QUYỂN 550
XVIII. PHẨM TƯỚNG KHÔNG 02
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
– Như Thế Tôn dạy: Các hành đều do phân biệt tạo ra, sanh từ vọng tưởng nên hoàn toàn chẳng thật có. Do nhân duyên nào mà các Bồ-tát đó đạt được công đức vô lượng, vô biên như vậy?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nhưng các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng nói các hành đều do phân biệt tạo ra, Không vô sở hữu, hư vọng không thật. Vì sao?
Vì các Đại Bồ-tát này đã khéo học pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, đã quán sát các hành đều do phân biệt tạo ra, Không vô sở hữu, hư vọng không thật. Đại Bồ-tát này tự quán sát các hành đều do phân biệt tạo ra, Không vô sở hữu, hư vọng không thật. Như vậy như vậy nên không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; như như không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Như vậy như vậy đã đạt được công đức vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên có gì sai khác?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Nói vô lượng nghĩa là đối với xứ này, lượng nó dứt hẳn. Nói vô biên nghĩa là ở trong số này không thể cùng tận.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Phải chăng có nhân duyên, sắc cũng thể nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng thể nói vô lượng, vô biên?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Vì có nhân duyên nên sắc cũng nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng nói vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nhân duyên nào mà sắc cũng nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng nói vô lượng, vô biên?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Sắc là tánh Không, nên cũng nói là vô lượng, vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức là tánh Không, nên cũng nói là vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Không, hay tất cả pháp cũng đều Không?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Trước đây Ta đã chẳng từng nói tất cả pháp đều không đó sao?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Tuy Phật thường nói các pháp đều Không, nhưng các hữu tình không có kiến thức hiểu biết, nên nay con hỏi lại như vậy.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Không phải chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Không, mà ta nói các pháp đều Không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên là khái niệm gì?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Vô lượng, vô biên là khái niệm của không, vô tướng, vô nguyện.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên chỉ là không, vô tướng, vô nguyện. Ngoài ra còn có nghĩa nào khác?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Ta đâu chẳng nói tất cả pháp môn đều Không đó sao?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Đức Như Lai thường dạy tất cả pháp môn đều Không.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Không tức là vô tận, không tức là vô lượng, không tức là vô biên, không tức là các nghĩa khác.
Thế nên, này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn tuy có nhiều cách nói khác nhau nhưng nghĩa không khác.
Thiện Hiện nên biết: Các pháp Không, lý đều không thể nói, Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, nói vô biên, nói là không, nói vô tướng, nói vô nguyện, nói vô tác, nói vô sanh, nói vô diệt, nói phi hữu, nói vắng lặng, nói lìa nhiễm, nói Niết-bàn v.v…
Thật nghĩa vô lượng pháp môn của các pháp như thế không khác, đều do Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vì các hữu tình phương tiện giảng nói.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Hi hữu thay! Ngài đã dùng phương tiện thiện xảo, thật tánh các pháp vốn không thể giảng nói nhưng vì hữu tình nên phương tiện chỉ rõ. Như con hiểu nghĩa Phật đã nói, thật tánh các pháp đều không thể nói.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Thật tánh các pháp đều không thể nói. Vì sao? Vì tánh tất cả pháp rốt ráo đều Không, không có người có thể giảng nói rốt ráo Không đó được.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nghĩa không thể nói có thêm bớt chăng?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Nghĩa không thể nói không có thêm bớt.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa không thể nói không thêm bớt thì bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng sẽ không thêm bớt. Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa này cũng không thêm bớt, thì phải sáu pháp Ba-la-mật-đa đều không sở hữu. Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa đều không sở hữu, thì tại sao Đại Bồ-tát tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể thân cận quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Bố thí v.v… sáu pháp Ba-la-mật-đa đều không thêm bớt, cũng không sở hữu. Nhưng khi các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phương tiện thiện xảo không nghĩ như vầy: Như vậy, bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa có thêm, có bớt. Chỉ nên nghĩ: Chỉ có danh tướng gọi là bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi Đại Bồ-tát đó tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, đem bố thí này cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa câu hữu tác ý, và nương nơi thiện căn cùng phát khởi tâm này, cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Phát khởi hồi hướng như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật sâu xa vi diệu. Do thế lực tăng thượng của hồi hướng bằng phương tiện thiện xảo này nên chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Chơn như của các pháp gọi là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết: Vì chơn như của các pháp không có thêm bớt nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng không thêm bớt. Nếu Đại Bồ-tát thường an trụ tác ý tương ưng với chơn như như vậy, thì liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nghĩa không thể nói, tuy không thêm bớt nhưng không thối chuyển tác ý chơn như. Ba-la-mật-đa tuy không thêm bớt nhưng không thối lui sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát nào an trụ tác ý chơn như như vậy mà tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
XIX. PHẨM CÔNG ĐỨC SÂU XA
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
