Kinh Thầy Thuốc Và Bệnh Nhân

Thực Tập Kham Nhẫn
Hãy Là Bậc Chân Tu

Kinh Thầy Thuốc Và Bệnh Nhân

Sau khi Phật thành đạo được khoảng ba hoặc bốn năm, lúc ấy người vẫn còn trẻ. Một hôm người đi giáo hóa tại vùng đất nọ, có một vị Bà La Môn là người giàu có trong vùng, coi tướng số lại rất giỏi. Con gái ông là người có dung nhan xinh đẹp thuộc vào bậc nhất trong vùng. Vừa nhìn thấy đức Phật, ông ngay lập tức xem tướng của người và trong tâm không hết những suy nghĩ khen ngợi được tuôn ra. Trên đời này sao lại có người có nhiều tướng tốt như thế. Dĩ nhiên ông không thể xem hết ba mươi hai tướng tốt của Phật vì có những tướng ẩn tàng bên trong. Tuy nhiên nhiều tướng tốt như vậy cũng khiến ông trầm trồ, vì từ khi biết xem tướng tới nay, ông có thấy ai dung mạo uy nghi vậy đâu. Ông vội vã trở về nhà, kể cho vợ nghe về một người tướng tốt, nếu làm vua ở thế gian, chắc chắn sẽ là một vị Chuyển Luân Thánh Vương. Bấy lâu nay, vợ chồng ông muốn tìm rể xứng đáng để gả con gái cho, nay tìm được người vừa ý, ông lấy làm hoan hỷ lắm.

Ông cùng vợ đem nói sự mong muốn của  mình cho đức Phật nghe. Lúc đó, đức Phật đang thọ trai dưới cội cây, ông chỉ những tướng tốt của người cho vợ thấy, sau đó tiến đến gần đức Phật và nói rằng, Kính bạch ngài Cồ Đàm, chúng tôi có con gái dung nhan rất xinh đẹp, xin được gả cho ngài, xin hãy làm rể của chúng tôi. Đức Phật nghe nói vậy nên trả lời, Ta là người xuất gia, đã dứt bỏ những ái dục và ràng buộc về gia đình, con gái của ông, dù xinh đẹp đến đâu hay dù không xinh đẹp, dưới mắt của chúng tôi là những người tu hành, chỉ là một tổ hợp chứa toàn những thứ bất tịnh, không có giá trị gì. Vợ chồng Bà La Môn nghe vậy lấy làm bất bình, đem những lời Phật vừa nói kể lại cho cô con gái nghe. Cô này trở nên tức giận và trong lòng bắt đầu nảy nở sự hiềm hận. Từ trước đến nay, bao nhiêu chàng trai công tử hết lời khen ngợi cô và ao ước sắc đẹp của cô, có ai dám chê cô thẳng thừng đâu. Đằng này, ngài Cồ Đàm không khen thì thôi, lại còn buông lời không hay, cô thề sẽ trả thù mới hả giận.

Một thời gian sau, vua nước Kosambi thấy cô xinh đẹp nên đem về cung làm thứ hậu. Khi nghe đức Phật đang chuẩn bị giáo hóa đúng vào xứ cô ở, cái giận ngày xưa trong cô trỗi dậy. Cô bỏ tiền thuê những tên hung bạo nhất, ăn nói thô lỗ nhất, yêu cầu họ đón đường đức Phật. Đức Phật vừa xuất hiện, cả đoàn người xông nhau ra chửi mắng, nói những lời rất thậm tệ, với ý muốn Phật bỏ đi chỗ khác mới chịu buông tha. Lúc này, đi theo Phật có thầy Anan, đang đi trên đường bỗng dưng có nhóm người xông ra chửi, thi đua nhau mà chửi. Phật vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng thầy Anan thì khác, thầy không chịu nổi trước trận đòn miệng như vậy. Thầy thưa với Phật, Bạch đức Thế Tôn, mình qua chỗ khác đi. Phật hỏi thầy Anan, Qua đâu bây giờ Anan? Anan, Kính bạch đức Thế Tôn, mình qua nước Đề Xá. Phật, Nếu như đến nước đó người ta cũng cư xử với mình giống như dân ở đây thì sao? Anan, Kính bạch đức Thế Tôn, mình qua thành Hoa Thị. Phật, nếu dân chúng ở thành Hoa Thị cũng cư xử giống như ở đây thì thầy nghĩ sao? Anan, Kính bạch đức Thế Tôn, mình đến chỗ nào mà người ta không bạc đãi mình, ví dụ như thành Tỳ Xá Ly hay thành Vương Xá.

Phật hỏi thầy Anan, Thầy có biết tại sao dân chúng ở thành Tỳ Xá Ly và thành Vương Xá ưu đãi chúng ta hay không? Anan, Dân chúng ở hai thành này từng nghe Thế Tôn thuyết pháp, biết rõ về chánh pháp, họ phân biệt được hành động nào là thiện, hành động nào không thiện, họ tôn kính Thế Tôn, họ chiêm ngưỡng Thế Tôn, chúng ta đi về phía đó đi Thế Tôn à. Phật bắt đầu dạy thầy Anan, Này thầy Anan, Giả sử có ông thầy thuốc, thuộc loại giỏi nhất thiên hạ, đăng bản treo trước cổng, ở đây tôi chỉ trị bệnh cho người bệnh nhẹ, càng nhẹ càng tốt, nếu không bệnh thì tốt hơn, còn những người bệnh nặng, xin mời đi chỗ khác trị, chứ tôi không có trị, như vậy có được không? Anan, Dạ không thưa Thế Tôn. Phật, Tại sao lại không được, vì một ông thầy thuốc giỏi là người chuyên trị lành bệnh nặng, ông thầy thuốc có lương tâm bệnh nặng không trị, chỉ chuyên trị bệnh nhẹ hay chẳng bệnh gì cả, thầy thấy có vô lý không. Này thầy Anan, dân chúng xứ này sao lại đối đãi chúng ta tệ bạc vậy? Anan, Kính bạch đức Thế Tôn, ở đây họ chưa từng nghe người thuyết pháp, họ chưa biết phân biệt hành động nào là thiện, hành động nào không thiện, nên họ làm như vậy. Phật, Này thầy Anan, Như Lai có mặt trên đời này vì lợi ích của chúng sinh, vì cứu khổ chúng sinh, làm một người thầy thuốc hay cốt là để trị bệnh cho những người bệnh nặng trầm trọng, những người đau khổ triền miên. Dân chúng ở đây, đang bệnh nặng lắm, thầy có thấy không, Như Lai nhất thiết phải có mặt để mà giáo hóa họ, để mà trị bệnh họ. Dân chúng thành Tỳ Xá Ly hay thành Vương Xá là những người bệnh nhẹ hay không có bệnh, họ không cần đến Như Lai. Các đệ tử của ta đủ sức để giáo hóa họ. Còn nơi này hoặc những nơi giống như chỗ này, nếu đích thân Như Lai không đến, thì ai dám đến đây, ai dám trị bệnh cho họ đây.

Thầy Anan bạch Phật, Kính bạch đức Thế Tôn, ở đây đâu có ai cần nghe người giảng đâu, họ chỉ lo chửi mắng, thì giờ đâu nghe người giáo hóa? Phật giải thích thêm, Người đang bệnh nặng, thân tâm bị giằng xé, đau khổ và mệt mỏi, tư cách và ngôn ngữ rất đỗi không bình thường nên họ có lời nói và hành động xúc phạm tới thầy thuốc. Lương y như từ mẫu. Người thầy thuốc rất đỗi thương bệnh nhân, như con của mình, thì bỏ qua điều đó, chuyên tâm trị lành bệnh cho họ. Cũng vậy, thầy Anan, dân chúng ở đây là những người bệnh nặng nên họ có thái độ và hành vi không bình thường, mình nên giáo hóa họ, không nên bỏ họ.

Nghe đức Phật dạy Anan về thầy thuốc và bệnh nhân, những người đang côn đồ lập tức thức tỉnh, dừng lại hành động không thiện, cùng quỳ xuống hối lỗi với Phật, Kính bạch đức Thế Tôn, chúng con xin lỗi người, chúng con bệnh rất nặng, xin người ở lại đây, chữa lành bệnh cho chúng con, xin người ở lại đây, giáo hóa cho chúng con. Phật và thầy Anan cùng đại chúng ở lại, chỉ mới hơn một tuần lễ, dân chúng đến quy y rất đông, không kém thành Tỳ Xá Ly và thành Vương Xá bao nhiêu.

Trên đây là bài Kinh Thầy Thuốc và Bệnh Nhân, kể chuyện đức Phật đã im lặng trước những cám dỗ của sắc dục, tiếng chửi mắng và cả sự ưa thích được chiêm ngưỡng. Người tu thực tập an lạc, nét mặt hiền hòa, phong thái uy nghi, điều này cũng trở nên hấp dẫn với người khác phái. Sự ái mộ và mơ tưởng của người thế gian có thể dẫn đến sự mơ tưởng ái ân sai lạc. Điều này gọi là thiếu hiểu biết. Người xuất gia xa lìa đời sống thế tục không phải từ chối thế tục, mà không sống đời của thế tục, tức là không lập gia đình, không tham gia giải trí thế gian. Biết người tu không thể lập gia đình thì tại sao lại thương họ, sao muốn thành gia thất với họ, có phải mình dại dột, thiếu hiểu biết không. Thực tập im lặng trước những đòi hỏi của cám dỗ là thực tập kham nhẫn. Kham nhẫn không chỉ với cơn giận mà còn kham nhẫn với những đòi hỏi bên trong, tức là biết dừng lại những đòi hỏi đó.

Năm dục mà con người hay mắc phải là sắc dục – thích ngắm nhìn sắc đẹp, thinh dục – thích nghe âm thanh dễ chịu, hương dục – thích ngửi mùi thơm hay quyến rũ, vị dục – thích nếm vị ngon, xúc dục – thích xúc chạm dễ chịu, pháp dục – thích hoàn cảnh hợp với lòng. Kham nhẫn với sắc dục, mình thấy tính vô thường của sắc, người dù đẹp hay xấu cũng sẽ già nua và tàn hoại, có chăng chỉ là những khổ đau do sự thỏa mãn không được đền đáp. Kham nhẫn với thinh dục, mình tập lắng nghe âm thanh dễ chịu lẫn âm thanh không dễ chịu và cái gọi là dễ chịu kia đều do ý niệm đưa ra, không kẹt vào ý niệm thì cái gì gọi là dễ chịu và cái gì gọi là không dễ chịu. Kham nhẫn với vị dục, không cầu kỳ món ăn ngon, thực tập lối sống thanh đạm, ăn uống chừng mực, lựa chọn thức ăn lành mạnh, bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm. Kham nhẫn với xúc dục, mình không đi vào thế giới ảo, không tìm kiếm những đam mê thoáng qua để rồi phải trả giá muôn kiếp. Kham nhẫn với pháp dục, không đòi hỏi hoàn cảnh phải như thế này hay phải như thế kia, cảnh diễn ra do phối hợp của nhân duyên, cảnh chấm dứt cũng do phối hợp của nhân duyên, cảnh hợp không níu kéo, cảnh tan không sợ hãi.

Người sống theo giác quan có khuynh hướng chiều chuộng giác quan của mình, mọi quyết định đều phục vụ cho giác quan. Thích ăn mặc đẹp nên cung phụng cái ăn mặc, làm việc nhiều chỉ để chi tiêu vào việc mua sắm quần áo. Các bộ quần áo đắt tiền không thể che dấu một thân tâm bệ rạc, đến lúc nào đó cũng sợ hãi cả bộ cánh diêm dúa khoác trên người để đối diện cái nghèo nàn bên trong. Kham nhẫn với đòi hỏi về hình thức để có thì giờ chăm sóc và nuôi dưỡng các hạt giống tâm hồn. Như một đứa con, thời gian không dành cho việc đi chơi với bạn bè, đứa con sẽ chú tâm đến việc học hành, làm việc hay chăm sóc ba mẹ. Kham nhẫn với sự hưởng thụ là điều kiện giúp cho phụng sự lên ngôi. Người chọn con đường phụng sự lúc nào cũng thấy chán chường với sự hưởng thụ và xem phụng sự là điều kiện chế tác hạnh phúc. Chưa làm gì cả, chỉ mới dừng lại những đòi hỏi bên trong, mình đã biết phụng sự rồi đó.

Khi phụng sự, không thể tránh sự va chạm, lời qua tiếng lại, tiếng khen tiếng chê, tiếng vừa ý tiếng không vừa ý. Mình đi vào cuộc đời, như đứa con làm dâu trăm họ, làm vừa ý tất cả mọi người khó lắm. Có người biết nói lời ái ngữ, có người không. Nếu ai nói lời ái ngữ với mình, mình vui lắm. Nếu ai nói lời không ái ngữ với mình, mình bực lắm, thậm chí nổi giận. Biết vậy, mình hãy thực tập nói lời ái ngữ. Người ta không biết cách, mình biết cách, hãy nói lời ái ngữ trước. Nếu ai đó nói lời không hay với mình, mình hãy quán chiếu như sau: mình đã làm gì để người đó nói như vậy, chắc chắn mình có lỗi gì đó hay làm gì đó khiến người hiểu nhầm, người đang hiểu nhầm là đang có tri giác sai lầm, đang khổ đau, người đang khổ đau thì mình không nên giận họ, mình cần thời gian để lắng nghe họ, để hiểu điều họ đang giận, từ đó tìm phương cách chuyển hóa cơn giận của người đó và nỗi buồn trong lòng của mình. Lắng nghe và chia sẻ là phương cách giải tỏa niềm đau, lắng nghe được là biết ôm lấy niềm đau, chia sẻ được là biết chuyển hóa niềm đau, tha thứ và bao dung là làm làm cho niềm đau tan chảy.

Ngày nay, sự truyền thông giữa ba mẹ và con cái, bạn bè và đồng nghiệp, sếp và nhân viên rất yếu kém do thiếu khả năng lắng nghe, khi lắng nghe được rồi thì không biết chia sẻ. Người nào cũng chấp vào cái cho là đúng của mình, mình bị rối rắm trong mớ bòng bong đúng sai và tranh chấp. Người ta dạy nhau phải cạnh tranh để vươn lên đỉnh cao, trong khi cái chỗ ở đỉnh cao rất chật chội, mình chỉ nhìn thấy mây chứ không nhìn thấy người thương của mình. Kham nhẫn trong lắng nghe, nghe được điều dễ chịu đã đành, mình cũng nghe được điều khó chịu. Dễ chịu hay khó chịu chỉ là tâm trạng thăng trầm lúc lắng nghe, mà thăng trầm không ở yên, nó sẽ trôi đi rất mau, không còn đọng lại gì. Một người chửi mắng mình, vì người đang khổ đau, đang bị bức bách, đang bị đè nén, đang bị áp bức trong thân tâm, như quả bom sắp nổ, đến khi chịu không nổi, quả bom nổ tung ra bằng tiếng chửi bới. Bom nổ xong còn lại gì, sự tan tác của tình thương hay sự hối hận của lương tâm còn lại. Nhiều người hối hận sau khi chửi mắng vì thấy bản thân dại dột, không biết cách chuyển hóa. Cơn giận là để chuyển hóa chứ không để kìm nén. Kìm nén thì giận vẫn còn, chuyển hóa thì giận sẽ tan đi.

Kham nhẫn với tiếng chửi mắng bên ngoài đã đành, mình cũng thực tập kham nhẫn với tiếng chửi mắng bên trong. Mình đôi khi cũng muốn giận lắm chứ, muốn chứi mắng cho hả giận, nhưng mình tu rồi, biết làm vậy sẽ tạo nghiệp, sẽ bị đọa lạc, sẽ làm tan nát đổ vỡ tất cả, biết vậy, mình phài quay về thủ hộ tâm ý của mình, theo dõi hơi thở cho cơn giận lắng xuống, tìm ra nguyên nhân cơn giận, sử dụng từ bi mà làm cho cơn giận mang chất liệu của tình thương hơn, nếu giận xin hãy giận một cách dễ thương. Giận dễ thương là sao, là không làm gì hết, nếu có thì hãy lấy tình thương mà ôm lấy cơn giận, ôm lấy người làm mình giận. Tiếng chửi mắng chỉ là sự kết hợp của âm thanh, nó không nói lên điều gì, âm thanh trôi đi và tan vào không gian. Mình khổ vì mình ôm cái mớ âm thanh đó, trong khi âm thanh đi qua lâu rồi. Không ai đủ sức chửi hai ba tiếng, một ngày hay một tháng, nên kham nhẫn để người đó bỏ cuộc, mệt sức cũng sẽ bỏ cuộc thôi. Đây là một bài thực tập cho mình, ai chửi mình thì mình nhức não lắm, vậy đừng bao giờ chửi ai, nếu có chuyện xảy ra, hãy kham nhẫn với khát khao mong muốn tấn công người khác bằng lời nói, hãy cho phép lời bình yên lên tiếng, lúc này sự im lặng mới thực sự lên ngôi, im lặng bên ngoài và im lặng cả bên trong. Đang ngồi viết những dòng chữ này, ngoài kia, xe tải chạy rầm rầm, xe buýt bấm kèn inh ỏi. Nếu tôi khó chịu, chắc tắt máy tính, ngồi chịu trận không viết nổi gì. Những âm thanh ồn ào đó lại là âm thanh của sự sống, không chỉ là âm thanh của tiếng chim hót mới là âm thanh của sự sống. Tiếng chim hót rất dễ thương, mình thích nghe, nhưng không có âm thanh chói tai của tiếng xe tải, làm sao mình biết tiếng chim hót thật dễ thương. Tiếng xe tải inh ỏi góp phần tô điểm cho cái thấy tính dễ thương của tiếng chim, mình thích tiếng chim thì chẳng lý gì không thích tiếng xe tải. Mình thích lời pháp thoại dễ chịu và bực bội với tiếng chửi mắng. Cũng vậy, không có tiếng chửi mắng, làm sao mình biết lời ái ngữ quan trọng thế nào, nên thích lời ái ngữ đã đành, lời chửi mắng thì là lời chửi mắng, có sao đâu, bình thản thì cái gì gọi là khó chịu. Trong khổ đau, mình trân quý hạnh phúc, và nhờ khổ đau, mình nhận diện được thế nào là hạnh phúc đích thực. Cho nên, yêu thương hạnh phúc thì yêu thương cả khổ đau.

Thực tập kham nhẫn không trốn tránh khổ đau, không chạy ra khỏi vùng khổ đau để lánh nạn. Mình có xu hướng chạy đến nơi yên tĩnh, vào rừng, lên núi để tu, để tĩnh lặng. Mình cho rằng cái tĩnh lặng ở bên ngoài đem tới tĩnh lặng bên trong, vì vậy nhiều người chạy trốn khổ đau hay đè nén khổ đau. Nhẫn với khổ đau thì ngồi ngay giữa khổ đau mà nhẫn. Nếu bên trong im lặng, bên ngoài phong ba cách mấy vẫn không đá động được gì. Nhẫn bên trong có sức truyền nhiệt, khiến bên ngoài thối chí và bình yên. Mình không lìa xa khổ đau để chịu đựng, mà mình đi vào khổ đau để nhận rõ bộ mặt thật của khổ đau. Thực tập hạnh phúc là thực tập khổ đau vì khi nhẫn được với khổ đau, mình mới biết hạnh phúc là gì. Nếu đức Phật rời bỏ khỏi những tiếng chửi mắng, nghe lời thầy Anan đi sang chỗ khác, những người bệnh nặng kia làm sao có thể được chuyển hóa, làm sao mình học được bài nhẫn với tiếng chửi mắng. Nếu xây cái chùa giữa rừng, dễ lắm, xây cái chùa giữa chợ mới khó. Xây chùa giữa chợ được rồi, còn gì khổ đau nữa đâu. Chợ là nơi tập trung khổ đau lớn nhất, mình sống được giữa chợ, nhẫn được giữa chợ, còn gì gọi là chợ nữa đâu.

Cuộc đời có hai hạng người, người mang hạnh phúc đến và người mang khổ đau đến. Mình thích người mang hạnh phúc hơn vì mình thấy vui, thấy thoải mái, thấy bình an bên cạnh người. Mình không thích người mang khổ đau lắm vì mình thấy buồn, thấy khó chịu, thấy mệt mỏi bên cạnh người. Mình phải thực tập nhẫn với hạnh phúc lẫn khổ đau. Không chỉ khổ đau dìm chết mình, hạnh phúc vẫn dìm chết mình như thường. Hạnh phúc lớn quá, nhiều quá, mình không quen với khổ đau. Hạnh phúc lớn hay nhiều cách mấy, hạnh phúc vẫn vô thường, hạnh phúc qua đi, khổ đau đến, mình chịu không nổi. Hạnh phúc vì thế dìm chết mình. Đứa con được nuông chiều, đòi cái gì, ba mẹ cung phụng cái đó, không thể tự lập, không thể tự thân vận động. Lúc ba mẹ qua đời, đứa con phải tự lực cánh sinh, chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn.

Người mang hạnh phúc tới là Bồ tát Thuận duyên, có mặt trên đời như một sự tưởng thưởng bởi những nghiệp duyên tốt hay phước báu mà mình đã tạo. Sự thừa hưởng mà không tạo ra tiếp sẽ hết, nên nhẫn với sự thừa hưởng để biết rằng cái phước mình đang có kia rồi sẽ qua đi, nên không níu kéo hạnh phúc, an trú trong hạnh phúc nhưng không kẹt vào hạnh phúc, sống hết lòng với hạnh phúc nhưng không sợ hãi khi biết rằng lát nữa đây, hạnh phúc sẽ bay theo ngàn mây. Ba mẹ còn sống, mình hạnh phúc lắm, nhưng hãy yêu thương ba mẹ hết lòng khi ba mẹ còn sống, mai này ba mẹ đi xa rồi, mình không nuối tiếc sao ba mẹ bỏ mình đi. Tiếp theo, người mang khổ đau tới là Bồ tát Ngịch duyên, có mặt trên đời như một sự thử thách, đem cho mình các vấn đề, mong mình tìm cách vượt qua. Khi mình vượt qua được, mình mới phát triển, như tu giữa chợ mà tu được, mình mới giỏi vì nghịch duyên rất nhiều, tu trong chùa mà tu giỏi là chuyện bình thường vì thuận duyên rất nhiều. Người mình cho là thử thách mình, chẳng qua là một vị Bồ tát nghịch duyên đấy thôi, làm khổ mình vì thương mình, muốn mình vượt qua thử thách, muốn mình vững chãi hơn. Người có nhiều khổ đau và chuyển hóa khổ đau, người này có nhiều kinh nghiệm vững chãi. Khi đi học, môn quản trị nhân sự chẳng hạn, mình phải tìm người làm trong ngành quản trị nhân sự mà học, vì người giảng viên này có kinh nghiệm làm việc, biết khó khăn và thuận lợi trong công việc, biết thử thách trong công việc, học với người này chắc chắn sẽ được chia sẻ kinh nghiệm thương đau trong nghề. Cũng vậy, muốn chuyển hóa khổ đau, hãy tìm người đã từng kinh qua khổ đau, đã biết chuyển hóa khổ đau, người này biết về ngành Khổ Đau Học, đã có có kinh nghiệm thực tiễn về ngành Chuyển Hóa Khổ Đau Học. Hãy tìm người này mà tầm sư học đạo.

Mình biết ơn Bồ tát Thuận duyên thì cũng biết ơn Bồ tát Nghịch duyên. Thực tập kham nhẫn bằng cách mang ơn khổ đau, mang ơn Bồ tát Nghịch duyên, người đó đang cho mình bài tập khổ đau mình phải làm, người đó đang cho mình tình huống (case studies) khổ đau mình phải giải quyết, người đó mang cho mình hoàn cảnh khổ đau mình phải vượt qua. Làm được, giải quyết được, vượt qua được, mình phát triển hơn, vững chãi hơn, an nhiên hơn. Vậy tại sao mình không biết ơn người giúp mình vững chãi hơn? Người đó không ai xa lạ, Bồ tát Nghịch duyên đấy, người mang khổ đau đến đấy. Nhiều khi phải chắp tay xá chào người, vì người mà mình tiến bộ, Bồ tát Nghịch duyên lúc này trở thành Bổ tát Thuận duyên rồi, nên có thể nói khổ đau là điều kiện thuận lợi để đi đến giải thoát. Thực tập đến đây, mình sẽ không thấy ai là người mang khổ đau cả, khổ đau đó đến từ trong mình mà thôi. Đi làm, nhiều người ganh tỵ với mình và nói xấu sau lưng mình, mình vẫn thực tập kham nhẫn, không nói lời nào. Lời nào đúng, mình tìm cách sửa chữa, họ đang giúp mình sửa chữa đấy, cám ơn họ không hết. Lời nào không đúng, mình biết họ có tri giác sai lầm, lúc thuận lợi, mình chia sẻ, làm thay đổi tri giác sai lầm của họ. Mình có bài học ở đây, nếu không đủ lắng nghe, mình cũng sẽ có tri giác sai lầm như vậy, nên nhìn người mà mình biết mình cũng sẽ có tri giác sai lầm, nên thực tập lắng nghe hết lòng. Người ganh tỵ kia trở thành gương điển hình cho mình thực tập, hãy chắp tay xá chào người đó vì người đã nhắc nhở mình thực tập kham nhẫn. Đôi khi, mình tự cho là mình đang thực tập kham nhẫn, vì mình có ý niệm về người kia đang mang khổ đau đến mình, nếu buông bỏ ý niệm này, đã không thấy ai mang khổ đau đến, thì có ai đang thực tập kham nhẫn?

