Kinh Phật Dạy Về Không Tăng Không Giảm

Phật Thuyết Bất Tăng Bất Giảm Kinh

Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chi dịch

Bản Việt dịch của Nguyên Thuận

***

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở trên núi Linh Thứu gần đại thành Vương Xá, cùng với 1.250 vị đại Tỳ-kheo và vô lượng vô biên không thể tính xuể số chư Bồ¬tát Ma-ha-tát.

Lúc bấy giờ Tuệ mạng Xá-lợi-phất đang ở giữa đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy và đến trước chỗ của Phật. Khi đến nơi, ngài đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, rồi lui xuống ngồi ở một bên, chắp tay và bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, họ lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi sanh tử của Tam Giới, sinh ra trong bốn loại và thọ khổ vô cùng.

Bạch Thế Tôn! Biển chúng sanh này là có tăng có giảm hay không tăng không giảm? Con không thể hiểu nghĩa lý thâm ẩn này. Nếu có người hỏi con về vấn đề này thì phải đáp như thế nào?”

Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất:

“Lành thay, lành thay, Xá-lợi-phất! Ông có thể hỏi Ta về nghĩa lý thậm thâm này là vì ông muốn mang an ổn đến tất cả chúng sanh, mang an lạc đến tất cả chúng sanh, thương xót tất cả chúng sanh, làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, và làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh.

Này Xá-lợi-phất! Nếu ông không hỏi Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri về nghĩa lý như vậy, thì thế gian ắt sẽ có nhiều lỗi lầm.

Vì sao thế? Bởi ở đời hiện tại và vị lai, hàng trời người cùng hết thảy chúng sanh sẽ phải chịu mãi phiền não và các việc tổn hại. Họ vĩnh viễn sẽ mất tất cả những sự lợi ích an vui.

Này Xá-lợi-phất! Kẻ đại tà kiến thấy chúng sanh giới tăng hoặc thấy chúng sanh giới giảm.

Này Xá-lợi-phất! Do bởi cái thấy đó, cho nên suốt đêm dài, các chúng sanh với đại tà kiến kia trở thành như mù lòa không mắt và đi trên con đường hiểm. Do bởi nhân duyên ấy, họ đọa vào các đường ác ở đời hiện tại.

Này Xá-lợi-phất! Kẻ đại hiểm nạn chấp trước kiên cố vào hư vọng của chúng sanh giới tăng hoặc chấp trước kiên cố vào hư vọng của chúng sanh giới giảm.

Này Xá-lợi-phất! Cho nên suốt đêm dài, các chúng sanh chấp trước kiên cố vào hư vọng kia phải đi trên con đường hiểm. Do bởi nhân duyên đó, họ sẽ đọa vào các đường ác ở đời vị lai.

Này Xá-lợi-phất! Hết thảy phàm phu ngu si đều chẳng biết như thật của Nhất Chân Pháp Giới. Do chẳng biết như thật của Nhất Chân Pháp Giới, họ khởi tâm tà kiến mà nói rằng chúng sanh giới tăng hoặc chúng sanh giới giảm.

Này Xá-lợi-phất! Khi Như Lai còn tại thế, các đệ tử của Ta không khởi tà kiến này. Tuy nhiên, hơn 500 năm sau khi Ta diệt độ, sẽ có rất nhiều chúng sanh ngu si vô trí. Dẫu họ đã cạo bỏ râu tóc, mặc ba Pháp y, và hiện tướng Sa-môn ở trong Phật Pháp, nhưng ở bên trong của họ chẳng có đức hạnh của Sa-môn. Những kẻ như vậy thật không phải Sa-môn nhưng tự nhận là Sa¬môn, không phải đệ tử của Phật nhưng tự nhận là đệ tử của Phật. Họ tự nói rằng:

‘Tôi là Sa-môn, là đệ tử chân chánh của Phật.’

Hạng người như vậy khởi sanh tà kiến của tăng hoặc giảm.

Vì sao thế? Bởi các chúng sanh này y theo Kinh bất liễu nghĩa của Như Lai.

-Họ chẳng có con mắt trí tuệ và xa rời không kiến như thật.

