QUYỂN 535
XXIX. PHẨM THÍ BÌNH ĐẲNG 04
Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát này thường nên tu hành bố thí Ba-la-mật-đa như vậy. Do bố thí Ba-la-mật-đa này nên từ lúc mới phát tâm cho đến được rốt ráo không bị đọa vào ác thú, nghèo hèn, biên địa. Vì muốn lợi ích an vui cho các hữu tình nên phần nhiều được sanh làm người, làm Chuyển luân vương giàu sang tự tại, được nhiều điều lợi ích.
Vì sao? Vì nhờ sức lực của hạt giống nên mới cảm quả như vậy. Nghĩa là Bồ-tát kia làm Chuyển luân vương, thấy người đến xin liền suy nghĩ: Ta nhờ làm việc gì mà ở trong vòng sanh tử được làm Chuyển luân vương? Nay ta ở trong sanh tử, hưởng quả báo tốt này phải làm lợi ích an vui cho hữu tình, chứ không làm việc gì khác cả?
Nghĩ như vậy rồi, bảo những người đến xin:
“Các ngươi tùy ý, cần dùng các thứ của cải chi, ta đều thí cho. Khi các ngươi đến lấy vật dụng, nghĩ nó như của mình, đừng nghĩ của người khác. Vì sao? Vì ta nhờ các ngươi nên được an vui mà thọ thân này, chứa nhóm của cải, nên của cải này là của các ngươi, tùy ý thọ dụng, hay cho người khác dùng, chớ có ngại ngùng.”
Khi Đại Bồ-tát này khởi tâm thương xót các hữu tình như vậy, nên mau được viên mãn tâm vô duyên đại bi. Nhờ tâm đại bi mau viên mãn nên tuy thường làm lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình nhưng đối với hữu tình đều vô sở đắc, và cũng chẳng đắc sự cảm thắng quả, nên biết một cách như thật, chỉ do lời nói của thế tục lập ra nhiều thứ lợi ích an vui cho các hữu tình. Lại biết một cách như thật việc lập ra đều giống như tiếng vang, như ảnh tượng, tuy hiện ra tựa có nhưng không chân thật. Vì sự việc này nên đối với các pháp đều không nắm bắt.
Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát thường nên tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, như vậy, nghĩa là đối với hữu tình không có sự luyến tiếc. Cho đến xương thịt, thân thể còn đem bố thí, huống là các của cải bên ngoài. Đem các của cải bố thí, giáo hóa cho hữu tình mau được giải thoát sanh, lão, bệnh, tử.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đem của cải nào để nhiếp hóa hữu tình mau giải thoát sanh, lão, bệnh, tử?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đem vật dụng của mình để tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Đem vật dụng của mình để trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.
Đem vật dụng của mình để trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Đem vật dụng của mình để trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.
Đem vật dụng của mình để tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.
Đem vật dụng của mình để tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Đem vật dụng của mình để tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.
Đem vật dụng của mình để tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ.
Đem vật dụng của mình để tu Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa.
Đem vật dụng của mình để tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa.
Đem vật dụng của mình để tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.
Đem vật dụng của mình để tu năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Đem vật dụng của mình để tu mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Đem vật dụng của mình để tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.
Đem vật dụng của mình để tu ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ.
Đem vật dụng của mình để tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.
Đem vật dụng của mình để tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Đem vật dụng của mình để được quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề.
Đem vật dụng của mình để hành hạnh Đại Bồ-tát.
Đem vật dụng của mình để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết! Các của cải thiện pháp như vậy nhiếp hóa hữu tình, làm cho mau được giải thoát sanh, lão, bệnh, tử. Các Đại Bồ-tát thường dùng các thứ của cải như thế làm phương tiện thiện xảo nhiếp hóa hữu tình, giúp cho mau được giải thoát các khổ sanh, lão, bệnh, tử.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ nơi bố thí Ba-la-mật-đa, tự mình hành bố thí Ba-la-mật-đa, khuyên các hữu tình hành bố thí rồi, nếu còn thấy hữu tình hủy phá tịnh giới thì nên sanh tâm thương xót, khuyên bảo họ: “Các ngươi phải nên thọ trì tịnh giới, ta sẽ bố thí của cải cho, các ngươi từ nay không bị thiếu thốn. Bởi vì các ngươi thiếu thốn vật dụng sanh nhai nên mới hủy phá tịnh giới, gây các ác nghiệp, nay ta sẽ tùy theo sự thiếu thốn đó mà cung cấp cho các ngươi được đầy đủ. Các ngươi an trụ nơi giới luật thanh tịnh này tuần tự sẽ được đoạn trừ các khổ, nương theo pháp Tam thừa, tùy theo chỗ thích ứng, thoát khỏi khổ sanh tử, được vui Niết-bàn.”