Dư Luận Chống Đối Phật Tại Ràjagaha

Dư Luận Chống Đối Phật Tại Ràjagaha

Khi Phật đến thành Vương Xá (Ràjagaha) chưa đầy một năm, danh tiếng của người đã vang xa khắp nơi, nhắc đến ai cũng biết. Sau đó tinh xá Trúc Lâm (Veluvana) được thành lập, vua Bimbisàra quy y Tam Bảo, ba anh em Uruvelà Kassapa và một ngàn vị đệ tử của ông đồng lòng theo Phật, Sàriputta (Xá Lợi Phất) và Moggallàna (Mục Kiền Liên), hầu hết đệ tử của Sanjaya và thanh niên trai tráng dù độc thân hay đã có gia đình cũng xuất gia theo Phật, điều này khiến danh tiếng của Phật được nhắc tới từ trẻ nhỏ đến thanh niên, từ trung niên đến người già. Những người theo ngoại đạo hết sức bất bình vì đệ tử ra đi, vua không còn sủng ái như trước, quần chúng lung lay niềm tin và một số thì không còn nghe theo nữa, vì vậy họ bắt đầu nói xấu Phật và giáo đoàn của Phật. Họ đi tuyên truyền khắp nơi rằng, Cái ông Gotama đã sử dụng một giáo pháp hết sức xa lạ, không hề có từ trước đến nay, mê hoặc con người, lôi kéo hết người này đến người kia, làm ba mẹ mất con, vợ mất chồng, người già phải sống trong cảnh cô đơn, gia đình ly tán, công việc đồng áng không ai lo, gia súc không ai nuôi, vải vóc không ai buôn bán, kinh tế trở nên kiệt quệ, không ai lo làm ăn, chỉ lo đi theo giáo pháp kỳ cục kia. Các vị khất sĩ thuộc giáo đoàn của Phật nghe vậy lấy làm lo lắng, đi khất thực cũng bị nghe nói xấu, trong lòng hơi khó chịu nên lúc trở về tinh xá, bạch lên Phật mọi sự tình để tìm phương hướng đối phó. Phật dạy, Này các thầy, các thầy chớ có sinh tâm buồn rầu khó chịu, dư luận chỉ là dư luận mà thôi, đến lúc nào đó tất cả các dư luận đều phải im bặt, các thầy hãy thực tập im lặng bên trong các thầy. Khoảng vài ngày sau, không thấy bên phía giáo đoàn Phật có sự phản hồi nào, các ngoại đạo bắt đầu thối chí, tìm đường sang nơi khác, mọi dư luận và lời nói xấu đều tan biến như sương khói.

Kham nhẫn là một nghệ thuật và người thực tập kham nhẫn là một nghệ sĩ. Biết cách kham nhẫn, mình không phải là người đang chịu đựng hay trình diễn sự chịu đựng mà nhẫn trước hết là phát khởi tình thương với người làm cho mình khó nhẫn. Người nghệ sĩ mang niềm vui cho thế gian, người thực tập kham nhẫn tự mang niềm vui đến cho mình và cho chúng sinh.

Người thực tập kham nhẫn cần có năm đức tính được rèn luyên khi mới bước vào đường tu. Một là đức hiếu sinh, là lòng thương yêu tất cả chúng sinh, loài hữu tình hay loài vô tình, là lòng từ mẫn thương yêu chúng sinh như bản thân mình, vì vậy thương được những điều chưa hay của chúng sinh là thực tập kham nhẫn cho chính mình. Hai là đức ly tham, là biết buông bỏ, buông bỏ tiền tài, danh vọng, sắc dục và lối sống hưởng thụ, để quay về lối sống bình dị, giản đơn, có thì giờ tu học và bố thí sự bình an từ tự tâm. Kham nhẫn với sự đòi hỏi từ bên trong là biết buông bỏ cái tham, cội gốc của cái sân và cái si. Ba là đức chung thủy, không chỉ đơn thuần là chung thủy vợ chồng nếu là cư sĩ, mà còn chung thủy với Tam Bảo, chung thủy với tự tính Tam Bảo. Quy y Tam Bảo là quy y tự tính Tam Bảo. Mình có tự tính của Tam Bảo, là Phật tính, Pháp tính và Tăng tính. Quy y rồi thì buông bỏ con đường tà kiến, quay về con đường chánh kiến. Người biết chung thủy là biết kham nhẫn, không còn đi hoang nữa, không lạc loài trong thế giới ảo nữa. Bốn là đức thành thật, tôn trọng sự thật không lúc nào đổi dời. Sự thật theo thế gian là những chuyện xảy ra như thế nào thì nói như thế ấy, không thêm bớt, không thêu dệt, không phù phiếm, không đổi trắng thay đen. Sự thật theo xuất thế gian là bốn chân lý vi diệu, con đường bát chánh đạo, luật nhân quả, mười hai nhân duyên… Nói lời sự thật là kham nhẫn với mong muốn nói sai sự thật, và chấp nhận không tham gia tranh cãi với người nói sai sự thật. Năm là đức minh mẫn, là sự sáng suốt trong mọi hoàn cảnh, muốn vậy phải thực tập thiền giúp giải phóng các năng lượng bất thiện, năng lượng phiền não và năng lượng vô minh. Khi nào các năng lượng này nằm im thì sự sáng suốt mới hiện tiền, như mặt gương soi bị bụi bậm che phủ, phải thường xuyên lau dọn thì mặt gương mới sáng trong.

Người tu thực tập hạnh kham nhẫn, tối thiểu nên thực tập các bài tập sau đây:

– Người ta nói lời không ái ngữ với mình, mình không phản ứng lại, đó là hạnh kham nhẫn.

– Người ta hành động không dễ thương với mình, mình không phản ứng lại, đó là hạnh kham nhẫn.

– Người ta nói lời không sự thật về mình, mình không phản ứng lại và không cần đính chính, đó là hạnh kham nhẫn.

– Người ta tranh luận hơn thua với mình, mình biết tránh, nhường phần thắng cho người, không tham gia sự hơn thua, đó là hạnh kham nhẫn.

– Người ta nói đúng nói sai về một điều với mình, mình không phản ứng lại, không tham gia vào việc tranh luận đúng sai, có không, còn mất, thành bại, tốt xấu, hay dở, cao thấp, đó là hạnh kham nhẫn.

– Người ta làm cho mình giận, biết vậy mình quay về thủ hộ tâm ý, quán chiếu tính vô thường của cơn giận, đó là hạnh kham nhẫn.

– Người ta đi vào các trò giải trí thế gian, đánh mất thì giờ tu học, biết vậy mình dừng lại những đòi hỏi và ham muốn bên trong, thực tập im lặng với sự mong cầu, đó là hạnh kham nhẫn.

– Người ta thích lời khen và chán ghét lời chê, cả hai lời khen chê đều có thể dẫn tới khổ đau, biết vậy mình thực tập soi rọi bản thân trước cả lời khen lẫn chê, đó là hạnh kham nhẫn.

– Người ta khổ vì bệnh tật, đói khát, thời tiết thất thường, sự tấn công của các loài sinh vật, sự thiếu thốn về tiện nghi vật chất và tiện nghi tinh thần, sự bức bách về sinh lý của cơ thể, sự ham thích dục lạc trong hình ảnh, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, nhận thức, biết vậy mình thực tập sống đơn giản, lành mạnh, thiểu dục và tri túc, đó là hạnh kham nhẫn.

– Người ta luân hồi vì tạo nghiệp không thiện trong nhiều kiếp, biết vậy mình thực tập giữ giới, chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, thực tập thiền và phát khởi trí tuệ, đó là hạnh kham nhẫn.

Khi mười bài thực tập hạnh kham nhẫn vừa đưa lên facebook, trong vòng năm phút đã có phản hồi. Tôi xin trích đăng nguyên văn của bạn có nick là Nhan Ho Thi như sau: Làm được mười điều kham nhẫn như trên thì người đó quả là phi thường rồi, đâu còn là người phàm. Có một điều mình cần quán chiếu, tất cả các thánh nhân đều xuất phát từ gốc phàm phu, chư Phật đều có gốc gác từ chúng sinh. Nếu mình không là phàm phu thì làm sao chịu cố gắng tu hạnh kham nhẫn, còn các thánh nhân đã tu hạnh kham nhẫn không biết bao nhiêu kiếp, trong tự thân của các ngài đã là kham nhẫn rồi. Nhiều khi mình lười biếng trong việc tu hạnh kham nhẫn và ngụy biện cho việc không chịu tu tập của mình, mình nhường sự tu tập cho các thánh nhân. Nếu còn là phàm phu mà không lo tu, thì biết bao giờ mới làm được thánh nhân, nhưng người tu không phải để trở thành thánh nhân, điều họ quan tâm là làm thế nào để đủ phương tiện gột rửa thân tâm của mình, và hạnh kham nhẫn là một trong các hướng dẫn gột rửa đó.

Thế giới này đầy dẫy những lời nói xấu, chạy theo dư luận và kẹt vào tâm lý đám đông. Lời nói ái ngữ trở nên rất khó khăn và việc ban tặng lời nói đẹp rất ít ỏi. Trẻ em từ khi sinh ra, điều đầu tiên cần làm là học ăn và học nói. Học ăn không phải là kiếm cái gì ngon nhét vào bụng, mà học ăn là biết tiêu thụ thức ăn lành mạnh. Thức ăn đi qua sáu giác quan, đôi mắt ăn hình sắc, đôi tai ăn âm thanh, cái lưỡi ăn thực phẩm, thân thể ăn sự xúc chạm và tâm ý ăn sự suy nghĩ. Nhà trường chỉ dạy ăn là ăn thực phẩm hay ăn kiến thức mà quên dạy các thức ăn khác. Học nói là học chia sẻ, học lắng nghe, học yêu thương, học bao dung và đủ thứ bài học làm người khác. Bây giờ người ta dạỵ trẻ nhỏ cách hùng biện, nói ngoại ngữ như một cái máy, tôn vinh những thần đồng kiến thức, nhưng chưa thấy dạy về hùng biện đạo đức, về sự yêu thương, hay tôn vinh những thần đồng biết gieo hạt từ bi. Trẻ em vô hình chung trở thành sản phẩm của người lớn, còn nhỏ rất khôn nhưng chưa ngoan, rất thông minh nhưng chưa sáng suốt. Người lớn còn bêu xấu nhau ngay trước mặt trẻ nhỏ và trẻ nhỏ có xu hướng bắt chước người lớn. Thế giới lấp đầy những lời nói xấu, hãy nhìn xem người lớn đã làm cái gì. Thực tập kham nhẫn với lời nói xấu từ bên ngoài đã đành, mình cần kham nhẫn với sự thúc đẩy muốn hùa theo lời nói xấu.

Điều kế tiếp là mình chưa vững vàng, dễ bị dư luận lôi kéo. Dư luận có thể đi theo con đường đạo đức hay chưa có đạo đức, nên mình tu tập thế nào cho vững, đừng để bị cái gọi là dư luận dìm chết. Thế gian này khổ vì không chịu lắng nghe nhau, mà hậu quả là tri giác sai lầm to như núi Tu Di. Ba mẹ và con cái không lắng nghe nhau, thầy cô và học trò không lắng nghe nhau, sếp và nhân viên không lắng nghe nhau, chính phủ và người dân không lắng nghe nhau, nên chẳng ai hiểu nhau. Cái mà họ cho là hiểu nhau chỉ là sự tưởng tượng, là suy diễn, là tri giác sai lầm, sau đó không chịu nhìn nhau, và hậu quả là chia tay, là xa nhau, ba mẹ xa con, thầy cô xa học trò, sếp xa nhân viên, chính phủ xa người dân. Đứng sát bên nhau mà xa lắc xa lơ. Cho nên phải kham nhẫn, phải dừng lại cái chấp bên trong để lắng nghe người kia, lắng lòng mà nghe, nghe cho kỹ để hiểu người đó, nghe trực tiếp, nhìn tận mặt. Người không kham nhẫn một câu cũng không nghe nổi vì quyền lợi che lấp, phiền não che lấp, cái chấp che lấp, cái tôi che lấp. Người như vậy tự đào mồ chôn mình. Mình bị chôn trong nấm mồ của quyền lợi, của phiền não, của chấp ngã, của cái tôi.

Thêm nữa, bây giờ con người ngày càng bơ vơ, không biết nương tựa, nên nương tựa thần tượng, nương tựa thế giới ảo và nương tựa tâm lý đám đông. Thần tượng có vẻ đẹp, có vẻ tài năng nhưng đẹp cách mấy cũng tàn lụi, tài năng cách mấy cũng phải dừng chân. Nương tựa vào cái rồi sẽ tàn lụi chẳng khác nào con thiêu thân, tự thiên cái thân của mình, nói cách khác là tự sát. Thế giới ảo là điều nương tựa ghê gớm khác. Ngay cái tên thôi đã thấy không thật nhưng người ta vẫn nương tựa. Ảo không chỉ ở mạng lưới Internet, mà con cả những ước vọng mơ hồ, như ước vọng leo lên đỉnh cao. Đỉnh ngọn núi, chỗ đứng có chút xíu, rất chật chội, mà vẫn thích leo lên, trong khi ở chân núi, đồng bằng phì nhiều, chỗ đứng bạt ngàn, tha hồ mà đứng. Người ta thích leo núi, lên đỉnh núi, xuyên qua chín tầng mây, rồi đứng nói chuyện trên mây. Ảo không thể tưởng tượng nổi. Do bơ vơ, nên mình trở thành ảo và cũng vì lý do bơ vơ, mình bị đám đông lôi đi. Mình thích hùa theo đám đông, dù biết rằng đám đông đó đi sai đường, nhưng vì sợ đi một mình trên con đường đúng, nên mình chọn con đường sai để thỏa mãn ham muốn phụ thuộc. Sống thử là một tình trạng ham muốn phụ thuộc, không muốn đơn độc. Người thực tập kham nhẫn là nhẫn được với cái ảo, ảo trong ý niệm về thần tượng, về dư luận và tâm lý đám đông. Ngươi tu sống đơn độc nhưng không cô độc, vì người tu biết cách sống một mình, sống một mình không phải không sống chung với ai, mà sống một mình là sống trong chánh niệm, không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, an trú trong sự sống mầu nhiệm ở hiện tại nhưng không kẹt vào những đòi hỏi hưởng thụ trong hiện tại. Kham nhẫn với cái ảo để cái thật có điều kiện được hiện tiền. Ngày xưa chưa có mạng Internet, con người truyền thông khó khăn nhưng con người tôn trọng nhau nhiều hơn, còn ngày nay, mạng Internet ngày càng phát triển, truyền thông dễ dàng hơn nhưng mình có còn biết tôn trọng nhau. Từ chat đến diễn đàn, đến blog, đến mạng xã hội, đầy dẫy những dòng chữ bơ vơ. Bên cạnh những bài viết chia sẻ mang tính xây dựng, không ít những dòng chữ tưới tẩm hạt giống của sự ủy mị, chán chường, thất vọng và không lối thoát. Cái này gọi là phóng oán khí cho nhau.

Trong câu chuyện của đức Phật bị dư luận của ngoại đạo chống đối, bêu xấu giáo đoàn và giáo pháp của người, nhưng người chỉ dạy đệ tử nên thực tập im lặng. Trước đây, nhà vua và dân chúng chỉ biết tôn sùng ngoại đạo và họ có những quyền lợi riêng. Bây giờ giáo pháp của Phật ra đời, họ cảm thấy quyền lợi như bị mất đi, mất sự sủng ái của nhà vua, mất sự tín nhiệm của dân chúng, nên họ rầu, họ tìm cách phá hoại, đó là chuyện thường tình của thế gian. Mình không tranh chấp với họ thì những gì họ nói đâu làm mình khổ tâm, ngược lại phải biết thương họ nữa, họ đang trong tình trạng khổ đau. Nếu đức Phật xúi giục đệ tử phản bác trở lại, chắc bây giờ chẳng ai theo Phật và cũng chẳng ai quỳ lạy Phật cả. Mình tôn kính Phật vì hạnh kham nhẫn vô lượng mà Phật thực tập và bố thí cho chúng sinh. Việc Phật dạy đệ tử im lặng là một bài thực tập và cũng là bài bố thí. Khi ai đó nói sai sự thật về mình, mình thấy oan như nỗi oan Thị Kính, mình muốn chứng minh, muốn trần tình, muốn giải bày, muốn làm cho người kia hiểu mình, mình mới hả dạ. Nhưng nếu người kia không chịu lắng nghe, mình sẽ chứng minh được với ai. Cho nên khi bị hiểu lầm, thực tập kham nhẫn thì không cần chứng minh và chỉ chia sẻ khi người kia thực sự muốn lắng nghe.

Nói tới đây cũng xin nhắc lại câu chuyện về Thị Kính mà người đời gọi là Quan Âm Thị Kính. Người thực tập kham nhẫn trước sự bêu rếu của thế gian đến tận cùng của sự sống. Nếu không thực tập được, không ai gọi người là Quan Âm cả. Thị Kính là một thiếu nữ xinh đẹp, họ Mãng, ở nước Cao Ly. Lớn lên, ba mẹ gả nàng cho thư sinh Sùng Thiện Sĩ, hai người ăn ở rất hòa thuận và vui vẻ. Một đêm, lúc chồng đọc sách rồi ngủ quên, thấy có một sợi râu mọc ngược, Thị Kính thấy không hay nên lấy kéo định tỉa sợi râu đi. Bỗng nhiên, anh chồng chợt tỉnh, thấy vợ cầm kéo kề cổ, nghi vợ sinh tâm làm hại nên nắm tay vợ la lên, Tôi đang ngủ nàng định giết tôi sao. Thị Kính phân trần nhưng không thành. Ba mẹ chồng chạy vào cũng quay sang trách mắng con dâu, đòi trả lại nàng cho bên xui gia. Bị oan dù đã giải bày, Thị Kính buồn rầu trở về nhà ba mẹ mình. Về nhà, nỗi buồn cứ canh cánh trong lòng, không biết tỏ lộ cùng ai. Nỗi buồn ngày càng lớn, cuối cùng nàng quyết định cải nam trang, vào chùa tu hành. Lúc rời nhà đi, nàng bị đồn là bỏ nhà theo trai, tiếng oan thứ hai bám lấy nàng khiến ý chí đi tu của nàng thêm lớn.

Sư phụ chùa Vân Tự không biết nàng là gái giả trai, nên cho xuất gia, ở lại chùa tu thiền, đặt pháp danh là Kính Tâm. Trong làng, con gái phú ông tên là Thị Mầu, thấy thầy tu Kính Tâm dễ thương nên thầm thương trộm nhớ nhưng thầy Kính Tâm vẫn không có phản ứng gì. Thị Mầu tư thông với tên đầy tớ trong nhà, mang thai và bị làng cho phạt vạ là gái không chồng lại có chữa. Bí quá, Thị Mầu luôn miệng đổ thừa cho thầy tu Kính Tâm. Thầy Kính Tâm không biết giải thích thế nào, nếu nói là gái thì sư phụ không cho tu nữa, nếu nói là trai thì oan kết khó giải. Nàng đành im lặng, chịu sự đánh đập theo lệnh của quan trong làng. Do sợ bị tai tiếng, sư phụ yêu cầu nàng ra ngoài mái Tam Quan mà ở. Lâu sau, Thị Mầu sinh con, nghe lời phú ông đem con trả cho Kính Tâm. Thầy Kính Tâm ngồi tụng kinh trong mái, nghe tiếng con nít khóc, bước ra thấy Thị Mầu ẵm đứa nhỏ dễ thương, động lòng từ bi, liền nhận lấy và nuôi nấng đứa bé hết lòng. Hàng ngày, thầy ẵm đứa nhỏ đi khắp đầu làng xóm dưới xin sữa cho đứa bé, mặc tiếng cười chế diễu của bà con chòm xóm. Vài năm sau, đứa bé khôn lớn, chí nguyện của thầy cũng đã thành, lúc lâm bệnh, thầy viết một bức thư để lại cho đứa bé, bảo nó sau này thầy mất thì đem bức thư đến cho mẹ của nó.

Đứa nhỏ chạy đến chùa tìm sư cụ báo tin thầy Kính Tâm đã qua đời. Sư phụ cho người đến khâm liệm thi hài, mới khám phá ra Kính Tâm là đàn bà. Tin này vừa mới đưa ra ngoài, dân làng kéo đến đông như kiến, nỗi oan Thị Kính được giải bày, thầy Kính Tâm là sư cô, không phải là sư thầy. Mọi người đã nhận ra hạnh kham nhẫn bấy lâu nay nàng trải qua, to lớn và vĩ đại không gì có thể sánh nổi. Tin cũng đến tay người chồng năm xưa của Thị Kính, chàng nhận ra người vợ không hề có âm mưu giết chồng, trong tâm lấy làm ăn năn, xin qui y Tam Bảo rồi đi tu luôn đến hết đời. Từ đó, người đời gọi thầy Kính Tâm là Quan Âm Thị Kính, để tôn vinh hạnh kham nhẫn của bà. (10)

Điều gì khiến sư cô Kính Tâm im lặng cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời? Vì cô nằm trong hoàn cảnh trớ trêu, nói ra thì khó theo đạo, bằng giữ kín thì phải gánh hàm oan nhưng giữ được đạo, sư phụ không bắt hoàn tục. Một điều khác cần hiểu là nếu nói mình là nữ, dù cho có bị đuổi ra khỏi chốn thiền môn, cô cũng không muốn gây tổn hại đến Thị Mầu. Dẫu rằng biết Thị Mầu sai, nếu không nói ra vẫn có thể giúp Thị Mầu tránh bị đánh đập và mang tiếng là gái chửa hoang. Hạnh kham nhẫn của cô xuất phát từ lòng từ bi, thương người, không muốn người bị đau đớn thân xác, không muốn đứa trẻ mồ côi ba, không nơi nương tựa, không muốn mất nơi nương tựa, đó là sự nương tựa Tam Bảo. Như một câu chuyện khác, một vị khất sĩ đến xin tá túc qua đêm tại nhà vợ chồng nuôi ngỗng. Bà vợ vào buổi đêm lấy một viên ngọc để dành bấy lâu ra rửa rồi để trên bàn. Một con ngỗng gần đó thấy viên ngọc tưởng thức ăn nên ngoạm lấy, nuốt vào bụng. Vị khất sĩ ngồi gần đó thấy hết mọi sự tình. Lát sau quay lại, không thấy viên ngọc đâu, bà vợ tru tréo lên, đổ thừa cho vị khất sĩ, đã đánh cắp viên ngọc. Vị khất sĩ im lặng không nói tiếng nào, vì nếu nói ra chắc chắn tổn hại đến sinh mạng của con ngỗng. Ai ngờ, người chồng tiếc của, nổi trận lội đình, cầm dao giết chết vị khất sĩ. Vài bữa sau, hai vợ chồng thịt con ngỗng đem bán, khám phá ra viên ngọc nằm trong dạ dày của nó, lúc này có hối cũng không kịp nữa. Với thế gian, vị khất sĩ có thể bị cho là nhu nhược hay ngu xuẩn, nhưng người tu mà, một con kiến cũng không dám tố cáo, nói chi là con ngỗng.

Kệ Nhẫn Ba La Mật

Kệ Nhẫn Ba La Mật

Một nhẫn không tìm sân hận

Hai nhẫn không giận làm càn

Ba nhẫn tánh nết không sân

Bốn nhẫn không tranh giành thắng

Năm nhẫn chẳng thốt một lời

Sáu nhẫn quên đời vui thú

Bảy nhẫn quên tiếng khen chê

Tám nhẫn không tham, si mê

Chín nhẫn ôn tồn điềm đạm

Mười nhẫn những lời chẳng hay.

Mười một nhẫn nóng lạnh cũng cam

Mười hai nhẫn rủi ro không màng

Mười ba nhẫn muỗi mòng gió nắng

Mười bốn nhẫn đói khát bệnh đau

Mười lăm nhẫn nhập định tham thiền.

Kham nhẫn đem lại hạnh phúc

*******************************************

Sắc đẹp cầu chúc cho người

Hiền nhân trí thức vui cười

Con đường xuân tươi La Hán.

Kham nhẫn luôn tầm đạo đức

Rán sức trì giới tham thiền

Bố thí nhẫn nại chẳng kiên

Sống trong an nhiên tự tại.

Kham nhẫn vui sướng làm sao

Chư Thiên cùng bao Bồ Tát

Hoan hô ngợi khen ca hát

Người mới thực là chân tu. (9)

Nhẫn với sự sân hận của người khác là bài thực tập khó nhất bất cứ người nào muốn bình yên đều phải kinh qua. Nếu người ta nổi sân với mình, mình nổi sân lại, có khác nào mình giống người, bị sập bẫy bởi ngọn lửa sân. Mình tu lâu mà không nhẫn được với cái sân, cái tu của mình phần nào chưa đúng cách. Ngọn lửa sân có thể thiêu rụi cả rừng công đức được gây dựng bấy lâu. Một lần đức Phật đang thuyết pháp thì có người đến gần nhổ nước bọt vào mặt người, người lau mặt rồi hỏi, Ông còn điều gì nữa không. Người đó ngạc nhiên tại sao trên đời này lại có người thản nhiên khi bị người khác nhổ vào mặt, một hành động như là sỉ nhục. Với người khác chắc chắn có sự tức giận, lồng lộn và chửi bới, nhưng đức Phật không làm như vậy, người vẫn không một chút giận dữ và ôn tồn đặt câu hỏi với người kia.