-Họ chẳng biết như thật về điều chứng ngộ của Như Lai kể từ lúc sơ phát tâm. -Họ chẳng biết như thật về việc tu tập vô lượng công đức và hạnh nguyện để chứng Bồ-đề. -Họ chẳng biết như thật về vô lượng Pháp mà Như Lai sở đắc. -Họ chẳng biết như thật về vô lượng lực của Như Lai. -Họ chẳng biết như thật về vô lượng cảnh giới của Như Lai. -Họ chẳng tin về vô lượng hành xứ của Như Lai. -Họ chẳng biết như thật về bất khả tư nghị vô lượng Pháp tự tại của Như Lai. -Họ chẳng biết như thật về bất khả tư nghị vô lượng phương tiện của Như Lai. -Họ chẳng thể phân biệt như thật về vô lượng cảnh giới sai biệt của Như Lai. -Họ chẳng thể khéo vào bất khả tư nghị đại bi của Như Lai. -Họ chẳng biết như thật về đại Niết-bàn của Như Lai.

Này Xá-lợi-phất! Do phàm phu ngu si chẳng có trí tuệ nên khi nghe về Niết¬bàn của Như Lai, họ khởi đoạn kiến hoặc diệt kiến. Do khởi sanh đoạn tưởng và diệt tưởng, họ cho rằng chúng sanh giới giảm. Đây là một đại tà kiến và một ác nghiệp cực trọng.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Từ nơi cái thấy của giảm, các chúng sanh đó khởi thêm ba thứ tà kiến nữa. Ba thứ tà kiến này cùng với cái thấy của giảm kia đan siết như lưới và không hề tách xa. Ba thứ tà kiến này là gì?

1.       cái thấy tất cả đều đoạn tuyệt

2.       cái thấy tất cả đều diệt tận

3.       cái thấy cho rằng Niết-bàn cứu cánh chẳng có gì cả

Này Xá-lợi-phất! Ba cái thấy này trói buộc như vậy, giữ chặt như vậy, và tiếp xúc như vậy. Do sức nhân duyên của ba cái thấy này, chúng triển chuyển sanh thêm hai thứ tà kiến nữa. Hai thứ tà kiến này cùng với ba cái thấy kia đan siết như lưới và không hề tách xa. Hai thứ tà kiến này là gì?

1.       cái thấy chán chường

2.       cái thấy cứu cánh chẳng có Niết-bàn

Này Xá-lợi-phất! Từ cái thấy chán chường, chúng khởi thêm hai thứ tà kiến nữa. Hai thứ tà kiến này cùng với cái thấy chán chường kia đan siết như lưới và không hề tách xa. Hai thứ tà kiến này là gì?

1.       cái thấy cho rằng giữ các giới vô ích là tốt

2.       cái thấy điên đảo ở trong bất tịnh mà cho là thanh tịnh

Này Xá-lợi-phất! Từ cái thấy cứu cánh chẳng có Niết-bàn, chúng khởi thêm sáu thứ tà kiến nữa. Sáu thứ tà kiến này cùng với cái thấy cứu cánh chẳng có Niết-bàn kia đan siết như lưới và không hề tách xa. Sáu thứ tà kiến này là gì?

1.       cái thấy cho rằng thế gian có bắt đầu

2.       cái thấy cho rằng thế gian có kết thúc

3.       cái thấy cho rằng chúng sanh tạo ra bởi huyễn hóa

4.       cái thấy cho rằng không có vui hay khổ

5.       cái thấy cho rằng không có chúng sanh luân hồi

6.       cái thấy cho rằng không có Tứ Thánh Đế

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Từ nơi cái thấy của tăng, các chúng sanh đó khởi thêm hai thứ tà kiến nữa. Hai thứ tà kiến này cùng với cái thấy của tăng kia đan siết như lưới và không hề tách xa. Hai thứ tà kiến này là gì?

1.       cái thấy cho rằng Niết-bàn có sanh

2.       cái thấy cho rằng Niết-bàn hốt nhiên tự có mà chẳng cần nhân hay duyên

Này Xá-lợi-phất! Hai thứ tà kiến này khiến các chúng sanh đối với Pháp lành chẳng có tâm khát ngưỡng và tâm chuyên cần tinh tấn.