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, tự mình thọ trì tịnh giới, cũng khuyên người khác thọ trì tịnh giới, thường tự mình khen ngợi pháp thọ trì tịnh giới, vui mừng khen ngợi người thọ trì tịnh giới.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, khuyên các hữu tình an trụ vào tịnh giới, thoát khổ sanh tử, được vui Niết-bàn.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình sân giận lẫn nhau, sanh tâm thương xót, khuyên bảo họ: “Nguyên nhân nào các ngươi sân giận với nhau như vậy? Các ngươi nếu vì sự thiếu thốn mà cùng nhau tạo các ác nghiệp, thì nên đến ta sẽ bố thí cho, đừng có ngại ngùng. Tùy theo các ngươi cần dùng ta đều thí cho. Các ngươi chẳng nên sân giận với nhau mà nên tu an nhẫn, cùng phát từ tâm.”
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, khuyên các hữu tình tu an nhẫn rồi, muốn làm cho họ có niềm tin vững chắc, khuyên họ như vầy: “Nhân duyên sân giận đều không nhất định, không có thật, từ vọng tưởng phân biệt khởi ra, vì tất cả pháp bản tánh Không. Nguyên nhân nào các ngươi đối với pháp không thật mà vọng sanh sân giận, tổn hại với nhau? Các ngươi đừng vì nhân hư vọng phân biệt mà sân giận với nhau, tạo ra các ác nghiệp phải đọa vào địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ và chỗ xấu ác, chịu các sự khổ nặng nề. Sự khổ ấy thật là khóc liệt, bén nhọn, cắt hại thân tâm vô cùng đau đớn. Các ngươi đừng chấp vào việc chẳng thật, vọng tưởng sân giận tạo ra các ác nghiệp. Do nghiệp tội này thọ thân người hạ liệt còn khó có thể được, huống là sanh lên cõi trời, hoặc cõi người, hoặc gặp Phật nghe pháp, hết lòng tin thọ, như lời dạy mà tu hành.
Các ngươi nên biết! Thân này khó được, Phật ra đời khó gặp, phát sanh niềm tin lại khó, nghe pháp thọ trì lại càng khó hơn. Ngày nay các ngươi đã đầy đủ sự kiện này, đừng vì sân giận mà đánh mất thời cơ tốt đẹp. Nếu mất thời cơ này khó tìm lại được. Vậy nên, các ngươi đối với các hữu tình đừng sanh sân giận, phải tu an nhẫn.”
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, tự mình hành an nhẫn, cũng khuyên người khác hành an nhẫn, thường tự mình khen ngợi pháp hành an nhẫn, vui mừng khen ngợi người hành an nhẫn.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, khuyên các hữu tình tu hành an nhẫn. Các loài hữu tình do sự tuần tự này lần lần nương vào Tam thừa mà được giải thoát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình thân tâm biếng nhác, sanh lòng thương xót, khuyên bảo họ: “Nguyên nhân nào các ngươi không siêng năng tinh tấn tu các thiện pháp, lại sanh biếng nhác như vậy?” Người ấy trả lời: “Bởi vì chúng tôi thiếu thốn của cải, nên đối với thiện pháp chẳng siêng năng tu được.” Bồ-tát bảo: “Ta sẽ cho của cải để được đầy đủ, không bị thiếu thốn. Các ngươi nên siêng năng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã.”