Người hành động không dễ thương vì đang bất lực, đang yếm thế, không còn cách nào nói, không còn ngôn từ gì để nói nên đành phải hành động thay lời nói. Một người đem quà tới cho mình, mình không nhận, người ấy phải đem về và tự xài. Người nhổ vào mặt mình hay chửi bới mình, mình không nhận, người mang về xài, tự chuốc lấy khổ vào thân, đâu có gì phải trách nữa. Người đang nổi sân khổ đau cùng cực, vì hoàn cảnh không như ý muốn, không đạt theo tiêu chuẩn. Không ai nổi sân trong tình trạng hạnh phúc cả. Do sự bức bách của bản thân, đánh mất sự tự chủ, bị hoàn cảnh chi phối, bị chấp ngã bủa vây, người nổi sân, mình nhìn thấy điều đó, mình không hùa theo cái sân của người. Mình nắm lấy hơi thở, quay về niệm hơi thở, để bảo hộ mình trước. Không ai nổi sân ngàn năm nên mình chờ cho người đó nguôi giận, cơn giận trôi qua, hay để một dịp khác, tình hình bớt căng thẳng, mình sẽ chia sẻ với họ. Tình hình đang căng thẳng, mình còn nổi sân theo, chẳng khác nào đổ dầu vào lửa, cả hai đều chịu thiệt.

Hãy tập thương người đang nổi sân, người đang đau khổ. Đau khổ đó có thể là đau khổ của mình, vì mình từng như thế. Người nổi sân vì trong tâm còn tham lam muốn tranh giành phần thắng. Mình giận người là giận tính tham của người. Quay lại mình, mình cũng có tính tham giống vậy, nên tha thứ cho người là tha thứ chính mình. Đây là một trường hợp thực tập quán chiếu. Khi mọi căng thẳng đã dịu êm, hãy xem lại mình đã làm gì, đã nói gì, đã suy nghĩ gì khiến người giận mình. Trong những cơn giận, mình cũng có phần lỗi, không ít thì nhiều, cho nên lắng nghe và chia sẻ để thấu tận nguồn cơn. Nếu người không chịu lắng nghe, không chịu chia sẻ, mình đành im lặng, im lặng trong cái nhẫn và im lặng trong việc phát khởi tình thương với người.

Ngày hôm sau, người đã nhổ vào mặt Phật đến xin lỗi người và cầu xin sự tha thứ. Phật vẫn kiểu ôn tồn bấy lâu, Sông Hằng ngày hôm nay không như sông Hằng ngày hôm qua, ta của ngày hôm nay không như ta của ngày hôm qua, ông của ngày hôm nay không còn là ông của ngày hôm qua, hôm nay ông rất mới, ông là người mới đến, hãy quên chuyện đó đi, đến đây nào, đến đây ngồi trò chuyện với ta. Bạn thấy không, đấy là biểu hiện của lòng bao dung, lấy từ bi để thắng hung tàn. Nếu lấy hung tàn thắng hung tàn, hung tàn sẽ còn mãi, không biết bao giờ mới xong. Nếu lấy sự hiểu biết và thương yêu đối trị với hung tàn, hung tàn sẽ mềm nhũn và tan chảy rồi bản thân nó tự kết thúc lúc nào không hay. Mình có thói quen trong quá khứ là phản ứng lại những gì đang diễn ra, một thứ tập khí cuồng loạn, tức là sử dụng cuồng loạn ứng xử với cuồng loạn, theo kiểu máu phải trả bằng máu, làm vậy thì có ngày hết máu, hết máu đồng nghĩa với cái chết.

Một người bạn nổi sân với mình, vì tưởng mình ăn cắp tiền của họ. Mình biết bạn có tri giác sai lầm, bạn mình buồn rầu vì mất của, chưa có đủ chứng cứ đã vội kết luận mình là thủ phạm, mình khổ lắm chứ, bị oan mà. Nhưng suy nghĩ kỹ mà thương bạn hơn bỏ bạn. Bạn mình đang cần số tiền đó, số tiền đó thể mua thức ăn cho con, mua thuốc cho mẹ hay mua một bộ quần áo mới đi làm. Bây giờ mất rồi, bạn mình tiếc lắm, tiếc vì công sức bỏ ra làm việc không được hưởng. Tiền bạc là vô thường, có đó rồi mất đó. Bạn mình không biết gìn giữ, để hớ hênh cho kẻ gian sinh lòng tham lấy mất. Mất tiền, con của bạn bị ảnh hưởng, mẹ của bạn bị ảnh hưởng, bản thân bạn ấy bị ảnh hưởng. Trong lúc quẫn trí, thấy mình sớ rớ ở đó nên đã đổ thừa xằng bậy.Mình thương bạn, thương cái quẫn trí của bạn. Lựa lúc thuận tiện, mình giải thích cho bạn hiểu. Đừng vì sự quẫn trí của bạn mà mình nổi sân trở lại, đánh mất tình bạn bấy lâu gây dựng. Kham nhẫn với sự sân hận của người khác là như vậy đó.

Bài thực tập thứ hai là chiến thắng được chính mình, chiến thắng cơn giận trong mình. Người tu như chiến sĩ xung trận, đã ra chiến trận là quân địch bắn tứ phía, không nổi giận với các sự tấn công là chiến thắng, vẻ vang trở về, bằng không sẽ trở về trong sự tơi tả, bị thương nặng, thậm chí là mất mạng. Khi giận, mình rất xấu xí. Thử nhìn vào gương lúc đang giận, chẳng ai đẹp cả. Có bài kệ về giận như sau, Người giận người không đẹp – Mặt mũi như cơm thiu – Trống vắng như chợ chiều – Mây nước cũng đìu hiu. Cái giận làm xấu lắm. Người có gương mặt xấu xí, đầy dây điện chằng chịt hay bị biến dạng là do nổi giận triền miên và khi nổi giận, không biết làm sao kiểm soát cơn giận. Vấn đề đặt ra không phải là chuyển hóa cơn giận như thế nào mà làm thế nào để cơn giận không xảy ra. Hãy đặt câu hỏi, tại sao mình lại nổi giận, điều gì làm cho mình giận, điều gì làm cơn tam bành nổ ra. Mình nổi giận vì mình tham, tham trong sự mong muốn người khác thỏa mãn ý niệm, thỏa mãn tiêu chuẩn, thỏa mãn điều kiện, thỏa mãn ước muốn của mình. Mình nổi giận vì mình tham, tham trong sự mong muốn hoàn cảnh thỏa mãn ý niệm, thỏa mãn tiêu chuẩn, thỏa mãn điều kiện, thỏa mãn ước muốn của mình. Thật đơn giản nếu muốn cơn giận không xảy ra, đó là buông bỏ mọi ý niệm, mọi tiêu chuẩn, mọi điều kiện, mọi ước muốn và thay vào đó là sự chấp nhận, chấp nhận sự khác biệt của người, chấp nhận sự không thuận của hoàn cảnh. Một người bố thí thức ăn cho một nhà sư đi khất thực, sau đó khám phá ra nhà sư này là sư giả nên trong lòng bắt đầu nổi giận. Người giận vì người có ý niệm về sư thật và sư giả. Trong lòng người chỉ muốn cúng dường cho sư thật thôi, không muốn cúng dường sư giả. Do có tâm phân biệt, người tham trong việc cúng dường sư thật. Nếu thực tập bố thí ba la mật, thực tập tâm không phân biệt trong việc hành bố thí, không phân biệt giới tính, không phân biệt sắc tộc, không phân biệt địa điểm, không phân biệt thời gian, không phân biệt thời tiết, kể cả không phân biệt thật giả, hành bố thí là chỉ để hành bố thí, hành bố thí với mong ước người nhận bố thí có đủ điều kiện để trải qua giây phút khó khăn, thì việc sư thật hay sư giả không còn là vấn đế nữa. Bố thí mà nổi sân thì bố thí làm gì, không những không có phước mà còn bị tổn phước. Buông bỏ ý niệm về thật giả, người bố thí trong sự hoan hỷ, cho dù có khám phá ra sự thật, mình vẫn thấy mát mẻ và mỉm cười với những trò đời của thế gian, các trò đời này không phải để lên án hay chỉ trích, mà đó là bài thực tập nhẫn, nhắc nhở mình không nổi sân, không vướng vào những chuyện như vậy.

Nếu cơn giận xảy ra, mình phải làm gì để không sa đọa và không bị trôi lăn trong cơn giận? Có hai hạng người: người làm chủ được cơn giận và người bị cơn giận làm chủ. Người bị cơn giận làm chủ có thể hành động và ăn nói ngoài tầm kiểm soát. Biết rằng hành động hay ăn nói như vậy có thể gây tan nát đổ vỡ tất cả nhưng vẫn cứ làm. Người làm chủ được cơn giận biết mình đang giận, quán chiếu được những hậu quả do cơn giận gây ra, nên người đi ra khỏi vùng nóng giận, bằng cách thiền hành, theo dõi hơi thở, thực tập rải tâm từ. Tác động tiêu cực của cơn giận không thể tin được, không chỉ làm mất mối quan hệ, giảm uy tín và danh dự, mà con tạo điều kiện cho bệnh tật phát sinh. Sự nóng giận làm cơ thể tiết ra những chất độc và đi vào các bộ phận gây bệnh. Có người vì giận mà bị nhồi máu cơ tim, rồi chết bất đắc kỳ tử. Kiểm soát cơn giận bằng cách học sự bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh. Mình thướng có ý niệm người đó làm khổ mình nên mình giận. Hãy nhớ mọi cơn giận xảy ra đều do thiếu sự cảm thông, lắng nghe và chia sẻ, nên tri giác sai lầm phát khởi. Bình tĩnh trong sự lắng nghe, để biết rằng mình cần hiểu người hơn hiểu vấn đề người đang nói. Bình tĩnh trong sự chia sẻ, để biết rằng mình mong muốn hàn gắn mối quan hệ và đưa mối quan hệ lên tầm cao mới. Bình tĩnh trong sự cảm thông, để biết rằng mình từng có tri giác sai lầm như vậy, nên mình thương người và thương bản thân.

Cơn giận xảy ra, hãy suy nghĩ tích cực, hành động tích cực và ăn nói tích cực. Suy nghĩ tích cực là hiểu rõ nguyên nhân cơn giận là xuất phát từ mình, hơn từ người, do mình có những đòi hỏi quá đáng. Hành động tích cực là làm chủ thân thể không để nó dẫn tới tình trạng bạo động của thân. Ăn nói tích cực là không buộc tội, phê bình, lên án hay chỉ trích làm tổn hại tình thương hay mối quan hệ với người kia. Đối với người nóng giận quá lớn hãy nhờ đến phương tiện hỗ trợ, như người thân, bạn bè, đồng nghiệp, bạn đồng tu nhắc nhở và can thiệp. Muốn làm vậy, trước hết mình phải thừa nhận là mình đang giận, Này bạn đồng tu ơi, tôi biết tôi đang giận, tôi đang bị cơn giận chi phối, xin hãy trò chuyện với tôi, xin hãy khuyên giải tôi, xin hãy giúp tôi chuyển hóa cơn giận. Sau đó, mình nhờ bạn đồng tu tiếp sức cho mình trong việc ngồi thiền, Này bạn đồng tu ơi, hãy ngồi thiền với tôi, hãy giúp tôi chuyển hóa cơn giận. Năng lượng giận dữ ghê gớm lắm, những lúc như vậy hãy ngồi thiền hay đi thiền để thân tâm bình an hơn, chuyển hóa năng lượng giận dữ thành năng lượng bình an, năng lượng tươi mát như hồ sen. Người làm mình giận cách mấy vẫn là người thương mà người thương thì không đáng ghét chút nào. Ngày mai người thương có thể đi xa lắm, nên giờ đây mình học cách tha thứ, để mai kia người ấy đi xa mình không nuối tiếc sao lúc người ấy có mặt mình lại bày đặt giận dữ làm chi. Học bài kệ này sẽ có ích cho mình, Tuy giận mà lại thương – Thương người còn đau khổ – Cái giận không còn chỗ – Khi vị tha bao dung. Sử dụng tình thương để đẩy lùi cơn giận, đây là cách duy nhất và cũng là hay nhất.

Giận quá mất khôn là câu nói dân gian ai cũng biết. Một người anh trai thấy đứa em đi học về trễ, không tìm rõ nguyên nhân, đã nổi giận, lên tiếng trách cứ em rồi buộc miệng nói, Mày đi chết đi, tao không muốn có đứa em như mày. Ai ngờ đứa em này đi chết thiệt, vì cứ tưởng người anh không thương mình nữa. Hối hận xảy ra cũng không kịp vì đứa em đã chết rồi. Sự chuyển hóa cơn giận phải đi kèm với lời ái ngữ, tức là dùng lời an ủi người đang nóng giận. Cơn lửa đang bốc cháy, hãy lấy nước mà tưới vào, đừng tưới xăng hay dầu lửa. Người biết cơn giận và bình tĩnh trước hoàn cảnh là người khôn ngoan. Một người học trò nói xấu thầy mình với một người bạn. Người bạn này đem lời nói xấu kể lại cho ông thầy nhưng ông thầy không nổi giận mà ông chỉ nói một câu, Vậy à. Lời nói này có thể làm mất hứng người kể vì trong thâm tâm người ấy có thể muốn nhìn thấy ông thầy nổi giận. Ông thầy này có tu vì cho rằng mọi lời nói xấu nhiều khi là tri giác sai lầm hoặc nhiều khi muốn giúp ông thực tập nhẫn từ trong tâm.

Bài tập thứ ba là nhẫn với sự nóng tính của mình. Thật vậy, có một số người nóng tính như núi lửa đang phun trào nham thạch. Nóng tính có hai dạng là hay lăng xăng và dễ nổi nóng. Người lăng xăng là trạo cử biểu hiện rất mạnh, không thể ngồi yên, không thể an trú trong hiện tại, tâm thường hay phóng về phía trước một bước, thậm chí một ngàn bước. Đang làm việc trong nhà thì nghĩ chuyện ngoài đường, đi ngoài đường thì nghĩ chuyện trong nhà. Tâm ít khi ở với thân nên dễ bị căng thẳng, sự căng thẳng này là do tâm bay như vượn chuyền cành, không nhẫn được với sự ham muốn đi hoang của tâm. Tâm nhiều khi đi hoang và đi hoang dễ sợ lắm, bay qua tận châu Mỹ đã đành, nó còn bay lên cung trăng, ngồi tán dóc với chị Hằng, rồi bay đến sao Hỏa, ngồi bàn chuyện phím trên chín tầng mây. Người này có một cái tính gọi là cóc tính. Bắt con cóc bỏ vào dĩa, nó không ở yên một chỗ mà nó nhảy ra khỏi cái dĩa liền, ra khỏi cái dĩa, nó vẫn còn muốn nhảy nữa. Tâm mình mà hay nhảy chỗ này chỗ kia nhảy điệu chachacha hoặc tango gọi là tâm cóc hay cóc tâm. Mình thực tập nhẫn với sự lăng xăng, với sự bay nhảy, tâm mình sẽ bình yên, gọi là tâm yên hay yên tâm. Mình không còn lo lắng về sự việc gì nữa thì tâm sẽ yên, như người mẹ yên tâm về đứa con, tức là không còn thấy lo lắng cho đứa con, đứa con đã biết tự lo cho nó rồi.

Người thứ hai là người dễ nổi nóng, đụng chuyện chút xíu thôi cũng nổi nóng. Người này như quả bom nổ chậm, như ấm nước sôi, đụng vô là nổ cái bùm, đụng vô là phỏng tay liền, dễ sợ vậy đó. Khi nổi nóng, mình hay lớn tiếng, quát tháo người này, chửi mắng người kia, thậm chí xúc phạm đến danh dự của kẻ khác. Khi cơn nổi nóng đi qua, mình ngồi hối hận sao mà khi nãy làm bậy quá. Do mình không nhẫn được, do mình tham, tham trong cơn giận, tham trong việc lấn lướt người khác. Nổi nóng được cho là hành động gây rối, không đơn thuần gây rối với người làm mình nổi nóng, mà còn gây rối với mình, gây rối với người xung quanh. Mình muốn chứng minh là mình đang nổi nóng. Có bà kia chửi hàng xóm vì quét rác qua nhà bà, cả xóm nghe, cả xóm đều phiền não. Tối hôm đó, chồng về, bà kể cho chồng nghe, chồng phiền não, con về, kể con nghe, con phiền não, dâu rể về, kể dâu rể nghe, dâu rể phiền não. Bà gieo rắc sự phiền não cho rất nhiều người bởi vì một việc nhỏ nhoi là người ta quét rác vào nhà bà. Tại sao mình không nói nhỏ nhẹ để người ta nghe để người ta không quét rác vào nữa. Người lớn giống như con nít vậy, có xu hướng nghe lời dỗ ngọt hơn là là tiếng lẻng kẻng của sự la mắng. Hôm sau, hàng xóm đùn rác qua nhà bà còn nhiều hơn nữa, âu cũng là do hậu quả của sự chửi mắng. Tiếng chửi mắng như tiếng rác, càng chửi nhiều thì càng ôm rác vào nhiều thôi.

Nưới sôi để lâu sẽ nguội, nên khi nước đang sối mình đừng có uống, chờ một chút cho nước bớt nóng. Mình nóng tính thì đừng làm gì cả, đừng nói gì cả, đừng suy nghĩ gì cả, chờ một chút cho nóng giận nguội bớt. Thực tập tính tươi mát của bông hoa, làm người mát mẻ và dễ chịu. Bông hoa đẹp, ai cũng muốn ngắm nhìn, nó còn tỏa ra mùi thơm ngát, đem lại sự tươi mát cho đời. Mình tập buông bỏ những giận hờn, tập im lặng để bớt tính nóng nảy, gần gũi những người dễ chịu để tập thói quen dễ chịu. Nếu ai nhắc đến mình mà thấy dễ chịu và bình an, phần nào mình thực tập đúng. Nếu ai nhắc đến mình mà thấy khó chịu và bực mình, phần nào mình thực tập chưa đúng. Có người tự hào về sự nóng tính, Ai cũng nói tôi nóng tính, tôi nổi tiếng về sự nóng tính. Cái này là tai tiếng chứ không phải nổi tiếng. Tự hào về sự nóng tính thật là buồn cười. Nếu đi vào sa mạc, nóng bức, khô cằn, mình chỉ muốn chạy ra khỏi chỗ đó, đến nơi có cây cối, có vườn hoa, có thác nước là biểu hiện của sự tươi mát. Xây dựng và nuôi dưỡng sự tươi mát trong tâm, đừng làm cho nó cằn cỗi, héo úa, như sa mạc. Tâm mà như sa mạc thì còn gì là tâm nữa, tội nghiệp lắm. Người nóng tính rất tội nghiệp, rất bơ vơ. Tội nghiệp vì mệt mỏi trong trận đồ sa mạc nóng bức. Bơ vơ vì ai cũng muốn chạy ra khỏi sa mạc, tránh cái nóng gay gắt. Tôi có đứa em hay nóng giận. Mỗi lần nổi giận là đập đồ, mà nó khôn lắm, đồ nó không đập, nó đi đập đồ người khác thôi, nên người ta cứ xa lánh nó, nhắc tới là ai cũng sợ, không phải sợ nó, mà sợ nó đập đồ, phải tốn tiền mua lại, đây gọi là sự dại dột, một thứ cuồng dại, dại trong nóng nảy đến mức phát cuồng. Người không làm chủ được cơn giận là người cuồng dại như người bệnh tâm thần không kiểm soát được thân tâm. Nói cách khác không làm chủ cơn giận được là dấu hiệu của bệnh tâm thần, bị con ma nóng nảy lôi đi. Người nóng tính lúc qua đời sẽ sinh về cõi Atula, cõi mà sự nóng nảy ngập tràn, khó điều phục được. Cho nên muốn giải thoát hay sinh lại làm người, Atula phải kiềm chế và chuyển hóa cơn giận. Bồ Tát Quan Thế Âm nguyện rằng, mong sao với năng lượng tu tập của Bồ tát có thể giúp Atula tự thân điều phục được tính nóng để siêu thoát.

Bài tập thứ tư là kham nhẫn với mong muốn tranh đua, tham gia vào tiến trình tranh đua và dính mắc vào ý niệm hơn, thua, được, mất. Tranh đua là một cơn lốc xoáy, đi vào là đi vào mê hồn trận, xây xẩm mặt mày và khó tránh khỏi đau thương. Đó là một chiến trường. Học đường bị biến thành chiến trường, tranh đua học bổng, điểm số và sự khen ngợi. Thương trường bị biến thành chiến trường, tranh đua thị phần, khách hàng, lợi nhuận và sự công nhận. Kết quả của chiến trường là bãi chiến trường, đã nói là bãi thì chỉ có xác chết. Tôi có người bạn làm ngành hải quan, nói rằng nhiều lúc không muốn nhận tiền bồi dưỡng của khách hàng, nhưng do hoàn cảnh, ai cũng làm như vậy, nếu mình không làm, mình trở thành không giống ai, bị ra rìa, bị đào thải, cho nên đành chìa tay ra nhận tiền bồi dưỡng. Làm việc trong công ty cũng vậy, mình không muốn cạnh tranh, nhưng cấp trên cứ thúc đẩy, đồng nghiệp cứ nhắc nhở và bản thân cứ đặt ra mục tiêu, nên mình phải cạnh tranh, và mình trở thành yếu tố của guồng máy cạnh tranh. Trong tu viện bây giờ cũng có sự cạnh tranh. Tôi có dịp tu tập ở một tu viện nọ, các vị thực tập xuất gia cạnh tranh với nhau để được làm trưởng nhóm và khi được xuất gia rồi thì ráng tu cho giỏi, chứng minh mình là người tu giỏi, ăn nói giỏi, viết lách giỏi để sư trụ trì chú ý và đề bạt các chức vụ trong tu viện.

Tận cùng của sự cạnh tranh là thất vọng và tuyệt vọng. Mục đích tối cao của tranh đua là leo lên vị trí cao hơn nên nếu không đạt được, mình thất vọng, thất vọng lớn dẫn đến tuyệt vọng và đây là phiên não. Đi học mà phiền não thì đừng có học. Làm việc mà phiền não thì đừng có làm. Tu hành mà phiền não thì đừng có tu. Phải xem lại cách học, xem lại cách làm việc và xem lại cách tu. Nói không với sự tranh đua là kham nhẫn với mong cầu muốn vượt bực, muốn leo lên đỉnh cao. Đỉnh ngọn núi chật chội lắm, nếu đứng chỉ được vài người, nên chắc hẳn rất cô đơn. Còn ở chân núi, diện tích đầy dẫy, tạo cơ hội cho nhiều người đứng, và không có cô đơn tí nào. Tại sao lại chạy lên đỉnh cao để rồi cô đơn? Cô đơn hay không là do mình chọn, tranh đua hay không là do mình chọn, chẳng có ai mang tới phiền muộn cho mình bằng chính mình cả.

Nếu người muốn thắng, xin nhường cho người thắng. Đem câu này mà viết lên, dán lên giường nhắc nhở mình mỗi ngày, hoặc viết thành thư pháp rồi treo lên tường. Đây không phải sự yếm thế hay thiếu tinh thần cầu tiến mà là nhìn rõ bộ mặt thật của sự tranh đua. Không ai đi qua chiến trường, nếu không bị thương hoặc bị giết chết cũng là bị mệt mỏi và kiệt quệ thân tâm. Đối tượng mình tranh đua như huyễn, hết sức ảo, có đó rồi mất đó. Chạy theo cái huyễn hay cái ảo có phải đánh mất sự sống trong hiện tại hay không. Một cô ca sĩ rất nổi tiếng chia sẻ, Khi tôi đi hát, nhất là những buổi diễn riêng của tôi, khán giả rất đông, lên đến hàng ngàn người, họ la hét, họ cười nói, họ khóc lóc, họ tôn vinh tôi làm thần tượng, trong giây phút chớp nhoáng ấy, tôi rất hả hê, nhưng khi trở về nhà, tôi thấy trống không, tôi thấy rất cô đơn, tôi không biết phải làm gì, thậm chí tôi thấy hối hận vì sao tôi chọn con đường ca hát, con đường với ánh hào quang rất mong manh, như bật công tắt điện, lúc đèn đang sáng, tắt một cái là tối thui, ánh hào quang giống vậy, không bao giờ bền vững cả. Kham nhẫn với sự tranh đua là nói “No” với sự cạnh tranh, không bị nó lôi kéo và buông bỏ tâm tham muốn cạnh tranh. Hãy thực tập như sau, cuộc sống này là sự sẻ chia, sẻ chia sự yêu thương, đã biết sẻ chia thì không cần tranh đua. Người ta thất nghiệp vì không dám sẻ chia công việc, người ta thiếu thốn vì không dám sẻ chia miếng cơm manh áo, người ta đau khổ vì không dám sẻ chia tình thương. Cái gì cũng muốn ôm vào, cái gì cũng muốn lấp đầy, càng ôm vào càng khổ, càng lấp đầy càng thiếu, đó là bản chất đích thực của tâm tham.