Này Xá-lợi-phất! Do các chúng sanh đó khởi sinh hai thứ tà kiến này, dẫu cho bảy Đức Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri lần lượt xuất thế và thuyết Pháp cho họ đi nữa, thì cũng không thể nào khiến họ sanh tâm khát ngưỡng và tâm chuyên cần tinh tấn đối với Pháp lành.

Này Xá-lợi-phất! Hai thứ tà kiến này là nguồn gốc của phiền não phát sinh từ vô minh. Đó là cái thấy cho rằng Niết-bàn có sanh và cái thấy cho rằng Niết-bàn hốt nhiên tự có mà chẳng cần nhân hay duyên.

Này Xá-lợi-phất! Hai thứ tà kiến này là pháp vô cùng hoạn nạn và chúng là gốc rễ của cực ác.

Này Xá-lợi-phất! Từ hai thứ tà kiến này sẽ khởi sanh tất cả những tà kiến khác. Tất cả những tà kiến khác cùng với hai thứ tà kiến kia đan siết như lưới và không hề tách xa. Tất cả những tà kiến khác bao gồm đủ mọi cái thấy sai lầm, như là cái thấy của tăng và cái thấy của giảm, hoặc là ở trong, ở ngoài, hay ở giữa, hoặc là xấu hay đẹp.

Này Xá-lợi-phất! Hai thứ tà kiến này nương trên một cõi giới, đồng ở một cõi giới, và hợp chung một cõi giới. Do tất cả phàm phu ngu si đều chẳng biết và chẳng thấy như thật của một cõi giới kia, nên họ khởi những tà kiến cực ác ở trong tâm, mà cho rằng chúng sanh giới tăng hoặc chúng sanh giới giảm.”

Lúc bấy giờ Tuệ mạng Xá-lợi-phất thưa với Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Một cõi giới nghĩa là thế nào? Sao nói là do tất cả phàm phu ngu si đều chẳng biết và chẳng thấy như thật của một cõi giới kia, nên họ khởi những tà kiến cực ác ở trong tâm, mà cho rằng chúng sanh giới tăng hoặc chúng sanh giới giảm.”

Ngài Xá-lợi-phất lại thưa:

“Lành thay, thưa Thế Tôn! Nghĩa lý ấy quá sâu thẳm, con chưa có thể hiểu được. Kính mong Như Lai hãy giải thích và làm cho con hiểu rõ.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Tuệ mạng Xá-lợi-phất rằng:

“Nghĩa lý thậm thâm này là cảnh giới trí tuệ của Như Lai và cũng là nơi tâm sở hành của Như Lai.

Này Xá-lợi-phất! Trí tuệ của tất cả Thanh Văn và Duyên Giác đều chẳng thể biết, chẳng thể thấy, và cũng chẳng thể quán nghĩa lý thâm diệu như vậy. Hà huống là tất cả những phàm phu ngu si thì làm sao có thể suy lường. Duy với trí tuệ của chư Phật Như Lai mới có thể quán sát và thấy biết nghĩa lý đó.

Này Xá-lợi-phất! Đối với nghĩa lý đó, trí tuệ của tất cả Thanh Văn và Duyên Giác chỉ có thể khát ngưỡng và tín thọ, chứ không thể quán sát hoặc thấy biết như nhật.

Này Xá-lợi-phất! Nghĩa lý thậm thâm này tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, và Đệ Nhất Nghĩa Đế tức là chúng sanh giới. Chúng sanh giới tức là Như Lai tạng, và Như Lai tạng tức là Pháp thân.

Này Xá-lợi-phất! Như Ta đã dạy về nghĩa lý của Pháp thân ở trong Phật Pháp chẳng thể nghĩ bàn. Nó không tách rời, không đoạn diệt, cũng không sai khác từ công đức trí tuệ của Như Lai, và vượt hơn số cát sông Hằng.

Này Xá-lợi-phất! Ví như đèn thắp ở thế gian, ngọn lửa và ánh sáng của nó không tách rời với nhau. Lại như châu báu ma-ni, hình tướng và màu sắc chiếu sáng của nó không tách rời với nhau.

Này Xá-lợi-phất! Nghĩa lý về Pháp thân mà Như Lai đã dạy ở trong Phật Pháp chẳng thể nghĩ bàn thì cũng lại như vậy. Nó không tách rời, không đoạn diệt, cũng không sai khác từ công đức trí tuệ của Như Lai, và vượt hơn số cát sông Hằng.