Khi được Bồ-tát bố thí của cải rồi, các hữu tình này không còn thiếu thốn, thân tâm phấn khởi, tinh tấn tu các thiện pháp mau được viên mãn. Hữu tình nhờ thiện pháp được viên mãn nên tuần tự phát sanh các pháp vô lậu. Nhờ pháp vô lậu nên được chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc quả Độc giác Bồ-đề, hoặc nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, tuần tự mình tu các địa vị của Bồ-tát, chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, tự mình hành tinh tấn, cũng khuyên người khác hành tinh tấn, thường tự mình khen ngợi pháp hành tinh tấn, vui mừng khen ngợi người hành tinh tấn.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, giáo hóa các hữu tình xa lìa sự biếng nhác, siêng năng tu các điều thiện, mau được giải thoát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình thân tâm tán loạn, sanh lòng thương xót, khuyên bảo họ: “Nguyên nhân nào các ngươi không tu tịnh lự, để bị tán loạn thất niệm, luân hồi sanh tử?” Người ấy trả lời: “Chúng tôi do thiếu thốn của cải, nên đối với tịnh lự chẳng tu tập được.” Bồ-tát bảo: “Ta sẽ bố thí cho các ngươi của cải để được đầy đủ, không bị thiếu thốn. Từ nay các ngươi không nên khởi tâm hư vọng phân biệt, chạy theo vật chất, tìm tòi các thứ bên ngoài, làm rối loạn tâm mình.”
Khi các hữu tình này được Bồ-tát bố thí của cải rồi, không còn bị thiếu thốn, liền đoạn trừ hư vọng phân biệt, tầm từ dục ác, nhập sơ tịnh lự; tuần tự được nhập vào các tịnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư. Nương vào các tịnh lự để đưa đến từ, bi, hỷ, xả và làm chỗ y chỉ cho bốn phạm trụ tịnh lự vô lượng, tuần tự nhập vào bốn định vô sắc, tịnh lự vô lượng, vô sắc. Điều phục tâm được nhu nhuyến rồi, tu bốn niệm trụ tuần tự cho đến tám chi thánh đạo. Do vậy phát sanh các pháp không, vô tướng, vô nguyện; tùy theo họ ưa thích đều làm cho đầy đủ và chứng được quả Tam thừa.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, tự mình tu tịnh lự, cũng khuyên người khác tu tịnh lự, thường tự mình khen ngợi pháp tu tịnh lự, vui mừng khen ngợi người tu tịnh lự.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, khuyên các hữu tình xa lìa tán loạn, tu các tịnh lự được lợi ích lớn.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ngu si điên đảo, sanh lòng thương xót, khuyên bảo họ: “Nguyên nhân nào các ngươi không tu Bát-nhã, lại ngu si điên đảo luân hồi sanh tử?” Người ấy trả lời: “Chúng tôi do thiếu thốn của cải nên đối với Bát-nhã không tu tập được.”
Bồ-tát bảo: “Ta sẽ bố thí cho các ngươi để được đầy đủ, không bị thiếu. Các ngươi nên nhận lấy. Trước hết tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự được viên mãn rồi, nên quán sát kỹ thật tướng của các pháp, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là hiện tại nên quán sát kỹ xem có chút pháp nào có thể đắc không? Nghĩa là ngã, hữu tình v.v… nói rộng cho đến người biết, người thấy có thể đắc không?
Sắc cho đến thức. Nhãn xứ cho đến ý xứ. Sắc xứ cho đến pháp xứ. Nhãn giới cho đến ý giới. Sắc giới cho đến pháp giới. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nhãn xúc cho đến ý xúc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Địa giới cho đến thức giới. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Các pháp theo duyên sanh ra. Vô minh cho đến lão tử. Cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Năm loại mắt, sáu phép thần thông. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề. Tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Xét kỹ mỗi một pháp đều có thể đắc không?”
Các hữu tình kia đã được của cải, khỏi bị thiếu thốn, y theo lời Bồ-tát dạy, trước hết tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự được viên mãn rồi, lại quán sát kỹ thật tướng các pháp tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi quán sát kỹ như trước đã nói, thật tánh các pháp đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên không còn chấp trước. Vì không chấp trước nên không thấy chút pháp có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh. Người kia đối với các pháp vô sở đắc, đối với tất cả chỗ không sanh phân biệt, nghĩa là không phân biệt đây là địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ, A-tu-la, trời, người; cũng không phân biệt trì giới, phá giới; cũng không phân biệt phàm phu, Thánh giả; cũng không phân biệt đây là Dự lưu cho đến đây là Bồ-tát, chư Phật; cũng không phân biệt hữu vi, vô vi v.v… Người kia do không phân biệt như vậy nên tùy theo chỗ thích ứng tuần tự chứng đắc Thánh quả của Tam thừa.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, tự mình tu Bát-nhã, cũng khuyên người khác tu Bát-nhã, thường tự mình khen ngợi pháp tu Bát-nhã, vui mừng khen ngợi người tu Bát-nhã.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, khuyên các hữu tình siêng năng tu Bát-nhã, làm cho họ được an vui thù thắng hoàn toàn.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, tự mình hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa rồi, lại thấy hữu tình luân chuyển trong các đường, chịu khổ sanh tử, chưa được giải thoát. Bồ-tát vì muốn giúp cho họ giải thoát khổ sanh tử, nên trước dùng các thứ của cải, sau đó bằng phương tiện thiện xảo dùng các pháp vô lậu xuất thế mà giáo hóa họ.
