1
2
3
4
5

Quyển Thứ Ba

Phẩm Lễ Bái Thứ Tám

Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo Ngài A-Nan rằng: Nếu có người nào nghe được danh hiệu Phật, ta nói rằng người nầy chắc chắn sẽ được vào Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nếu có kẻ chỉ xưng Nam Mô Phật, thì nghĩa nầy là gì?

A-Nan bạch rằng: Phật là cội nguồn của tất cả pháp. Phật là tai mắt hay tiếp dẫn chúng sanh. Phật là bậc diễn thuyết tất cả pháp. Lành thay Thế Tôn! Nguyện vì Tỳ Kheo giải thích nghĩa nầy, con nay được dịp nghe đến và thọ trì.

Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo A-Nan rằng: Hãy lắng nghe cho kỹ, lắng nghe cho kỹ và h4y suy nghĩ cho kỹ. Ta nay vì các ngươi mà phân biệt giải nói.

Lúc ấy Ngài A-Nan nghe Phật nói xong rồi, liền bạch Phật rằng: Nguyện vui muốn nghe.

Phật bảo: Nầy A-Nan! Được gọi là Nam Mô Phật, vì điều nầy quyết định chư Phật Thế Tôn khi nghe được danh hiệu của Phật. Nầy A-Nan! Đây là ý nghĩa quyết định khi nghe danh hiệu của chư Phật vậy. Xưng rằng Nam Mô chư Phật. Nầy A-Nan! Ta nay vì ý nghĩa nầy mà nói ví dụ đây. Làm cho chúng sanh pháp nầy, làm cho họ tăng tín tâm, lại làm cho tất cả kẻ thiện nam và người thiện nữ khi nghe âm thanh về danh hiệu của chư Phật Thế Tôn thì sanh tín tâm thâm hậu. Nầy A-Nan! Từ nơi quá khứ có vị Đại Thương Chủ cùng với các thương nhơn mà vào biển lớn. Đến biển kia rồi, chiếc thuyền bị con cá Ma Kiệt rất lớn nuốt chửng đi. Nầy A-Nan! Lúc bấy giờ Thương Chủ cùng các thương nhơn sợ hãi tóc dựng lên, lo sầu khổ não không vui. Sợ rằng thân mệnh không toàn. Không thể cứu được, không thể giúp được, không thể về được, không thể đi đến chỗ định được. Tất cả đều khóc lóc lo buồn hối hận. Mọi tiếng lo toan đều thổ lộ ra và sanh bịnh. Tại Diêm Phù Đề như vậy là không vui, như vậy là không bao giờ có. Vì làm thân người ở thế gian nầy cũng khó được. Ta nay cũng đang xa lìa cha mẹ, huynh đệ, chị em, vợ con thân thuộc bằng hữu, ta cũng chưa hề gặp lại, cũng chẳng hề thấy được Phật, Pháp và chúng Tăng. Thật là buồn thương, sầu thảm chẳng vui. Các vị ấy cầu thỉnh các vị thần ở trên trời đến cứu hộ.

Nầy A-Nan! Lúc bây giờ vị Thương Chủ thấy biết xa rộng nên nơi tâm được yên tịnh vì nhớ nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng, lại cũng chẳng có lòng tin nơi thiên thần. Lúc bấy giờ vị Thương Chủ bảo các thương nhơn rằng:

Quý Ngài nên biết! Nếu muốn tồn tại miễn trừ nguy nan và được giải thoát thì tất cả nên cùng một lúc niệm thành tiếng với tôi. Giả thử mạng nầy có mất nếu không giải thoát cũng sanh vào đường tốt. Các vị thương nhơn sau khi nghe lời ấy rồi và nói với vị Thương Chủ rằng: Chúng tôi sẽ nghe theo. Hãy nói mau đi.

Nầy A-Nan! Lúc bấy giờ vị Thương Chủ cởi áo bày vai mặt quỳ xuống trước thuyền một lòng chắp tay niệm Phật lễ bái. Cao tiếng xướng rằng: Nam Mô Chư Phật! Bậc không sợ hãi, bậc đại từ bi, bậc lân mẫn tát cả chúng sanh. Xưng như vậy 3 lần. Lúc ấy các thương nhơn đồng thời cũng chắp tay lễ bái, khác miệng cùng tiếng xướng lên rằng: Nam Mô Chư Phật, hay trừ sự sợ hãi, bậc đại từ bi, bậc lân mẫn tất cả chúng sanh, như vậy 3 lần.

Lúc bấy giờ cá Ma Kiệt khi nghe lễ bái âm thanh của chư Phật liền sanh đại ái kính, không sanh tâm sát hại. Lúc bấy giờ cá Ma Kiệt tức thời hả miệng ra.

Nầy A-Nan! Lúc bấy giờ Thương Chủ và các thương nhơn tất cả đều được an ổn, không bị nạn cá nữa. Thuyền và thương nhơn được tự tại, an ổn trở lại cõi Diêm Phù Đề.

Lúc nghe âm thanh niệm Phật, cá Ma Kiệt liền sanh tâm hoan hỷ và nguyện không ăn thịt của các chúng sanh nữa. Nhơn điều nầy khi lâm chung được sanh làm thân người. Sau khi được làm thân người lại có cơ duyên nghe pháp Tỳ Ni của Phật, liền được tin sâu và sau đó lìa bỏ gia đình xuất gia. Sau khi xuất gia rồi liền gần gũi bậc thiện tri thức, luôn luôn cúng dường và chứng được A La Hán. Đầy đủ 6 phép thần thông và nhập vào Vô Dư Niết Bàn tức Bát Niết Bàn.

Nầy A-Nan! Hãy biết rằng dầu cho sanh vào đường súc sanh nhưng khi nghe danh hiệu Phật rồi liền được làm người. Khi đã làm người rồi mà còn được xuất gia nữa. Sau khi xuất gia rồi lại chứng được A La Hán quả. Sau khi chứng A La Hán lại vào Niết Bàn.

Nầy A-Nan! Hãy quán sát về thần lực của chư Phật, như vậy đó; con cá kia nghe mà còn chứng được thần thông, chắc chắn khi xưng danh hiệu Phật sẽ lợi ích vô cùng. Hà huống là có người được nghe danh hiệu và thính pháp nơi Phật. Tất cả đều trồng thiện căn nơi Phật vậy. Luôn luôn được lợi ích.

Nầy A-Nan! Như ta nói vậy, kẻ nào làm ít thì sẽ được quả báo ít, kẻ nào trồng thiện căn nhiều, kẻ ấy sẽ có quả báo đầy đủ. Nầy A-Nan! Kẻ mà trồng thiện căn ít, có nghĩa là người đó muốn thành Thanh Văn thừa. Khi thiện căn được mãn quả Thanh Văn thì làm nhân cho quả Duyên Giác và quả nầy sẽ chứng vào quả vị Duyên Giác vậy.