Này Xá-lợi-phất! Pháp thân là Pháp bất sanh bất diệt, chẳng phải quá khứ hay vị lai, do bởi đã lìa khỏi nhị biên.

Này Xá-lợi-phất! Pháp thân chẳng phải quá khứ, do bởi đã lìa khỏi sanh. Pháp thân chẳng phải vị lai, do bởi đã lìa khỏi diệt.

Này Xá-lợi-phất! Pháp thân của Như Lai thường còn, do bởi là Pháp không biến dị và Pháp bất tận.

Này Xá-lợi-phất! Pháp thân của Như Lai vĩnh hằng, do bởi luôn có thể làm nơi quy y và vĩnh viễn bình đẳng đối với chúng sanh ở vô tận vị lai.

Này Xá-lợi-phất! Pháp thân của Như Lai thanh lương, do bởi là Pháp bất nhị và Pháp không phân biệt.

Này Xá-lợi-phất! Pháp thân của Như Lai không biết đổi, do bởi là Pháp không diệt và Pháp không tạo tác.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Pháp thân này bị vô biên phiền não nhiều như cát sông Hằng xiết trói phải thuận theo thế gian từ vô thỉ đến nay và trôi dạt trên sóng biển của sanh tử, thì đó gọi là chúng sanh.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Pháp thân này nhàm chán sanh tử khổ não của thế gian, xả bỏ mọi ham muốn, thực hành Thập Độ Ba-la-mật, tổng nhiếp

84.000 Pháp môn, và tu hạnh Bồ-đề, thì đó gọi là Bồ-tát.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Pháp thân này siêu vượt mọi thống khổ của thế gian, đã rời xa tất cả phiền não cấu nhiễm trói buộc, chứng đắc thanh tịnh, trụ trong Pháp thanh tịnh của bờ kia, đến được nơi mà hết thảy chúng sanh đều muốn, ở trong tất cả cảnh giới được cứu cánh thông đạt, không ai có thể ngang bằng, lìa xa mọi chướng ngại, và được sức tự tại trong mọi pháp, thì đó gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.

Cho nên, Xá-lợi-phất! Không rời chúng sanh giới là Pháp thân; không rời Pháp thân là chúng sanh giới. Chúng sanh giới tức là Pháp thân. Pháp thân tức là chúng sanh giới.

Này Xá-lợi-phất! Tuy hai Pháp này có tên gọi khác nhau nhưng ý nghĩa chỉ một.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Như Ta đã giảng ở trên, ở trong chúng sanh giới cũng có ba loại Pháp. Chúng đều là Chân Như, không dị biệt hay sai khác. Những gì là ba?

1.       Bổn thể tương ứng của Như Lai tạng cùng với Pháp thanh tịnh.

2.       Bổn thể không tương ứng của Như Lai tạng cùng với các pháp bất tịnh và phiền não trói buộc.

3.       Như Lai tạng bình đẳng và thường hằng trong tất cả pháp đến vô tận vị lai.

Này Xá-lợi-phất! Nên biết bổn thể tương ứng của Như Lai tạng cùng với Pháp thanh tịnh, đây là Pháp như nhật và không hư vọng. Nó không tách khỏi Pháp chẳng thể nghĩ bàn của trí tuệ thanh tịnh Chân Như Pháp Giới. Từ vô thỉ đến nay, nó luôn có Pháp thể tương tứng và thanh tịnh đó.

Này Xá-lợi-phất! Ta y theo Chân Như Pháp Giới thanh tịnh này mà thuyết Pháp bất khả tư nghị cho chúng sanh, gọi là Tự Tánh Thanh Tịnh Chân Tâm.

Này Xá-lợi-phất! Nên biết bổn thể không tương ứng của Như Lai tạng cùng với các pháp bất tịnh và phiền não trói buộc, từ vô thỉ đến nay, luôn tách rời và không tương ứng. Duy chỉ có trí tuệ Bồ-đề của Như Lai mới có thể đoạn trừ các pháp bất tịnh và phiền não trói buộc.

Này Xá-lợi-phất! Ta y theo Pháp Giới không tương ứng chẳng thể nghĩ bàn này nhưng bị phiền não trói buộc, mà thuyết Pháp bất khả tư nghị Tự Tánh Thanh Tịnh Chân Tâm cho chúng sanh. Mặc dầu tâm đó đã chiếm bởi khách trần và phiền não ô nhiễm.

