăng trưởng và trở nên khó kiểm soát, gây trở ngại cho sự tu tập. Vì nguyện sống độc thân để dành hết năng lượng dấn thân giúp đời, người xuất gia cần biết bảo tồn tinh, khí và thần. Thể dục thể thao sẽ giúp tăng cường khí lực, làm nhẹ nhàng tinh thần, tiết chế năng lượng tình dục (bảo tồn tinh). Vì vậy nên tập thể dục mỗi ngày. Tốt nhất là nên tập khi vừa thức giấc để các động tác làm máu huyết lưu thông cùng khắp thân thể trước khi đi ra ngoài. Trong ngày nên có 30 phút thể dục, thể thao hoặc tập khí công hay du già. Nếu yếu sức, ta có thể bắt đầu với phương pháp đi bộ mỗi ngày. Nên tập cách bữa ăn ít nhất hai tiếng đồng hồ, vì khi đói sự vận động giúp ta tăng cường khả năng chịu đựng cái đói và giúp cho sự tiêu hóa tốt hơn. Nên tập đều đặn. Không nên tập quá sức để tránh bị mệt mỏi cả ngày sau đó. Nhưng cũng nên tập vừa đủ thời gian để toàn thân ấm lên (nếu ở xứ lạnh) hoặc đến khi đổ mồ hôi trong khi vận động hoặc ngay sau khi vận động. Nên theo dõi hơi thở và nhịp tim để điều hòa chúng bằng phương pháp thư giãn. Nên có tinh thần cầu tiến bằng cách thực tập chung với những người bạn đồng tu.

Có thể mặc áo vạt hò trong khi tập thể thao nhưng phải kín đáo. Tập thể dục ở nơi quy định, cũng nên giữ ý tứ và uy nghi.

Chương XXXIX – Thiền Buông Thư và thanh lọc cơ thể

Thiền Buông Thư có thể giúp ta giải tỏa sự căng thẳng của hệ thần kinh và của các bắp thịt, tránh được sự bực bội, cau có, tình trạng đánh mất chủ quyền của thân tâm, và cuối cùng là tật bệnh. Đôi khi chỉ cần buông thư mười phút cũng đủ để làm mới thân tâm. Vì vậy ta cần tự bảo vệ và nuôi dưỡng mình bằng sự thực tập buông thư mỗi ngày. Trong tư thế nằm ngửa, hai tay buông xuôi, chân thả thẳng, trước hết ta theo dõi hơi thở và sự phồng lên, xẹp xuống của bụng. Rồi từ từ, ta chú ý chăm sóc, gửi năng lượng thương yêu, niềm biết ơn và nụ cười tới với từng bộ phận của cơ thể để buông thư, làm lắng dịu những căng thẳng và đau nhức của thân, tâm. Như máy tảo miên (scanner), với chánh niệm, ta buông thư từ tỉnh đầu, mắt, mũi, miệng, gương mặt, cổ, v.v… cho đến gót chân, không sót một bộ phận nào. Ta có thể ưu tiên dành nhiều thì giờ hơn cho những bộ phận mệt mỏi hoặc đau nhức.

Mỗi năm nên thực tập nhịn ăn để thanh lọc cơ thể và bộ máy tiêu hóa, ít nhất là một lần, mỗi lần mười ngày. Trong thời gian này, mỗi ngày nên uống chừng ba lít nước lọc, tốt hơn là nước ấm. Ngày đầu có thể dùng thuốc xổ, và trong những ngày kế tiếp cũng có thể dùng thuốc xổ liều lượng rất nhẹ, chừng một thìa cà phê muối ma-gnê-si-um ngâm sẵn trong một ly nước lọc đầy từ tối hôm trước, uống vào buổi sáng khi thức dậy.