Nếu có tranh đua, hãy tranh đua tình thương. Tự đặt câu hỏi tu từ cho chính mình rồi tự trả lời, Hôm nay mình thương được bao nhiêu người? Mình thương người thương sâu sắc chưa? Mình thương được người chưa thương mình chưa? Mình thương được người mà mình luôn miệng cho là kẻ thù chưa? Chưa thấy ai tranh đua về tình thương cả, chỉ thấy tranh đua những chuyện không đâu. Khi tình thương lớn lên, mình không cần phải tranh đua gì cả, không cần phải chiến thắng gì cả. Chiến thắng lớn nhất là chiến thắng chính mình, chiến thắng đòi hỏi muốn tranh đua trong mình, đòi hỏi phá nát sức lực của mình. Thì giờ rất quý báu, dùng nó để tận hưởng sự sống và thực tập bình an. Tâm mình đang dậy sóng vậy hãy ngồi yên giúp cho tâm an hơn, bớt lăng xăng hơn. Đừng bao giờ muốn làm người nổi tiếng vì mình không thể nổi tiếng thiên thu. Đừng bao giờ muốn làm người đứng đầu vì có lúc mình sẽ mỏi gối chồn chân. Đừng bao giờ muốn làm tổng thống, chủ tịch nước, thủ tướng hay giám đốc điều hành vì lúc nào mình cũng trăm lo ngàn lắng. Đừng bao giờ hơn thua với bạn bè hay đồng nghiệp vì hạnh phúc của bạn bè và đồng nghiệp là hạnh phúc của mình. Biết cho đi thì cần gì tranh đua, đã tiến bộ thì không cần tiến bộ gì nữa. Trân quý từng giây phút của sự sống, là giây phút không băn khoăn về có, không, còn, mất. Tất cả đều đang diễn ra theo nhân duyên, có cũng là không và còn cũng là mất. Tôi đi dạy ở ngôi trường kia. Sự cạnh tranh diễn ra rất gay gắt, người ta cạnh tranh để được sinh viên yêu thích và người ta kẹt vào lời khen ngợi. Thay đổi bản thân để có cách dạy tốt hơn giúp ích cho sinh viên là điều tốt cần làm, nhưng đừng vì cạnh tranh mà mất đi đạo đức của nhà giáo, mất đi tình nghĩa thầy trò, mất đi mối quan hệ đồng nghiệp mình cố công xây dựng bấy lâu. Ai muốn thắng mình xin nhường, mình không cần làm top ten, chỉ cần đứng hàng một trăm, một triệu là vui lắm rồi. Còn đủ sức khỏe để làm việc, để cống hiến, như vậy còn gì bằng. Chạy làm chi cho mệt mỏi, cho hao xăng, cho tốn sức. Đâu cần phải làm hoa mai, hoa đào, làm bông hoa dại cũng được. Đâu cần làm tượng đá chạm trỗ tinh vi hay một bãi cát vàng óng ả, chỉ cần làm một hòn sỏi hay một hạt bụi, cũng đủ vẽ nên một hình hài. Làm việc mình vẫn cứ làm, làm việc hết mình, nhưng đừng sầu khổ vì công việc, tìm niềm vui trong công việc và hạnh phúc vì may mắn còn có việc làm.

Bài tập thứ năm là kham nhẫn trong sự im lặng, tức là không thốt một lời nào. Con người thường thích tranh cãi, thích nói hơn lắng nghe và im lặng. Đôi khi mình sợ sự im lặng, có câu im lặng đáng sợ. Mình thích ồn ào, tìm kiếm náo nhiệt và hả hê với sôi động. Cũng vậy, mình không chịu nổi việc ở không, phải kiếm cái gì đó làm, phải bận rộn, phải lăng xăng. Cho nên, mình không ngồi yên, không im lặng được. Im lặng có giá trị của nó, để cảm nhận một chút bình yên. Im lặng với im lặng và im lặng với không im lặng. Im lặng với im lặng là mình không sợ hãi sự im lặng, không trốn chạy im lặng, hãy đón nhận im lặng như phần tất yếu của sự sống. Sống trong thành phố tất bật quá, cuối tuần mình chạy về quê hay ra ngoại thành để kiếm chút im lặng. Đi vào chùa tận hưởng chút thanh thản của im lặng. Nhưng sự im lặng này vẫn mang tính chất trốn chạy, chịu sự tác động của ngoại cảnh. Ngoại cảnh không im lặng nhưng lòng mình im lặng, thì ngoại cảnh kia có xá gì, Cái này gọi là tâm an cảnh sẽ an, tâm bình thế giới bình. Im lặng với điều không im lặng thì có gì gọi là không im lặng. Bên ngoài đang ồn ào vậy đó, mình không cần nói gì hết. Bên ngoài đang căng thẳng vậy đó, mình không cần nói gì hết. Bên ngoài đang tranh đua vậy đó, mình không cần lên tiếng gì cả. Mọi thứ tự nhiên dàn xếp và nguôi ngoai, thời gian tự nhiên xóa nhòa tất cả. Không ai đủ khả năng ổn ào, căng thẳng hay tranh đua mãi mãi, sức sẽ tàn, lực sẽ kiệt. Im lặng để cuộc đời có một chút bình yên. Im lặng để có thì giờ tìm lại vị tha trong những giận hờn, tìm lại hạnh phúc trong những tháng ngày đau khổ, tìm lại niềm tin trong những giây phút chán chường, im lặng để thấy bình yên trong hiện tại, hiện tại đang hiện tiền và bình yên cũng đang hiện tiền.

Có hai dạng im lặng, im lặng bên ngoài và im lặng bên trong. Người đang lên án, phê bình và chỉ trích nhưng mình không nói lời nào, cái miệng không phân bua, không cần giải thích, đây gọi là im lặng bên ngoài. Tuy nhiên, im lặng bên ngoài nhưng trong lòng dậy sóng, trong lòng đang lên kế hoạch tấn công, chờ cơ hội để thực hiện cuộc tấn công của mình. Thực tập im lặng bên ngoài là đã giỏi, nhưng thực tập im lặng bên trong còn hay hơn nữa. Tâm không đòi hỏi phán xét, không nhìn người bằng con mắt kỳ thị, không tìm kiếm sự khác biệt để chứng minh ý niệm riêng. Mọi thứ đang im lặng trong sự vận động của nó. Vạn vật đang vận động trong im lặng. Dù có nói nhiều cách mấy, có bàn cãi cách mấy, có tô điểm vẽ vời cách mấy, sự thật vẫn là sự thật, đó là mọi thứ đều thay đổi, theo tính vô thường. Im lặng là chấp nhận vô thường, không tranh cãi về điều đang vô thường để thấy vô thường vẫn là bình yên, chứ không đơn thuần là sự đau khổ, mình cho vô thường là đau khổ vì mình có ý niệm về đau khổ của sự vô thường. Im lặng thì bình yên lên tiếng và giải thoát ngay trong giờ phút im lặng đó. Phật giải thoát vì Phật im lặng với sự hừng hẫy của tham, sân, si, mạn, nghi, kiến. Im lặng thì các tâm độc không làm hại được mình, mình sẽ giải thoát, mà giải thoát cái gì, giải thoát khỏi sự bủa vây của các tâm độc. Người làm mình giận, mình nổi giận thiệt, mình sập bẫy trong sự bủa vây của người đó và trong sự bủa vây của chính mình, mình có ý niệm là người đó làm  mình giận, ý niệm này là cái lưới mình tự giăng ra và quấn lấy mình. Im lặng với người kia là im lặng bên ngoài, im lặng với ý niệm của mình là im lặng bên trong. Làm được vậy, mình giải thoát, giải thoát khỏi cơn giận.

Nếu bạn có dịp xem bộ phim 2012 do Hoa Kỳ sản xuất, một hình ảnh chắc chắn bạn nhớ mãi là hình ảnh vị sư ngồi an nhiên khi cơn sóng đang sắp bủa vây. Câu chuyện nói về ngày tận thế, đã tận thế thì ai cũng phải chết, có chạy đằng trời cũng phải chết. Những người may mắn leo lên được con thuyền lớn, nhưng 7 tỉ người ở hành tinh này làm gì có cơ hội. Người chạy đôn chạy đáo tìm kiếm nơi ẩn náu bằng tâm sợ hãi và chết trong sự sợ hãi. Vị sư kia lại khác, ông biết rằng trước sau gì cũng phải chết, nên ông ngồi xuống trong bình an và khi cơn sóng tới ông đứng dậy, vẫn bằng thái độ an nhiên, ông gõ vài tiếng chuông, sau đó ông ra đi trong sự bình an. Hai cách chết khác nhau, một cái chết trong sợ hãi và một cái chết trong bình an. Cũng là chết, nhưng chết trong bình an sẽ giúp mình tiếp nối trong sự bình an, còn chết trong sợ hãi sẽ khiến mình tiếp nối trong sợ hãi. Mình có thể thực tập im lặng với cái chết giống như vị sư kia. Cái chết nó không tách rời cái sống, mà nó diễn ra cùng lúc với cái sống. Khi mình lọt lòng mẹ, mình đón nhận sự sống nhưng cũng là lúc đón nhận cái chết. Cái chết nó đã diễn ra lúc đó rồi và việc mình qua đời chỉ là một sự kiện đánh dấu đến hồi tan rã của tứ đại mà thôi. Giống như con sông, mình nói con sông vì nó chảy trong đất liền, khi nào ra khỏi đất liền, tràn vào biển thì nó mới là đại dương. Thực ra, khi còn là con sông, con sông đã là đại dương rồi.Nên khi sống thì mình vẫn cứ sống, mình không sợ hãi cái chết vì mình đang chết, nên tận hưởng được sự sống đồng nghĩa với tận hưởng sự chết. Khi con sông đang là con sông, con sông không sợ hãi khi ra biển để trở thành đại dương, vì bản chất của sông là đại dương, và khi sông ra đại dương, con sông đâu có chết, nó đang vẫn sống dưới dạng khác đấy thôi. Im lặng để xóa nhòa  hay chuyển hóa sợ hãi về cái chết vì đã sinh ra thì phải chết nhưng một khi đã biết cái chết đang diễn ra trong lúc mình còn sống, mình vượt thoát sợ hãi, vượt thoát sợ hãi về cái chết và vượt thoát ý niệm về sự sống.

Bài tập thứ sáu là kham nhẫn trong sự giải trí, nhất là giải trí không lành mạnh. Mình có năng lượng của sự mệt mỏi và năng lượng này đòi hỏi phải giải trí. Mục đích của giải trí là giảm bớt căng thẳng của công việc hay tạm thời quên đi những lo toan hàng ngày. Nhưng nhiều người giải trí xong, mệt mỏi càng gia tăng và các năng lượng bất thiện phát sinh, việc giải trí vì thế gây phản tác dụng. Nguyên nhân là do không biết cách giải trí. Giới thứ năm của Năm giới Cư sĩ nói rằng, Con nguyện thực tập bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm bằng cách không sử dụng rượu bia, các chất say, các chất ma tuý và những sản phẩm độc hại. Để bảo toàn hạt giống trí tuệ quý báu, ngăn ngừa những nguyên nhân sanh ra tội lỗi và không làm mất tự chủ hay rơi vào tình trạng ốm đau của thân tâm, con chỉ sử dụng các thức ăn thức uống lành mạnh có thể đem lại sự an lạc và thanh tịnh cho thân tâm con. Con biết thực tập giới này giúp cho gia đình yên vui, thân thể kiện khương, trí tuệ phát triển và xã hội hài hòa, cho nên bây giờ và về sau con không bao giờ uống các loại rượu bia, không hút các loại thuốc lá, không sử dụng các chất ma tuý, không ăn uống các sản phẩm có độc tố, và không tiêu thụ các sản phẩm độc hại  chứa đựng bạo động, khủng bố, cuồng tín, sợ hãi, thèm khát và hận thù. Đây là giới dạy về cách giải trí như thế nào cho lành mạnh.

Mình có xu hướng thích chạy theo sự hưởng thụ, sự thỏa mãn ái dục của sáu căn nên mình tìm kiếm sáu trần hay các đối tượng bên ngoài. Kham nhẫn với giải trí là biết cách giải trí lành mạnh, không giải trí theo kiểu thỏa mãn ái dục của sáu căn. Giải trí lành mạnh là tưới tẩm những hạt giống lành cho sáu căn, đem lại bình yên thực sự cho sáu căn. Mình có đôi mắt, nhưng đôi mắt không tìm kiếm sắc dục, mà đôi mắt tìm kiếm hình ảnh vi diệu của sự sống, như trời xanh, mây trắng, nụ cười của trẻ thơ hay hình ảnh của đức Phật. Mình có đôi tai, nhưng đôi tai không tìm kiếm thanh dục, mà đôi tai tìm kiếm lời vi diệu của giáo pháp, của âm thanh giải thoát. Mình có mũi, nhưng mũi không tìm kiếm hương dục, mà mũi tìm kiếm hương giới, hương định và hương tuệ bằng cách thực tập giữ giới, thực tập thiền tuệ. Mình có lưỡi, nhưng lưỡi không tìm kiếm vị dục, mà lưỡi tìm kiếm những thức ăn có thể nuôi dưỡng lòng từ bi và bảo vệ sự sống muôn loài. Mình có thân, nhưng thân không tìm kiếm xúc dục mà thân tìm kiếm sự giải thoát, sử dụng thân làm con thuyền vượt biển, tu học và hành trì chánh pháp. Mình có ý, nhưng ý không tìm kiếm sự nhớ nghĩ về ái dục, mà ý tìm kiếm sự nhớ nghĩ về đức Phật, về giáo pháp đức Phật trao truyền và về con đường tu học lý tưởng mà mình đã chọn. Mình không nuông chiều sáu căn bằng giải trí không lành mạnh, làm vậy là tự giết chết mình. Muốn cứu lấy bản thân, mình phải chăm sóc và nuôi dưỡng sáu căn bằng các đối tượng giúp cho sáu căn được kham nhẫn. Kham nhẫn với đòi hỏi giải trí của sáu căn thì mình giải thoát, giải thoát cho sáu căn.

Thiền tập là phương thức giải trí lành mạnh nhất một người tu có thể tham gia vào. Không sự thư giãn nào hay bằng sự thiền tập. Thở vào, tôi thấy khỏe, thở ra, tôi thấy nhẹ. Thở vào, thở thật sâu, thở ra, thở thật chậm. Thở vào, thật nhẹ nhàng, thở ra, thật bình an. Giây phút tập thiền là giây phút buông bỏ những lo toan, những muộn phiền, những mệt mỏi trong thân và trong tâm. Những đòi hỏi về sự tiêu thụ tạm thời lắng dịu xuống, nhường chỗ cho bình an. Khi kiệt sức vì công việc, mình dừng lại một chút, nghỉ ngơi một chút, theo dõi hơi thở. Một con sư tử bị thương, nó biết nằm xuống, liếm vết thương và nghỉ ngơi. Nó không chạy theo một con cái, đi kiếm mồi hay lang thang trong khu rừng. Bản thân con sư tử có khả năng tự chữa trị và nó ý thức được sự nghỉ ngơi sẽ giúp cho những vết thương mau lành. Mình cũng vậy, mình có khả năng tự chữa trị, bên trong mình có những chất kháng thể, lúc nghỉ ngơi, chất kháng thể tiết ra, chuyển hóa những chất gây bệnh. Nhiều người mất ngủ vì căng thẳng, lo lắng, bệnh tật hay bực tức trong lòng. Khi hồi 3-5 tuổi, nằm xuống là ngủ dễ dàng, nhưng lúc lớn lên, mình bày đặt mất ngủ, điều gì đã khiến cho mình mất ngủ vậy? Có phải một bóng dáng nào, một sự nghiệp nào, một sự đố kị nào, một đối tượng nào đã khiến mình đứng ngồi không yên, ăn không ngon, ngủ không được? Thiền tập giúp mình buông bỏ những cái đó, quay về tiếp xúc với hơi thở, nương vào hơi thở mà đứng ngồi được yên, ăn được ngon và ngủ được sâu.

Bây giờ có phong trào uống trà đạo. Nếu uống trà đạo dưới dạng thiền trà rất hay. Uống trà chỉ để uống trà thôi. Mình đừng đem những giận hờn và bực tức vào trong chén trà. Khi uống, hãy im lặng, nhâm nhi chén trà, ngắm nhìn bạn đồng tu, bạn sẽ thấy hạnh phúc lớn. Thay rượu bia hay nước ngọt bằng trà, sự thi vị của thiền trà giúp tình thương thăng hoa: tình thương với vạn vật và tình thương với bạn đồng tu. Thử quán chiếu chén trà, trong đó có lá trà, có nước, có hơi ấm, có đại địa, có ánh mặt trời, có công chăm sóc nuôi dưỡng của người trồng trà. Đọc bài kệ thiền trà, Hai tay nâng chén trà – Theo dõi thở vào ra – Bây giờ hãy quán chiếu – Vạn vật đang hòa ca. Chén trà chứa đựng cả vũ trụ, uống trà là uống cả vũ trụ vào cơ thể. Ngồi nói chuyện phù phiếm trong lúc uống trà, mình không thấy được sự góp mặt của vạn vật và mình đánh mất hạnh phúc. Tiếp theo, trước đây có thể mình ngồi uống trà một mình, bây giờ có bạn đồng tu, mình thấy mình may mắn. Mỉm cười với bạn đồng tu, thầm cám ơn bạn cho mình cơ hội thấy nhau, có mặt cho nhau. Bình yên là thành quả của sự thực tập, biết thực tập bình yên là biết kham nhẫn vì hoa trái của sự kham nhẫn chính là bình yên.

Bốn loại thức ăn trong việc thực tập kham nhẫn là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Đoàn thực là thức ăn đưa vào miệng. Ăn như thế nào có thể đủ sức khỏe tu học, bảo vệ sinh mạng và nuôi dưỡng lòng từ bi. Ngày nay người ta nghĩ ra đủ thứ món để cung phụng cho khẩu vị. Các chương trình dạy nấu ăn và cuộc thi nấu ăn cùng với các cuốn sách dạy về nấu ăn cũng nhằm mục đích cung phụng khẩu vị, hơn là dạy người ta cách nấu ăn thế nào để có sức khỏe và bảo vệ sức khỏe. Kham nhẫn với việc ăn uống, mình không đánh mất thì giờ tu học vào những chuyện chế biến các món ăn cầu kỳ, tìm kiếm món ăn khác lạ hay làm việc cật lực để thỏa mãn khoái lạc trong ăn uống. Thức ăn thứ hai là xúc thực, là các đối tượng mà sáu căn muốn thỏa mãn. Kham nhẫn với sáu trần để sáu căn được bình yên hơn. Trên các phương tiện truyền thông hay mạng lưới Internet đầy dẫy những sáu trần có thể tưới tẩm các hạt giống gây thèm khát, bạo động, hận thù. Kham nhẫn với các sản phẩm có sẵn này, mình từ chối đi vào thế giới tiêu thụ không lành mạnh để đi vào con đường tiêu thụ lành mạnh hơn. Trước đây người ta cổ xúy lối sống nhanh, đi nhanh, làm việc nhanh, chạy nhanh, ăn uống nhanh, tiêu thụ nhanh, nhằm thúc đẩy tiêu thụ và phát triển kinh tế. Hậu quả là gì ai cũng biết, những căn bệnh của thời đại, những tệ nạn xã hội, những thiếu thốn tài nguyên, do sự tiêu thụ nhanh và lối sống nhanh mang lại. Kham nhẫn với tiêu thụ để bản thân bình yên hơn, xã hội bình yên hơn và tài nguyên thiên nhiên cũng bình yên hơn.

Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực, đó là những khao khát, những ước ao, những mong muốn đạt được ở hiện tại và tương lai. Người học trò muốn điểm cao, người doanh nhân muốn thành đạt, người ca sĩ muốn nổi danh. Tất cả những muốn này là mục tiêu mà mình chạy theo, chạy mãi mà không biết bao giờ mình dừng lại. Mục tiêu này vừa xong, mục tiêu khác lại ra đời, mình làm việc để phục vụ danh sách mục tiêu và dìm chết mình trong hầm hố của những mục tiêu. Danh sách mục tiêu chôn sự thảnh thơi xuống tận đáy mồ. Việc thực hiện mục tiêu kéo theo những hệ lụy, như sự mệt mỏi, thất vọng, tranh đua, tật đố, hiềm hận. Kham nhẫn với mục tiêu để chỉ đặt ra mục tiêu vừa phải, vừa sức và có thể đạt được trong một lối sống thiểu dục và tri túc. Hoàn thành những mục tiêu nhỏ dễ dàng hơn những mục tiêu lớn. Mục tiêu càng lớn thì càng lo. Có cái gì phải lo cho cái đó là vậy. Loại thức ăn khác là thức thực, đó là những thức ăn ta có được do thói quen trong quá khứ và hiện tại. Những tập khí xấu hình thành do thói quen, do không biết thay đổi và chuyển hóa. Hồi nhỏ, mình không biết hút thuốc, sau đó mình tập tành hút thuốc và thuốc trở thành thức ăn không thể dứt ra được. Hồi nhỏ tính tình rất dễ thương, lớn lên, mình trở nên cáu gắt, tính tình nóng nảy, dễ nổi giận. Tất cả là do mình tiếp nhận những thức ăn không lành mạnh, như thức ăn hoàn cảnh không thuận, thức ăn đòi hỏi thuận theo ý hay thức ăn muốn đạt thỏa mãn ái dục. Kham nhẫn với thức ăn không lành mạnh để thay đổi tập khí. Thực tập để tưới tẩm bản thân những hoa trái của từ bi, của yêu thương, của chấp nhận, của tha thứ, của bao dung. Điều này có nghĩa mình cần tập thói quen từ bi bằng cách ăn những thức ăn mang tính từ bi, thực tập thói quen yêu thương bằng cách ăn những thức ăn giáo dục sự yêu thương, thực tập thói quen tha thứ bằng cách ăn những thức ăn tha thứ.

Một bài thơ đã nói về việc ăn mặn mang tiếng kêu gào của chúng sinh như sau, Ngàn năm qua một bát canh – Oán sâu biển cả hận thành non cao – Muốn hay nguồn gốc binh đao – Lắng nghe quán thịt tiếng gào thâu đêm. Khi ăn mặn là mình đã tiếp tay hình thành địa ngục ở quán thịt. Sự chết chóc ở lò sát sinh ghê gớm như ở địa ngục. Nói rộng ra, lối sống bản thân cung phụng sáu căn khiến mình không còn giữ giới được nữa, những khoái lạc của sáu căn do đắm say sáu trần dìm chết mình trong địa ngục và chỉ có thương đau mà thôi, lúc này mình tiếp tay cho việc gia tăng dân số địa ngục. Những tâm hành bất thiện được chăm sóc trong khi tâm hành thiện không được nuôi dưỡng, mình biến thành địa ngục, mình trở thành địa ngục của chính mình. Kham nhẫn với các loại thức ăn độc hại để không còn khao khát, thèm muốn và nếm trải chúng nữa, để bát canh không còn vị tanh, để biển cả mênh mông, để đồi núi xanh rì, để muôn loài an hưởng thái bình và để quán thịt năm xưa trở thành quán chay.

Bài thực tập thứ bảy là kham nhẫn với tình trạng đi hoang của tâm. Tâm như con voi hoang, chạy tới, chạy lui, không ở với thân nên nhiều khi rơi vào tình trạng thân một nẻo, tâm một nẻo. Có người đang ở trong nhà, ngồi một chỗ nhưng vẫn đi hoang do tâm vượt ra khỏi giới hạn của cơ thể. Khi đi làm thì tâm để ở nhà và khi ở nhà thì tâm để chỗ làm. Vì vậy công việc mình đang làm không được chú tâm, tâm lúc nào cũng chạy trước cái thân một bước. Buổi sáng thức dậy làm vệ sinh cá nhân, tâm mình đã lo chạy tới chỗ làm, tới chỗ làm thì tâm lo lát nữa ăn trưa với cái gì, đang ăn trưa thì tâm lên kế hoạch một hồi gặp khách hàng sẽ nói chuyện gì, đang gặp khách hàng thì trong đầu tính toán trên đường về sẽ ghé chợ mua rau mua mắm. Cái đầu nhỏ bé nhưng tính toán dữ lắm nên cái đầu ít khi được nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nó lúc nào cũng lăng xăng, xáo trộn và không ổn định. Kham nhẫn với sự đi hoang của tâm để dừng lại việc chạy nhảy hay rong ruổi của cái đầu. Thực tập chánh niệm rất hay, giúp ích cho việc đem tâm về thân, nhận diện chuyện đang xảy ra bên trong và bên ngoài mình. Chú tâm vào công việc đang làm, chuyện gì cũng còn có đó, còn phóng tâm nhiều thì tâm mệt mỏi, mệt mỏi nhiều, tâm sẽ bệnh.