– Đại Bồ-tát phát khởi tâm trước có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hay tâm sau phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Nếu tâm trước phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì khi tâm trước phát khởi, tâm sau chưa phát khởi sẽ không có nghĩa hòa hợp. Nếu tâm sau phát khởi có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì khi tâm sau phát khởi, tâm trước đã diệt nên không có nghĩa hòa hợp. Như vậy, tâm và tâm sở pháp trước sau tiến thối, suy vi không có nghĩa hòa hợp. Như vậy làm sao có thể tích tụ căn lành được? Nếu các căn lành không thể tích tụ thì làm sao Bồ-tát viên mãn căn lành, có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như khi đốt đèn thì ngọn lửa trước cháy tim hay ngọn lửa sau cháy tim?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu, chẳng phải ngọn lửa trước cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa trước. Chẳng phải ngọn lửa sau cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa sau.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tim bị cháy không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thế gian hiện thấy cái tim thật cháy.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cũng như vậy. Chẳng phải tâm trước phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng chẳng phải lìa tâm trước. Chẳng phải tâm sau phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm sau. Nhưng các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo làm cho các căn lành được tăng trưởng viên mãn, có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Lý thú duyên khởi sâu xa này nghĩa là các Đại Bồ-tát chẳng phải tâm trước phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm trước. Chẳng phải tâm sau phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm sau. Chẳng phải vì các tâm như vậy phát khởi mới có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng phải vì lìa các tâm phát khởi như vậy mới có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng các Đại Bồ-tát có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu tâm diệt rồi sanh lại được không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không được. Tâm đã diệt rồi không thể sanh lại.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu tâm đã sanh có pháp diệt không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Nếu tâm đã sanh nhất định có pháp diệt.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm có pháp diệt sẽ không diệt chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không. Tâm có pháp diệt nhất định sẽ diệt.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm không có pháp diệt có thể sanh được không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không. Tâm không có pháp diệt, không có nghĩa có thể sanh được.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm không có pháp sanh là diệt được không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không. Tâm không có pháp sanh không có nghĩa diệt được.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm không có pháp sanh diệt là sanh diệt được không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không. Tâm không có pháp sanh diệt, không có nghĩa sanh diệt được.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu pháp đã diệt có thể diệt nữa không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không. Nếu pháp đã diệt không diệt được nữa.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu pháp đã sanh có thể sanh nữa không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không. Nếu pháp đã sanh không sanh được nữa.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Thật tánh các pháp có sanh diệt không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không. Thật tánh các pháp không sanh, không diệt.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm trụ là như tâm chơn như phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Như tâm chơn như, tâm trụ cũng vậy.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu tâm trụ như chơn như, thì tâm đó là tánh thật tế thường trụ của như chơn như phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không. Tâm đó chẳng phải tánh thật tế thường trụ của như chơn như.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Chơn như của các pháp là sâu xa vô cùng phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Chơn như các pháp vô cùng sâu xa.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Chơn như tức là tâm phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không phải.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Lìa chơn như có tâm không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm tức là chơn như phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Lìa tâm có chơn như không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Chơn như có thể thấy chơn như không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Ông thấy có thật chơn như không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào thường thực hành như vậy có phải là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy là hành xứ nào?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy đều không có hành xứ. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy thì hoàn toàn không thấy có năng hành, sở hành, thời gian hành, nơi chốn hành, vì các pháp hiện hành đều không chuyển vậy.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành chỗ nào?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành thắng nghĩa đế, vì trong ấy tất cả đều không có phân biệt.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với thắng nghĩa đế có chấp tướng không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với thắng nghĩa đế tuy không chấp tướng nhưng có hành tướng không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không có.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát này đối với thắng nghĩa đế là tướng hoại phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát này đối với thắng nghĩa đế là tướng từ bỏ phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với thắng nghĩa đế nếu chẳng phải tướng hoại, cũng chẳng phải tướng từ bỏ, thì làm sao có thể chấm dứt tưởng chấp tướng?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta đang có tướng hoại, ta đang có tướng bỏ, chấm dứt tưởng chấp tướng, cũng chẳng tu học đạo chấm dứt tưởng chấp tướng. Đại Bồ-tát nào khi siêng năng tu học Bồ-tát hạnh, tu đạo chấm dứt tưởng, khi ấy tất cả pháp Phật chưa viên mãn, nên bị rơi vào địa vị Thanh văn hay Ðộc giác.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng, mặc dù đối với các tướng và tưởng chấp thủ biết rõ lỗi lầm mà không hoại đoạn, thì được mau chứng vô tướng. Vì sao? Vì chưa được viên mãn tất cả pháp Phật.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.
Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:
– Đại Bồ-tát nào ở trong mộng tu ba pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thêm lợi ích?
Thiện Hiện đáp:
– Đại Bồ-tát nào lúc thức, tu ba pháp môn giải thoát này, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thêm lợi ích. Người đó tu trong mộng cũng có thêm lợi ích. Vì sao? Vì đức Phật dạy mộng và tỉnh không khác nhau.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào đã đạt Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì lúc thức tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã gọi là an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mà Đại Bồ-tát này trong mộng tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng gọi là an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Ba pháp môn giải thoát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể làm tăng thêm lợi ích cũng như vậy. Ý nghĩa khi mộng hoặc khi tỉnh không khuyết giảm.
Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… ở trong mộng tạo nghiệp thì có tăng ích hoặc tổn giảm không?