Nầy A-Nan! Đây là nhân duyên ta nói về việc nhỏ. Nầy A-Nan! Nói về phần hành lớn thì người ấy từ vô thỉ đến nay đã trồng chủng tử nơi Phật thừa và tất cả các thiện căn đều tu hành rốt ráo và vì thiện căn nầy nên là nhơn duyên được ngay vào quả Phật. Khi được quả Phật rồi còn muốn tích tụ đầy đủ thiện căn giác ngộ nữa. Sau khi đầy đủ thiện căn giác ngộ rồi, tức có tên là phần hành lớn.

Nầy A-Nan! Phần hành đầy đủ nầy như ta từ xưa đến nay đã nói trong các kinh, như thế theo thứ lớp mà hiểu biết. Như phần hành nhỏ được quả nhỏ. Nếu phần hành lớn thì được quả vị lớn.

Nầy A-Nan! Như trong kinh của ta đã nói, cho đến thọ trì 4 câu kệ, kẻ ấy có căn lành rất mỏng và kẻ ít trí trong chúng sanh, hãy tùy nghi mà nói. Nầy A-Nan! Ta đã vì tất cả chúng sanh chưa trở về làm cho trở về. Chưa xả bỏ làm cho xả bỏ, không hộ chúng sanh làm cho cứu hộ. Vô minh chúng sanh làm cho sáng rõ. Kẻ đui mù làm cho sáng mắt. Nầy A Nan! Tất cả ngoại đạo ngu si vô trí không thể tự cứu, làm sao cứu được người khác, làm cho họ trở về được. Nầy A-Nan! Ta đã vì tất cả Trời Người mà dạy họ, lân mẫn tất cả chúng sanh và sau khi giáo pháp trong tương lai bị diệt thì có các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni vì pháp của ta mà xuất gia nhưng trong tay có trẻ con và cùng chơi với chúng, từ tiệm rượu đến tiệm rượu. Ở trong pháp ta mà làm sai phạm hạnh. Họ là những người tuy chỉ say sưa; nên trong hiền kiếp nầy tất cả đều được vào Niết Bàn. Vì sao gọi là Hiền Kiếp? Nầy A-Nan! Trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy khi kiếp dục nầy thành rồi tận chỉ còn một giọt nước, lúc ấy sanh Tịnh Cư Thiên. Lấy Thiên nhân để xem thế giới nầy chỉ toàn là nước và nơi đó có hàng ngàn hoa sen. Mỗi hoa sen đều có hàng ngàn cánh. Màu vàng thì phát ra ánh sáng vàng chiếu lớn. Mùi thơm của hoa thật là dễ mến. Từ cõi trời Tịnh Cư nầy mà nhìn rồi thì tâm sanh hoan hỷ vô cùng và đã tán thán lời rằng: Kỳ diệu thay! kỳ diệu thay! Hy hữu thay! hy hữu thay! giống như trong kiếp nầy có một ngàn vị Phật xuất hiện. Do nhân duyên nầy mà kiếp nầy có tên là Hiền.

Nầy A-Nan! Sau khi ta diệt độ, ở nơi Hiền Kiếp nầy có 996 Đức Phật xuất thế. Ngài Câu Lưu Tôn Như Lai đứng đầu. Ta thuộc về thứ tư. Kế đến là Ngài Di Lặc sắp bổ xứ làm Phật, cho đến cuối cùng là Đức Lô Giá Như Lai. Như vậy thứ lớp nên biết.

Nầy A-Nam! Nơi pháp của ta các vị Sa Môn đã làm nhiễm hạnh Sa Môn, tự xưng Sa Môn, hình thức giống Sa Môn vì có mặc áo Cà-Sa. Ở Hiền Kiếp nầy, Ngài Di Lặc đứng đầu và cho đến cuối cùng là Ngài Lô Giá Như Lai. Các vị Sa Môn nầy từ chỗ Phật kia sẽ được từ cảnh giới Niết Bàn chứng đắc vào Niết Bàn, không ai là không được. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Như vậy tất cả trong các vị Sa Môn cho đến một lần xưng danh hiệu Phật và phát sanh tín tâm. Vì làm những công đức ấy nên khi lâm chung không hư hoại.

Nầy A-Nan! Ta biết chư Phật đo lường biết được pháp giới nhưng không hiểu hết được sự đo lường. Nầy A-Nan! Cho nên có nghiệp sạch thì được báo sạch, nghiệp đen thì bị quả báo đen. Nếu có những chúng sanh có tâm thanh tịnh và làm việc xưng danh hiệu Nam Mô Phật. Nầy A-Nan! Người kia căn lành tức đã định và Niết Bàn sẽ gần Niết Bàn. Luôn luôn thông suốt và vào Niết Bàn, hà huống được gần Phật tại thế, siêng năng cung kính, cung kính tôn trông, hoan hỷ cúng dường cho đến việc sau khi Phật nhập Niết Bàn còn cúng dường Xá Lợi nữa. Nầy A-Nan! Các vị Sa Môn tính tình ô nhiễm như thế tìm đến các vị Sa Môn cũng có hình tướng như vậy cho đến xưng một danh hiệu Phật mà còn được như vậy huống gì những người có tâm cung kính trồng chư thiện căn. Nầy A-Nan! Ta nay vì nghĩa nầy mà nói kệ như vầy:

Chư Phật như vậy khó nghĩ bàn

Phật của chánh pháp đều trở lại

Nếu hay kính tin không nghĩ bàn

Tất nhiên sẽ được bất tư báo

Quá khứ tất cả chư Như Lai

Hay tạo ánh sáng và lân mẫn

Lại cũng cúng dường nhiều Đức Phật

Chứng cảnh giải thoát khó tính được

Ta xưa cùng người thường gần nhau

Bố thí giúp đỡ cho chúng sanh

Tin sâu căn lành khuyên siêng năng

Vì khuyên tinh tấn cho tất cả

Yêu thương chúng sanh như cha mẹ

Anh em thân thiết cùng trí thức

Cùng với thân thuộc không sân hận

Gặp được giải thoát số khó đếm

Lúc ta an ổn nơi giác ngộ

Đã từ nhiều kiếp làm bố thí

Lòng từ thương xót cả chúng sanh

Bỏ thân đầu mắt cùng máu thịt

Cũng bỏ rất nhiều chức vương quan

Hay thương vợ con cùng nam nữ

Rât1 nhiều voi ngựa rất quý giá

Chỉ cầu tối thắng giác ngộ thôi

Rất nhiều ngàn ức kiếp đã qua

Các các siêng năng mà rong ruổi

Tâm tịnh nhiều đời làm bố thí

Vì cầu cuối cùng việc giác ngộ

Kham nhận rất nhiều các khổ não

Lạnh buốt nắng cháy cùng đói khát

Luôn phải siêng năng chết không bỏ

Vì cầu tối thắng bồ đề vậy

Ta dẫu trăm năm hay một kiếp

Nói đến việc nầy không thể hết

Lòng thương tất cả chúng sanh vậy

Vì cầu an ổn nơi giác ngộ

Luân hồi sanh tử hay gặp gỡ

Trăm ngàn ức vạn các Như Lai

Các Như Lai nầy thế lực lớn

Thường hay cúng hiến hoa sắc vàng

Cơm ngon ăn uống cùng y phục

Thoa hương xức dầu cùng rải hoa

Cùng với rất nhiều tràng phan quý

Cúng dường như vậy tất cả Phật

Rất nhiều không kể các chúng sanh

Luân hồi sanh tử không biên giới

Ta thường đến họ để an ổn

Lợi lạc rộng rãi cho mọi người

Giới đức chuyên cần hay khuyên răn

Thiền định tam muội huệ phương tiện

Thân cùng niệm xứ bốn chánh cần

Hay tu tập hạnh bốn thần túc

Lại tu ngũ căn và ngũ lực

Thất Bồ Đề phần bát chánh đạo

Tất cả trợ đạo ta tu tập

Chỉ cầu rốt ráo đến Bồ Đề

Ta vì chánh trí tu các nghiệp

Không có cái gì là không thiện

Từ không phóng dật tu các hạnh

Không có niệm ác tăng bao giờ.