Người đi hoang rất dễ trôi lăn trong sự bủa vây của tham, sân và si. Kham nhẫn với ba tâm độc này thì tình trạng đi hoang dễ dàng bị ngăn chặn. Tham là chỉ mong muốn níu kéo mọi thứ về phía mình, muốn lấp đầy, muốn dư dả. Giống như trong cuộc thi ăn hamburger ở bên Mỹ. Người ta ăn như thể tống khứ càng nhiều bánh hamburger càng tốt, để cho kịp giờ, để ăn được nhiều bánh và dành giải người ăn nhiều nhất. Người tham giống vậy, ôm đồm đủ thứ và chính những đối tượng họ ôm đó đè họ chết. Sân là tình trạng nóng nảy, bực tức, muốn chống trả. Giống như trong cuộc thi hét. Người ta đứng trước máy đo âm thanh và hét lớn xem ai hét to nhất, người hét to nhất sẽ thắng giải. Người sân giống vậy, như tiếng hét đinh tai nhức óc, có thể làm vỡ tất cả tấm cửa bằng kính rất dày. Si là vô minh, không hiểu biết, lầm đường lạc lối. Giống như có người thích đi câu cá hay săn bắn và xem đó là trò giải trí, trong khi cả hai công việc đều tạo nghiệp bất thiện. Lần trước, ở phía trước chỗ tôi ở, tôi thấy người ta đem một con heo mọi ra làm thịt mặc cho nó la hét trong lúc bị cắt tiết, và cho rằng giết hại sinh vật để họp mặt bạn bè, hay có người giải sầu bằng cách đi uống rượu bia, càng uống không biết sầu có vơi hay khi tỉnh rượu cơn sầu lại đầy trở lại. Kham nhẫn với tham để biết cho đi, biết bố thí, biết chia sẻ và phụng sự. Doanh nhân Cấp Cô Độc thời đức Phật cho đi đến tận cùng để yểm trợ cho tăng đoàn của Phật không có một sự tiếc nuối nào, đến lúc qua đời, ông đã ra đi trong sự thanh thản. Kham nhẫn với sân để biết chấp nhận và bao dung. Đức Phật thương Đề Bà Đạt Đa vì người cho Đề Bà Đạt Đa đáng thương hơn đáng trách. Đề Bà  Đạt Đa chỉ là nạn nhân của tham lam, sân hận và si mê mà thôi. Kham nhẫn với si để biết bản thân còn lầm đường lạc lối, biết tự thắp đuốc lên mà đi để thay đổi con đường. Những vị Phật Độc giác tự tu, tự chứng, tự giải thoát, đi trong nhân gian mà không bị các pháp thế gian làm ô nhiễm.

Trong cuộc thi China’s Got Talent có một cậu bé người Mông Cổ mồ côi mẹ từ năm lên tám và sau đó ba em cũng qua đời vì tai nạn giao thông. Em tham dự cuộc thi và hát một bài ca ngợi người mẹ khiến ban giám khảo và khán giả đều xúc động rơi nước mắt. Điều gì đã khiến cho đứa trẻ nhỏ bé như vậy có thể vượt qua nỗi đau mồ côi để có thể cất cao tiếng hát trước nhiều người mà không có sự động viên nào từ ba mẹ của mình? Đó là sự kham nhẫn. Em biết mình không may mắn như những đứa trẻ khác nhưng ít ra em cũng đã có khoảng thời gian bên ba mẹ, trong đó có 8 năm bên mẹ và 10 năm bên ba. Thời gian như vậy cũng đủ cho em thấm nhuần tình thương của mẹ và nghị lực của ba. Em đứng đó, cất cao tiếng hát, rất bình tĩnh, không bậc khóc và cũng không ủy mị. Nếu em là người có tu, em sẽ thấy ba mẹ vẫn còn có đó, vẫn sống ở trong em và mong em có những tháng ngày bình yên bên cánh đồng cỏ xanh rì. Trên thế gian này nhiều đứa nhỏ như vậy lắm, chúng không có ba mẹ, chúng không có nơi nương tựa nên phải tự kiếm sống, tự bươn chãi, tự chăm sóc bản thân. Xã hội đầy dẫy cám dỗ, nếu không kham nhẫn, không ai dạy cho chúng sự kham nhẫn, điều gì nên làm, điều gì không nên làm, chúng sẽ rơi vào vòng xoáy của tham, sân, si. Có những tội phạm tuổi đời còn rất trẻ, có những người lính cầm súng tuổi đời còn rất trẻ, có những lời nói ghê ghớm phát ra từ miệng của người mà tuổi đời còn rất trẻ. Âu cũng là trách nhiệm của người lớn, của môi trường, của xã hội, thiếu sự làm gương, thiếu sự giáo dục. Người lớn đi hoang bỏ rơi trẻ em và trẻ em trở thành nạn nhân trong trò chơi đi hoang của người lớn. Nếu người biết kham nhẫn với những trò chơi của mình, biết dừng lại, trẻ em sẽ được yêu thương, sẽ được chăm sóc và người lớn sẽ được tiếp nối đàng hoàng, đơn giản vì trẻ em chính là sự tiếp nối của người lớn.

Bài tập thứ tám là kham nhẫn với việc ứng xử một cách ôn tồn và điềm đạm. Thử nhìn dòng sông êm đềm trôi, một cách lặng lẽ đi từ đầu sông đến cuối sống vì dòng sông có tính điềm đạm, cho nên người ta hay nói dòng sông êm đềm lững lờ trôi. Người ôn tồn ăn nói nhẹ nhàng, dễ chịu và từ những cử chỉ hay lời nói của họ đều toát lên sự thanh thoát, hiền dịu. Ở gần những người này, mình không bao giờ thấy sợ hãi vì không bị la mắng, không bị kỳ thị hay không bị phán xét. Người điềm đạm đã có khoảng thời gian dài thực tập kham nhẫn để không la mắng người khác, không kỳ thị người khác và không phán xét người khác. Trước đây mình hay la mắng người này người kia vì người đó ăn nói hay hành động không hợp theo tiêu chuẩn của mình, và do không chịu lắng nghe nên mình có nhiều tri giác sai lầm, không biết giải thích thế nào, đành phải la rầy để khỏa lấp cơn tức giận bên trong. Trước đây mình hay kỳ thị do mình có tâm phân biệt, không thấy được sự tương tức giữa người này và người kia, không biết quán chiếu và nhìn sâu về cái này có vì cái kia có, về tính thênh thang của tự thân. Trước đây mình hay phán xét do mình chấp vào mình, vào cái tôi không thực có. Giờ đây, thực tập kham nhẫn, mình dừng lại cái tham trong việc muốn tỏ ra bề trên, muốn làm cây cao bóng cả, hay muốn là người giỏi trong thiên hạ. Dừng lại sự la mắng để có thì giờ lắng nghe người kia, hiểu và thương được những hạnh phúc và khổ đau của người đó. Dừng lại sự kỳ thị để thấy ta với người tuy hai mà một, người có những hạnh phúc và khổ đau, mình cũng có những hạnh phúc và khổ đau, nên mình thương mình thì cũng biết thương người. Dừng lại những phán xét để tâm bớt đi sự khuynh động, vượt những ngã mạn và kiêu căng, để cho sự khiêm nhường có chỗ mà biểu hiện, đơn giản là khi không phán xét ai thì bản thân cũng không bị phán xét.

Phật thường xuyên nhắc nhở người tu thường xuyên thực tập bố thí. Trong hằng hà sa số kiếp quá khứ, chính Phật đã thực hành bố thí không biết bao nhiêu mà kể, làm duyên cho việc thành đạo trong kiếp chót của người. Bố thí bình an còn gọi là vô úy thí, bố thí sự không sợ hãi, bố thí sự vững chãi. Không sợ hãi không mang hàm ý sợ một đối tượng nào đó ở bên ngoài, mà chính là làm vắng lặng sự yếu đuối từ bên trong. Do tâm yếu đuối nên vẽ ra đủ thứ vọng tưởng, chính vọng tưởng làm mình sợ hãi. Nhìn sợi dây tưởng là con rắn, mình sợ cái tưởng này. Nhìn bóng cây chuối hắt vào tường tưởng là có ma, mình sợ cái tưởng này. Nhìn người kia đang nói này nói nọ để làm mình giận, mình tưởng người đó đang có ý đồ hãm hại, mình sợ cái tưởng này.

Người ta khổ vì vọng tưởng, thờ tượng chủ nghĩa và ý thức hệ. Vọng tưởng khiến mình thất điên bát đảo, nên mình không bình an mà thay vào đó lấp đầy những nỗi sợ nhỏ bé hoặc to lớn. Kham nhẫn trong sự sợ hãi để biết buông xả, lìa bỏ những vọng tưởng để trở nên bình an. Bình an có thể nói là vắng bặt những vọng tưởng hay Niết Bàn là tắt ngấm những ý niệm. Còn vọng tưởng thì còn điên đảo và còn ý niệm thì còn trôi lăn trong những cõi không phải là Niết Bàn. Khi bình an lên ngôi, mình thực sự vững chãi như một ngọn núi, tức là mình có tính ổn định, không dời đổi, không sợ hãi trước những biến cố của hoàn cảnh. Cứu khổ chẳng qua là cứu lấy sự bình an của mình, nó đã bị vọng tưởng che mờ. Lau sạch các bụi mờ của vọng tưởng, bình an sẽ sáng trong.  Mình có ý niệm về sự tấn công của con rắn. Nói tới rắn là đã mường tượng về cái sợ, nói chi là tiếp xúc hay chạm phải con rắn. Nỗi sợ này đeo đẳng nên nhìn thấy cái gì dài dài, ngoằn nghèo là bị cho là con rắn hết, nó trở thành phản xạ, sợ hãi thành phản xạ. Nhắc tới rắn thì phản xạ bật ra liền, đó là sợ hãi nhảy ra liền. Hồi nhỏ, mình không ngoan thì bị dọa là sẽ bị ông kẹ bắt hoặc bị ma bắt. Hình ảnh ông kẹ hay con ma nó được vẽ ra trong đầu rất ghê gớm và ác độc. Hình ảnh đó khắc sâu vào tâm thức rồi bật ra khi hoàn cảnh thuận lợi. Người ở nhà một mình thì sợ ma do yếu bóng vía. Nhưng yếu bóng vía đây chính là do tưởng tượng đủ thứ, tâm không yên nên tâm trôi lăn trong thế giới tưởng tượng. Tưởng tượng để sáng tạo ra cái hay thì không nói làm gì, đằng này tưởng tượng để tạo ra nỗi sợ hãi. Như có người sợ hãi chuyện không đâu, chẳng hạn sợ hãi chuyện trời sập. Dập tắt vọng tưởng thì mình bình an, dập tắt sợ hãi thì bình an hiện tiền.

Người quán bình an dập tắt sợ hãi gọi là Bồ Tát Quán Bình An. Nếu đi đến những nơi yên tĩnh như làng quê, núi đồi hay khu rừng, mình thấy bình an lắm. Đơn giản những hoàn cảnh này bản chất rất bình an và chúng đang hiến tặng bình an cho nhân loại. Chúng đang là hiện thân của Bồ tát Bình an. Thế thì hãy tự hỏi mình đã có mặt một cách bình an cho làng quê, cho núi đồi, cho khu rừng hay chưa. Hay là mình gieo rắc sự sợ hãi cho các đối tượng này, như làm ô nhiễm làng quê, phá núi đồi để khai hoang hay chặt cây làm hại muôn thú. Mọi thứ đều bình an và đang có mặt cho mình, mình phải biết bình an và có mặt cho mọi thứ. Biển Đông đang bình an, mình làm đủ thứ trò để biển Đông dậy sóng nên biển Đông quật lại mình bằng bão tố phong ba. Không cần phải làm gì cả, không cần pha trò, không cần lên kế hoạch khai thác hay phòng thủ, biển Đông sẽ lặn sóng. Biển Đông dậy sóng không phải do biển Đông, mà do những sợ hãi về biển Đông gây nên, sợ mất chủ quyền, sợ mất tài nguyên, sợ mất quyền lợi, sợ bị chỉ trích, sợ bị chê bai. Những nỗi sợ lấp đầy châu thân và mình phản ứng theo kiểu sợ hãi. Hiến tặng bình an thì không phải làm gì cả.

Trong truyện dân gian Việt Nam, hình ảnh ông Bụt hiện ra cứu giúp người đau khổ vì ông là hiện thân cho bình an. Cô Tấm có đau khổ vì bản thân cô Tấm có vọng tưởng về sự cực khổ khi bị mẹ ghẻ em ghẻ hành hạ. Mẹ con Cám có đau khổ vì bản thân họ có vọng tưởng về hơn thua, về tranh giành, về muốn chứng minh là bề trên. Việc Bụt hiện ra giúp đỡ các phương tiện vật chất để vượt qua khổ nạn mang tính chất tạm thời nếu bản thân người trong cuộc không biết thực tập bình an. Cô Tấm sau những ngày thay hình đổi dạng được hưởng an lạc là do bản thân cô biết thực tập bình an, chấm dứt sợ hãi.

Bài tập thứ chín là kham nhẫn với những lời thị phi. Lời thị phi có trăm đường lắc léo, biến hóa như pháo bông nên kẹt vào đó thì sẽ khổ thôi, không thoát ra được. Đức Phật bị thị phi không biết bao nhiêu lần nhưng người vẫn im lặng vì không ai đủ sức khỏe hay thì giờ nói lời thị phi 300 năm hay ngàn năm, đến lúc nào đó lời thị phi sẽ im bặt. Hạng phàm phu tâm vẫn còn phân biệt và chấp trước nên không thấy sự bình đẳng giữa chúng sinh nên vẫn còn khổ đau. Lời thị phi do tâm bị dằng xé, hoang tưởng và đầy dẫy tri giác sai lầm, tình thương rất nhỏ bé và bị đục khoét bởi tham lam và sân hận. Tiếng thị phi thường chỉ dám nói sau lưng, hiếm khi nói trước mặt, cũng có nhưng ít lắm, vì e ngại đối diện với sự thật. Đây cũng là tâm trạng sợ hãi, sợ hãi bị dồn nén, bức bách quá không biết làm sao, đành nói sau lưng người khác để khỏa lấp sự trống trải trong sợ hãi thua kém hay không thể giải thích trực tiếp. Kham nhẫn với tiếng thị phi để xem mình đã làm gì sai để người đó nói những lời như vậy, thay đổi và sửa chữa bản thân nếu như người đó nói đúng, cho nên tiếng thị phi nhiều khi giúp mình thay đổi. Còn nếu tiếng thị phi không đúng thì mình biết người đó đang hiểu lầm mình, nếu người đó biết lắng nghe thì mình chia sẻ, bằng không thì chỉ nên im lặng và thực tập rải tâm từ đến người đó. Đây cũng là bài học, chỉ nên nhìn lỗi mình hơn nhìn lỗi người, chỉ nên phán xét mình hơn phán xét người. Nhận ra lỗi và thay đổi thì mình sẽ tiến bộ. Nhìn lỗi người khác có thể giúp được người nhưng bản thân vẫn nghèo đói trong sự thay đổi, mình chẳng tiến bộ tí nào.

Có câu, Trời bão giông vẫn giữ tấm lòng son. Tấm lòng son là sự vững chãi trước tiếng đời, người khen kẻ chê. Tiếng khen chê chẳng qua chỉ là sự thăng trầm của thế cuộc, nên kham nhẫn với tiếng khen chê, mình giữ được tấm lòng son. Trong bài hát của Cao Văn Lầu, bài Dạ Cổ Hoài Lang, có đoạn, Đường dù xa ong bướm – Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang – Đêm luống trong tin nhạn – Ngày mỏi mòn như đá vọng phu… Người vợ ở nhà chỉ mong chồng đi chinh chiến giữ cho được nghĩa tào khang. Người đàn ông xa gia đình, ra chiến trận, rất dễ xiêu lòng ong bướm trên dặm đường trường. Nếu giữ được tấm lòng son, tức là giữ được nghĩa tào khang, một dạ thủy chung, một dạ sắc son, đó mới là kham nhẫn với sự lả lơi của sắc dục. Cũng vậy, tiếng thị phi, lời ra nói vào nhiều khi còn gây tổn thương nhiều hơn lấy con dao đâm vào cơ thể. Thà dùng súng bắn một cái, chết nhanh vậy mà khỏe, còn hơn trì triết người khác theo kiểu của Hoạn Thư. Người có máu ghen gọi máu Hoạn Thư vì Hoạn Thư ghen dễ sợ lắm. Nàng Kiều ngồi đánh đàn cho Thúc Sinh nghe, Hoạn Thư ngồi kế bên nói những lời mà khó có người nhẫn được. Nàng Kiều thân phận kẻ đến sau, không biết nói, chỉ biết ngồi hát trong nước mắt, cái tổn thương bên trong không thể xóa nhòa bởi những giọt nước mắt cho thân phận của nàng.

Người nói tiếng thị phi gây thương tổn cho người khác phạm trọng tội rất nặng, kiếp sau hoặc trong kiếp hiện tại phải gánh nghiệp báo không thể lường trước được. Biết rõ nhân quả nghiệp báo, mình không bao giờ phạm sai lầm như thế. Bản thân thực tập kham nhẫn đã đành, còn phải thực tập không nói tiếng thị phi.

Có người thích chửi thề và đam mê chửi thề, thậm chí chửi có vần có điệu, nhằm hạ gục người khác cho hả hê. Nhưng sau tiếng chửi đó, họ có hạnh phúc hay không, hay chỉ còn lại sự mệt mỏi và chán chường. Với người thường hay chửi thề, để không rơi vào tình trạng buồn khổ, mình nên thực tập thái độ như sau: người này không ai dạy dỗ nói lời ái ngữ, nói lời dễ thương, nói lời êm đềm nên chỉ biết nói lời ác ngữ, mình thông cảm bỏ qua cho người này; người này sống trong hoàn cảnh chửi thề, ai cũng chửi thề nên bị lây nhiễm, xem tiếng chửi thề là chuyện bình thường, mình thông cảm bỏ qua cho người này; người này thiếu vốn từ nên đang nói giữa chừng không biết sử dụng từ ngữ nào đành dùng tiếng chửi thề để hoàn thành câu, mình thông cảm bỏ qua cho người này. Thường xuyên sử dụng hoàn cảnh và khả năng của một người để quán chiếu tại sao người hành xử không được bình thường để hiểu và thương được người. Lời ác ngữ như tiếng chửi thề vậy, có thể nhẹ nhàng, có thể mạnh bạo, nhưng với tâm dễ thương, có đủ chất kháng sinh, thì âm thanh bão giông cách mấy cũng giống như tiếng gió rì rào thổi qua đám lá me, trở thành âm thanh vi diệu. Âm thanh này có thể là pháp âm đấy, nó nhắc mình thực tập kham nhẫn đi thôi.

Có hai vợ chồng xung đột với nhau, thường đem những chuyện cũ ra nhắc lại, nên chuyện xung đột hiện tại nhỏ nhưng bị xé ra to. Xung đột vợ chồng có một số nguyên nhân cơ bản như khác biệt về tính cách, sở thích, quan điểm. Thiếu tôn trọng, chấp nhận và lắng nghe nhau nên xung đột rất dễ xảy ra. Người đàn ông thường có sĩ diện lớn hơn, nên những xung đột có thể do không kiềm chế bản thân, bị cơn giận làm chủ. Kham nhẫn với sĩ diện, nhất là những lời nói có thể gây tổn thương, mình tự chủ trước đòi hỏi về sự lấn lướt với người chồng hay người vợ. Cố chấp trong lời ăn tiếng nói có thể làm cho việc hiểu nhau càng thêm xa vời nên khó tìm kiếm điểm tương đồng. Vợ chồng thảo luận để thấu hiểu quan điểm của nhau, nên lựa lời nói để không bị rơi vào tranh cãi, dẫn đến to tiếng, và nói lời ăn thua. Nhiều người đi ra ngoài, ăn nói với người ngoài rất nhỏ nhẹ, nhưng khi về nhà hết sức nghiêm khắc với vợ con, thậm chí la rầy rất thậm tệ. Người thương không đáng phải bị như vậy. Người thương cần được đối xử tốt hơn, lời nói nhẹ nhàng, biết lắng nghe, biết chia sẻ, tôn trọng vị trí của nhau thì xung đột sẽ không có xảy ra. Vấn đề không phải là giải quyết xung đột thế nào, mà vấn đề là cả hai vợ chồng đều thực tập để những xung đột đều không có cơ hội phát khởi.

Bài tập thứ mười là kham nhẫn với bệnh tật, với những khổ đau đang ăn vào trong cơ thể. Thân này sinh ra là phải bệnh, dù bệnh nặng hay bệnh nhẹ. Bệnh nhẹ dễ trị, bệnh nặng khó trị, có thể do thiếu thốn tài chính hoặc chưa có thuốc chữa. Cái bệnh nó làm hại cái tâm như buồn bã, thất vọng, chán đời. Bệnh là quả của nghiệp do có tâm bất thiện, hành động bất thiện hay ăn nói bất thiện trong quá khứ hay kiếp trước. Kham nhẫn với bệnh là kham nhẫn với nghiệp của mình. Thế giới có quá nhiều bệnh tật, cũng là do cách chúng sinh ăn ở mà ra. Chúng sinh phiền não nên bệnh cứ thế phát sinh và phiền não là một thứ bệnh. Có ai bệnh mà không phiền não. Điều đầu tiên mà bệnh mang lại chính là phiền não, như lo tiền bạc, lo thuốc thang, lo chữa trị. Bệnh có hai dạng: bệnh thân và bệnh tâm, nhưng đa phần thân bệnh do tâm bệnh mang lại. Tâm bị bệnh kéo theo tâm bệnh vì tâm tạo nghiệp kéo theo thân tạo nghiệp. Đứa nhỏ muốn ăn kẹo nên tìm kẹo để ăn, ba mẹ cho bao nhiêu tiền đều ra tiệm tạp hóa mua kẹo. Vài năm sau, đứa nhỏ bệnh sâu răng, nhức quá nên than khóc với ba mẹ nó. Tâm muốn ăn kẹo nên đẩy thân đi tìm kẹo và thân nhai kẹo. Thân bệnh âu cũng là do tâm tham muốn mang lại. Tâm tham là thứ tâm bệnh, vì tham nên muốn thân sung sướng, không ngờ cái sung sướng đó gây ra bệnh.

Ví dụ khác, anh chàng kia thích ăn tiết canh nên cứ cuối tuần là ra quán tiết canh ngồi ăn, nhưng chỗ bán làm món ăn không vệ sinh, nên anh thỉnh thoảng bị tiêu chảy cấp. Tâm tham ăn khiến anh bệnh, vì bạ đâu ăn đó, ăn món không hợp vệ sinh. Lúc bệnh rất khó tu vì đau đớn, một câu niệm Phật cũng khó, một hơi thở theo dõi cũng khó, nên nếu niệm Phật được, tập thiền được là biết kham nhẫn với bệnh. Xem bệnh tật là chuyện bình thường vì nhờ có bệnh tật mới biết trân quý sức khỏe. Không biết trân quý sức khỏe sẽ làm hao tổn cái thân này, đi vào thế giới ăn chơi, làm tàn hại thân, biến thân thành cái ổ chứa sâu bệnh. Người nghiện rượu gọi là sâu rượu, người nghiện thuốc gọi là sâu thuốc, người bệnh hoài có thể gọi là sâu bệnh. Có người cả đời bị bệnh, phải biết là nghiệp nặng quá. Thực tập sám hối rất hay, nhiều khi chuyển được nghiệp, bệnh tình vì thế mà thuyên giảm. Sám hối để biết thương căn bệnh, ôm lấy cái nghiệp và chuyển hóa chúng thành ra khỏe mạnh, chẳng bao lâu sẽ lành bệnh. Đừng có giận bệnh hay ngồi than thở vì bệnh, sự than thở làm bệnh nặng thêm và càng khó chữa trị. Khi bệnh hãy tìm phương thuốc chữa bệnh, đi bác sĩ khám, đi bệnh viện theo dõi, đồng thời phải biết sám hối, biết tu tập để nghiệp thiện phát khởi, lấn át nghiệp xấu, chuyển hóa nghiệp xấu đi và rồi lành bệnh. Tu tập hay vậy đó.

Thân này sinh ra đã mang mầm mống của bệnh tật do thân bất tịnh vì bất tịnh nên bệnh. Kham nhẫn với bệnh tật là chấp nhận tính bất tịnh của thân và khi kham nhẫn được, thân trở nên tịnh hơn. Thân không hẳn là bất tịnh 100%, có thể do mình có ý niệm về bất tịnh nên thấy nó bất tịnh. Quán thân bất tịnh để không quá chiều chuộng và dính mắc vào cái thân, nên quán thân tịnh để diệt trừ ý niệm thân bất tịnh. Có thể nói tịnh trong bất tịnh và bất tịnh trong tịnh. Nếu cho tâm an cảnh sẽ an thì tâm tịnh thân sẽ tịnh. Quán thân bất tịnh để diệt trừ ái dục liên quan đến cái thân thì quán thân tịnh để biết gìn giữ cái thân. Bệnh tật cũng có cái an của riêng nó. Với tâm an thì bệnh tật khó trị, cái thân vẫn an được.

Thân này chịu sự vận hành của đất, nước, lửa và gió, nên nếu chúng vận hành bất thường, thân sẽ bệnh. Cơ thể đau nhức do đất vận hành quá mức, nước vận hành quá mức, sức nóng vận hành quá mức hay gió vận hành quá mức. Bệnh không có cái ta riêng biệt do mình không thể điều khiển căn bệnh, nhưng bệnh sinh do tác động của nghiệp, muốn chuyển hóa bệnh phải chuyển hóa nghiệp. Cách hay nhất để chuyển hóa nghiệp là tu, là sám hối, là làm phước, là niệm Phật, là ngồi thiền, là giữ giới. Thân người ắt có bệnh nên kham nhẫn với bệnh là kham nhẫn với nghiệp, biết rằng nghiệp do mình tạo trong hiện tại hay trong đời quá khứ. Thương mình là thương lấy nghiệp, thương lấy cái bệnh, thương được rồi tâm sẽ an, bệnh vẫn còn đó nhưng do tâm an nên bệnh tình phần nào thuyên giảm. Hãy làm cho bệnh được thuyên giảm.