Thiện Hiện đáp:
– Đức Phật dạy tất cả pháp đều như thấy trong mộng. Nếu trong mộng tạo nghiệp không tăng giảm, thì khi thức tạo nghiệp cũng không tăng giảm. Nhưng các nghiệp đã tạo trong mộng không hơn tăng giảm, phải đến lúc thức nhớ tưởng phân biệt thì nghiệp đã tạo trong mộng mới làm cho nghiệp người đó thành tăng giảm hơn. Như người trong mộng giết mạng người khác, rồi sau đến lúc tỉnh giấc mơ, mới phân biệt nhớ nghĩ, tự vui mừng nên nghiệp ấy càng tăng. Nếu vô cùng ăn năn xấu hổ thì nghiệp ấy liền giảm.
Tôn giả Xá-lợi Tử nói với Thiện Hiện:
– Có người khi còn thức, giết chết người khác, rồi sau đến lúc ở trong mộng, hoặc tự vui mừng, hoặc rất ăn năn, làm cho khi thức nghiệp ấy có tăng giảm không?
Thiện Hiện đáp:
– Cũng có tăng giảm, nhưng sự tăng giảm đó chẳng bằng khi thức, vì trong tâm đã biết rõ ràng hơn những nghiệp đã tạo.
Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Không có đối tượng thì dầu suy nghĩ (tư) hay nghiệp (hành động) đều không sanh được, phải có đối tượng thì tư nghiệp mới phát sanh. Vậy còn ở trong mộng tư nghiệp dựa vào đâu mà sanh?
Thiện Hiện đáp:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Hoặc mộng hoặc tỉnh, mà không có đối tượng thì tư nghiệp không sanh, cần có đối tượng thì tư nghiệp mới phát sanh. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì quan trọng là cần ở trong pháp thấy, nghe, hiểu biết phải có tuệ giác chuyển. Do đây phát sanh nhiễm hay phát sanh tịnh. Nếu không thấy, nghe, hiểu biết, thì các pháp không có tuệ giác chuyển, cũng không nhiễm tịnh. Do đây nên biết, hoặc mộng hoặc tỉnh mà có đối tượng thì tư nghiệp mới sanh. Còn không có đối tượng thì tư nghiệp không phát sanh.
Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Đức Phật dạy đối tượng đều lìa tự tánh. Như vậy làm sao nói được có đối tượng thì tư nghiệp mới sanh? Không đối tượng thì tư nghiệp không phát sanh?
Thiện Hiện đáp:
– Mặc dầu các tư nghiệp và đối tượng đều lìa tự tánh, nhưng do tự tâm chấp tướng phân biệt, trình bày theo thế tục nói có đối tượng. Do đối tượng này phát sanh các tư nghiệp. Như nói vô minh là duyên sanh hành, hành là duyên sanh thức v.v… đều do tự tâm chấp tướng phân biệt, nói có đối tượng nhưng chẳng thật có tánh.
Tôn giả Xá-lợi Tử nói với Thiện Hiện:
– Đại Bồ-tát nào ở trong mộng thực hành bố thí, bố thí rồi hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, Đại Bồ-tát đó là thật đem bố thí hồi hướng Vô thượng Bồ-đề của Phật chăng?
Thiện Hiện đáp:
– Bồ-tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký đại Bồ-đề, chỉ còn một đời chắc chắn sẽ làm Phật, Ngài rất giỏi trả lời tất cả những câu hỏi, hiện đang ở trong hội này. Chúng ta nên thỉnh hỏi Ngài, bậc Bổ Xứ Từ Tôn chắc chắn sẽ trả lời.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử như lời Thiện Hiện nói, cung kính thỉnh hỏi Bồ-tát Từ Thị. Bồ-tát Từ Thị bảo lại Thiện Hiện:
– Tôn giả đã nói Bồ-tát Từ Thị có thể trả lời nghĩa này. Vậy những gì gọi là Bồ-tát Từ Thị vì danh có thể đáp? Vì sắc có thể đáp; vì thọ, tưởng, hành, thức có thể đáp? Vì hiển lộ có thể đáp; vì hình ảnh có thể đáp? Vì Không của sắc có thể đáp; vì Không của thọ, tưởng, hành, thức có thể đáp được chăng? Vả lại, danh Từ Thị không thể đáp. Sắc cũng không thể đáp; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể đáp. Hiển lộ cũng không thể đáp; hình ảnh cũng không thể đáp. Không của sắc cũng không thể đáp; Không của thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể đáp. Vì sao?
Vì tôi hoàn toàn không thấy có pháp năng đáp, sở đáp, chỗ đáp, lúc đáp và do đây đáp cũng đều không thấy. Tôi hoàn toàn không thấy có pháp có thể nhớ, pháp được ghi nhớ, nơi ghi nhớ, lúc ghi nhớ và do đây ghi nhớ cũng đều không thấy. Vì sao? Vì tất cả pháp bản tánh đều Không, không sở hữu, không hai, không khác, gạn tìm rốt ráo bất khả đắc.
Xá-lợi Tử hỏi Bồ-tát Từ Thị:
– Pháp mà Tôn giả đã nói là như sở chứng phải không?
Đại Bồ-tát Từ Thị đáp:
– Pháp tôi đã nói chẳng phải như sở chứng. Vì sao? Vì pháp đã chứng của tôi không thể nói được.
Này Xá-lợi Tử! Tôi hoàn toàn không thấy có pháp đã chứng tự tánh có thể đắc, như điều tâm nghĩ, như lời đã nói.