Thực tập như thế sẽ thanh lọc được cơ thể, đưa ra ngoài cơ thể các độc tố không những bám trong ruột non và ruột già mà còn chứa chất khắp nơi trong cơ thể. Vào ngày thứ ba của thời gian thanh lọc, độc tố rã ra từ thành ruột có thể thấm vào máu ít nhiều khiến cho cơ thể rã rời, và ta có cảm tưởng là ta yếu đi vì đang nhịn ăn. Kỳ thực không phải như vậy. Cơ thể ta có thể nhịn ăn nhiều tuần lễ trong khi ta vẫn có thể sinh hoạt bình thường. Khi cảm thấy cơ thể rã rời như vậy, phương pháp hay nhất là uống thêm thật nhiều nước để độc tố có thể bài tiết ra bằng đường nước tiểu. Đồng thời nên tắm rửa kỳ cọ cơ thể mỗi ngày, vì độc tố cũng sẽ đi ra bằng lỗ chân lông. Độc tố cũng đi ra dưới hình thức hơi, vì vậy ta cần phải thực tập hô hấp sâu và dài để giúp hai lá phổi bài tiết thêm khí độc. Nếu thận, gan và tim yếu thì nên tham vấn bác sĩ trước khi thanh lọc cơ thể bởi vì trong thời gian thanh lọc thì tim, gan và thận phải làm việc rất nhiều. Thuốc giọt dùng để trợ tim, trợ gan và trợ thận rất bổ ích trong thời gian thanh lọc cơ thể. Trong mười ngày thực tập, những cấu uế chất chứa trong ruột có thể được tiết ra hàng kí lô; có những cặn bã đã nằm trong thành ruột lâu hơn sáu tháng hoặc một năm. Sau thời gian rửa ruột, nước da của ta sẽ sáng, thần sắc ta sẽ tươi tỉnh gấp bội, ta sẽ ngủ ngon lên rất nhiều và tinh thần ta rất phấn chấn. Trong thời gian mười ngày, ta có thể vẫn tham dự vào thời khóa một cách đầy đủ; ta sẽ không hề yếu đi vì nhịn ăn. Nếu có thể thì nên cùng thanh lọc cơ thể với nhiều vị đồng tu để có thể nâng đỡ nhau. Khi bắt đầu ăn uống trở lại thì ngày đầu chỉ được ăn nước cháo, ngày thứ nhì ăn cháo. Ngày thứ ba ta đã có thể ăn cơm nhưng ăn ít thôi và nhai thật nhỏ cho đến khi cơm biến thành cháo mới nuốt. Ngày thứ tư ta có thể ăn uống bình thường. Nếu muốn biết rõ thêm, nên tham vấn những vị đã từng thực tập. Có nhiều phương pháp thanh lọc cơ thể, nên tìm hiểu và tham vấn kỹ lưỡng trước khi làm.

Chương XL- Làm mới

Làm mới tức là bắt đầu trở lại. Đây là phép thực tập nhìn lại tình trạng và mối liên hệ giữa mình với người khác để có thể hóa giải những hiểu lầm, buồn giận, ganh tỵ và khổ đau, đem sự truyền thông và hạnh phúc lại cho nhau. Người mà ta có thể cần làm mới là Thầy ta, sư anh, sư chị, sư em hay người bạn đồng tu của ta. Làm mới cũng là một hình thức của sự thực tập sám hối, cần đến tâm thành khẩn và ý chí thực tập để thay đổi tình trạng. Ngoài những buổi thực tập sám hối hay làm mới với đại chúng, nên biết tự thực tập làm mới với chính mình bằng hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm trong đời sống hằng ngày. Nếu đã vì thiếu chánh niệm mà nói hay làm một điều gì gây khổ đau và đổ vỡ trong ta và nơi người thì phải biết thực tập làm mới liền, đừng đợi đến ngày làm mới với đại chúng. Phải biết lợi dụng sức mạnh của tăng thân mà phát lời nguyện quyết tâm sửa đổi những thói quen không tốt của mình. Phải cam kết với Thầy và với tăng thân là khi mình có vấn đề với một sư anh, sư chị hay sư em của mình, mình sẽ cố tìm cách nói ra cho người kia hoặc cho tăng thân biết để hóa giải. Không nên giữ kín trong lòng và tìm cách giấu Thầy và giấu tăng thân về những khó khăn của mình với người anh em đồng tu, rồi đi nói với một hai người để kiếm đồng minh. Phải tìm cơ hội gặp gỡ và giải tỏa với người ấy hoặc bằng lời hoặc bằng lá thư trong vòng ba ngày, nhiều lắm là bảy ngày. Nếu bảy ngày đã đi qua mà mình chưa hóa giải và làm mới được thì phải đi tìm một sư anh, một sư chị hay một sư em mà cả hai đều thương kính và tin cậy để cầu xin sự giúp đỡ. Nếu không tìm ra thì phải đến với Thầy để nhờ Thầy. Phải biết sức khỏe và hạnh phúc của Thầy cũng như của tăng thân tùy thuộc nơi sự hòa thuận và an vui của mình với những thành phần khác trong đại chúng. Phải học và nắm cho vững phương pháp ái ngữ và lắng nghe để có thể thành công dẽ dàng trong sự thực tập làm mới. Phải tập nói và tập nghe với tâm từ bi.