Thân vô thường nên bệnh cũng vô thường. Bệnh đến thì bệnh cũng sẽ đi, vấn đề là có biết cách trị bệnh hay không. Mình tu tâm thì cũng phải tu thân. Tâm vô thường, thân cũng vô thường, biến chuyển không ngừng. Vừa mới được sinh ra, thân này đã chết rồi, chết ở đây là đang chết. Nói ngày tận thế của địa cầu thật ra không có ngày nào là ngày tận thế, thực tế ngày tận thế đang diễn ra, từng ngày từng giờ. Thân đang sinh ra và cũng đang diệt nên có chi gọi là diệt diệt sinh sinh. Ngày mình cho là ngày sinh nhật thực chất là ngày đang chết đi nên cái ngày mình mừng sinh nhật là ngày mình mừng đám giỗ của mình. Hạnh phúc là được sinh ra và được mất đi nên mừng sinh nhật thì cũng phải mừng đám giỗ.

Tôi có anh học trò khoảng 28 tuổi, cao lớn và đẹp trai, giọng nói rất khỏe, nhưng có tính hay uống bia, còn trẻ nhưng bị bệnh xơ gan. Vài tháng sau, gặp lại anh, tôi thấy anh ốm nhom, gương mặt gần như mất hết thần sắc, một tháng sau thì anh mất. Tuổi đời còn trẻ mà ra đi thì uổng lắm, nhưng duyên đời này hết rồi, có muốn cũng không thể ở lại, nhưng nhiều khi cái chết của anh lại giúp cho anh có sự tiếp nối khỏe mạnh hơn, không phải chịu đau đớn của bệnh tật. Bệnh không diễn ra muôn kiếp, có lúc nào đó cũng phải dừng lại, đơn giản vì bệnh rất vô thường. Tôi là một ông thầy già còn sống nhăn trong khi học trò trẻ tuổi ra đi, mới thấy vô thường không chừa một ai, có đó rồi mất đó, như giọt sương chợt còn chợt mất, như làn khói tan biến dưới ánh bình minh. Tôi cũng có đứa học trò khác, do bất cẩn nên bị phỏng. Tưởng chừng sẽ không thể gặp lại cậu học trò này nữa, không ngờ gặp lại cậu vài tháng sau với vẻ mặt tươi tắn và khỏe mạnh. Bệnh phỏng của cậu đã được chữa khỏi, cái đau đã qua đi và từ đó cậu có bài học là phải cẩn thận khi tiếp xúc với nước nóng hay các vật thể nóng. Cậu biết trân quý sức khỏe và lên kế hoạch thực hiện các phương pháp giữ gìn sức khỏe. Kham nhẫn với bệnh tật, cho bệnh tật có cơ hội được chuyển hóa, người bệnh trở thành người khỏe. Khi khỏe rồi, phải biết kham nhẫn với sự khỏe mạnh, tức là đừng để cho những mầm mống gây bệnh phát sinh, ngược lại tạo cho mình chất kháng thể diệt tận gốc căn bệnh. Đây gọi là biết thương mình.

Bài tập thứ mười một là kham nhẫn với những rủi ro, rủi ro cách mấy cũng không màng, nhành cam lộ rưới tan tất cả. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bất cứ địa điểm nào. Đi trên đường có những rủi ro trên đường, ở nhà có những rủi ro trong nhà, công việc có những rủi ro trong công việc. Phòng ngừa rủi ro để rủi ro không có cơ hội xảy ra, khi rủi ro xảy ra, mình biết cách giảm thiểu thiệt hại. Muốn làm được vậy phải học về những rủi ro và giữ bình tĩnh khi rủi ro xảy ra. Biết trân quý rủi ro như trân quý khổ đau vậy, vì nhờ rủi ro mình biết những giây phút thuận buồm xuôi gió trong cuộc sống rất đáng giá. Động đất và sóng thần ở Nhật Bản là một ví dụ về rủi ro khó có thể lường trước được, nhưng các rủi ro này được biết đến như thiên tai. Kham nhẫn với thiên tai để thấy mọi chuyện đều có thể xảy ra.

Rủi ro ở Nhật Bản vẫn có thể ảnh hưởng đến Việt Nam và toàn cầu. Sóng thần làm hư hại nhà máy điện nguyên tử và chất phóng xạ phát tán vào không gian, toàn cầu có thể bị ảnh hưởng. Các nhà máy ngưng trệ sản xuất khiến các công ty cung cấp sản phẩm phụ trợ ở các nước trên thế giới không bán được hàng hay hàng hóa từ các nhà máy này không đến tay người tiêu dùng ở nước khác, tức là nguồn cung bị ảnh hưởng và giá cả vì thế leo thang. Nhật Bản bị động đất nhưng nhiều nước cũng chịu sự tác động. Giống như nỗi khổ của người kia tưởng chừng không có liên quan gì đến mình, nhưng thật ra nó có tác động, không ít thì nhiều. Kham nhẫn trong tình trạng của rủi ro sẻ không bị rủi ro bức bách mà chết, cái chết này là sự kiệt quệ trong tinh thần. Kham nhẫn trở thành nhành cam lộ làm xóa tan những rủi ro và các hệ lụy của nó.

Giữ giới là cách quản trị rủi ro hay nhất. Giới như bức tường lửa giữa đau khổ và hạnh phúc, nó ngăn cách giữa tự do và mất tự do. Giới không phải là sự ràng buộc mà bảo vệ tự do, cho tự do rỡ ràng nhất. Nguyện suốt đời giữ giới để không gây oan trái với bất cứ ai. Có oan trái thì phải chuyển, có nội kết là phải giải, đừng bao giờ để bất kỳ những hậu quả nào của rủi ro nó còn tồn tại từ đời này sang đời khác. Giữ giới bảo vệ sinh mạng là bảo vệ bản thân khỏi rủi ro bị tai nạn hay sự bức hại về sinh mạng. Giết một sinh mạng không chỉ trả một kiếp mà phải trả hằng hà sa số kiếp. Giữ giới tôn trọng quyền tư hữu là bảo vệ bản thân khỏi rủi ro nghèo đói và bần cùng hay sự mất mát về của cải vật chất. Người tạo nghiệp trộm cắp chắc chắn khó có thể có cuộc sống ấm no và hạnh phúc, dù cho có thể sống qua ngày nhưng tinh thần sẽ trở nên bệ rạc và cắn rứt.  Giữ giới bảo vệ tiết hạnh là bảo vệ bản thân khỏi rủi ro về đau khổ vì tan nát gia đình hay những căn bệnh xã hội đang rình rập. Người không chung thủy có nhiều cái lo, một gia đình không lo nổi thì làm sau lo nổi hai gia đình. Dân gian có câu, Một vợ nằm giường leo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ xuống chuồng heo mà nằm. Câu này quả không sai vì mấy ai thực sự hạnh phúc khi không biết chung thủy. Giữ giới tôn trọng sự thật là bảo vệ bản thân khỏi rủi ro của lừa dối, của hiểu nhầm, của tri giác sai lầm. Người nói dối dù nhỏ nhưng nhiều lần sẽ trở thành nói dối to, như giọt nước cứ nhỏ giọt xuống cái bình, đến lúc nào đó sẽ tràn bình. Giữ giới bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm là bảo vệ bản thân khỏi rủi ro tàn hại sức khỏe về thân và tâm. Sức khỏe là hao tổn do cách tiêu thụ không lành mạnh nên tiêu thụ lành mạnh là biết giữ giới, biết bảo vệ sức khỏe. Có sức khỏe là có tự do đấy và giữ giới là giữ tự do của mình. Hãy phát nguyện như sau, con nguyện không kết oan trái với bất cứ chúng sinh nào, là để tránh và chấm dứt các rủi ro do oan trái gây ra; con nguyện giữ tâm không thù hận, là để tránh và chấm dứt các rủi ro do thù hận gây ra; con nguyện giữ tâm không khổ não, là để tránh và chấm dứt các rủi ro do bệnh tật và phiền não; con nguyện giữ gìn thân tâm thường an lạc, là để tránh và chấm dứt các rủi ro về đau khổ và trôi lăn trong các pháp thế gian.

Thông thường mình có xu hướng giải quyết rủi ro hơn phòng ngừa rủi ro. Khi bị đau bụng, mình xức dầu, tìm thuốc uống và đau bụng là một rủi ro. Tuy nhiên, để tránh bị đau bụng, mình nên lựa chọn thức ăn và thức uống sạch sẽ, đồng thời biết chế biến thức ăn một cách có vệ sinh. Cũng vậy, khi gặp quả báo, mình tìm cách chuyển hóa quả báo hơn là phòng ngừa quả báo. Dẫu biết rằng quả báo dù thiện hay bất thiện có thể phát sinh do đã từng gieo nhân thiện hay nhân bất thiện, nhưng chúng sinh châm mẫm vào quả báo mà quên việc quán soi quả báo trong suy nghĩ, hành động và lời nói. Cho nên có câu, Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả, đơn thuần Bồ tát biết phòng ngừa quả báo bằng cách không gieo nhân bất thiện, còn chúng sinh thì bừa bãi trong việc gieo nhân nên khi quả báo trổ ra mới lo sám hối, lo chạy tứ tung làm phước, lo cầu cạnh đủ thứ, cái này gọi là nước đến chân mới nhảy, thậm chí nước tràn qua chân, tới hông và ngập tới cổ, vẫn chưa chịu nhảy. Đức Phật ngày xưa lấy đất từ móng tay và nói với các thầy Tỳ kheo rằng, đất từ móng tay rất ít so với đất từ cánh đồng, chúng sinh cũng vậy, chúng sinh tái sinh trở lại làm người ít ỏi so với chúng sinh đang được nhìn thấy. Điều này minh chứng cho chúng sinh gây nghiệp bất thiện rất nhiều, nên quay lại làm người không được bao nhiêu. Làm người là một việc hi hữu, muốn làm người phải gieo phước thiện lớn trong nhiều kiếp nên gieo nhân thiện, biết giữ giới thì rủi ro tái sinh vào cảnh khổ sẽ không có.  Tuy vậy, làm thân người thì rủi ro vẫn còn, mặc dù vẫn đỡ hơn với cảnh ngạ quỉ, cảnh súc sinh và cảnh địa ngục. Thân người sinh ra ắt có rủi ro bệnh, ắt có rủi ro già và ắt có rủi ro chết. Muốn thoát khỏi các rủi ro này, phải tu và tu cho đến khi giải thoát. Thực tập thiền quán về thân bất tịnh, về các pháp trược về thân nên thân không kẹt vào sức khỏe hay bệnh tật. Thực tập thiền quán về thân già đi do các tế bào đang chết dần nên không kẹt vào tính vô thường của thân. Thực tập thiền quán về sự ra đi của thân như là tứ đại tan rã nên không kẹt vào tứ đại, buông bỏ thân như buông bỏ tứ đại. Không kẹt vào thân nữa thì các rủi ro về thân sẽ tan nát như vi trần.

Có anh sinh viên từ tỉnh lên thành phố học, anh thuê căn phòng nhỏ làm nơi trú thân. Trước đây ở với ba mẹ, anh không phải lo gì cả, bây giờ tự lập phải thuê phòng ở, anh phải lo cho cái phòng của mình. Buổi sáng đi học, buổi trưa đi làm kiếm tiền để trả tiền phòng. Sau này mua được căn nhà, anh phải lo cho cái nhà. Cái nhà lớn hơn cái phòng nên chuyện lo nhiều hơn. Nào tiền thuế đất, nào sửa sang nhà cửa, nào lo điện, lo nước, nào canh phòng trộm, nào việc lên xuống giá nhà. Có cái nhỏ thì lo nhỏ, có cái lớn thì lo lớn, cuộc sống không thấy thảnh thơi nên lo nhiều quá. Mấy cái lo này là chưa tính đến lo về rủi ro động đất, nếu nhà cạnh biển thì lo về sóng thần, nếu nhà trong khu đông đúc thì lo hỏa hoạn, nếu sống trong quốc gia bất ổn về chính trị thì lo về bom đạn, lo về hiểm họa chiến tranh. Cái nhà giống như cái thân, nhà được xây lên như thân được sinh ra, thỉnh thoảng nhà phải sửa chữa như thân bị bệnh, vài chục năm sau nhà cũ kỹ đi phải xây dựng lại như thân này già cỗi, đến lúc nào đó cái nhà sụp đổ trở về với cát bụi như thân này tan rã theo tứ đại. Không có nhà thì đâu phải lo gì như không có thân thì cần gì lo về già chết của thân. Có nhà nhưng không kẹt vào ngôi nhà, không cho ngôi nhà là điều kiện của hạnh phúc, rủi ro về nhà không có, có nhà nhưng không kẹt vào sự suy tàn của nhà thì ý niệm về rủi ro về nhà không còn, mọi khổ đau về nhà sẽ tan nát như vi trần. Có thân, biết bảo vệ gìn giữ thân nhưng không kẹt vào thân, không cho thân này là điều kiện của hạnh phúc nên không cung phụng thân quá mức, rủi ro về thân không có, có thân nhưng không kẹt vào sự suy tàn của thân thì ý niệm về rủi ro của thân không còn, mọi khổ đau về thân sẽ tan nát như vi trần.

Bài tập thứ mười hai là kham nhẫn với thời tiết thất thường và sự tấn công của các loài sinh vật. Thời tiết thay đổi với sự nóng lên của địa cầu, băng tan ở Bắc Cực, nước biển dâng cao, vấn đề cháy rừng, nơi nóng thì nóng hơn, nơi lạnh thì lạnh hơn. Thời tiết thay đổi ảnh hưởng lớn đời sống của loài người, trồng trọt khó khăn và bệnh tật phát sinh thêm. Loài gấu trắng ở Bắc Cực có nguy cơ tuyệt chủng vì thiếu thức ăn và có thể ăn thịt lẫn nhau. Chúng không thể di cư đến vùng nhiệt đới không có băng tuyết hay sống chung với loài người vì khó có thể thuần chủng. Thời tiết nóng bức, tính tình có thể trở nên cáu gắt và thay đổi. Thời tiết quá lạnh, tính tình có thể trở nên trầm cảm và thay đổi. Kham nhẫn với thời tiết là kham nhẫn với hoàn cảnh, bình tĩnh trước sự thất thường của thời tiết giúp cho tính tình không biến chuyển theo thời tiết. Ngày xưa thời đức Phật, người sống trong rừng sâu hoặc đi qua những vùng đất hoang sơ, thời tiết nóng bức và khắc nghiệt, nếu không kham nhẫn với thời tiết, ắt hẳn người đã từ bỏ con đường tu học của mình. Trong rừng sâu, ngoài thời tiết còn có sự rình rập tấn công của các loài sinh vật. Loài vật tấn công mình vì chúng tưởng mình đang tấn công chúng nên chúng phản ứng trước hoặc mình có thể là thức ăn của chúng. Nếu không bị hùm beo, sư tử tấn công thì cũng bị các sinh vật nhỏ bé tấn công. Nếu không có chất kháng thể hay thuốc men hỗ trợ, con người chắc chắn là mồi ngon cho các sinh vật nhỏ bé. Thử xem một con bò bị xả thịt, máu tươi chảy ra, hàng hà sa số loài sinh vật gần đó đổ ùa tới để hút những chất bổ béo trong máu bò. Mình cũng vậy, khi bị đổ máu, các loài vi khuẩn vi trùng đã ùa tới ra sức mà hút lấy những chất tươi tốt trong máu mình, nhưng do máu có thể tự đông lại nên cơ hội vi khuẩn xâm nhập cơ thể không nhiều.

Đức Phật dạy đệ tử khi hành thiền trong rừng sâu, nên rải tâm từ cho các loài rắn và các loài sinh vật khác, nhờ vào phước báu này, chúng sẽ cảm thấy mát mẻ và không tấn công mình. Các loài sinh vật tấn công là kết quả của nghiệp, muốn giải nghiệp phải tu, phải hồi hướng phước báu, phải rải tâm từ. Một người đang bệnh là bị sinh vật tấn công, trong đó bao gồm các vi trùng và vi khuẩn. Nếu uống thuốc kháng sinh hay thuốc khác chẳng khác nào giết chết các loài sinh vật này, tức là có thể phạm giới sát sinh, cho nên người tu khi uống thuốc phải thực tập quán niệm. Kham nhẫn với sự tấn công của các loài sinh vật là trước hết biết bảo vệ bản thân, bảo vệ các loài sinh vật và không có tâm ý tấn công bất cứ sinh vật nào. Đi trên đường, vô tình dẫm chết nhiều loài sinh vật, nếu mình đi có chánh niệm như thiền đi chẳng hạn, việc dẫm chết này không có tội nhưng tâm từ phát khởi trong lúc thiền hành có khi lại giúp các loài sinh vật được siêu thoát.

Có người sống trong môi trường lạnh, môi trường mát mẻ hay môi trường nóng bức, âu cũng là sự cộng nghiệp của một nhóm người. Người có tính tình lạnh lùng, thờ ơ, bàng quang trước khổ đau của người khác có thể sống vào nơi có thời tiết lạnh lẽo. Người tính tình nóng nảy, ưa nổi giận và hay bực bội khó chịu thì sống trong môi trường nóng bức, ngột ngạt, chật chội. Người tính tình dễ chịu, biết kham nhẫn, biết tha thứ, bao dung thì sinh ra trong môi trường mát mẻ, thời tiết thuận lợi. Cộng nghiệp bất thiện khiến một cộng đồng gặp chung một tai nạn. Những người leo lên chuyến tàu Titanic đa số là người giàu sang nhưng tâm thì bệ rạc, lạnh lẽo nên con tàu trở thành con tàu tử thần, phải chịu chung số phận, đắm mình trong dòng nước lạnh lẽo. Những người may mắn được cứu sống do còn chút ít tâm dễ chịu và chút ít phước báu. Thật ra không có gì gọi là may mắn hay không mắn mắn. May mắn là một ý niệm. Không may mắn cũng là một ý niệm. Điều cho là may mắn chẳng qua là quả báo tốt đến kỳ phải trả và điều cho là không may mắn cũng là quả báo xấu đến kỳ phải trả. Việc chết chìm dưới làn nước lạnh lẽo của các hành khách trên tàu Titanic là sự bình đẳng và việc một số người được cứu sống cũng là sự bình đẳng. Cũng vậy, người làm nông gặp mưa thuận gió hòa vì nghiệp hợp với cảnh mưa thuận gió hòa. Người khác cũng làm nông nhưng mùa màng thất bát vì thời tiết khắc nghiệt vì nghiệp hợp với cảnh mưa không thuận gió không hòa. Không có nghiệp nào chọn mình, không có thời tiết nào chọn mình, chính mình chọn nghiệp và chính mình chọn thời tiết. Cho nên, ngồi than thân trách phận hay trách ông trời sao ngược đãi thì thật vô lý, hãy nhìn lại mình xem mình đã làm gì để thời tiết ngang trái như vậy. Có câu, tính tình thay đổi như thời tiết, là biểu hiện của sự không ổn định của con người. Kham nhẫn với thời tiết là giữ cho tâm ổn định trong sự biến đổi của hoàn cảnh, của môi trường, của sự nóng ấm toàn cầu. Ngay giây phút này, thời tiết chưa có gì bất thường xảy ra thì hãy sống thật sâu sắc, sau này thiên tai xảy ra và chẳng may mình phải ra đi thì không hối tiếc gì cả. Việc bị các loài sinh vật tấn công cũng do nghiệp mà ra. Do có oan trái, mình phải gặp loài sinh vật đó, bị nó tấn công, gây thương tích hoặc bệnh tật. Con người ăn nói lớn tiếng nhưng phải chịu đau đớn bởi sự tấn công của các loài sinh vật nhỏ bé như vi khuẩn gây bệnh, hay phải nương nhờ vào các loài vi khuẩn như vi khuẩn tiêu hóa trong ruột.  Kham nhẫn với các loài sinh vật là biết thương lấy chúng, chúng có mặt là phần tất yếu của cuộc sống, sự hài hòa của thiên nhiên, nếu bị tấn công thì biết kham nhẫn vì đó là nghiệp, thương lấy nghiệp thì thương lấy các loài sinh vật.

Ngày xưa đức Phật ở trong một cái am, trong đó có một con rắn rất to. Đức Phật nhìn thấy con rắn và bắt đầu rải tâm từ cho nó, Ta rải tâm từ cho con rắn này và các loài rắn, nguyện cho các loài sinh vật được an lành, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ thân, không có phiền não, không có sợ hãi, được hưởng các điều an vui. Một lát sau con rắn to tự bò đi nơi khác, nhường chỗ cho đức Phật ngồi thiền. Cũng vậy, mình bị muỗi, kiến, rắn, rết hay các loài động vật nguy hiểm tấn công là do mình không biết tránh. Chúng không thể tránh mình thì mình tránh chúng trước. Cách tránh hay nhất là rải tâm từ, thực tập chánh niệm và phát khởi tình thương với tất cả chúng sinh.

Khi uống nước, hãy quán niệm như sau, Uống nước phải nhớ nguồn – Năm dục quyết phải buông – Từng giọt nước cam lộ – Cứu độ các chúng sinh. Nước là nơi nương tựa của hằng hà sa số các loài sinh vật, dù mắt thường không thể nhìn thấy, dù nấu nước thật sôi, chúng vẫn hiện hữu ở đó, nên uống nước phải quán niệm, phải trân quý nguồn nước, phải trân quý sinh mạng, bằng không, uống nước giống như ăn thịt chúng sinh. Đôi lúc mình dường như dành ăn với loài kiến hay dành ở với loài kiến. Mình nấu chè, đậy điệm cẩn thận, lấy phấn quẹt xung quanh cái nồi để tránh kiến, mà đồ ngọt là thức ăn của kiến, nên không cho kiến vào nồi chè giống như giành ăn với kiến vậy. Mình xây nhà, rào chắn cẩn thận, nhưng kiến vẫn bò trên tường, trên nền nhà, mình lấy chổi quét kiến đi, không muốn thấy chúng xếp hàng nữa, giống như dành chỗ ở với kiến.

Lại nữa, có người đi vào sa mạc, miệng khát khô, từ đó quyết tâm không để cho tâm sa mạc phát khởi vì tâm  sa mạc sẽ sinh vào chốn sa mạc hay gặp hoàn cảnh sa mạc. Người này phát khởi tâm dễ chịu, tâm tha thứ và bao dung, tâm hiểu biết và thương yêu, từ đó hoàn cảnh sa mạc bị biến đổi, mưa xuống, cây cối mọc lên, ruộng lúa xanh ngát, sa mạc ngày nào nay đã hóa đồng bằng. Kham nhẫn với các loài sinh vật là biết từ tâm với chúng, chúng là biểu hiện của nghiệp, nghiệp đi theo mình, chúng cũng là mình, mình cũng là các loài sinh vật. Kham nhẫn với thời tiết để tâm không như thời tiết, thời tiết thay đổi nhưng tâm vững như núi, trái núi có thể mòn đi nhưng vẫn không đổi dời.

Bài tập thứ mười ba là kham nhẫn với đói khát, thiếu thốn hay sự thăng trầm của giàu nghèo. Người may mắn sống ở gia đình có đầy đủ thức ăn hay ở quốc gia thịnh vượng, sự đói khát hiếm khi xảy ra và nếu có sẽ được cứu trợ hay giúp đỡ bởi các hội từ thiện. Người không may mắn sinh ra trong gia đình nghèo khó hay quốc gia bị khánh kiệt, kinh tế không phát triển. Đói khát không chỉ thể hiện ở đói khát thức ăn, nước uống, quần áo, nhà ở mà còn đói khát giáo dục, giải trí, tinh thần và nhất là đói khát tình thương. Đói khát tình thương nên bơ vơ, lạc lõng, sợ hãi và đầy dẫy sự cô đơn. Cô đơn không phải là do sống một mình nên cô đơn, mà sống giữa chăn êm nệm ấm, giữa chốn đông người, giữa những mối quan hệ, nhưng vẫn cô đơn. Cái này gọi là cô đơn trong đám đông.