Này Xá-lợi Tử! Tự tánh của các pháp chẳng phải thân có thể chạm được, chẳng phải dùng ngôn ngữ có thể biểu thị, không phải ý để nghĩ. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì tất cả pháp không có tự tánh.
Khi ấy, Xá-lợi Tử suy nghĩ: Bồ-tát Từ Thị có tuệ giác thật uyên thâm, ngày đêm tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới có thể nói như vậy.
Phật dạy:
– Xá-lợi Tử! Như tâm ông đã nghĩ, Bồ-tát Từ Thị có tuệ giác thật uyên thâm, ngày đêm tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới nói như vậy. Xá-lợi Tử! Những điều ông nghĩ là đúng.
Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Ông do pháp ấy mà thành A-la-hán, và thấy được pháp ấy có thể nói được không?
Xá-lợi Tử thưa:
– Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
– Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, pháp tánh đã chứng cũng như vậy, không thể giảng nói.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đó không nghĩ: Ta nhờ pháp này mà đã được thọ ký, đang được thọ ký và sẽ được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Bồ-tát không nghĩ: Ta do pháp này sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy, không sanh nghi ngờ rằng ta đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề là đắc hay không đắc. Chỉ nghĩ thế này: Ta nỗ lực tinh tấn, nhất định sẽ đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì đã đối với sự giác ngộ được sức thù thắng. Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe pháp sâu xa không kinh khiếp, không sợ hãi, không hoảng hốt, không lo sợ, không chìm, không đắm. Đối với sự chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không sợ sệt, vì khẳng định tự biết ta sẽ chứng đắc.
Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát nếu ở nơi đồng trống vắng, có thú dữ ở cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên xả bỏ tất cả những sở hữu trong ngoài, thường nghĩ thế này: Nếu có quỉ ác và thú dữ v.v… muốn ăn nuốt thân ta, ta sẽ thí cho để chúng được no đủ. Nhờ căn lành này làm cho ta bố thí Ba-la-mật-đa nhanh chóng được viên mãn, sớm gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta phải siêng năng tu chánh hạnh như vậy, khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật ta không có những loài bàng sanh, quỉ đói.
Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát đó nếu ở nơi đồng trống hoang vu, có giặc ác cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên xả bỏ tất cả những sở hữu trong ngoài, ưa tu những điều thiện, đối với thân mạng tài sản, không có sự tiếc nuối. Thường nghĩ thế này: Nếu các hữu tình đua nhau đến cướp đoạt tài sản của ta, ta phải cung kính vui mừng thí cho họ. Hoặc nhân cơ hội đó, họ hại thân ta, ta cũng không bao giờ sanh tâm sân hận, cũng chẳng phát sanh thân, khẩu, ý ác. Do nhân duyên này làm cho ta bố thí, tịnh giới, an nhẫn Ba-la-mật-đa nhanh chóng được viên mãn, mau gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta phải siêng năng tu chánh hạnh như vậy, khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật ta không có những giặc cướp oán hại. Do đó, cõi Phật ta vô cùng thanh tịnh, cũng không còn các độc ác khác.
Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này nếu ở nơi đồng trống hoang vắng, sa mạc khô cằn cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì pháp của Bồ-tát là như vậy, không có những sợ hãi. Thường nghĩ thế này: Ta phải cầu học pháp dứt trừ khát ái cho các hữu tình, không nên đối với điều này sanh sợ hãi. Giả sử ta vì việc này mà đói khát đến chết, đối với các hữu tình nhất định không xả bỏ sự phát khởi tâm đại bi bố thí nước pháp nhiệm mầu. Lạ thay! Bạc phước thay! Các hữu tình ở nơi thế giới không có nước, ta phải siêng năng tu chánh hạnh này để khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật ta không có những đồng trống, sa mạc hoang vu, cháy bỏng vì thiếu nước như vậy. Ta phải phương tiện khuyên nhủ các hữu tình tu phước nghiệp thù thắng. Bất cứ ở đâu ta đều làm cho họ đầy đủ tám nước công đức. Ta kiên trì, tinh tấn dõng mãnh, phương tiện giáo hóa tất cả hữu tình, do nhân duyên này khiến ta tinh tấn Ba-la-mật-đa, nhanh chóng được viên mãn, mau gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này ở nước đói kém cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này mặc áo giáp công đức dõng mãnh tinh tấn, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, phát nguyện thế này: “Khi ta chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật ta không có những đói kém như vậy. Các loài hữu tình đầy đủ vui sướng, tùy ý cần dùng những gì, nghĩ đến có ngay, như chư thiên trên trời nghĩ điều gì đều có thứ ấy. Ta phải phát khởi tâm kiên trì, tinh tấn dõng mãnh, làm cho các hữu tình phát nguyện đầy đủ: Tất cả thời gian, nơi chốn, tất cả hữu tình đối với tất cả của cải, vật dụng giúp cho sự sống không bị thiếu thốn.”
Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này gặp lúc tật dịch cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thường quán sát kỹ: Không có pháp gọi là bệnh, cũng không có pháp có thể gọi là người bệnh, tất cả đều Không, không nên sợ hãi. Ta phải siêng năng tu chánh hạnh, để khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các loài hữu tình trong cõi Phật ta, không có những tai nạn tật dịch, tinh tấn tu hành chánh hạnh thù thắng.
Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này nghĩ: Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề trải qua thời gian lâu mới được, không nên sợ hãi. Vì sao? Vì kiếp số đời trước tuy có vô lượng nhưng trong khoảng một niệm nhớ nghĩ, phân biệt, tích tụ sự thành tựu; kiếp số đời sau nên biết cũng như vậy. Thế nên, Bồ-tát ở trong ấy không nên sanh tưởng lâu mau mà cho rằng: Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề trải qua thời gian lâu dài mới chứng đắc, liền sanh sợ hãi. Vì sao? Vì kiếp số đời trước, đời sau, dài ngắn đều là tâm tương ưng với một sát-na.
Thế nên, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tuy nghe trải qua lâu dài mới chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng ở trong ấy quán sát chắc chắn kỹ càng, không sanh sợ hãi.
Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát nào đối với những sự thấy nghe, hiểu biết, pháp đáng sợ hãi mà không sanh sợ hãi, nên biết Bồ-tát đó mau chóng chứng sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thế nên, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát muốn mau chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên theo giáo pháp chơn tịnh Không của Như Lai, mặc áo giáp công đức, tinh tấn tu học, đối với tất cả pháp không nên sợ hãi.
XX. PHẨM CĂN-GIÀ THIÊN
Bấy giờ, trong hội chúng có một Thiên nữ tên Căn-già thiên, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, kéo phủ vai trái, chân phải quì sát đất, chấp tay hướng Phật thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con ở những chỗ đó cũng không sợ hãi, đối với các pháp cũng không nghi ngờ. Vào đời tương lai, con cũng vì các hữu tình nói pháp không sợ hãi, không nghi ngờ!
Khi ấy, đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ra ánh sáng màu vàng chiếu khắp mười phương vô biên thế giới, rồi chiếu trở lại cõi Phạm Thế, hiện đại thần thông, trở về nhiễu quanh bên phải Phật ba vòng. Hiện thần biến xong, nhập vào trong đảnh Phật.
Khi ấy, Căn-già thiên thấy sự việc này, rất hoan hỉ phấn chấn, lấy hoa bằng vàng xinh đẹp chí thành cung kính rải lên đức Như Lai. Vì thần lực của Phật, làm cho hoa vàng này phóng lên và bay phất phới trong không trung.
Tôn giả A-nan-đà thấy nghe như vậy, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, y phủ vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính thưa:
– Bạch Thế Tôn! Nguyên nhân nào mà Ngài hiện tướng mỉm cười? Vì Phật hiện mỉm cười chẳng phải không có lý do?
Thế Tôn bảo Khánh Hỷ:
– Thiên nữ này vào đời vị lai sẽ thành Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, kiếp tên Tinh Tú, Phật hiệu Kim Hoa.
Khánh Hỷ nên biết: Đây là lần thọ thân cuối cùng của Thiên nữ. Sau khi xả bỏ thân này liền thọ thân nam, tận đời tương lai không làm thân nữ trở lại. Từ đây qua đời sanh về thế giới Bất Ðộng Như Lai ở phương Ðông. Nơi cõi Phật đó, Thiên nữ siêng năng tu phạm hạnh, có tên là Kim Hoa. Từ thế giới Bất Ðộng qua đời rồi sanh phương khác, nơi thế giới có Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thường không xa lìa chư Phật Thế Tôn. Như vua Chuyển luân, từ cung điện này đến cung điện khác, hưởng lạc vui chơi cho đến qua đời, chân chưa hề đụng đất. Bồ-tát Kim Hoa cũng như vậy, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sanh ra nơi nào thường không rời Phật.
Tôn giả A-nan-đà thầm nghĩ: Lúc đó, Bồ-tát Kim Hoa được làm Phật, chắc cũng thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Chúng Đại Bồ-tát trong hội đó số bao nhiêu? Có như chúng Bồ-tát trong hội Phật hôm nay không?
Phật biết tâm niệm của Tôn giả A-nan-đà nên bảo:
– Khánh Hỷ! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nghĩ. Bồ-tát Kim Hoa lúc được làm Phật cũng vì hội chúng thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này. Chúng Đại Bồ-tát trong hội đó số lượng cũng như chúng Bồ-tát trong hội Phật ngày nay.
Khánh Hỷ nên biết: Bồ-tát Kim Hoa lúc được làm Phật, số đệ tử Thanh văn đạt Niết-bàn rất nhiều không thể tính kể, nghĩa là không thể đếm hết, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc trăm ức v.v… chỉ nói tổng số là vô lượng, vô biên.
Khánh Hỷ nên biết: Bồ-tát Kim Hoa lúc được làm Phật, nơi cõi Phật đó không có thú dữ, quỉ ác, cũng không có nạn oán tặc, thiếu nước, đói kém, tật dịch v.v…
Khánh Hỷ nên biết: Lúc Bồ-tát Kim Hoa chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hữu tình nơi cõi Phật đó không có những sợ hãi và không có các thứ tai ương, tội lỗi.
Khánh Hỷ lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thiên nữ này trước đây bắt đầu phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng với đức Phật nào?