Các hữu tình kia đã được của cải, không bị thiếu thốn, thân tâm mạnh mẽ, có thể an trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Có thể an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Có thể an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Có thể tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Có thể tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Có thể tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Có thể tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Có thể tu Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Có thể tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Có thể tu pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Có thể tu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Có thể tu mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Có thể tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Có thể tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Có thể tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Có thể tu vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Các hữu tình kia do được pháp vô lậu nhiếp thọ nên giải thoát sanh tử, được vui Niết-bàn.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, tự mình hành các thắng pháp vô lậu, cũng khuyên người khác hành các thắng pháp vô lậu, thường chân chánh khen ngợi hành các thắng pháp vô lậu, vui mừng khen ngợi người hành các thắng pháp vô lậu.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, đem pháp vô lậu nhiếp thọ hữu tình, làm cho thoát khổ sanh tử, được vui Niết-bàn.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình không nơi nương tựa, chịu nhiều khổ não, thiếu thốn tài vật, thiếu thốn của cải, sanh lòng thương xót, an ủi họ: “Ta có thể vì các ngươi làm chỗ nương tựa, cho các ngươi được giải thoát các việc khổ não. Các ngươi cần y phục, thực phẩm và các tài vật khác, đều tùy ý xin, ta sẽ cung cấp tùy theo sở thích để các ngươi được lợi ích an vui lâu dài. Khi các ngươi nhận vật của ta bố thí, xem như lấy của mình, chớ tưởng của người khác. Vì sao? Vì ta ở trong thời gian dài chứa nhóm tài vật cũng vì muốn cho các ngươi được lợi ích. Ngày nay các ngươi đem tâm vô ngại đối với tài vật này tùy ý nhận lấy. Lấy rồi, trước nên tùy ý mình thọ dụng, tu các thiện nghiệp, sau đem vật này thí cho các hữu tình, cũng làm cho họ tu theo điều thiện.
Nghĩa là làm cho họ tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cũng độ họ an trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Cũng độ an trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cũng độ an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Cũng độ tu hành ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề. Cũng độ tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng độ tu hành ba pháp môn giải thoát. Cũng độ tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng độ tu hành Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cũng độ tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Cũng độ tu hành pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Cũng độ tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Cũng độ tu hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng độ tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Cũng độ tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Cũng độ tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Cũng độ tu hành vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.
Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát này giáo hóa các hữu tình như vậy rồi, tùy theo sở thích của họ, dạy họ tu tập các pháp vô lậu, trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, cho đến hoặc trụ quả Độc giác Bồ-đề, hoặc trụ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo thành thục hữu tình, giúp họ giải thoát đường ác sanh tử, tùy duyên hóa độ làm cho chứng được Niết-bàn của Tam thừa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Đại Bồ-tát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa và các đạo đại Bồ-đề khác của Bồ-tát, dùng phương tiện thiện xảo, thành thục hữu tình?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát khi tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo thấy các hữu tình bị thiếu thốn tài vật, phiền não dẫy đầy, không tu thiện được, Bồ-tát thương xót bảo: “Nếu các ngươi vì sự thiếu thốn tài vật của cải, không tu thiện được thì ta sẽ cung cấp tài vật cho các ngươi, các ngươi không nên sanh ác nghiệp phiền não, nên chơn chánh tu học các thiện pháp bố thí v.v…”
Đại Bồ-tát này an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, đúng pháp giáo hóa các loài hữu tình: Nếu có người tham lam thì dạy tu bố thí, đối với thân mạng, tài vật không luyến tiếc.
Người phá giới dạy tu tịnh giới, nên chơn chánh thọ trì mười thiện nghiệp đạo, an trụ luật nghi giới không phá, không hủy, không uế, không tạp, cũng không chấp thủ.
Người sân giận dạy tu an nhẫn, dù bị hủy nhục gia hại, tâm không biến đổi.
Người biếng nhác dạy tu tinh tấn, tu các thiện pháp như chữa lửa cháy đầu.