Này Xá-lợi-phất! Nên biết Như Lai tạng bình đẳng và thường hằng trong tất cả pháp đến vô tận vị lai, chính là căn bổn của hết thảy mọi pháp, hoàn bị với hết thảy mọi pháp, đầy đủ với hết thảy mọi pháp, và không tách khỏi chân thật của hết thảy pháp thế gian. Nó trụ giữ tất cả pháp và tổng nhiếp tất cả pháp.

Này Xá-lợi-phất! Ta y theo Pháp Giới thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, không sanh không diệt, thường hằng bất biến, và nơi quy y mát mẻ, mà gọi là chúng sanh.

Vì sao thế? Bởi nói rằng chúng sanh, tức là không sanh không diệt, thường hằng bất biến, và nơi quy y mát mẻ. Nó là một tên gọi khác của Pháp Giới thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Căn cứ theo nghĩa đó, Ta y theo Pháp kia mà gọi là chúng sanh.

Này Xá-lợi-phất! Ba loại Pháp đó đều là Chân Như, không dị biệt hay sai khác. Nếu ai ở trong Chân Như không dị biệt hay sai khác này, họ không bao giờ khởi hai thứ tà kiến cực ác và bất thiện.

Vì sao thế? Bởi họ thấy như thật của các pháp.

Này Xá-lợi-phất! Đối với cái thấy của tăng và cái thấy của giảm, chư Phật Như Lai đã vĩnh viễn lìa xa. Chư Phật Như Lai đều quở trách hai thứ tà kiến đó và chúng cần phải lìa xa.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, hay Ưu-bà-di nào khởi sanh một hoặc hai thứ tà kiến đó, thì chư Phật Như Lai sẽ không phải là Thế Tôn của họ. Hạng người như vậy không phải là đệ tử của Ta.

Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên khởi hai thứ tà kiến này, người ấy từ u minh vào u minh, từ hắc ám vào hắc ám. Ta gọi họ là tín bất cụ.

Bởi vậy, Xá-lợi-phất! Nay các ông nên học Pháp này để giáo hóa những chúng sanh kia, khiến họ lìa xa hai thứ tà kiến và an trụ trong Chánh Đạo.

Này Xá-lợi-phất! Ông cũng nên học các Pháp như vậy, lìa xa hai thứ tà kiến và an trụ trong Chánh Đạo.”

Khi Phật thuyết Kinh này xong, Tuệ mạng Xá-lợi-phất, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo¬ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Bồ-tát Ma-ha-tát, cùng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-¬bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân, cùng tất cả đại chúng, họ đều sanh tâm đại hoan hỷ và tín thọ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Duyên Khởi Từ A Nan - Kinh Tạng
  • Kinh Du Già Tập Yếu Cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu Quỹ Nghi - Kinh Tạng
  • Kinh Thiên Tử Ta Vạt Nẵng Pháp Quy Y Tam Bảo Khỏi Sinh Vào Ác Đạo - Kinh Tạng
  • Kinh Đức Phật Khất Thực Trong Đời Quá Khứ - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 5 – Kinh Không Uế Nhiễm (Anangana sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Nói Về Cảnh Giới Phật Không Thể Nghĩ Bàn - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Hư Không Dựng - Kinh Tạng
  • Kinh Giới Tiêu Tai – Thích Khánh Anh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật dạy về Tôn Thắng Đại Minh Vương - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Đàn Tràng Đại Khổng Tước Minh Vương Hoạch Tượng - Kinh Tạng
  • Kinh A Hàm Khẩu Giải Mười Hai Nhân Duyên - Kinh Tạng
  • Kinh Khổ Ấm Nhân Sự - Kinh Tạng
  • Kinh Khổ Ấm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Tập Đại Hư Không Tạng Bồ Tát Sở Vấn - Kinh Tạng
  • Kinh Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 60 – Kinh Không Gì Chuyển Hướng (Apannaka sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Khủng Bố Tập Hội Phương Quảng Quỹ Nghi Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tâm Minh Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Công Đức Chư Phật Hộ Niệm Không Thể Nghĩ Bàn - Kinh Tạng