Phật dạy:
– Này Khánh Hỷ! Thiên nữ này trước đây ở nơi đức Phật Nhiên Ðăng thời quá khứ bắt đầu phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng. Lúc ấy, Thiên nữ cũng đem hoa vàng tung lên đức Phật, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Khánh Hỷ nên biết: Ta ở chỗ Phật Nhiên Ðăng quá khứ, đem năm cành hoa dâng rải lên đức Phật đó và phát nguyện hồi hướng. Khi ấy, Ta liền chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đức Như Lai Nhiên Ðăng Ứng Chánh Ðẳng Giác biết Ta căn tánh thành thục, nên thọ ký: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu Năng Tịch, cõi nước tên Kham Nhẫn, kiếp tên Hiền. Bấy giờ, Thiên nữ nghe Phật thọ ký cho Ta được giác ngộ lớn, nàng vui mừng phấn chấn, liền đem hoa vàng dâng rải lên đức Phật, phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành phát nguyện hồi hướng: Đời sau, khi Bồ-tát này được làm Phật, cũng như đức Phật hiện tại, khiến cho con được thọ ký đại Bồ-đề. Thế nên hôm nay Ta thọ ký cho Thiên nữ này.
Khánh Hỷ nghe đức Phật dạy, hoan hỉ phấn chấn, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thiên nữ này từ lâu đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành và phát nguyện hồi hướng, nay được thành thục. Cho nên đức Như Lai thọ ký cho Thiên nữ.
Phật dạy:
– Này Khánh Hỷ! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Thiên nữ ấy nhờ căn lành được thành thục, nên Ta thọ ký đại Bồ-đề.
XXI. PHẨM BIẾT VIỆC MA 01
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tập Không như thế nào? Hiện vào Không Tam-ma-địa như thế nào?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán sắc Không; nên quán thọ, tưởng, hành, thức Không. Khi quán như vậy, chẳng để tâm rối loạn. Nếu tâm rối loạn thì không thấy pháp. Nếu không thấy pháp thì chẳng tác chứng.
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn dạy, các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán pháp Không nhưng không tác chứng. Làm sao Đại Bồ-tát khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trụ Không đẳng trì mà không tác chứng?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khi quán pháp Không, trước hết nên nghĩ: Ta nên quán pháp các tướng đều Không, không nên tác chứng. Ta vì học nên quán các pháp Không, không vì chứng quán các pháp Không. Nay là lúc học, không phải lúc chứng.
Khi Đại Bồ-tát chưa nhập định, buộc tâm nơi cảnh tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng phải nhập định vị mới buộc tâm nơi cảnh, và tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vào thời gian như vậy, Đại Bồ-tát này chẳng lui sụt tất cả pháp phần Bồ-đề, không chứng lậu tận. Vì sao? Đại Bồ-tát này thành tựu trí tuệ rộng lớn như vậy, khéo trụ pháp Không và tất cả loại pháp phần Bồ-đề, thường nghĩ thế này: Nay là lúc nên học, không nên tác chứng.
Thiện Hiện nên biết: Nếu lúc Đại Bồ-tát trụ Không Tam-ma-địa mà không chứng Không, khi ấy Đại Bồ-tát cũng trụ vô tướng Tam-ma-địa mà không chứng vô tướng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thành tựu căn lành kiên định thù thắng, thường nghĩ thế này: Hôm nay nên học, không nên tác chứng. Nay nên tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp quán Không, vô tướng, phải viên mãn tất cả pháp phần Bồ-đề. Hôm nay không nên chứng nơi thật tế. Do nhân duyên này, Đại Bồ-tát không rơi vào địa vị Thanh văn, Ðộc giác, nhanh chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện! Ví như có người hùng mạnh, oai vệ, đứng chỗ kiên cố, khó có thể lay động, hình sắc nghiêm trang, ai cũng thích nhìn, có đầy đủ công đức giới luật tối thắng, thông tuệ khéo lời, đối đáp rất giỏi, đủ tài hùng biện, đủ cách thực hành, biết nơi chốn, biết thời gian. Đối với binh bị, kỹ thuật v.v… học đến rốt ráo, thế phòng thủ kiên cố, có thể thắng nhiều kẻ địch. Tất cả kỹ năng đều giỏi, thành tựu, các chỗ công xảo học đến cùng tận. Trí nhớ đầy đủ, biểu lộ một cách mạnh mẽ. Ðối với các kinh điển được sự không sợ hãi, có đủ từ tâm và nghĩa khí, có thế lực lớn. Thân thể không khiếm khuyết, các căn đầy đủ. Bà con tiền của rất sung túc, mọi người đều kính phục và ngưỡng mộ. Làm việc gì cũng đều thành tựu. Vì sự nghiệp giỏi nên bỏ công ít mà có lời nhiều. Do nhân duyên này nên giàu có, nhiều của cải quí giá, khéo có thể cấp cho nhiều loài hữu tình, người đáng cúng dường đều có thể cúng dường cho họ, người đáng cung kính có thể cung kính họ, người đáng tôn trọng có thể tôn trọng họ, người đáng khen ngợi có thể khen ngợi họ v.v…
Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nhờ vậy mà người này vui mừng, phấn chấn tăng bội phần, thân tâm hoan hỉ, tự mừng thầm không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Người dõng mãnh kia thành tựu sự nghiệp đại hưng thịnh như vậy, có nhân duyên nên đem cha mẹ, vợ con, quyến thuộc đi đến phương khác. Giữa đường phải đi qua đồng trống hoang vu hiểm nạn, nơi đó có nhiều ác thú, oán tặc, oan gia ẩn núp và nhiều việc đáng sợ. Bà con lớn nhỏ ai nấy đều kinh hoàng. Nhưng người đó tự tin cậy tài năng kỹ thuật của mình, và sức oai hùng dõng mãnh, nên thân ý thanh thản. Người đó an ủi cha mẹ, vợ con, quyến thuộc chớ có lo sợ, chắc chắn không xảy ra khổ nạn, mau qua đồng trống đến chỗ an ổn.
Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Trong đồng trống này kẻ oán hại nổi lên, người đó đã đủ sức mạnh, kỹ năng, thương kính cha mẹ thân thích, trang bị đầy đủ các khí cụ mà có bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc một mình thoát hiểm nạn được không?
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không. Vì sao? Vì người đó có nhiều kỹ thuật, có thể ở nơi đồng trống hóa làm binh trượng dõng mãnh tinh nhuệ, gặp các oán địch làm cho họ vừa trông thấy tự nhiên lui mất. Việc người đó bỏ những người thân, một mình vượt qua đồng trống hiểm nạn, việc này không thể xảy ra. Nhưng người tráng sĩ khi ở giữa đồng trống, không có ý sợ ác thú, oán tặc phương hại. Vì sao? Vì người đó tự cậy mình có oai lực hùng mạnh, và đủ các kỹ thuật nên không sợ hãi.
Bạch Thế Tôn! Người đó dùng thuật khéo léo, đem các bà con, thân thuộc vượt qua đồng trống hoang vu mà không bị tổn hại, chắc chắn đến chỗ xóm làng, thành thị hoặc kinh đô lớn an vui.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, vì thương xót các loài hữu tình trong biển khổ sanh tử, nên chánh niệm an trụ từ bi hỷ xả, hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa căn lành thù thắng, dùng phương tiện thiện xảo như Phật đã dạy, đem các công đức hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tuy tu không, vô tướng, vô nguyện đầy đủ nhưng đối với thật tế không có tâm tác chứng, không rơi vào địa vị Thanh văn, Ðộc giác. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát này đầy đủ thế lực lớn, tinh tấn vững bền, hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa căn lành thù thắng, dùng phương tiện thiện xảo, thề chẳng buông bỏ tất cả hữu tình. Do đó nhất định có thể yên ổn không khó, nhanh chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết: Nếu khi Bồ-tát tâm từ thương tưởng tất cả hữu tình, vì các hữu tình muốn thí an vui. Khi ấy, Bồ-tát vượt loại phiền não, vượt loại ma và bậc Nhị thừa. Tuy trụ Tam-ma-địa nhưng không đến lậu tận. Tuy khéo tập Không nhưng không tác chứng.
Thiện Hiện nên biết: Nếu Bồ-tát khéo an trụ pháp môn giải thoát Không, thì khi ấy Bồ-tát cũng có thể an trụ nơi vô tướng định. Nhưng đối với phương tiện thiện xảo không chứng vô tướng. Do nhân duyên này vượt khỏi bậc Nhị thừa, quyết hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết: Như chim có đôi cánh mạnh mẽ, bay bổng trong hư không, bình thản bay liệng rất lâu mà không bị rơi xuống. Tuy nương hư không chơi đùa mà không ở hư không, cũng không bị hư không làm chướng ngại. Nên biết Bồ-tát cũng như vậy, tuy tu tập pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà không trụ không, vô tướng, vô nguyện. Cho đến pháp Phật chưa viên mãn cùng tận thì không bao giờ nương vào đó để vĩnh viễn chấm dứt các lậu.
Thiện Hiện nên biết: Như có kẻ cường tráng, giỏi thạo kỹ thuật bắn, muốn chứng tỏ tài mình, ngước bắn hư không. Vì muốn làm cho mũi tên trong hư không không rơi xuống đất, lại đem tên sau bắn nối đuôi tên trước. Bắn như vậy lần lượt trải qua thời gian khá lâu, mỗi mũi tên nối đuôi nhau không để cho rơi xuống đất. Nếu muốn làm cho mũi tên rơi thì dừng mũi tên sau, khi ấy các mũi tên mới rơi xuống nhanh.
Nên biết Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hộ trì phương tiện thiện xảo thù thắng, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì thực hành căn lành chưa được thành thục, nên không bao giờ giữa đường chứng thật tế. Nếu khi đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì thực hành căn lành tất cả đều thành thục, khi ấy Bồ-tát mới chứng thật tế, liền đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hộ trì phương tiện thiện xảo thù thắng, đều nên đối với pháp tánh sâu xa này quán sát thật đúng đắn, rõ ràng, nếu các pháp Phật chưa thật viên mãn thì không nên tác chứng.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thật vô cùng hi hữu, có thể làm những việc khó làm. Nghĩa là tuy hành Không nhưng không trụ Không, tuy hiện nhập Không định nhưng không chứng thật tế.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thề chẳng rời bỏ các loài hữu tình. Nghĩa là họ đã phát nguyện thù thắng vi diệu như vầy: Nếu các hữu tình chưa được giải thoát, ta không bao giờ xả bỏ sự gia hạnh căn lành.
Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này do phát khởi tâm rộng lớn như vậy, vì muốn giải thoát tất cả hữu tình, tuy phát tiếp tục ba pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện và Tam-ma-địa nhưng vì hộ trì phương tiện thiện xảo nên không chứng thật tế. Vì sao?
Vì các Bồ-tát này đã hộ trì phương tiện thiện xảo nên thường nghĩ thế này: Ta không bao giờ bỏ tất cả hữu tình mà hướng về viên tịch. Do phát khởi ý nghĩ phương tiện thiện xảo đó, nên trong khoảng thời gian này không chứng thật tế.
Này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát đối với chỗ sâu xa, hoặc đã quán sát, hoặc sẽ quán sát, nghĩa là chỗ sở hành của ba pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, đẳng trì, các Bồ-tát này thường nghĩ: Hữu tình ngày đêm khởi tưởng hữu tình, hành có sở đắc, dẫn đến các nẻo tà ác kiến, luân hồi trong sanh tử, chịu khổ vô cùng. Ta vì đoạn tận nẻo tà ác kiến cho các hữu tình kia nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình mà thuyết pháp Không sâu xa để chấm dứt sự chấp chặt kia, và ra khỏi khổ sanh tử. Thế nên tuy học pháp môn giải thoát Không mà trong thời gian đó không chứng thật tế.
Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này do khởi ý nghĩ phương tiện thiện xảo, tuy ở khoảng giữa không chứng thật tế nhưng không thối lui bốn định vô lượng. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên bạch pháp tăng bội phần, và các căn dần thông lợi, lực chi giác đạo dần dần tăng ích.
Này Thiện Hiện! Các Bồ-tát này thường nghĩ: Hữu tình ngày đêm thực hành trong các tướng, phát sanh các thứ cố chấp, do đó luân chuyển thọ khổ vô cùng. Ta vì chấm dứt các tướng chấp nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình thuyết pháp vô tướng, làm cho chấm dứt tướng chấp, ra khỏi khổ sanh tử. Do đó thường vào vô tướng đẳng trì.
Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này nhờ trước đã thành tựu phương tiện thiện xảo và phát sanh ý nghĩ: Mặc dù thường biểu hiện nhập vào đẳng trì vô tướng, nhưng ở trong thời gian đó không chứng thật tế. Tuy ở trong thời gian không chứng thật tế nhưng không thối lui từ bi hỷ xả và các định khác. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên bạch pháp tăng bội phần, các căn dần thông lợi, lực chi giác đạo dần dần tăng ích.
Này Thiện Hiện! Các Bồ-tát này thường nghĩ: Tâm hữu tình ngày đêm phát khởi, tưởng thường, tưởng lạc, tưởng ngã, tưởng tịnh, do đó dẫn đến sanh điên đảo chấp trước, luân hồi sanh tử, chịu khổ vô cùng. Ta vì chấm dứt bốn điên đảo đó, nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình nói pháp không điên đảo. Nghĩa là nói sanh tử, vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, chỉ có Niết-bàn vắng lặng nhiệm mầu, đầy đủ tất cả công đức chơn thật. Do vậy mà Bồ-tát thường nhập vô nguyện đẳng trì.
Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này do trước đã thành tựu phương tiện thiện xảo và phát sanh những ý nghĩ, tuy thường hiện nhập vô nguyện đẳng trì mà các pháp Phật chưa hoàn toàn viên mãn thì không bao giờ nơi trung gian chứng thật tế. Tuy nơi trung gian không chứng thật tế, nhưng không thối lui từ bi hỷ xả và các định khác. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên bạch pháp tăng bội phần, các căn dần thông lợi, lực chi giác đạo dần dần tăng ích.
Này Thiện Hiện! Các Bồ-tát này thường nghĩ thế này: Hữu tình ngày đêm trước đã thực hành có sở đắc, nay cũng hành có sở đắc. Trước đã hành hữu tướng, nay cũng hành hữu tướng. Trước đã hành điên đảo, nay cũng hành điên đảo. Trước đã hành tưởng hòa hợp, nay cũng hành tưởng hòa hợp. Trước đã hành tưởng hư vọng, nay cũng hành tưởng hư vọng. Trước đã hành tà kiến, nay cũng hành tà kiến. Do đó trôi lăn chịu khổ vô cùng. Ta vì chấm dứt những tội lỗi đó nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình thuyết pháp sâu xa, làm cho những tội lỗi đó đều vĩnh viễn chấm dứt, không trôi lăn trở lại chịu khổ trong đường sanh tử, nhanh chóng chứng thường lạc, chơn tịnh Niết-bàn.
Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này do lòng thương tưởng sâu xa tất cả hữu tình, nên nhiếp thọ thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường ưa quán sát nơi pháp tánh sâu xa. Đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô khởi, vô tận, vô tánh, thật tế.
Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này thành tựu tri kiến thù thắng như vậy, nếu còn rơi vào pháp vô tướng, vô tác, hoặc ở nơi ba cõi, những điều này không thể xảy ra.
Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này thành tựu công đức thù thắng, buông bỏ các hữu tình để hướng đến viên tịch, không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích cho hữu tình, chắc chắn việc này không thể xảy ra.