***

Phẩm Căn Lành thứ chín

Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo Ngài A-Nan rằng:

Nếu có chúng sanh ở vào nước Phật nào một lòng phát tín tâm, với căn lành nầy không bao giờ mất mát. Hà huống lại tạo những căn lành như thế. Nầy A-Nan! Ta vì chúng sanh biết rõ như thế nên cho thí dụ. Vì người trí mà dẫn giải dụ nầy.

Nầy A-Nan! Dụ như có người chẻ chia một sợi lông làm 100 phần. Cứ mỗi phần lông nhuộm một giọt nước, trì chí mang đến nơi ta và nói rằng: Cồ Đàm! Tôi nay mang nước nầy để biếu Cô Đàm. Nhìn kỹ nước nầy chẳng thấy tăng giảm. Lại nữa nhân ngày có gió cũng không thấy nước nầy khô, cũng không làm chi chim chóc uống được. Sau đó hòa nước nầy với các nước khác, dùng bình để đựng và lúc ấy Như Lai đã thọ nhận vật cúng nầy. Sau khi thọ nhận ta đã cho vào sông Hằng. Cũng không trở lại, cũng chẳng dư ra, hòa tan như thế vào sông lớn rồi trôi chảy đi. Việc không hồi phục là vô quái ngại. Chim muông côn trùng lại chẳng uống hết. Như nước nầy đây không tăng không giảm vậy. Cùng với nước hòa lẫn vào biển lớn. Nếu giọt nước ấy do gió khởi động, khi thế giới nầy hoại, giả sử có người ở đời một kiếp thì ta cũng được sống một kiếp. Người ấy khi đến kiếp cuối, lại đến nơi ta nói lời rằng: Cồ Đàm! Tôi đã cúng nước. Nay không còn nữa.

Nầy A-Nan! Như Lai lúc ấy biết rằng giọt nước kia đã hòa vào trong biển lớn. Trong nước ấy không dư, mà đã hòa lẫn rồi, không tăng không giảm, bình đẳng như vậy, mang trả người kia. Nầy A-Nan! Như vậy đó! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, có thần thông và thế lực lớn, có nhiều công năng thanh tịnh trí tuệ, không thể lường về tri kiến vô ngại. Những việc như vậy luôn không chướng ngại. Ở trong người nhận là bậc tối thắng. Từ nơi chỗ Phật cúng rồi trải qua nhiều giọt nước nhỏ như thế gian rất lâu vẫn không hao tổn. Nghĩa nầy nên biết. Nầy A-Nan! Người chẻ lông tượng trưng cho ý thức và tâm. Sông Hằng là dụ cho sanh tử lưu chuyển. Một giọt nước dụ cho người mới phát tâm có căn lành. Đại hải dụ cho Phật Như Lai Chánh Biến Tri. Người cúng dường dụ cho các tịnh tín Bà La Môn và các Trưởng Giả Cư Sĩ. Trụ một kiếp dụ cho Phật Như Lai thọ dụng nhưng không tổn hoại cũng giống như người biếu nước kia trải qua thời gian lâu dài, như vậy đó A-Nan! Nếu từ nơi Phật mà phát tâm thì căn lành không mất. Hà huống các loại căn lành vi diệu khác. Ta nói rằng người nầy tất nhiên được vào Niết Bàn, cho đến nhập Đại Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nếu lại có người đến chỗ Như Lai, có sự phát tâm suốt đời cung kính, trừ người có nghiệp chướng ác, đọa tại địa ngục súc sanh ngạ quỷ, do vì nghiệp nầy tự tạo tự lãnh. Nếu vì tình thương chư Phật xuất hiện nơi đời, làm cho không có chướng ngại. Phải biết rằng chúng sanh nầy đã trồng căn lành, chỉ trừ kẻ bất thiện làm nghiệp ác bị đọa tại địa ngục. Biết được Phật rồi, từ địa ngục kia sẽ được thoát ra. Ở nơi yên ổn, không sợ hãi chi. Sau khi an trí trên bờ rồi, làm cho chúng sanh nhớ nghĩ lại các nghiệp thiện đời xưa và dạy lời rằng: Nầy các ngươi! Ta nay đang nhớ về các căn lành đời trước, như căn lành nầy ở tại nơi đó, thế giới đó, nơi Đức Phật đó tu hành, trồng các căn lành. Các người như vậy dùng uy lực Phật tức nhớ nghĩ lại. Sau khi nhớ rồi liền nói lời rằng: Như vầy Bà Già Bà! Như thế Tu Già Đà!

Phật lại bảo rằng: Nầy gã thiện nam! Ta từ vô thỉ nơi các Như Lai đã trồng căn lành, không hao không tổn liền được lợi lạc. Cho nên rời tất cả khổ, được tất cả vui. Nầy thiện nam tử! Nay ta được đến cảnh giới nầy; nhưng ta suốt đêm cũng không ở cảnh giới. Từ vô thỉ cho đến ngày nay biết bao lưu chuyển sanh tử. Cũng do trồng các thiện căn nơi Phật không hao tổn, ví như Vương Tử và Đại Thần dùng quyền uy để đóng cửa ngục, nói việc nầy để cải hối và cho tù nhân ra. Như vậy đó An-Nan! Những chúng sanh nầy đã có gốc gác trồng các căn lành với Như Lai, tạo các ác nghiệp hoặc thiện nghiệp, dẫu cho bị đọa vào địa ngục súc sanh ngạ quỷ và các đường ác; nhưng vì tâm từ bi mà chư Phật ra đời và vì sự phát tâm đó là căn lành nhơn duyên gia trì vậy. Phật đều thấy biết nơi địa ngục mà phá địa ngục ra, an trí chúng sanh nơi Niết Bàn cao sạch thanh tịnh, không sợ hãi. Sau khi để nơi không sợ hãi rồi, làm cho nhớ nghĩ mà dạy lời rằng:

Nầy Thiện Nam tử! Hãy nên nhớ nghĩ, nhờ vào căn bản tạo tác căn lành nhơn duyên, nên mới được quả báo như vậy.

Các chúng sanh nói lời như thế nầy: Như vậy Bà Già Bà! Như vậy Tu Già Đà! Chúng con nhờ uy thần của Phật gia trì mà có thể nhớ nghĩ lại được.