Kham nhẫn với đói khát để không phiền não trong sự bần cùng, nghèo khổ nhưng không đánh mất giá trị làm người, nhờ kham nhẫn mà phiền não giảm bớt và đoạn trừ. Kinh Tất Cả Lậu Hoặc, đức Phật dạy, Này các Tỳ kheo ! Có Tỳ kheo như lý giác sát, kham nhẫn lạnh nóng, đói khát, sự xúc chạm của ruồi muỗi, sức nóng của mặt trời…kham nhẫn với lời mạ lỵ, phỉ báng… Này các Tỳ kheo ! Nếu vị ấy không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên…Này các Tỳ kheo ! Các lậu hoặc này phải do kham nhẫn đoạn trừ. (11) Thật vậy, phiền não do thiếu sự kham nhẫn. Thuở xưa đức Phật đi khất thực, các làng mạc vẫn còn hoang sơ, nhà dân cách nhau rất xa mà người lại đi bộ, nên chắc chắn có ngày không xin được thức ăn, nên việc thiếu đói thế nào cũng xảy ra. Việc kham nhẫn giúp người vượt qua khó khăn của sự đói khát. Người tu ăn chay cũng phải kham nhẫn với sự thèm khát ăn thịt, trước hết là tránh không đi vào nơi có người ăn thịt và thu thúc mắt căn, mũi căn và vị căn để chánh niệm về tâm ý thèm ăn. Sự đói khát tình thương cũng vậy, do đòi hỏi tình thương từ bên ngoài, như tình yêu nam nữ, tình cảm gia đình, tình cảm bạn bè mà quên đi tình xót thương đối với bản thân, tình thương này mang tính hoàn cảnh nên cảm thấy đói khát, từ đó phiền não, một thứ phiền não về tình thương. Thực tập kham nhẫn với tình thương bằng cách thực tập tâm từ, phát khởi tình thương từ bên trong mình, trước hết là phải biết thương mình, rồi thương người thương mình, thương người chưa thương mình, thương đồng loại và thương muôn loài. Lúc này tình thương ngập tràn, mình giàu có, giàu có tình thương, sự đói khát về tình thương không còn, mình trở thành người đi ban phát tình thương chứ không phải đi cầu xin tình thương nữa. Muốn làm vậy phải biết tu, phải biết chế tác tình thương và rải tình thương đi. Đức Phật thành Phật vì biết thực tập như vậy.

Tiếp theo, kham nhẫn với sự thiếu thốn như thiếu thốn về tiện nghi vật chất và tiện nghi tinh thần. Không cần phải có chiếc máy bay, đi xe hơi vẫn ổn, không cần phải có chiếc xe hơi, đi xe máy vẫn ổn, không cần phải có chiếc xe máy, đi xe đạp vẫn ổn, không cần phải có chiếc xe đạp, đi bộ vẫn ổn. Nhu cầu quá lớn thì làm việc nhiều, kiếm không ra tiền dẫn đến thất vọng. Các phương tiện kia có thể làm hao tổn tài nguyên thiên nhiên trong khi thế giới đang kêu gọi bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Kham nhẫn với sự thiếu thốn để giảm thiểu sự tiêu thụ, nền kinh tế sẽ không kiệt sức vì phải tối ngày ngồi suy nghĩ làm thế nào để tạo ra nhu cầu mới và sản phẩm mới. Tiện nghi tinh thần như mong muốn được khen ngợi, được vinh danh, được công nhận, được tôn trọng có thể làm mình sa lầy trong chính tinh thần đang đói khát của mình. Nếu bị chê bai, bị tấn công, bị hiềm khích, bị lấn át, nhu cầu này sẽ dằn xé và người có nhu cầu này cảm thấy bị tổn thương. Tại sao một người có cung điện nguy nga và tài sản xài không hết như thái tử Siddhartta lại từ bỏ tiện nghi vật chất và tiện nghi tinh thần để ra đi tìm đường cứu chính mình. Đơn giản vì người cho rằng tất cả tiện nghi đó như huyễn, không thực có, như bông hoa sớm nở tối tàn, không có gì là bền chắc, chỉ có hạnh phúc giải thoát mới là vĩnh cữu, nên người đi tìm thứ hạnh phúc vĩnh cữu đó. Kham nhẫn với nhu cầu tiện nghi để biết cho đi những cái gọi là tiện nghi, biết buông bỏ nhu cầu ôm đồm tiện nghi. Thứ tiện nghi hay nhất là sử dụng các phương tiện để giữ giới, các phương tiện giúp kham nhẫn cho thân và tâm. Chẳng hạn, đi vào tăng đoàn để nghe giáo pháp, tu thiền và hoàn cảnh giúp giữ giới. Tăng đoàn chính là một thứ tiện nghi giúp phát triển nhu cầu tâm linh sẵn có của mỗi chúng sinh. Tiện nghi này rất lành mạnh và nó dẫn mình đi trên con đường lành mạnh, không bị nhiễm ô bởi những tiện nghi của thế gian. Tiếp theo, kham nhẫn với nhu cầu về giàu để sống vui trong cái nghèo. Người nghèo có khuynh hướng thoát nghèo nên làm việc bươn chãi để được giàu như người ta. Người giàu vẫn chưa thỏa mãn, vẫn tiếp tục bươn chãi để duy trì cái giàu. Người nghèo và người giàu đều chạy, chạy theo nhu cầu không bao giờ cạn. Người nghèo do biết làm ăn, gặp thời nên giàu lên phải biết kham nhẫn, nhớ lại hoàn cảnh nghèo trước kia và kham nhẫn với đòi hỏi tiêu xài, do trước đây không đủ khả năng tiêu xài, bây giờ dư dả nên muốn tiêu xài cho đã. Nếu biết kham nhẫn, mình dừng lại đòi hỏi muốn tiêu xài của mình, mà cân nhắc cho kỹ điều gì cần tiêu xài và điều gì không cần tiêu xài. Nếu tiêu xài vào việc làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo thì phước được giàu sẽ bền hơn, còn tiêu xài vào việc ăn chơi, làm tha hóa đạo đức thì phước giàu kia sẽ mau chóng tàn lụi. Giàu nghèo cũng là sự thăng trầm của đời sống do phước đức dư dả hay kém cỏi. Người đang giàu bỗng trở nên nghèo phải biết bằng lòng với số phận do phước hưởng nhưng không biết tạo thêm phước, nên cái nghèo tấn công trở lại.

Chấp nhận những gì mình đang có để biết sống vừa đủ. Mình phiền não vì mình không biết đủ, chỉ muốn lấp đầy, vì vậy chưa bao giờ mình thấy đủ. Bấy lâu mình chạy nhiều quá, không ngắm nhìn nổi một vầng trăng. Trăng đẹp vậy, nhưng mình không nhìn, mình thích thú trong những tòa nhà chọc trời hơn. Mẹ đang ngồi đó, mình không nhìn, để ý thức rằng trên đời này mình thật may mắn vì còn có mẹ, nhưng mình lại tìm kiếm trong những trò chơi của sắc dục, và ngày càng xa mẹ dần. Thân thể đang khỏe mạnh, đôi mắt còn sáng để ngắm nhìn em bé đang cười vui, đôi tay còn khỏe để vun trồng những hạt lúa, trái tim còn khỏe vì không đập loạn nhịp, tại sao mình không mừng vui, mà chạy đi đâu nữa.

Kham nhẫn với đòi hỏi chạy băng băng để chạy chậm lại, đi chậm lại và sống chậm lại. Chạy chậm lại để thấy vầng trăng còn có đó, mấy ngàn năm nay trăng vẫn còn hiện hữu, ngày xưa Phật ngồi thiền dưới ánh trăng, hôm nay mình không chạy, mình có thì giờ ngồi thiền dưới trăng, có khác gì Phật ngày xưa. Đi chậm lại để thấy khung cảnh xung quanh thật kì diệu, thấy mẹ đang ngồi đan áo hay đang nấu bánh chưng. Khi ở gần mẹ, mình không thấy mẹ quan trọng, đi xa rồi mới thấy nhớ mẹ, thấy mẹ quan trọng lắm. Ngoài đời biết bao bon chen, biết bao lo toan, biết bao cạnh tranh, nhưng trở về nhà, ngồi cạnh mẹ, mẹ chưa nói gì hết, mẹ chưa làm gì hết, mình đã thấy bình an rồi, vì bình an nên bao phiền não của bon chen, của lo toan, của cạnh tranh đều rơi rụng, sự sợ hãi vì thế mà theo gió bay. Sống chậm lại để thấy đời đáng sống, từng giây phút trôi đi thật mầu nhiệm, mình thấy mình là điều diệu kỳ, là tình thương chứa chan. Ngồi lại, lắng nghe mình, mình vẫn đang sống đấy chứ, mình vẫn biết yêu thương đấy chứ, mình đâu phải là gỗ đá hay cỗ máy thời gian làm việc quần quật để rồi còn lại gì, tấm thân tiều tụy hay tinh thần bệ rạc. Mình vẫn làm việc nhưng đừng làm việc như cái máy, mình vẫn giải trí nhưng đừng giải trí như cái máy. Tấm thân có thể lụi tàn nhưng tinh thần đừng kiệt quệ. Hãy học cách chậm lại.

Năm 2011, khủng hoảng nợ công ở Châu Âu diễn ra sau một thời kỳ phát triển và đứng vững lại. Vấn đề nợ công là vấn đề lớn của hầu hết các nước khi việc vay nợ quá nhiều trong khi khả năng chi trả của nền kinh tế không thể đáp ứng được. Khi kinh tế suy thoái, nợ công lại tăng vọt vì việc thu vào không đủ cho việc chi trả các khoản nợ đáo hạn. Việc huy động tiền, phát hành trái phiếu hay tăng thuế có thể đi ngược lại mục đích huy động của nó, chẳng hạn tiền được huy động để đầu tư vào các dự án, tạo công ăn việc làm cho người dân, nhưng không phải vậy, tiền huy động được sử dụng để trả nợ, nên nợ mới được tạo ra, không có giá trị kinh tế nào được làm mới giúp gia tăng giá trị tích lũy nhằm đáp ứng việc trả nợ sau này, nên nợ cũ vừa xong thì nợ mới xuất hiện, thậm chí còn cao hơn nợ cũ nhiều do áp lực lãi suất. Việc chi tiêu quá mức do đòi hỏi của dân chúng, yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng và các vấn đề khác phát sinh việc chi tiêu, như chi tiêu quốc phòng chẳng hạn, khiến cho các chính phủ đau đầu. Do thời gian dài buông thả trong chi tiêu, bây giờ phải thắt lưng buộc bụng, thói quen này chắc chắn khó hình thành trong xã hội thích thoải mái tiêu xài. Vì vậy, bất ổn về xã hội chắc chắn xảy ra và người ta đang tìm cách để chống chế, để vực dậy nền kinh tế và cố làm cho nền kinh tế bớt kiệt quệ hơn. Kham nhẫn với chi tiêu thì sẽ không phải bị mắc nợ nhiều như vậy, không ngồi bàn bạc nên trả nợ thế nào và giải quyết khủng hoảng thế nào. Mình thường quan tâm đến việc giải quyết hơn là phòng ngừa. Nếu chi tiêu cẩn thận, cân nhắc kỹ trong việc vay nợ thì đâu có mất thì giờ rơi vào tình trạng tiêu nhiều mà thu nhập chẳng bao nhiêu.

Nền kinh tế phát triển cũng do phước đức của người dân trong nền kinh tế đó. Việc chi tiêu vào các kế hoạch thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ cá nhân sẽ làm giảm phước của từng cá nhân trong nền kinh tế, ngược lại, việc chi tiêu vì lợi ích cộng đồng hay phụng sự, việc cộng phước sẽ diễn ra, nền kinh tế sẽ vững chắc hơn, và nếu có khủng hoảng thì vượt qua dễ dàng. Thực tập kham nhẫn với khủng hoảng vì khủng hoảng mang tính vô thường. Không khủng hoảng nào kéo dài lâu. Khủng hoảng năm 1929 ở Mỹ rồi cũng kết thúc và tiếp theo là sự thịnh vượng của nước Mỹ. Vì vậy, vô thường cũng là tin mừng vì nhờ vô thường mà khổ đau trôi đi. Khủng hoảng nợ công là bài học cho các quốc gia biết điều tiết việc chi tiêu công của mình, nhìn lại các yếu kém và sai sót trong việc điều hành tài chính, từ đó thay đổi và biết cách quản lý hơn. Hãy học cách tự kiềm chế.

Bài tập thứ mười bốn là kham nhẫn với sự tu tập. Thực ra việc tu tập dễ nhưng không phải dễ. Với người đủ thuận duyên, tu tập mau thành lắm. Với người chưa đủ thuận duyên, dù có tu nhiều cách mấy vẫn chưa đạt được thành tựu, do thiếu sự kham nhẫn với việc tu. Tôi có người bạn, đi học từ bên Anh về, người thân dẫn bạn này vô thiền viện Thường Chiếu để tu một hai ngày. Chỉ mới có vài ngày ít ỏi mà bạn ấy đã chịu không nổi, nào là thức khuya, nào là dậy sớm, nào là ăn chay, nào là tụng kinh, nào là niệm Phật, đủ thứ chuyện chán phèo. Đơn giản vì bạn ấy chưa thực sự tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm trong việc tu tập. Việc tu tập coi vậy chứ không phải chuyện dễ dàng, nào là không làm các hành động ác, nào là thường xuyên tu hạnh lành và nào là thanh lọc tâm ý. Kham nhẫn với hành động không thiện bằng cách làm các hành động thiện, cho đến khi hành động thiện cũng phải buông, vì làm hành động thiện còn tạo phước, còn cái tham trong đó, tham làm thiện, nên kham nhẫn với hành động không thiện thì cũng kham nhẫn với hành động thiện. Hạnh lành thì nhiều lắm, vấn đề là tu nổi không, sáng dậy sớm ngồi thiền, ngồi một hồi nhức mỏi nên cũng phải kham nhẫn, suốt đời phải ăn chay, cái thèm thuồng ăn mặn tấn công khi tập khí ăn mặn vẫn còn, nên kham nhẫn không ăn mặn tức là biết kham nhẫn với việc ăn chay, ăn chay được rồi thì phải kham nhẫn với đòi hỏi ăn ngon trong khi ăn chay, buổi tối tụng kinh tham thiền, cơn buồn ngủ kéo đến, hôn trầm dũ dượi, kham nhẫn với tình trạng bức bách của thân để có thể tụng kinh tốt hơn và tham thiền tinh tấn hơn. Thanh lọc tâm ý muốn thành công phải am tường về các loại tâm sở và thực tập chánh niệm về tâm. Phương pháp niệm tâm cần được nắm vững để biết tâm đang trôi lăn hay không đang trôi lăn. Tâm hay có sự ưa thích, ngay cả an lạc cũng có sự ưa thích, nên biết tâm như thế nào là biết kham nhẫn. Tâm như một dòng chảy, không cố định, rất vô thường, biến đổi triền miên. Vấn đề không phải là bắt tâm dừng lại, mà thực tập cho tâm tỉnh thức, tức là biết tâm đang ở đâu, có ở với thân không. Kham nhẫn trong việc thanh lọc tâm là việc làm của người tu vì có khi mình sợ hãi vì tâm dễ dàng đi hoang quá, tâm bị mất tự do, tâm bị kẹt trong muôn hình vạn trạng cảnh và muôn hình vạn trạng tiếng gọi hoang dã ở trong tâm.

Người tu đi vào thế gian phải biết kham nhẫn, như đoá sen mọc lên từ bùn nhơ. Thế gian đầy dẫy cạm bẫy, lôi kéo người tu không ngừng nghỉ, kéo vào sắc dục, kéo vào dính mắc, kéo vào những xiềng xích của thế giới ảo, không khéo tu, người tu làm mồi cho ma dục và trở thành người đời lúc nào không hay. Kham nhẫn là thứ trang sức đẹp nhất mà người tu thực tập và có được, không gì đẹp bằng hay sánh bằng vẻ đẹp uy nghi của kham nhẫn. Người ta lạy đức Phật không chỉ đơn thuần ngài là biểu tượng của từ bi mà còn biểu tượng của sự kham nhẫn, nhờ kham nhẫn mà ngài thanh thoát, ngài biết làm cho từng đóa sen nở nơi ngài ngồi, nơi ngài bước đi. Không phải có một đóa sen nở ra, mà đóa sen là hiện thân của sự thanh tịnh, thanh tịnh từ trong bùn đen tối, tức là trong thế gian nhưng không bị nhiễm pháp thế gian. Hãy tập thanh tịnh bằng kham nhẫn trong thế gian. Gia tài của người tỉnh thức là biết kham nhẫn, vì người kham nhẫn là người biết tu, hãy đem kết quả của sự thực tập kham nhẫn mà cúng dường chư Phật.

Khổ đau không phải là cái để trốn chạy mà là cái để khám phá. Hãy biết khám phá khổ đau, cho nênmuốn tu thành công phải kinh qua khổ đau, như người vận động viên muốn dành huy chương vàng phải kinh qua thử thách. Khổ đau không bất biến, không thường còn mà khổ đau phát triển, biến đổi và có thể chấm dứt, nên khổ đau cũng vô thường. Sự tu tập không chỉ đơn thuần mang chất liệu của an lạc mà còn mang chất liệu của khổ đau, cho nên khổ đau là điều kiện để quyết tâm chế tác an lạc. Nhờ khổ đau nên mình muốn tu để an lạc và nhờ tu nên mình không chặt chém hay sợ hãi khổ đau mà mình giúp đỡ khổ đau, mang đến khổ đau hương vị của an lạc. Người đời thích vung vãi khổ đau, đem khổ đau mà ban phát cho chúng sinh, bắt chúng sinh biết rằng mình đang khổ đau và muốn chúng sinh phải nghe cái khổ đau của mình, đó là than vãn, là làm tình làm tội người khác. Bồ tát ngược lại, bồ tát chỉ muốn ôm khổ đau về mình, bao nhiêu khổ đau của chúng sinh, bồ tát muốn gánh chịu hết, chỉ mong hạnh phúc cho chúng sinh mà thôi. Cũng dễ hiểu, bồ tát là người tu, mà người tu thì không trốn chạy khổ đau.

Nhiều người đau khổ cùng cực, chỉ muốn tìm đến cái chết, cho rằng chết là xong, nhưng làm gì có chuyện đó, khổ đau cứ thế tiếp diễn, đi theo mình sang thế giới bên kia, thậm chí còn dữ dội hơn, tột cùng hơn. Kham nhẫn với khổ đau, cho khổ đau con đường sống, mà đã sống thì lúc nào đó khổ đau cũng phải chết, sinh ra thì phải chết, đó là chuyện hiển nhiên, cho nên khổ đau không kéo dài mãi mãi, nó phải kết thúc, người tu biết khổ đau kết thúc và thực tập để không dấy lên khổ đau nữa. Khi khổ đau tới, đâu cần làm gì, vì khổ đau tới thì khổ đau cũng sẽ đi, còn làm đủ thứ chuyện, khổ đau sẽ nấn ná thêm. Hãy chấp nhận nguyên nhân của khổ đau, biết rõ nguyên nhân của khổ đau mà tìm cách chấm dứt khổ đau. Cách hay nhất là im lặng sấm sét, ngồi thật yên để nhìn rõ bộ mặt thật của khổ đau. Kham nhẫn với khổ đau là biết cách làm cho khổ đau được bình yên. Mình biết là mình đang khổ đau, và nó làm mình mệt mỏi lắm. Biết vậy, mình ôm lấy khổ đau, ban phát tình thường đến khổ đau cho đến khi khổ đau biết yêu thương, lúc này có gì  gọi là khổ đau nữa đâu. Mình trân quý hạnh phúc thì cũng trân quý khổ đau, biết trân quý là lúc biết vượt qua khổ đau, cho khổ đau cơ hội được trân quý. Không phải mình thèm khát khổ đau mà đối diện với khổ đau, trò chuyện với khổ đau, ôm khổ đau vào lòng mà vỗ về và an ủi. Nhiều khi mình phải giúp khổ đau, khổ đau không biết cách tha thứ và yêu thương nên khổ đau làm mình khổ, làm mình đau, còn mình biết cách nên mình không giận khổ đau, cho khổ đau cơ hội được tu.

Học trò của tôi vừa chia tay với người yêu nên khổ quá, kiếm tôi để tâm sự. Ban đầu hai người thương nhau lắm, đi đâu cũng có nhau như hình với bóng, những kỷ niệm đẹp cứ thế tuôn chảy mãi. Và rồi tình yêu mang dáng vẻ của vật chất và đòi hỏi, nàng muốn chàng phải có sự nghiệp, phải có địa vị trong xã hội, phải biết lãng mạn, phải biết chăm sóc nàng nhiều hơn. Nàng tiếp xúc với bạn bè, người thì thành đạt, người thì nhà cao cửa rộng, người thì có cái mã đẹp trai, sự so sánh bắt đầu diễn ra. Những đòi hỏi lập trận trong tâm nàng và nàng quyết dứt áo ra đi vì chàng không đáp ứng được những đòi hỏi đó. Chàng ở lại bơ vơ, lạc lõng, khổ đau cứ thế mà xây nhà cao tầng. Ngày nhớ, đêm mơ, giấc ngủ chập chờn vì hình bóng nàng cứ trải dài theo từng giây phút. Có khổ đau nào lớn bằng khổ đau của chàng trai đang thất tình. Một tuần lễ sau, chàng vẫn còn khổ. Một tháng sau, cái khổ giảm đi một tí và một năm sau, chàng không còn cảm thấy khổ gì. Chàng không còn nghĩ tới nàng nữa, không còn sợ hãi khi bị so sánh, không còn rầu rĩ tự hỏi vì sao nàng không thương mình. Chàng bắt đầu cảm thấy khỏe re khi buông bỏ được hình bóng của nàng. Nàng đã khuất xa trong ánh mắt của chàng. Lúc khổ đau, chàng không biết kham nhẫn, không thấy được chuyện hợp tan trong tình yêu. Tình yêu có mong cầu thì tình yêu này mong manh lắm. Cho nên đức Phật day trong cái thương có cái khổ. Mình thương người, mình muốn người thương mình, muốn người là của mình, muốn người lúc nào cũng có mặt cho mình. Mình nương tựa vào người bằng tình yêu. Nhưng người đến thì sẽ đi, người mang hạnh phúc tới thì người mang hạnh phúc đi. Người ra đi rất nhanh như hạt mưa rơi xuống thành bong bóng nước vỡ tan trong tích tắc. Chàng dính mắc vào sự nương tựa của tình yêu nên những dấu yêu theo đó mà gởi theo làn gió bay. Chàng không biết kham nhẫn nên chàng để khổ đau lâu quá, tới một năm lận. Một năm đó, chàng héo hon, sức khỏe sa sút, việc học hành cũng thay đổi. Nhưng thời gian có thể chữa lành mọi vết thương và thời gian như chất kháng sinh đối trị với khổ đau. Khổ đau trong chàng cũng qua và chàng biết tình cảm ngày xưa nay chỉ là kỉ niệm, mình phải tiếp tục sống, phải tiếp tục xây dựng hạnh phúc mới, nếu không thời gian trôi qua oan uổng. Cái duyên với người con gái đó không còn nên chàng không còn nuối tiếc nữa. Tinh thần trong chàng đã đường hoàng trở lại, chàng trở nên tươi mới hơn và thấy rằng đời này phải biết chấp nhận chuyện hợp tan.

Bài tập thứ mười lăm là kham nhẫn với thiền tập. Có những người thực tập thiền và có thành tựu ngay từ ban đầu, là do phước báu lớn và nhiều đời nhiều kiếp đã thực tập thiền, hơn nữa trong đời sống này đã phát nguyện mạnh và có ý chí tu tập. Thực tập thiền không phải là công phu lao tác mệt nhọc, nhưng có vẻ như đang chiến đấu trên chiến trường cam go, vì phải đối diện với tâm của mình, tâm lăng xăng. Nhiều người thấy tâm sao lăng xăng quá nên sợ hãi, không muốn ngồi thiền nữa, bỏ ngang giữa chừng. Kham nhẫn với thiền như kham nhẫn với sự nhức mỏi của cơ thể, với tâm thay đổi liên miên khó nhận biết, với hoàn cảnh khó chịu không thuận cho việc hành thiền. Vọng tưởng là một chướng ngại trong hành thiền, như vọng tưởng cho rằng việc hành thiền chỉ dành cho tu sĩ, còn cư sĩ thì tụng kinh niệm Phật được rồi, hoặc hành thiền là phải vào thiền đường còn ở những chỗ khác thì không hành thiền được, hoặc khi ngồi thiền thấy cái này cái kia tưởng là đắc đạo, hoặc khó khăn trong việc thiền tập thì cho là bị ma phá, hoặc thậm chí có người cho ngồi thiền dễ bị điên nữa.

Ngày xưa đức Phật diệt trừ được các phiền não vi tế cũng do hành thiền mà ngài ngồi liên tục đến 49 ngày. Điều này minh chứng cho sự kham nhẫn cùng tột, kham nhẫn với đói khát và phiền não bên trong và kham nhẫn với thời tiết và sự tấn công của các loài côn trùng bên ngoài. Hành giả tu thiền phải có ý chí lớn lắm và phát nguyện lớn lắm thì việc tu thiền dễ dàng có nhiều thành tựu. Ngăn cản lớn nhất của người tu thiền chính là nghiệp chướng, do nghiệp trong quá khứ mà mình lăng xăng, tức là trạo cử nên khó định tâm được, do nghiệp mà mình thường hay hôn trầm, tức là buồn ngủ không muốn ngồi thiền, móng tâm đến việc muốn đi ngủ cho xong, do nghiệp mà mình thường hay không biết rõ tình trạng của thân và tâm, tức là vô ký, mơ hồ về việc niệm hơi thở, do nghiệp mà các loại ái dục phát khởi, tức là dục triền cái, tấn công tâm mình như vũ bão, do nghiệp mà có nghi ngờ về việc ngồi thiền, tức là nghi triền cái, không có niềm tin vào chánh pháp và thấy khó tìm kiếm con đường chấm dứt khổ đau, do nghiệp mà trong khi và sau khi ngồi thiền mình dễ nổi giận, tức là sân triền cái, do không biết cách hồi hướng hay rải tâm từ. Muốn thiền thành công thì phải diệt trừ năm triền cái mà năm triền cái chủ yếu phát sinh do nghiệp nên muốn chuyển hóa nghiệp thì cần tu phước và thực tập sám hối. Hành thiền lâu chưa chắc giỏi, vấn đề là có kham nhẫn trong lúc hành thiền, kham nhẫn được rồi, hành thiền bao lâu không còn là vấn đề bàn cãi.