Người tán loạn dạy tu tịnh lự, tâm thường vắng lặng, lìa các loạn động.
Người ngu si dạy tu diệu tuệ.
Người chấp trước, dạy quán pháp Không.
Đối với các công đức khác, người nào còn thiếu sót dạy họ siêng năng tinh tấn tu bồi những công đức ấy.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, dùng phương tiện thiện xảo độ họ giải thoát các đường ác khổ, hoặc giúp họ chứng đắc Niết-bàn của Tam thừa.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát nào tu hành bốn Ba-la-mật-đa khác và các đạo đại Bồ-đề khác của Bồ-tát, tất cả đều dùng phương tiện thiện xảo, và đem tất cả thiện pháp thành thục hữu tình, hoặc độ họ giải thoát các đường ác khổ, hoặc giúp họ chứng đắc Niết-bàn của Tam thừa
Mỗi mỗi nói rộng như pháp bố thí ở trước.
XXX. PHẨM PHẬT QUỐC 01
Bấy giờ, Thiện Hiện suy nghĩ: Thế nào gọi là đạo của Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát an trụ trong đạo ấy, mặc áo giáp công đức làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình mau chứng được trí nhất thiết trí.
Phật biết tâm niệm ấy, bảo Thiện Hiện:
– Thiện Hiện nên biết! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng và vô lượng vô biên các Phật pháp khác đều là đạo của Đại Bồ-tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nói chung tất cả pháp đều là đạo của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Không có chút pháp nhỏ nào mà các Đại Bồ-tát đều không học. Các Đại Bồ-tát nào không học các pháp ấy thì có thể chứng được trí nhất thiết trí không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không chứng được.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhất định không có chút pháp nhỏ nào mà các Đại Bồ-tát đều không học cả. Đại Bồ-tát nào không học các pháp ấy thì nhất định không thể chứng được trí nhất thiết trí.
Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không thể biết hết thì không thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác được.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tánh đều Không thì chứng Đại Bồ-tát làm sao học tất cả pháp? Làm sao Thế Tôn đối với pháp không hý luận mà phát sanh hý luận? Nghĩa là có phàp này, pháp kia, do đây, vì đây. Pháp này là thế gian, pháp này là xuất thế gian; pháp này là hữu lậu, pháp này là vô lậu; pháp này là hữu vi, pháp này là vô vi; đây là pháp phàm phu, đây là pháp Dự lưu. Nói rộng cho đến đây là pháp Bồ-tát, đây là pháp chư Phật.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Các pháp sở hữu tự tánh đều Không. Nếu tất cả pháp tự tánh chẳng Không thì các Đại Bồ-tát làm sao chứng đắc trí nhất thiết trí, vì tất cả pháp tự tánh đều Không. Vì vậy, Đại Bồ-tát nhất định chứng đắc trí nhất thiết trí. Cũng như ông đã nói: Nếu tất cả pháp tự tánh đều Không thì chúng Đại Bồ-tát làm sao học tất cả pháp, nói rộng cho đến đây là pháp Bồ-tát, pháp chư Phật.
Thiện Hiện nên biết! Các hữu tình nào biết tất cả pháp tự tánh đều không thì các Đại Bồ-tát không cần học tất cả pháp, cũng không cần chứng trí nhất thiết trí và vì các hữu tình mà giảng thuyết, khai thị làm gì. Bởi vì các hữu tình không biết các pháp tự tánh đều Không, nên Đại Bồ-tát nhất định phải học tất cả pháp và phải chứng được trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà giảng thuyết khai thị.
Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát khi mới tu học, đối với Bồ-tát đạo nên quán sát kỹ các pháp tự tánh đều bất khả đắc, chỉ có hư dối phân biệt tạo ra. Chúng ta quán sát các pháp tự tánh đều hoàn toàn không, không nên ở trong ấy sanh chấp thủ. Nghĩa là không nên chấp thủ sắc, cũng không nên chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến không nên chấp thủ tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng không nên chấp thủ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.
Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều Không, tánh Không chẳng nên chấp trước. Trong Không của tánh Không còn bất khả đắc, huống là tánh Không làm sao chấp trước cái Không được.
Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát khi quán sát tất cả pháp như vậy, đối với các pháp tánh, tuy không chấp trước nhưng đối với các pháp thường siêng năng tu học, chưa từng nhàm chán.