***

Phẩm Bố Thí Phước Đức thứ mười

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bải Ngài A-Nan rằng:

Hãy nên biết rằng, những việc như thế ấy từ trồng các căn lành nhỏ nhặt mà khi mất không hư hoại cho đến phát tâm sanh một lòng tin, ta đã nói rằng những người nầy trước sau cũng sẽ chứng được Niết Bàn và vào Niết Bàn tịch diệt. Nghĩa ấy là vậy. Lại cũng có thể thí dụ rằng: Làm cho nam tử nữ nhơn có tâm thanh tịnh tinh sâu nguyện thiết, chuyển việc cung kính sanh ra tâm từ ái vui vẻ hoan hỷ, mừng rỡ. Nầy A-Nan! Giống như người câu cá được cá tại ao nước, ngồi bỏ lưỡi câu cho cá ăn nhằm. Tuy ở trong ao không chạy đâu được. Vì sao vậy? Vì những cá nầy bị dây ràng buộc. Tuy ở trong nước nhưng phải biết rằng cá kia phải lên bờ. Vì sao vậy? Vì cần câu nầy đều buộc vào gốc cây. Lúc ấy người câu mới chạy đến nơi, liền biết được cá. Dùng cá câu được bắt bỏ lên bờ, tùy ý xử dụng.

Như vậy đó A-Nan! Tất cả chúng sanh từ nơi Phật và phát sanh tâm kính tín, trồng các thiện căn tu hành bố thí, cho đến phát tâm được một niềm tin. Tuy có lúc làm ác, không phải nghiệp thiện phải đọa địa ngục ngạ quỷ súc sanh và các nơi khổ sở. Nhưng nếu có Phật ra đời, Phật dùng tuệ nhãn thấy các chúng sanh, hành Bồ Tát thừa, hoặc Duyên Giác thừa, hoặc Thanh Văn thừa. Vì các chúng sanh nầy đã trồng các căn lành và những chúng sanh nầy cũng đã đoạn những căn lành. Tuy những chúng sanh nầy đọa vào nơi thoái phần, các chúng sanh nầy ở tại Thắng Tiến phần. Các chúng sanh nầy đã trồng các chủng tử nên được an trí vào nơi hiền thánh. Do nơi phước điền của Phật cho đến sự phát tâm, một lòng kính tin tu hành bố thí. Vì thiện căn nầy mà chư Phật Thế Tôn dùng Phật nhãn để quán sát chúng sanh nầy đã phát tâm rồi. Cho nên từ nơi địa ngục được ra khỏi. Ra khỏi ngục rồi liền đến bờ giải thoát. Sau khi giải thoát rồi, nhớ lại việc xưa tại nơi Phật đó đã trồng căn lành. Sau khi nhớ nghĩ nói lời thế nầy:

Như vậy đó! Bà Già Bà. Như vậy đó! Tu Già Đà.

Phật bảo: Nầy Thiện Nam tử! Vì căn lành nầy mà được quả báo lớn và lợi ích vô cùng. Từ nơi Đức Phật tu hành bố thí trồng các căn lành. Nầy Thiện Nam tử! Người cúng dường ấy sau khi lâm chung, không bị tổn hoại., Giả sử xa xôi cho đến trăm ngàn ức Na Do Tha kiếp, chỉ cần một căn lành kia mà được Niết Bàn cho đến chứng quả Vô Du Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nói về người câu cá, dụ như kẻ phàm phu, ao nước dụ cho biển sanh tử. Lưỡi câu dụ cho nơi Phật mà trồng căn lành. Dây cột dụ cho 4 nhiếp pháp. Người câu cá dụ cho Phật Như Lai. Tùy ý dùng cá dụ cho Như Lai an trí chúng sanh nơi Niết Bàn quả.

Nầy A-Nan! Như thế đó theo thứ lớp mà nên biết. Nếu cúng dường ruộng đất. Giả sử cho đến khi mất đi rồi, phước nầy không mất, cuối cùng không có giới hạn, tất nhiên vào quả Niết Bàn.

Nầy A-Nan! Ta nay lại tạo thêm thí dụ khác. Nếu cúng dường đất đai được đệ nhất Niết Bàn cho đến Vô Dư Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh nào tham quả báo của thế gian, làm việc của thế gian, ái nhiễm vui buồn, ưa cầu của thế gian, nhưng nương nơi chư Phật mà tu hành bố thí. Với căn lành nầy hồi hướng thì sẽ sinh vào cõi người cõi trời. Lại có chúng sanh từ nơi Phật mà trồng các căn lành rồi nói lời rằng: Với thiện căn nầy nguyện ta đời đời kiếp kiếp vào chốn Niết Bàn, bất cứ nơi nào. Vì sao vậy? A-Nan nên biết rằng chư Phật là vô thượng phước điền, không có cỏ úa lại cũng chẳng có gai góc. Lìa xa sự ham muốn nhơ bẩn qua đến nơi thật thanh tịnh. Như thế trong các ruộng phước trồng các căn lành phước đức nhỏ và tại ruộng nầy không sanh Trưởng Giả, chỉ có 3 loại Bồ Đề được làm hạt giống. Đó là Vô Thượng Bồ Đề. Duyên Giác Bồ Đề và Thanh Văn Bồ Đề. Những căn lành nầy cuối cùng chẳng mất. Do sự phát tâm bố thí và kính tín mà làm tăng thượng duyên vậy. Được vào đường lành và các pháp thanh tịnh, có thể chứng nhập vào Niết Bàn.

Nầy A-Nan! Dụ như Trưởng Giả lúc bán ruộng đất. Tại đất kia không có cỏ úa, không có gai góc và cũng chẳng có ngói sạn, đồ tải dơ bẩn mà chỉ sạch sẽ. Lấy hạt giống mới gieo vào, tất nhiên không hư không hại. Tùy vào thời tiết mà gieo giống xuống ruộng. Tùy theo thời mà tưới tẩm và tất cả lúc đều thường coi sóc gìn giữ. Nầy A-Nan! Khi vị Trưởng Giả làm như thế đó, có lúc đến thăm ruộng kia. Ròi liền nói rằng:

Thật là giống lành! Nếu không gieo xuống, làm sao sanh trưởng. Ta không cầu lợi lại không cầu báo. Nầy A-Nan! Nghĩa nầy thế nào? Vì sao gọi là ruộng mà hạt giống không sanh, không làm vậy?

A-Nan thưa: Không phải vậy Bà Già Bà! Không phải vậy Tu Già Đà! Nơi kia có quả; nhưng không là quả thật.