Khi nghe người kia nói lên niềm đau, ta có thể nghĩ rằng người ấy có tri giác sai lầm và đã tự làm khổ họ, chứ ta không hề có ý làm cho người kia khổ. Tuy nhiên ta không cắt lời, phản ứng, đính chính ngay trong lúc ấy để đừng biến giờ làm mới thành một cuộc tranh luận. Đừng vội phản ứng và phán xét. Ta chỉ nên lắng nghe với tâm từ bi và tâm tha thứ. Nghe xong, ta chắp tay cám ơn người ấy, cho người ấy biết rằng ta đã lắng nghe, ghi nhận những điều người ấy nói và ta sẽ chiêm nghiệm lại cho sâu sắc về những gì đã xảy ra. Ta tìm hiểu những lý do nào đã đưa tới tri giác sai lầm của người kia, để thấy ta đã làm gì hay nói gì để làm người ấy hiểu lầm như vậy, và ta sẽ hành xử như thế nào trong những ngày tới để giúp người ấy điều chỉnh nhận thức của họ. Nếu ta thấy được sự vụng về hoặc lầm lỡ của ta thì ta phải tìm cách xin lỗi và hứa sẽ thực tập hay hơn trong những ngày tới.

Phép làm mới cũng có thể thực hiện giữa mình với người thứ hai, thứ ba hay trong một nhóm tăng thân nhiều người. Mọi người ngồi thành vòng tròn. Chính giữa vòng tròn có một bình hoa nhỏ, tượng trưng cho sự tươi mát và chánh niệm. Sau khi vị chủ tọa thỉnh ba tiếng chuông và nói lời khai thị thì người muốn làm mới có thể chắp tay xá, đứng lên và thong thả đi đến thỉnh bình hoa về để trước mặt mình. Chỉ người có bình hoa trước mặt mới có quyền nói, những người khác thì ngồi thực tập theo dõi hơi thở, nhìn người kia nói và lắng nghe với tâm từ bi. Khi nói ta phải sử dụng ái ngữ, nghĩa là lời nói dịu dàng, trầm tĩnh, không lên án, không chỉ trích, không trách móc. Trong khi nói, có thể là những vết thương trong ta bị chạm tới. Nếu tâm hành buồn giận phát khởi thì ngừng nói và trở về theo dõi hơi thở. Vị chủ tọa nên thỉnh một tiếng chuông để yểm trợ cho sự thực tập của vị này. Chừng nào nhận thấy tâm bình an trở lại, ta mới tiếp tục nói. Đây là quá trình thực tập:

1-   Tưới hoa: Trong phần này, ta nhắc đến những điểm tích cực, công nhận những cái hay và những cái dễ thương của người kia. Đây không phải là nói nịnh, làm lớn sự tự hào, tự phụ của người kia, mà để giúp người kia có thêm tự tin nơi chính bản thân họ, và do đó người ấy sẽ cố gắng phát triển những điểm tích cực ấy, những điểm có thể tạo dựng hạnh phúc cho tự thân và cho người khác. Đây cũng là để tự nhắc ta có một cái nhìn đầy đủ hơn về người kia.

2-   Tự tỉnh: Trong phần này, ta tự nói về những thiếu sót của chính ta, những lúc ta thiếu chánh niệm và vì vậy đã vụng về nói những lời hoặc có những cử chỉ đã có thể làm buồn lòng người khác. Và ta hứa sẽ thực tập khá hơn trong những ngày sắp tới để không lặp lại những vụng dại vừa qua.

3-   Nói lên niềm đau: Trong phần này, ta có thể nói lên niềm đau của ta, niềm đau mà ta ngỡ rằng đã được phát sinh do một lời nói hay một cử chỉ của người kia. Chỉ nói với mục đích để người kia hiểu mình. Trong khi nói, ta ý thức được rằng có thể ta cũng có những tri giác sai lầm và ta cầu mong người kia vui lòng chỉ bảo và soi sáng cho ta. Ta có thể thêm rằng vì sự thực tập của ta còn yếu kém nên còn dễ buồn, dễ giận như vậy và mong người kia yểm trợ ta trong sự thực tập, lần sau xin đừng nói và đừng làm như thế.

Chương XLI – Soi sáng

Muốn cho sự thực tập của mình đem lại thành quả mau chóng, vị Sa di phải biết cầu tăng thân soi sáng cho mình. Đây là một pháp môn thực tập để xây dựng tăng thân, căn cứ trên truyền thống lễ Tự tứ của Tăng đoàn xuất gia tổ chức để soi sáng cho nhau. Ta phải lạy xuống, thành khẩn thỉnh cầu toàn thể tăng thân chỉ cho ta thấy những ưu điểm và những khuyết điểm của ta và bày cho ta những phép tu tập cụ thể mà ta đang thực sự cần đến. Con mắt của tăng thân bao giờ cũng sáng hơn con mắt của cá nhân, vì vậy cầu tăng soi sáng đích thực là một hành động quy y Tăng.