Đại Bồ-tát này an trụ trong đây, tu học quán sát tâm hành của các hữu tình sai khác. Nghĩa là quán sát tâm hành của các hữu tình này ở chỗ nào, đã quán sát rồi, như thật biết rõ tâm của chúng chỉ hành nơi hư vọng, phân biệt, chấp trước.
Bấy giờ, Bồ-tát suy nghĩ: Tâm hành này đã hành chỗ hư vọng, phân biệt, chấp trước. Ta độ chúng giải thoát, nhất định không khó. Đại Bồ-tát này nghĩ rồi an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo dạy bảo giáo giới các hữu tình: “Nay các ngươi nên xa lìa chỗ hư vọng, phân biệt, chấp trước, đạt đến chánh pháp, tu các hạnh lành.
Lại nói: “Nay các ngươi nên hành bố thí, sẽ được tài sản đầy đủ, nhưng đừng ỷ lại, sanh tâm kiêu mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong đây đều không chắc thật. Nay các ngươi nên hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa sẽ được các thứ công đức đầy đủ, nhưng đừng ỷ lại, sanh tâm kiêu mạn, buông lung.
Vì sao? Vì trong đây đều không chắc thật. Nói rộng cho đến ngày nay các ngươi nên hành quả Dự lưu cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và vô lượng vô biên các Phật pháp khác, nhưng đừng ỷ lại, sanh tâm kiêu mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong đây đều không chắc thật.”
Đại Bồ-tát này khi an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo dạy bảo giáo giới các hữu tình hành Bồ-tát đạo, tâm không còn chấp trước. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh không nên chấp trước, hoặc mình chấp, hoặc đối tượng để chấp đều vô tự tánh. Vì tất cả pháp tự tánh đều Không.
Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bồ-tát đạo, đối với tất cả pháp đều không chỗ trụ. Đem không chỗ trụ mà làm phương tiện, tuy hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhưng ở nơi ấy đều không chỗ trụ. Nói rộng cho đến tuy hành hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật và vô lượng vô biên các Phật pháp khác, nhưng ở nơi ấy đều không chỗ trụ.
Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành, tướng được hành, tất cả đều Không, nên ở trong ấy đều không chỗ trụ.
Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát tuy có thể chứng đắc quả Dự lưu, nói rộng cho đến Độc giác Bồ-đề, nhưng đối với nơi ấy không muốn chứng trụ. Vì sao? Vì có hai lý do, hai lý do đó là: Một là quả kia đều không tự tánh, người trụ, chỗ trụ đều bất khả đắc; hai là đối với chỗ trụ không sanh vui mừng, không cho là đủ.
Vì vậy, ở trong ấy không muốn chứng trụ. Nghĩa là chúng Đại Bồ-tát thường suy nghĩ: Ta nhất định phải chứng đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề, không thể không được, nhưng ở trong ấy không nên chứng trụ. Vì sao? Vì ta từ lúc mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đến nay, trong thời gian ấy không có lúc nào sanh ý tưởng khác, chỉ một lòng cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng ta nhất định sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không thể nửa chừng an trụ trong các quả.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này từ lúc mới phát tâm cho đến khi nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát không có ý tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này từ khi nhập sơ địa cho đến thập địa không ý tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chuyên tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không có lúc nào sanh tâm tán loạn. Nếu có sanh khởi ác nghiệp nơi thân, khẩu, ý đều cùng tương ưng với tâm Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này trụ tâm Bồ-đề, phát sanh Bồ-đề đạo, không bị các việc khác làm rối loạn nơi tâm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp hoàn toàn không sanh thì làm sao chúng Đại Bồ-tát phát sanh Bồ-đề đạo?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả pháp đều không sanh, ở đây tại sao còn hỏi về sự không tạo tác và sự không hướng đến, nên biết tất cả pháp đều không sanh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Có phải chư Phật xuất hiện ra đời, hoặc không xuất hiện ra đời thì pháp tánh, pháp giới các pháp vẫn thường trụ không?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng các hữu tình không hiểu rõ được pháp tánh các pháp là thường trụ, nên luân hồi sanh tử, chịu các khổ não. Các Đại Bồ-tát vì làm lợi ích cho hữu tình nên phát sanh Bồ-đề đạo. Nhờ Bồ-đề đạo làm cho hữu tình giải thoát hoàn toàn các khổ sanh tử, chứng được Niết-bàn thanh tịnh an vui.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nhờ dùng đạo phát sanh để được Bồ-đề phải không?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Không phải.
– Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng đạo không phát sanh để được Bồ-đề phải không?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Không phải.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng đạo sanh không sanh để được Bồ-đề?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Không phải.
– Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng đạo chẳng phải sanh chẳng phải không sanh để được Bồ-đề phải không?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Không phải.
Cụ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì Đại Bồ-tát làm thế nào để chứng được Bồ-đề?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Bồ-đề không do đạo hay chẳng phải đạo mà đắc. Vì sao? Vì Bồ-đề tức là đạo, đạo tức là Bồ-đề. Vì vậy, không do đạo hay chẳng phải đạo mà đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-đề tức là đạo, đạo tức là Bồ-đề thì Đại Bồ-tát đã đạt được Bồ-đề đạo, không thể không đạt được. Nếu vậy, lý do nào Thế Tôn lại vì các Bồ-tát nói mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp và vô lượng vô biên các Phật pháp khác, làm cho họ tu chứng?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ông có nói là Phật đạt Bồ-đề không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không có. Vì sao? Vì Phật tức là Bồ-đề, Bồ-đề tức là Phật, nên không nói là Phật đạt Bồ-đề.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng ông đã hỏi: Đại Bồ-tát đã đạt được Bồ-đề đạo, không thể không đạt được.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ-đề tu đạo Bồ-đề chưa được viên mãn, làm sao nói đạt được Bồ-đề?
Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nào đã viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng và vô lượng vô biên các Phật pháp khác. Từ đây không gián đoạn, dùng định Kim cang dụ trong một sát-na tương ưng với Bát-nhã, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả sự tương tục tập khí của hai tướng thô trọng là phiền não chướng và sở tri chướng, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với tất cả pháp được đại tự tại.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nghiêm tịnh cõi Phật là như thế nào?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi rốt ráo, thường tự thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thân, ngữ, ý; cũng làm cho người khác thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thân, ngữ, ý mới có thể nghiêm tịnh cõi Phật đang ở.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát thường tự thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thân, ngữ, ý là như thế nào?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Nếu sát hại sanh mạng, lấy của không cho, làm việc tà hạnh, ba việc bất thiện này gọi là thân nghiệp thô trọng của Bồ-tát. Hoặc nói lời dối trá, lời chia rẻ, lời thô tục, lời tạp uế, bốn điều bất thiện này gọi là ngữ nghiệp thô trọng của Bồ-tát. Hoặc tham dục, sân giận, tà kiến, ba điều bất thiện này gọi là ý nghiệp thô trọng của Bồ-tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào còn xan tham, phá giới, sân giận, giải đãi, tán loạn, ác tuệ, cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào mà giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn đều không được thanh tịnh cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Nói rộng cho đến xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tham đắm quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tưởng sắc uẩn cho đến thức uẩn cũng gọi là thô trọng. Nói rộng cho đến tưởng tất cả hạnh đại Bồ-đề và tưởng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng gọi là thô trọng. Tưởng phàm phu, tưởng Thanh văn, tưởng Độc giác, tưởng Bồ-tát, tưởng Như Lai cũng gọi là thô trọng. Tưởng địa ngục, tưởng bàng sanh, tưởng ngạ quỉ, tưởng người, tưởng trời, tưởng nam, tưởng nữ cũng gọi là thô trọng. Tưởng cõi Dục, tưởng cõi Sắc, tưởng cõi Vô sắc cũng gọi là thô trọng. Tưởng thiện, tưởng phi thiện, tưởng hữu lậu, tưởng vô lậu, tưởng thế gian, tưởng xuất thế gian, tưởng hữu vi, vô vi cũng gọi là thô trọng.