Phật bảo: Đúng như vậy, như vậy đó. Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh ưa đắm sanh tử vào nơi 3 cõi mà nơi phước điền của Phật trồng được căn lành như thế thì với thiện căn nầy nguyện ta chưa nên vào Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nếu người nầy chưa Niết Bàn, chẳng có nơi nào. Nầy A-Nan! Mà người nầy chẳng vui cầu Niết Bàn; nhưng đã trồng căn lành nơi chư Phật. Do vậy ta nói người nầy tất nhiên vào Niết Bàn và Vô Du Niết Bàn. Nầy A-Nan! Về đến đời sau có vị vua nơi biên địa, tuy ông ta không thông hiểu công đức Phật Pháp; nhưng khi thấy Tịnh Xá của Phật và hình tượng tâm sanh tin tưởng. Ta từ trong quá khứ nhiều lần đã sanh trong 5 đường, lúc tu tất cả các hạnh Bồ Tát như Tứ Nhiếp Pháp gồm Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành và Đồng Sự nên đã nhiếp phục vua nơi biên địa kia. Nầy A-Nan! Vua nơi biên địa kia khi xem Tịnh Xá và hình tượng của ta tâm sanh kính tín. Vì căn lành nầy đương nhiên được Niết Bàn và sẽ vào Niết Bàn.

Nầy A-Nan! Vua ở biên địa kia có các Đại Thần và Vương Tử phò trợ cùng với thân thuộc gần xa và bạn lữ ngay sau khi ta diệt độ đã nhìn thấy Tịnh Xá và hình tượng. Tuy không hiểu rõ về công đức của chư Phật và chánh pháp của Phật; nhưng trồng căn lành nhỏ nầy rồi phát tâm tin tưởng. Ta vốn tu hành Bồ Tát hạnh lại cũng dùng tứ nhiếp pháp mà nhiếp hộ cho ông ta và vì thiện căn nầy mà được gia trì vậy, để vào Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn. Nầy A-Nan! Ta suốt canh thâu có lòng thương tưởng đến chúng sanh, dùng tứ nhiếp pháp suốt đên nhiếp thọ. Vì Phật Pháp mà nuôi dưỡng tâm nầy. Nầy A-Nan! Khi thấy Như Lai trên đường hành đạo hay làm cho xứ cao hạ thấp xuống, người thấp lại cao lên. Cao thấp các nơi lại được quân bình. Sau đó Như Lai trở lại thì tất cả các cây đều hướng về Phật, Thần của cây hiện thân ra đê đầu đảnh lễ Phật. Sau khi Như Lai đi rồi, cây lại hoàn phục. Trên đòi các phía cỏ cây héo úa hư thối, gai góc tòng lâm tất cả đều bị gạch ngói làm hư và tất cả đều được quét dọn. Nghiên trị sửa đổi sạch sẽ không có cỏ rác. Hương thơm, mùi lạ bay đến khắp nơi, các hoa quả làm trang nghiêm đất nầy đẹp đẽ. Bàn chân Như Lai đạp lên đó mà đi. Nầy A-Nan! Hãy biết rằng Như Lai đã tu hành các công đức lành như trên hành trình ấy. Không có chúng sanh nào là không hướng về cúi đầu lễ tạ. Ngay cả các loài vô tình như đất đai, núi rừng, cây cỏ, thuốc men, từ nơi pháp Phật không nơi nào là không hướng về. Vì sao vậy?

Nầy A-Nam! Ta vốn tu hạnh Bồ Tát và vì các Thầy mình mà hướng về lễ bái, lại như cha mẹ thứ nhứt, tôn trọng hướng về lễ bái. Những bậc Thượng, Trung, Hạ thân hữu cốt nhục không đâu là không hướng về làm chỗ nương tựa nơi Phật là bậc Thiện Trí Thức. Thanh Văn Duyên Giác và cho đến ngoại đạo. Có 5 thần thông như các Tiên, Sa Môn, Bà La Môn, như vậy tất cả đều thọ sự cúng dường. Các Phật Bồ Tát và Thiện Tri Thức. Thanh Văn Duyên Giác, ngoại đạo các Tiên, Sa Môn, Bà La Môn, cha mẹ anh em cùng cốt nhục liên hệ, các bậc Thượng, Trung, Hạ hoặc đồng thầy đồng bạn không ai là không hướng về, khiêm hạ kính lễ.

Nầy A-Nan! Ta đã làm những việc thiện như thế đãy! Cho đến quả vô thượng bồ đề và thành Pah65t. Cho đến các vật hữu tình hay vô tình. Khi Như Lai thực hiện thì không có nơi đâu là không đê đầu lễ bái. Nầy A-Nan! Ta đã từng thanh tịnh vi diệu xưng tán căn bản như thế và tự tay ta đã bố thí cho Sư Trưởng và tất cả chúng sanh. Nầy A-Nan! Đó là những nghiệp báo vậy. Khi Như Lai thực hiện thì đất đai bình đẳng, được quét dọn sạch sẽ trang nghiêm, thanh tịnh không có bùn dơ. Cũng chẳng có gạch ngói. Nầy A-Nan! Ta đã từ nơi vô lượng Đức Như Lai mà thực hành con đường Bồ Tát, Tri Thức, Thanh Văn, Duyên Giác, ngoại đạo, các Tiên v.v… Ta từ xưa đã từng quét dọn đường sá, lấy bùn đất để làm nhà, hoặc ở hoặc đi nơi Tịnh Xá Phật, ta đều dùng tâm bình đẳng, tâm không cao ngạo, không nịnh hót, tâm thanh tịnh, tâm tẩy trừ để được thanh tịnh. Ở bất cứ lúc nào cũng cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vì tất cả chúng sanh vậy. Cũng vì sự an lạc của tất cả chúng sanh, lại cũng vì lòng thương đối với tất cả chúng sanh, lợi ích an lạc chư thiên nhơn vậy.

Nầy A-Nan! Đây là căn lành. Nếu các Đức Như Lai nơi nơi xứ xứ hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi, nếu có tư duy nhớ nghĩ đến việc làm nầy thì tự nhiên đường sá thanh tịnh, đất đai bằng phẳng. Nầy A-Nan! Như Lai có được những công đức về thân như thế. Thù thắng kho 1biết, không thể lường được. Nầy A-Nan! Ta nay vì muốn đầy đủ nghĩa nầy cho nên làm cho thanh tịnh lòng tin nơi các thiện nam và thiện nữ và từ chỗ Như Lai đã phát sanh tín tâm thâm hậu chưa từng có. Nầy A-Nan! Núi Tu Di cao đến 84.000 do tuần. Trong biển lớn ấy cũng rộng 84.000 do tuần. Nầy A-Nan! Giả sử ta diệt độo rồi, giống như núi Tu Di kiên cố nầy không thể thay đổi được, hà huống các núi đen, cạy cỏ, tòng lâm. Nếu mà không nghiêng, không có nơi như vậy. Nầy A-Nan! Núi Tu Di kiên cố như thế, chung quanh có núi Thiết Di cao 16.8000 do tuần. Núi nầy cũng kiên cố như kim cương. Khi Phật vào Niết Bàn thì không phải không quay về cúi đầu đảnh lễ. Cũng chẳng có người nào dầu xa xôi cũng không phải là không muốn hướng về. Không có nơi nào như vậy. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Lúc ta tu hành hạnh Bồ Tát thì tất cả chúng sanh đều làm xong sự nghiệp, không có biệt ly. Nếu có chúng sanh nào tham si phát triển ta làm cho hòa hợp. Kẻ nào không chịu hòa, có thể làm cho hòa hợp, Kiên cố an trụ đầy đủ không hoại. Tất cả đều sanh tâm từ và tâm thương xót.