Thực tập soi sáng gồm có hai phần:

1) Đối tượng soi sáng tự soi sáng:

Ta trình bày ra cho đại chúng thấy những ưu, khuyết điểm, những thành quả tu học và những chuyển hóa của mình trong sự thực tập uy nghi và những khía cạnh khác trong đời sống tăng thân. Khi đã tự soi sáng cho chính mình rồi, ta phải tha thiết cầu xin đại chúng soi sáng để giúp ta thấy rõ hơn những gì hay, những gì đẹp và những gì vụng về trong cách hành xử và nói năng, kể cả những thiếu sót trong sự thực tập của mình. Ta phải lắng nghe đại chúng soi sáng với tất cả lòng biết ơn.

2) Đại chúng soi sáng cho đối tượng được soi sáng:

Khi thực tập soi sáng, ta phải biết rằng ta và mỗi người trong đại chúng đều là những thành phần của một tăng thân, đều là xương thịt của một tăng thân, vì vậy ta cũng ý thức rằng soi sáng cho bất cứ ai trong tăng thân cũng là tự soi sáng cho chính mình. Ta nguyện đem hết tình thương và sự hiểu biết của ta để thực tập công việc soi sáng. Ta nguyện tất cả những gì ta nói ra đều phát sinh từ thiện ý muốn đi tới một cái thấy chính xác về đối tượng soi sáng và cống hiến những đề nghị thực tập thực tế có thể đưa tới những chuyển hóa tốt đẹp cho đối tượng soi sáng. Ta nguyện cố gắng không để cho sự buồn giận và những thành kiến làm sai lệch cái thấy của ta. Ta phải nguyện bất cứ một lời nói nào của ta cũng đều phát xuất từ tình thương và quyết tâm xây dựng phẩm chất tu học của tăng thân. Sử dụng ngôn ngữ hòa ái mà không phán xét hoặc lên án. Ta biết trong khi soi sáng cho một thành phần của tăng thân, ta cũng đang soi sáng cho chính bản thân ta, vì vậy việc thực tập soi sáng cũng đem lại rất nhiều lợi lạc cho bản thân và cho tăng thân.

Những gì đã được chia sẻ trong buổi soi sáng sẽ được ghi chép lại thành một lá thư. Lá thư soi sáng bao giờ cũng nói tới những điểm tích cực của đương sự để giúp người ấy thấy được và làm giàu thêm những hạt giống lành sẵn có. Sau đó mới nói tới những điểm tiêu cực và sau hết là những lời chỉ bày giúp cho đương sự thực tập để chuyển hóa và đi tới.

Để tiếp nhận lá thư soi sáng, ta phải ra trước đại chúng, im lặng phát nguyện nương tựa vào cái thấy của tăng thân và lạy tạ trước sự chứng minh của Bụt, Pháp và Tăng.

    Xem thêm:

  • Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Oai Nghi (Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo) - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 34 - Luật Tạng
  • Khuyên Dạy Các Vị Tỳ Kheo Mới Phải Nghiêm Trì Giới Luật - Luật Tạng
  • Luật Tứ Phần – Phần 4: Tạp Pháp – Chương 1. Phòng Xá - Luật Tạng
  • Căn Bản Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ Ni Đà Na Mục Đắc Ca - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 31 - Luật Tạng
  • Luật Tứ Phần – Phần 3: Tăng Sự – Chương 6. Y - Luật Tạng
  • Pháp Thức Căn Bản Của Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ Tì Nại Da Về Yết Sỉ Na Y - Luật Tạng
  • Giới Tì Kheo Trong Luật Tứ Phần – Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch - Luật Tạng
  • Luật Tỳ Nại Da Tạp Sự – Quyển 19 - Luật Tạng
  • Bước Tới Thảnh Thơi phần 6 – Nghi Thức Tụng Mười Giới - Luật Tạng
  • Giới Tì Kheo Trong Luật Tứ Phần – Thích Trí Thủ dịch - Luật Tạng
  • Giới Tì Kheo Ni Trong Luật Tứ Phần – Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch - Luật Tạng
  • Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Hàm Chú Giới Bổn - Luật Tạng
  • Pháp Thức Căn Bản Của Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ Tì Nại Da Về Việc Xuất Gia - Luật Tạng
  • Sa Di Thập Giới Nghi Tắc - Luật Tạng
  • Một Thời Truyền Luật - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 03 - Luật Tạng
  • Bước Tới Thảnh Thơi phần 2 – Mười Giới Sa Di - Luật Tạng
  • Luật Tứ Phần – Phần 3: Tăng Sự – Chương 3. An Cư - Luật Tạng