Thiện Hiện nên biết! Như vậy, vô lượng, vô biên các sự chấp trước của các pháp và các hữu tình hư vọng, phân biệt cùng chỗ phát sanh, các nghiệp thân, ngữ, ý và những loại hữu tình không có thể tánh kham chịu đều gọi là thô trọng. Các Đại Bồ-tát đối với thô trọng này đều nên xa lìa.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, xa lìa sự thô trọng đã nói ở trên, tự mình hành bố thí Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành bố thí Ba-la-mật-đa. Nên các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần vật dụng cho vật dụng, tùy nơi, tùy lúc, tùy vật dùng đều bố thí cho họ. Như tự mình đã hành các pháp bố thí, khuyên người khác cũng hành như vậy. Bố thí như thế rồi, đem căn lành này bình đẳng cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở, làm cho mau được viên mãn, lợi ích an vui cho hữu tình. Đại Bồ-tát này tự mình hành tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác thực hành tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Làm việc này rồi, đem căn lành này bình đẳng cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở, làm cho mau được viên mãn, lợi ích an vui cho hữu tình.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dùng sức thần thông, hoằng nguyện chứa đầy bảy báu thượng diệu khắp tam thiên đại thiên thế giới, cúng dường Phật, Pháp, Tăng và tháp của Phật. Cúng rồi, vui mừng phát thệ nguyện rộng: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở, làm cho thế giới tôi cũng được trang nghiêm bằng bảy báu, tất cả hữu tình tùy ý thọ dụng các thứ ngọc báu mà không tham đắm.”
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện trổi vô lượng âm nhạc vi diệu trong cõi trời, người cúng dường Tam bảo và tháp Phật; cúng dường rồi vui mừng phát thệ nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở, làm cho quốc độ của tôi thường được trổi các thứ âm nhạc vi diệu như thế. Hữu tình khác được nghe, thân tâm vui vẻ nhưng không tham đắm.”
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện chứa đầy các thứ phẩm vật, hương hoa tươi đẹp ở cõi trời người khắp tam thiên đại thiên thế giới cúng dường Tam bảo và tháp Phật. Cúng dường rồi vui mừng pháp nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở và cũng làm cho cõi tôi thường có các thứ hương hoa tươi đẹp như thế, làm cho hữu tình khác thọ dụng, thâm tâm vui mừng nhưng không tham đắm.”
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện sắm sửa trăm vị thức ăn nước uống thượng hạng cúng dường chư Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng Đại Bồ-tát. Cúng dường rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở. Khi tôi được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sẽ độ các loài hữu tình trong nước tôi cũng đều được trăm vị thức ăn nước uống như vậy, thân tâm vui mừng nhưng không tham đắm.”
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện sắm sửa các thứ hương bột thơm đẹp, y phục mềm dịu ở cõi trời, cõi người dâng cúng chư Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng Đại Bồ-tát, hoặc thí pháp và tháp Phật. Cúng dường rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở. Khi tôi được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sẽ độ các loài hữu tình trong nước tôi thường được y phục, hương bột như thế tùy ý thọ dụng nhưng không tham đắm.”
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện sắm sửa các món trang nghiêm, tùy ý sanh ra năm thứ dục lạc vi diệu trong cảnh giới trời, người dâng cúng dường chư Phật và tháp Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng Đại Bồ-tát và các hữu tình. Cúng rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở. Khi tôi được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sẽ độ các loài hữu tình trong nước tôi tùy tâm ưa thích các cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc thượng diệu, vừa nghĩ liền có hiện đến, vui mừng thọ dụng nhưng không tham đắm.”
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dõng mãnh, chánh cần phát hoằng thệ nguyện, tự mình trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; cũng khuyên người khác trụ vào nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Nói rộng cho đến tự mình tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng khuyên người khác tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Làm việc này rồi, phát thệ nguyện: “Khi tôi chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sẽ độ các loài hữu tình trong nước tôi thường không xa lìa các thứ công đức như thế.”
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nhờ hành hạnh nguyện này nên có thể nghiêm tịnh cõi Phật đang ở.
Thiện Hiện nên biết! Chúng Đại Bồ-tát này tùy theo thời gian hành Bồ-đề đạo được bao nhiêu, thì được viên mãn phát sanh hạnh nguyện tinh tấn tu học bấy nhiêu. Nhờ nhân duyên này nên tự mình được thành tựu tất cả thiện pháp, cũng có thể làm cho người khác tuần tự thành tựu tất cả thiện pháp. Tự mình có thể tu được tướng hảo thù thắng để trang nghiêm thân, cũng giúp cho người khác được tuần tự tu tướng hảo thù thắng để trang nghiêm thân. Vì nhờ phước đức rộng lớn giúp đỡ hộ trì.
Thiện Hiện nên biết! Hạnh nguyện tu hành của chúng Đại Bồ-tát này được viên mãn rồi, đều làm trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật chỗ mình đang ở. Khi Bồ-tát chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các loài hữu tình đã được giáo hóa cũng được sanh vào cõi ấy, cùng hưởng pháp lạc Đại thừa và sanh vào cõi tịnh độ.