Nầy A-Nan! Đây là những căn lành có nguyên nhơn vậy. Như Lai mất đi rồi thì thân thể cũng không thể hoại đi vậy. Cho đến quyến thuộc cũng kiên cố không hoại được. Nầy A-Nan! Như Lai cũng hộ trì cho quyến thuộc kiên cố không thể hoại pháp được. Nghĩa là 4 niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý, tóc, ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ Đề phần, Bát Thánh Đạo phần. Nầy A-Nan! 37 phẩm trợ đạo nầy, đây là đại quyến thuộc của Như Lai. Cho nên các chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác an trụ ở trong nầy. Tất cả thế gian, trời người không thể hoại được. Vì sao vậy?

A-Nan thưa: Phật là Pháp của tất cả thế gian, trời, ma phạm, Sa Môn, Bà La Môn và chư quyến thuộc cùng với Người và A Tu La. Cùng với Tu Di sơn, núi Đại Thiết Vi, đại địa cùng cây cỏ, lúc Phật nhập Niết Bàn, tất cả đều cúi đầu hướng về, làm sao có thể phá hoại được. Nếu có kẻ phá hoại, cũng chẳng có nơi nào. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Thân của Như Lai không thể phá hoại được. Xá Lợi của Phật cũng không thể phá hoại được. Nầy A-Nan! Như Lai thương tất cả chúng sanh cho nên theo bổn nguyện mà lưu lại Xá Lợi nầy giống như hạt giống, để làm cho Phật Pháp được tăng trưởng rộng rãi. Nầy A-Nan! Khi ta tu khổ hạnh, ta phát ra lời nguyện như vậy. Sau khi ta thành Phật rồi và khi vào Niết Bàn ta sẽ để Xá Lợi lại để làm lợi ích rộng rãi vậy. Nầy A-Nan! Theo lời nguyện của ta, sau khi ta diệt độ, hãy đem Xá Lợi mà lưu truyền rộng rãi. Các chúng sanh ấy khi thấy Phật nhập Niết Bàn liền chứng được thánh quả. Phật rất thương những người nầy. Vì thế nên phân Xá Lợi nầy như hạt cải.

Nầy A-Nan! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vào Niết Bàn, lúc ấy cũng vẫn còn thương những chúng sanh ở thế gian. Khi nhập vào Tam Muội, Như Lai cũng định phân Xá Lợi nhỏ ra như hạt cải vậy. Lúc ấy Như Lai không thọ bịnh khổ, tất cả chi tiết phân tán ra thì hay làm cho Xá Lợi giống như hạt cải. Lúc ấy Phật Như Lai chẳng có bịnh khổ gì cả. Cho đến việc thương tưởng nhiếp thọ các chúng sanh ấy. Cho đến nhiếp thọ tương lai cho những chúng sanh nầy. Làm cho họ được an ổn nơi đường lành. Cúng dường Xá Lợi. Tôn trọng nghinh rước, cung kính cúng dường. Mỗi mỗi trang nghiêm, mỗi mỗi hoa hương, xông hương, đốt hương, y phục, tràng phan cho đến các bảo cái, ca vũ âm nhạc. Ta nói rằng họ là những người sẽ chứng quả Niết Bàn cho đến vào Vô Dư Niết Bàn. Nầy A-Nan! Sau khi ta diệt độ 100 năm tại thành Ba Li Phất có vị Quốc Vương tên là A Thâu Ca sanh ra trong dòng dõi Khổng Tước dùng pháp để trị thế. Ông ta đã sinh tâm cung kính giáo pháp của ta. Sau khi kính tin rồi liền đem Xá Lợi của ta quảng bá ra nhiều hơn nữa. Mỗi ngày mỗi giờ đều tạo ra 84.000 tháp để thờ Xá Lợi. Nầy A-Nan! Hãy đừng buồn lo nữa! Xá Lợi của ta đang có mặt khắp nơi trong trời người. Nầy A-Nan! Những người hiện tại đang cúng dường Như Lai av2 sau khi ta diệt độ cúng dường Xá Lợi nhỏ như hạt cải của ta. Nầy A-Nan! Hoặc trong cơn mơ thấy Tịnh Xá Phật, tâm sanh kính tin. Ta nói người nầy, với căn lành ấy sẽ được vào Niết Bàn. Được đệ nhất Niết Bàn đến tận Vô Dư Niết Bàn.

Nầy A-Nan! Ở đời vị lai khi có chư Phật ra đời, không có vị nào là không tán thán công đức tu hành của ta cũng giống như ta hiện nay đang xưng tán công đức của chư Phật trong quá khứ vậy. Chư Phật ở vị lai cũng xưng tán tên ta như vậy. Nầy A-Nan! Khi ta thuyết pháp, nếu có các chúng sanh, đều xa rời dơ bẩn được pháp nhãn thanh tịnh. Nầy A-Nan! Những chúng sanh nầy đã trồng sâu căn lành khi ta tu Bồ Tát hạnh, tất cả đều đã được thành thục. Nầy A-Nan! Nếu có cúng dường công đức cho chư Tăng có hết đi chăng nữa thì cúng dường cho bốn phương Tăng công đức cũng như vậy. Cúng dường Bích Chi Phật công đức không cùng tận thì nơi chư Phật công đức của người ấy cũng không thể cùng tận được.

Lại nữa A-Nan! Như ta đã nói trước, các phước điền tự nó vốn tạo nên công đức, tất cả đều chứng Niết Bàn và vào Vô Dư Niết Bàn. Nầy A-Nan! Những người thân cận cúng dường cho ta, sau khi ta diệt độ cúng dường Xá Lợi của ta. Nầy A-Nan! Nếu có niệm Phật, cho đến có một cành hoa liệng vào trong không trung, ta từ mắt Phật mà nhìn thì kẻ nầy đã có căn lành, không thể so sánh, không thể nói nữa. Nầy A-Nan! Do từ nơi chúng sanh kia đã trồng căn lành và có tâm Phật cho đến cúng dường một cánh hoa, việc ấy cho đến cuối kiếp nầy lưu chuyển mãi trong kiếp sau. Từ đầu đến cuối khó thể biết được. Lúc lưu chuyển như thế vì Như Lai mà phụng tán một cánh hoa, cũng chứng được quả báo khó thể nói, khó thể xưng dương được. Hoặc làm Vua Phạm Thiên, Vua Thích Thiên, Vua Chuyển Luân Thánh, do căn lành nầy không bao giờ hết vậy, cho đến chứng được Niết Bàn và vào Niết Bàn vậy. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Vì chư Phật có thần thông lớn từ việc cúng dường một cánh hoa mà chứng được vô lượng phước báo, rộng khắp lợi ích và chứa nhóm nhiều công đức như vậy; khó thể xưng tán, so sánh không thể cùng tận. Tức nhiên sẽ chứng vào cảnh giới Niết Bàn.

Nầy A-Nan! Nếu có kẻ nào từ chư Phật mà tạo ra công đức như vậy thì phải biết là phước báo ấy. Khó có thể xưng tán, so sánh được. Cho đến việc từ nơi Phật mà phát ra tâm sinh lòng tin, ta nói rằng kẻ nầy rốt ráo là người phạm hạnh, an ổn rốt ráo, cứu cánh rốt ráo vô cùng tận. Nầy nữa A-Nan! Nếu có người con trai hay con gái nào muốn cầu Vua Phạm Thiên, Vua Chuyển Luân Thánh Vương, hộ thế Tứ Thiên Vương, Trời cõi thứ 33, Trời Dạ Ma, Trời Đẩu Suất Đà, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại cho đến chư Thiên, Dạ Xoa, Càn Thiết Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và không phải người v.v… Bậc nhứt thiết thế gian chủ, chứng được tự tại, phải nên như vậy mà tôn trọng nghinh đón, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Nếu muốn càu sanh nơi cõi Thanh Văn, cõi Bích Chi Phật, hoặc cầu Vô Thượng Tam Miệu Tam Bồ Đề, những thiện nam kẻ thiện nữ nầy lại cũng như vậy cung kính tôn trọng khiêm cung cúng dường y phục, ẩm thực, giường nằm, chỗ ngồi, trị bịnh, lầm nhân duyên, cho thuốc. Cho đến lúc đi, đứng, nằm, ngồi lại dùng cành hoa, tẩm hương, thoa hương, hương chiều đàn, nước trầm, tràng phan, bảo cái cúng dường các vị Phật nầy. Sau khi chư Phật diệt độ lại tạo lập tháp miếu các loại trang nghiêm cùng với hương hoa, hương bột, hương thơm, ca vũ, kịch vui cho đến trăm ngàn loại nhạc cung kính tôn trọng khiêm cung cúng dường vì lòng từ bi mà làm cho chúng sanh trong thế gian nầy vậy. Lại cũng làm lợi ích an lạc cho chư Thiên và loài người. Người chưa đắc độ sẽ được đắc độ. Người chưa giải thoát sẽ được giải thoát. Người chưa an ổn sẽ được an ổn. Người chưa Niết Bàn sẽ được Niết Bàn.

Nầy A-Nan! Ta đã dùng năm cọng cây Ưu Ba La hoa để cúng dường Phật Nhiên Đăng, mà từ nơi Ngài, ta đã ngộ được vô sanh pháp nhẫn. Những thiện căn như thế quả báo không phải là nhỏ. Nầy A-Nan! Ta đã từ nơi Đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Biến Tri và cúng năm cành hoa cho đến được những thiện căn phước đức như thế. Các ngươi có muốn biết chăng?

A-Nan thưa: Chúng con xin hoan hỷ để được nghe. Như vậy Đức Bà Già Bà! Như vậy đó Đức Tu Già Đà! Ngay bây giờ kính xin Đức Thế Tôn phân biệt giải bày. Từ Phật Nhiên Đăng trồng căn lành nầy mà được quả báo. Lúc ấy Đức Thế Tôn thư thả trạch vai phải có màu vàng rồi từ ngón tay nhỏ phóng ra mùi hương của hoa trời Ưu Ba La, bay khắp 3000 đại thiên thế giới chư Phật. Trăm ngàn ức mặt trời, mặt trăng đang chuyển động không thể di chuyển. Lúc ấy Đức Thế Tôn ở trong Trời Người, A Tu La hiện việc kỳ lạ nầy chưa từng có, từ nơi thiện căn ở chư Phật mà được phước báo nên đã thị hiện, không hư dối, không hao tổn. Lúc ấy Đức Thế Tôn liền nói kệ như vầy:

Chư Phật khó nghĩ bàn

Như Lai pháp cũng vậy

Hay làm cho người tin

Tất được nhiều báo tốt

Loài có tưởng hay không

Tất cả các chúng sanh

Vô lượng trăm ức kiếp

Tất cả nên cúng dường

Từ nơi Bích Chi Phật

Vô Lậu A La Hán

Không biết bao nhiêu kiếp

Cúng dường cho tất cả

Chánh Giác đang ở đời

Hoặc Phật Niết Bàn rồi

Cho đến một chắp tay

Phước nầy lớn hơn kia

Giới Phật không phá hoại

Tam Muội được tự tại

Nơi Pháp không nghi hoặc

Mắt Phật không giới hạn.

Nếu kẻ tu hành hạnh từ bi

Trong ngày hoặc đêm thời gian ít

Như vậy cúng dường phước không cùng

Ba cõi không sánh không có được

Trong quá khứ kiếp A Tăng Kỳ

Từ nơi đạo sư của thế gian

Trời người trong ấy làm ánh sáng

Tu các thiện nghiệp không kể hết

A Tăng Kỳ kiếp đang lưu chuyển

Thọ được phước báo không cùng tận

Ta do từ phước ấy lấy làm duyên

Hay được như vậy quả giác ngộ

Ta hay thương xót chúng sanh đây

Từ nơi trăm ngàn ức Đức Phật

Mười đời thường tu pháp cúng dường

Phật chẳng vì ta thọ ký riêng

Phật kia trong đời người trên hết

Biết ta thiện căn đã thuần thục

Tuy làm việc thiện không ghi lại

Cũng phải cố gắng kiên nhẫn vậy

Ta cũng đã gặp Phật Nhiên Đăng

Cúng dường năm cành Ưu Ba La

Dùng tóc che bùn Phật đạp lên

Tuế ngộ vô sanh chứng pháp nhẫn.

Lúc ấy đạo sư Phật Nhiên Đăng

Liền thọ ký ta, lên hư không

Nói rằng đời sau kiếp A Tăng

Sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca

Từ đãy sanh tử lưu chuyển lại

Tu hành vô lượng các nghiệp lành

Thương chúng sanh thọ nhiều khổ não

Vì cầu vô thượng ngôi giác ngộ

Ta thấy thế gian quá cô độc.

Thương xót đoái hoài hay bố thí

Phước ấy không hạn, không lường được

Đạo sư giảng nói không cùng tận

Ta vì Bồ Tát hạnh mà làm

Vì các Đức Phật mà thực hiện

Ngày đêm xưng danh và cúng dường

Vô lượng ức kiếp không tính được.

Một hai ba bốn năm đến mười

Hai mươi ba mươi lượt xưng tên

Vì thương chúng sanh mà tu hành

Cuối cùng vì Phật mà cúng dường

Như lúc ta đương tu khổ hạnh

Nhiều khổ vô cùng cũng nhẫn chịu

Mười đời không bỏ tâm bồ đề

Tất cả các Phật khó sánh được

Ta vì thế gian luôn lưu chuyển

Đã bỏ trăm ngàn vạn ức đầu

Đã bỏ đất đai cùng vương vị

Vì cầu nghe pháp nói điều lành

Ta chỉ vì vô thượng chánh pháp thôi

Tâm ta vui cầu khó sánh được

Bố thí, trì giới và nhẫn nhục.

Tinh tấn giác ngộ đến bồ đề

Thế lực chư Phật khó nghĩ bàn

Từ công đức ấy mà thành lập

Hay nói chánh pháp không ngừng nghỉ

Hay làm cho được chứng Bồ Đề.

***

Phẩm Trồng Căn Lành thứ mười một

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Ngài A-Nan rằng:

Ta từ lúc Phật Nhiên Đăng đến nay, lại cũng đã gặp Đức Phật tên là Liên Hoa Thượng. Ta đã dùng hoa vàng cúng dường vị Phật nầy. Vì cầu Vô Thượng Bồ Đề vậy. Ta cũng đã gặp Phật tên là Nhứt Thiết Thế Gian Tối Thắng Tự Tại. Ta đã dùng hoa bằng bạc để cúng dường vị Phật nầy. Vì cầu tất cả chủng trí như vậy. Ta lại cũng đã gặp vị Phật có tên là Cực Cao Hạnh. Ta đã dùng tiền quý để cúng dường Ngài. Vì cầu tất cả bất khả tư nghì trí. Ta cũng đã từng gặp vị Phật tên là Nhựt Thượng Dư. Ta đã dùng các loại trân quý để cúng dường vị Phật nầy. Vì cầu vô chướng ngại trí. Lại nữa ta đã gặp vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ta đã dùng các loại hoa khác nhau để cúng dường vị Phật nầy. Vì để cầu vô thượng Bồ Đề. Lại cũng đã gặp vị Phật t6en là Đế Sa. Ta đã dùng bột chiên đàn để cúng dường Phật. Cũng chỉ để cầu trí không chướng ngại. Lại cũng đã gặp vị Phật tên là Phất Sa. Ta đã có lòng tin sâu cho đến 7 ngày 7 đêm mà mắt chẳng mỏi mòn. Cũng đã có rất nhiều bài kệ để tán thán vị Thế Tôn kia. Lại cũng đã gặp vị Phật khác tên là Tỳ Bà Thi. Ta cũng đã dùng đậu để cúng dường vị Phật ấy. Lại cũng đã gặp vị Phật tên là Thi Khí. Ta đã dùng các y áo giá trị để phụng cúng vị Phật ấy. Lại cũng đã gặp vị Phật tên là Tỳ Xá Phù. Ta đã dùng đồ ăn thức uống để cúng dường vị Thế Tôn kia.

Nầy A-Nan! Tại đầu Hiền Kiếp nầy có Phật tên là Câu Lưu Tôn. Ta từ nơi vị nầy mà tu hạnh thanh tịnh. Vì cầu Tự Nhiên trí. Lại cũng gặp vị Phật tên là Câu Na Hàm Mâu Ni. Ta đã từ nơi vị Phật nầy mà tu hành phạm hạnh. Lại cũng có vị Phật tên là Ca Diếp. Thời ta cũng từ nơi Ngài mà tu hành phạm hạnh. Ta từ nơi chư Phật nầy. Vì cầu A Nậu Đa La Tam Muội Tam Bồ Đề. Vì để độ cho chính mình và độ cho những kẻ chưa được độ, được chứng quả giải thoát. Lại người chưa được giải thoát thì sẽ được giải thoát, chứng được quả vị Niết Bàn. Những người chưa chứng quả Niết Bàn sẽ vào được Niết Bàn. Cho nên ta nay được chư Phật Thế Tôn trong vô lượng A Tăng Kỳ hoan hỷ cúng dường, cung kính tôn trọng, khiêm cung khi tán thán. Đầy đủ vô lượng các công đức lành. Vì cầu chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nầy A-Nan! Như vậy lần lượt phải nên biết. Tuy trồng nơi chư Phật các thiện căn nhỏ như vậy mà được đại thần thông và lợi ích lớn cùng công đức như vậy. Nầy A-Nan! Ta từ nơi chư Phật mà trồng các cội rễ giác ngộ bất khả tư nghì như thế. Nên nay mới được quả báo bất khả tư nghì như vậy. Không có gì để so sánh được, không địch nổi và cũng không có giới hạn của nó. Hãy nên tin như vậy. Lúc ấy Đức Phật liền tuyên thuyết lại lời kệ rằng:

Ta từ nơi Đức Phật Nhiên Đăng

Gặp gỡ tu hành hạnh giác ngộ

Năm cành hoa xanh dâng cúng Phật

Tức thời thọ ký ta thành Phật

Lại có Phật tên Liên Hoa Thượng

Ta cũng từ đây được giác ngộ

Dùng hoa quý vàng dâng cúng Phật

Vì cầu tối thắng Bồ Đề vậy

Lại cũng gặp Phật Đại Đạo Sư

Vì các thế gian tối tự tại

Cực Cao Thượng Hạnh và Thượng Dự

Thích Ca, Đế Sa, Phất Sa Phật

Tỳ Bà, Thi Khí, Tỳ Xá Phù, Tỳ Xá Phù

Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm

Ca Diếp Phật cùng Phật quá khứ

Ta đều phát tâm việc cúng dường

Lòng thương tất cả chúng sanh vậy.

Vì cầu vô thượng thắng Bồ Đề

Phật kia ngàn ức đều cúng dường

Tích chứa căn lành nầy đầy đủ

Hàng ma thế lực và quyến thuộc

Làm cho không lo, đạo an ổn

Ta chuyển vô thượng bánh xe pháp

Vì chúng sanh chỉ bày chánh pháp

Trời người rồng thảy Khẩn Na La

Vì cầu giác ngộ ta độ cho

Ta đã hiển bày đường an ổn

Vị lai các Phật và Thanh Văn

Nếu muốn cứu độ những người khổ

Hãy nên tu tập việc ta làm.

***

    Xem thêm:

  • Pháp Bồ Tát Quán Tự Tại Đại Bi Trí ấn Chu Biến Pháp Giới Lợi Ích Chúng Sanh Huân Chơn Như - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Đại Tì Lô Xá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Liên Hoa Thai Tạng Bi Sanh Mạn Đồ La Quảng Đại Thành Tựu - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Đại Bi Phân Đà Lợi - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Tương Lai Biến Đổi - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 140 – Kinh Giới Phân Biệt (Dhàtuvibhanga sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 136 – Ðại Kinh Nghiệp Phân Biệt (Mahàkammavibhanga) - Kinh Tạng
  • Kinh Từ Bi - Kinh Tạng
  • Kinh Người Cày Ruộng Làm Biếng - Kinh Tạng
  • Kinh Phân Biệt - Kinh Tạng
  • Kinh A Nan Phân Biệt - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 27 – Lười Biếng Và Kiêu Mạn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Biến Chiếu Quang Minh Tạng Vô Tự Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Phật Nói Kinh Đại Thừa Thiện Kiến Biến Hóa Văn Thù Sư Lợi Hỏi Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt Cho Trưởng Giả Thủ Ca - Kinh Tạng
  • Kinh Biến Chiếu Đại Lực Minh Vương Xuất Sanh Hết Thảy Pháp Nhãn Như Lai - Kinh Tạng
  • Kinh Phân Biệt Duyên Sanh - Kinh Tạng
  • Kinh Tám Ðức Của Biển - Kinh Tạng
  • Kinh Bi Hoa – Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tịch Chiếu Thần Biến Tam Ma Địa - Kinh Tạng