Thực tập kham nhẫn có thể giúp đối trị với các loại ma chướng trong thiền tập. Có mười loại ma chướng thường gặp phải. Thứ nhất, ma có oan trái trong tiền kiếp với mình, oan trái cứ kéo dài từ đời này sang đời khác, ngăn cản mình hành thiền. Những người khuất mày khuất mặt mà có oan trái với mình cũng quấy nhiễu không muốn mình có tiến bộ trong việc hành thiền, họ chỉ muốn đòi nợ. Đức Phật dạy các đệ tử đọc Kinh Từ Bi để phát khởi tình thương với chúng sinh, nhằm giảm bớt oan trái, không bị sách nhiễu khi hành thiền. Thứ hai, các chúng sinh gây cản trở như người trong nhà, bạn bè, thậm chí người đồng tu. Người trong nhà có người không tu, thấy mình hành thiền nên nói ra nói vào, hay làm ồn khiến mình chưa quen nên khó định tâm. Bạn bè lôi kéo trong các trò giải trí thế gian, làm mất thì giờ trong việc thực tập. Bạn đồng tu người giỏi người chưa giỏi, nên thỉnh thoảng mình bị phân tâm, sinh nghi hoặc, do nhiều lời nói hay chia sẻ không đúng với chánh pháp, không biết đường nào mà lần, việc thực tập có phần sai trái.

Thứ ba, ma phiền não như lo toan, buồn bã, tức giận hay mệt mỏi, nói chung các vấn đề liên quan đến khổ đau khiến việc hành thiền chậm lại. Lo toan nên không có thì giờ hành thiền, thời gian dành cho hành thiền cứ thế ngắn lại. Buồn bã nên không có tâm trí nào hành thiền, chỉ muốn nghĩ đến đối tượng làm mình buồn và chìm đắm trong cái buồn đó. Tức giận thì quên hành thiền dù rằng hành thiền giúp làm giảm cơn giận nhưng giận quá thì không còn biết làm gì nữa, chỉ muốn làm gì đó cho hả giận, chẳng muốn hành thiền cho nguôi giận. Mệt mỏi thì dễ hôn trầm nên cơn buồn ngủ đến rất nhanh, lúc này xem việc hành thiền như cực hình, mong cho thời gian qua mau để đi ngủ, nên hành thiền không có tác dụng gì. Thứ tư, ma trong bản thân ta như cái ngã gia tăng. Cái ngã gia tăng là ý niệm về ngã gia tăng, như thấy ta đang tu, ta đang ngồi thiền, ta thấy cái này biết cái kia, ta đang học giáo lý, ta đang thuyết pháp, ta đang hành trì kinh điển. Do cái ta nằm chình ình ở đó nên hành thiền sinh ra vọng tưởng ghê gớm, tưởng mình đắc đạo, tưởng mình giác ngộ.

Thứ năm, ma tà kiến khiến mình chấp và sinh hoài nghi, như chấp có không, giống như có học trò của tôi, khi hành thiền Minh Sát Tuệ, liên tục hỏi sao chẳng có kinh nào chứng minh đức Phật nói về loại thiền này, đây là sự nghi hoặc, nói vậy là còn kẹt vào thiền Minh Sát Tuệ, đơn giản vì có gì gọi là thiền Minh Sát Tuệ đâu, 16 bài thiền theo dõi hơi thở rồi đặt cho nó cái tên là thiền, vậy mà cũng chấp. Tất cả kinh điển ngày xưa đều do học thuộc lòng và truyền từ đời này sang đời khác, cho đến khi người ta có công cụ để ghi chép lại, cho nên hàng ngàn năm như vậy, dị bản chắc chắn xảy ra. Thứ sáu, ma vọng tưởng dẫn người tu xa rời bản tánh thanh tịnh của tâm. Vọng tưởng ghê gớm như sóng thần hay động đất vì nó đánh người hành thiền thất điên bát đảo, bao nhiêu ý niệm tuôn chảy như suối, bao nhiêu ngã mạn tung ra như lá mùa thu và bao nhiêu điên đảo chảy cuồn cuộn như thác lũ. Tất cả tưởng đều là vọng tưởng, mà đã vọng tưởng thì xa rời thực tại, không soi sáng được tâm của mình. Vọng tưởng mình đắc đạo, vọng tưởng mình giác ngộ, vọng tưởng mình đắc thiền, vọng tưởng mình hiểu rõ giáo lý, nhưng những cái tưởng đó chẳng qua chỉ là cái ngọn, chứ không phải cái gốc, nhiều khi nó văng ra khỏi cái ngọn luôn, không còn nằm phần nào của thân cây nữa.

Thứ bảy, ma ăn nói tự cao tự đại hay nói quá nhiều. Sự phán xét khiến mình rơi vào tình trạng gọi là tăng thượng mạn, mà mạn là một tâm rất độc. Cho nên người hành thiền không cần nói nhiều, nhiều khi không cần nói gì cả, thiền không phải là cái để nói mà là cái để hành, nên gọi là hành thiền chứ không gọi là nói thiền. Nói về thiền nhiều quá, người nghe như đi vào mê hồn trận, cứ đi vòng quanh mà không bao giờ biết rõ thiền là gì. Muốn biết thiền là gì, phải hành thiền, lúc này mới nếm được hương vị thiền. Ma ăn nói khiến mình quên buông bỏ cái chấp và chính cái chấp khiến mình tranh cãi, thảo luận hay hý luận. Kiểu hý luận này không bao giờ là mục tiêu của người tu vì nó chẳng bao giờ đi đến giải thoát cả. Thứ tám, nghiệp bệnh khiến mình khổ, ngồi thiền không được, đi thiền khó khăn. Ngồi và đi không được thì nằm thiền. Nằm thiền cũng hay lắm, nó hay như ngồi thiền và đi thiền vậy. Tất cả tư thế nào cũng thiền được.

Thứ chín, ma hôn trầm tức là buồn ngủ, nghỉ ngơi quá nhiều, tạo ra nhiều năng lượng bất thiện. Hành thiền cũng là nghỉ ngơi, cho nên lúc không làm gì thì nên hành thiền và áp dụng thiền công việc để nghỉ ngơi ngay trong công việc, không cần sắp thời khóa biểu cho việc nghỉ ngơi. Buồn ngủ dễ sinh tâm vọng tưởng nên kiểm soát được buồn ngủ thì việc theo dõi tâm dễ dàng hơn. Buồn ngủ làm tâm bị trôi lăn rất mau nên kham nhẫn với buồn ngủ là biết kham nhẫn với thiền tập. Ngày xưa, các đệ tử Phật hành thiền suốt đêm không ngủ, ngày nay mình hành thiền có vài tiếng thì nhằm nhò gì. Thứ mười, thiên ma và các loài quỷ thần hoàn toàn không thích người tu, thường tạo ra các cảnh dục để làm mình bấn loạn, muốn chấm dứt sự nghiệp tu tập đi. Kham nhẫn với ma chướng này bằng cách rải tâm từ thường xuyên cho chúng sinh mười phương, thường xuyên hành thiền và nên sống chung với những người tu thiền. Sự yểm trợ của tăng thân hay thiền thân rất quan trọng vì họ có thể giúp mình không hành động lạc lối do tâm đang lạc lối dẫn đi. (12)

Mình vừa mới hành thiền nên tập ngồi xếp bằng, ngồi bán già hay kiết già gì cũng được. Khó khăn đầu tiên mình phải đối diện là tình trạng nhức mỏi của đôi chân. Tôi có học trò là vận động viên cầu mây, chạy nhảy rất giỏi nhưng ngồi xếp bằng sao thấy khổ quá. Chỉ mới buổi tập đầu tiên là đã bỏ cuộc. Kham nhẫn với sự nhức mỏi thì sẽ quen, ngày thứ nhất sẽ thấy đau mông đau chân lắm, nhưng lần thứ hai sẽ bớt đau, lần thứ ba xem việc đau nhức là chuyện nhỏ và vài chục lần sau sẽ ngồi được lâu và không còn thấy đau nữa. Giống như lâu ngày không đá banh, bữa nay đi đá banh lại, tối đó chắc sẽ thấy nhức mình mẩy lắm, nhưng từ tuần này và các tuần kế, mình thường xuyên đi đá banh thì sẽ không bị tình trạng như vậy nữa. Tiếp theo là đau lưng và mỏi cổ. Khi ngồi phải tập ngồi thẳng và ngồi trong buông thư, cái lưng buông thư, cái cổ buông thư và toàn thân buông thư. Mình ngồi không được lâu vì gồng mình, gồng mình thì mau mỏi và tê do máu huyết bị cản trở lưu thông không được. Kham nhẫn với sự mỏi tê lúc ban đầu thì việc hành thiền sẽ dễ dàng hơn.

Tập thói quen dậy sớm ngồi thiền và buổi tối ngồi thiền sớm trước khi đi ngủ. Buổi sáng trời mát mẻ nên mình muốn ngủ nướng cho nó đã, không biết cái gì đã nhưng đây là sự cản trở của ma chướng, mình bị cơn ngủ nướng sai sử, nên không muốn dậy sớm ngồi thiền. Có người dậy sớm không nổi vì có thói quen thức khuya nên kham nhẫn với việc dậy sớm để giúp việc hành thiền thêm miên mật. Buổi tối nếu ăn nhiều dễ gây hôn trầm nên buổi tối ăn ít thôi và cần tập thói quen ngồi thiền đúng giờ. Có sư chú ngồi thiền nhiều quá thành ra chán ngồi thiền do việc hành thiền không đúng cách. Lâu lâu chú mở mắt ra xem tới giờ đi nghỉ chưa hoặc mong cho vị chủ thiền gõ chuông xả thiền cho rồi. Người hành thiền giỏi đôi khi chỉ muốn hành thiền thôi, không muốn đi nghỉ và hành thiền chính là nghỉ, nên đôi khi thấy thời gian hành thiền trôi qua nhanh quá. Kham nhẫn với thiền tập để giai đoạn ban đầu có vẻ khó khăn nhưng vạn sự khởi đầu nan, sau đó mọi việc trở nên dễ dàng và chỉ muốn thiền tập mà thôi.

Tranh Chấp Giữa Hai Xứ Sàkya Và Koliya

Tranh Chấp Giữa Hai Xứ Sàkya Và Koliya

Ngày xưa, trước hạ thứ năm, đức Phật trở về Vesàli để chuẩn bị an cư thì xảy ra sự xích mích giữa hai xứ Sàkya và Koliya tranh chấp dòng sông Rohinì. Dòng sông này chính là ranh giới giữa hai xứ và hai bên đều cùng sử dụng dòng sông cho việc sinh hoạt và trồng trọt của mình. Sàkya là quê hương bên nội của Phật, trong khi Koliya là quê hương bên ngoại của Phật, và cũng là quê hương của công chúa Yasodharà. Nói chung cả hai vùng đất đều rất thâm tình.

Năm ấy trời hạn hán rất nặng, các ao hồ bên trong hai nước đều cạn khô, mực nước sông thì xuống rất thấp, không đủ để sinh hoạt, nói chi là trồng trọt hay chăn nuôi. Dân bên xứ Koliya lấy làm lo lắng, nếu cứ hạn hán thế này, không thể nào đủ nước tưới đồng lúa và vườn tược, nên lên tiếng trước, nói với bên Sàkya, Nước sông năm nay ít quá, không đủ cho cả hai bên dùng, mà đồng lúc bên nước chúng tôi sắp tới kỳ trổ bông và vườn cây hoa trái sắp ra quả, vậy các ông hãy để chúng tôi dùng nước sông này để tưới, khi đồng lúa bên các ông chuẩn bị chín và vườn cây chuẩn bị ra quả, các ông có thể sử dụng nước ở sông này. Bên Sàkya nghe vậy lấy làm bất bình, lớn tiếng đáp lại, Làm gì có chuyện lúa chín trước chín sau, đã cùng làm nông, gieo mạ, trồng lúa thì lúa cùng chín tới, nếu các ông dùng nước trước thì chắc chắn con sông sẽ cạn khô, chúng tôi sẽ không có nước tưới, sẽ mất mùa, sẽ đói khát, không lẽ các ông muốn chúng tôi qua bên các ông xin ăn sao, thật là vô lí hết sức.

Cứ thế lời qua tiếng lại, ban đầu còn ăn nói nhỏ nhẹ, còn chịu lắng nghe nhau, sau đó chẳng ai thèm nghe nữa, bao nhiều lời nói không ái ngữ cứ thế tuôn ra. Nói một lúc thì cạn lời, họ bắt đầu dùng đất đá ném qua hai bên và chửi rủa thậm tệ. Cuối cùng chuyện gì đến cũng sẽ đến, quân đội hai nước lập hàng ngang, dàn trận với đủ thứ khí giới ở hai bên bờ sông. Lúc này đức Phật đang ngụ tại giảng đường Kùtàgàra ở Mahàvana biết được chuyện đang diễn ra nên vội vàng đến vùng tranh chấp để hòa giải. Sau khi tìm hiểu, Phật biết nguyên nhân chủ yếu của sự tranh chấp là do hai bên không chịu nhường cho nhau việc sử dụng nước cho sinh hoạt và trồng trọt.

Do cả hai bên đều quen biết, Phật hẹn đại diện của hai bên để dàn xếp. Phật nói, Này quí vị, nước sông năm nay đi xuống là do hạn hán, mùa mưa chưa thấy đến nên mực nước không dâng cao như mong đợi. Nếu chúng ta kiên nhẫn, vài tuần nữa trời sẽ mưa, mực nước sông sẽ dâng trở lại và cả hai nước đều sẽ có đủ nước để sử dụng. Nếu biết chờ đợi và biết chia sẻ trong lúc thiếu thốn, chiến tranh sẽ không xảy và binh lính không phải hy sinh và dân thường không bị chết oan uổng, mà mọi người gìn giữ được hòa bình và tránh được những hậu quả khó lường. Quí vị ơi, quí vị xem sinh mạng con người quan trọng hay vườn tược quan trọng? Đại diện hai bên trả lời, Bạch Thế Tôn, dĩ nhiên sinh mạng con người lúc nào cũng quan trọng hơn. Phật liền nói, Hay lắm các vị, các vị nên chia sẻ nguồn nước, chia đều cho cả hai bên dân chúng, các vị nên hòa giải với nhau, chiến tranh chỉ chất chứa thêm hận thù, chiến tranh chưa bao giờ mang đến kết quả tốt đẹp. Nếu biết gạt bỏ hận thù, chúng ta sẽ có hạnh phúc. Nếu biết gạt bỏ tham vọng, chúng ta sẽ có thanh tịnh. Nếu biết tránh xa cạnh tranh thắng bại, chúng ta sẽ có an lành.

Qua câu chuyện trên, sở dĩ người dân hai bên dòng sông tranh giành nguồn nước tưới vì trong tâm của họ có sự sợ hãi và lo lắng. Họ sợ nguồn nước cạn kiệt, sợ mất mùa, sợ không có cái ăn, sợ nghèo đói. Đứng thứ hai sau sợ chết chính là sợ đói khát. Cái chết có thể đến rất mau nhưng  đói khát dày vò nhiều hơn. Sự đói khát kéo theo đủ thứ tâm bất thiện và nếu không kham nhẫn được, mình sẽ hành động bất thiện. Bằng chứng là hai bên kéo quân dàn trận và chuẩn bị đánh nhau, nếu chiến tranh xảy ra, dòng sông sẽ nhuộm đầy máu đỏ của con cháu hai bên. Nếu có một bên thắng, thử hỏi có đủ sức lấy dòng sông thấm máu đó tưới cho ruộng vườn hay không. Ăn cơm gạo được tưới bằng máu thì có khác gì ăn thịt con mình đâu.

Sợ hãi và lo lắng thường hay đi chung với nhau. Sợ hãi sinh ra lo lắng và lo lắng sinh ra sợ hãi. Người mẹ nghe tin có một máy bay đi nước ngoài bị rơi trong khi con bà vừa lên máy bay đi nước ngoài. Bà bắt đầu lo lắng không biết con bà có đi trên chiếc máy bay đó không. Bà không bấm điện thoại để hỏi hãng hàng không hay trực tiếp lên sân bay để lấy thông tin, bà ngồi đó lo lắng. Điều bà lo lắng lớn dần và biến thành sự sợ hãi, sợ con bà bị tai nạn, sợ đứa con đi chuyến bay đó. Sự sợ hãi sinh ra tri giác sai lầm, bà nghĩ chắc con bà chết rồi, chắc con bà đi chiếc máy bay đó rồi và bà khổ. Cái khổ nhen nhúm từ khi bà nghe tin chiếc máy bay bị tai nạn và lớn dần theo sự sợ hãi. Thật ra bà đã có tập khí sợ hãi, bà quen với sự sợ hãi và để cho sợ hãi làm chủ bản thân, nên mới nghe ngóng chuyện gì đó, sợ hãi đã khởi lên.

Như câu chuyện về dòng sông, hai bên hồi nào giờ làm nông, người làm nông thì chỉ mong mưa thuận gió hòa, và rất lo lắng cho tình trạng thiên tai. Họ đã nuôi sẵn điều lo lắng đó trong cái nghề, trong đời sống của họ, nên khi sự thật diễn ra, nỗi lo bùng lên và biến thành sợ hãi. Nỗi sợ khiến họ quên đi người dân bên kia là láng giềng, nước sông này phải nuôi mạng cho cả hai bên, nước sông này có mặt là cho cả hai bên. Dòng sông không là tội đồ, sông vốn êm đềm và hiền hòa vì lúc nào cũng cống hiến sự tươi mát của dòng nước. Chỉ vì mình không đủ kiềm chế, không biết chia sẻ, không biết đùm bọc, không biết thương nhau. Đối tượng của sự tranh chấp không còn là dòng sông nữa, mà là mạng sống, nên khi mình đấu đá và chỉ trích bên kia, mình không chỉ trích dòng sông, mà mình đang chỉ trích cái tham, cái không hiểu biết, cái thiếu cưu mang đang nằm chình ình trong mỗi con người ở hai bên dòng sông.

Chia sẻ trong mọi hoàn cảnh dù dư dả hay thiếu thốn. Không phải có tài sản mới chia sẻ được. Nở một nụ cười bình an cũng là bố thí. Giữ gìn thân tâm khỏe mạnh cũng là bố thí. Cho nên không nhất thiết phải có tiền mới bố thí được. Bố thí có thể làm giảm sự sợ hãi, sợ hãi trong việc lo lắng gìn giữ tài sản và sợ hãi về tính vô thường của tài sản. Sợ hãi có tính chất lan truyền. Mình thích lan truyền sợ hãi đến người khác, bắt người khác phải sợ hãi như mình hoặc chí ít phải cho họ biết là mình đang sợ hãi. Năm 2010 một sự kiện xảy ra ở Campuchia dẫn đến cái chết của hàng trăm người. Người ta đứng trên cầu treo, do quá đông người và có vài người bị ngất nên người khác tưởng cầu bị sập nên hét toáng lên vì sập. Sự sỡ hãi lan truyền nhanh chóng và người ta đua nhau chạy, dẫm đạp lên nhau và quá nhiều người chết không đáng có. Thực ra cầu đâu có sập, cái tin cầu sập là do sợ mà sinh ra tưởng. Nhiều người chết hoặc thất điên bát đảo chỉ vì sợ và nhiều khi cái sợ này rất không tên, sợ mà không biết sợ gì, sợ những thứ không thực có. Kham nhẫn trong sợ hãi để chấm dứt sợ hãi. Sợ thì phải sợ cái gì, phải tìm cho ra nguyên nhân của nỗi sợ. Đối tượng đó có đáng cho mình sợ không. Nếu ngay giây phút này, mình thực tập có nhiều hạnh phúc thì ngày mai hay lát nữa mình chết đi cũng không làm cho mình tiếc nuối và sợ hãi. Chàng trai và cô gái thương nhau đang hạnh phúc, nhưng trong hạnh phúc này có sự sợ hãi, sợ mất người thương, sợ tình yêu vụt bay. Tình yêu vô ngã như thế, nó như một cái sân khấu vậy, muốn diễn ra sao thì diễn, không có kịch bản riêng biệt, kẹt vào tình yêu như kẹt vào khổ đau, mình sợ hãi là cái chắc. Khi đang yêu thì cứ yêu đi, trân quý hạnh phúc thực sự trong tình yêu, tình yêu sẽ không vụt bay. Muốn tình yêu dài lâu, phải đầu tư cho tình yêu. Nếu hôm nay mình yêu thương trọn vẹn thì ngày mai tình yêu ra đi, mình đâu tiếc nuối gì. Kham nhẫn với sợ hãi để chấm dứt sợ hãi, đối tượng của sợ hãi không thực có.

Hận thù phát sinh thường là do chấp, chấp tài sản, chấp địa vị, chấp danh tiếng, chấp ý niệm. Chấp nào cũng to như núi Tu Di. Cơ thể mình nhỏ bé, từ trên cao nhìn xuống khi đi máy bay, chẳng khác nào con kiến đang di động, nhưng cái chấp của mình nó to hơn cái người của mình, thậm chí nó đóng thành cục ở trong tâm, không có gì có thể tẩy được. Xóa bỏ hận thù phải kinh qua hai phương pháp: thực tập từ bi và thực tập phá chấp. Muốn từ bi trước hết phải phá chấp. Sau đó, nhờ từ bi mà hóa giải hận thù, sử dụng từ bi mà ôm lấy hận thù. Ở một số nước đang phát triển, do nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, người ta phải giải tỏa nhà cửa để giải phóng mặt bằng, lấy đất làm đường xá hoặc nhà cửa. Sự truyền thông giữa chính quyền và người dân ở khu nhà giải tỏa nếu tốt đẹp, việc giải tỏa trôi chảy và nhanh chóng. Nếu sự truyền thông này èo uột, thiếu lắng nghe, thiếu chia sẻ, thiếu thông cảm, chính quyền và người dân bị rơi thế đối đầu và hận thù bắt đầu phát sinh. Nguyên nhân sâu xa của hận thù đều do tri giác sai lầm mà ra, do không chịu lắng nghe, do không thông cảm và cũng do thiếu các phương tiện thảo luận, đối thoại và bàn bạn. Người dân làm ăn thế nào và chính quyền làm ăn thế nào để cho hận thù diễn ra. Trách nhiệm thuộc về cả hai phía. Các biện pháp cưỡng chế chỉ làm cho hận thù dâng cao và là biểu hiện của tình trạng bế tắc trong việc đối thoại lẫn nhau. Trong việc giải quyết hận thù, mình cần tập cách hy sinh. Hy sinh này không phải là bỏ mạng mà kham nhẫn với đòi hỏi hận thù trong mình. Mình bị mất tài sản, bị chèn ép địa vị, bị tranh quyền đoạt lợi, bị tước đoạt danh dự vì mình có ý niệm tài sản đó là của mình, địa vị đó là của mình, danh vọng đó là của mình, danh dự đó là của mình. Mình đã dành quá nhiều công sức xây dựng nó, bây giờ mất rồi, mình hận thù. Kham nhẫn với cái cho là ta, là của ta và quán chiếu tính không thực có, biến đổi không ngừng của các đối tượng kia, mình sẽ buông được hận thù, buông đối tượng khiến mình phải hận thù.

Buông hận thù là biết chấp nhận hạnh phúc. Hận thù là phiền não, là khổ đau, buông nó đi thì còn lại gì, chắc chắn mình cũng biết. Một li trà nóng hổi, uống sẽ phỏng lưỡi, chỉ cần chờ một chút, hơi nóng bốc đi, mình có thể uống được. Cũng là li trà, khi nóng sôi uống vào sẽ khổ mà khi ấm áp hay mát mẻ thì uống vào sẽ dễ chịu, sẽ có hạnh phúc. Vấn đề là cách sử xự của mình thế nào, với cùng một hoàn cảnh, tại sao có người rất hạnh phúc mà có người lại khổ đau. Âu cũng là do thái độ, do cách nhìn nhận hoàn cảnh của mình. Làm việc vất vả cả năm mua được chiếc xe, anh chàng hí hửng chạy về nhà khoe với vợ. Anh để xe trước cửa, niềm vui chưa trọn vẹn thì chiếc xe bị mất trộm. Lòng tiếc của cộng với tiếc công sức làm việc cả năm khiến anh thù hằn tên trộm. Vợ anh khuyên, Của đi thay người, mất của nhưng bảo toàn thân thể là được rồi, sau này mình cẩn thận hơn là được. Người vợ vậy mà hay, nói có một câu đơn giản vậy mà anh chàng không còn tiếc của và không nghĩ xấu về tên trộm nữa. Sự mất trộm nhiều khi cũng có phần lỗi của mình, do mình bất cẩn, do tin người, hoặc do để tài sản sớ rớ khiến người khác sinh lòng tham. Mình cũng có lỗi trong việc bị mất trộm.

Nhà kinh doanh thường có tham vọng lớn nên lúc nào cũng thấy thiếu. Người giàu cái gì cũng cần nên lúc nào cũng thiếu, còn tôi thì chẳng cần gì cả nên chẳng thấy thiếu gì, thậm chí tôi còn thấy mình giàu có. Khi đi dạy, người ta sếp lớp nào tôi dạy lớp đó, không sếp thì tôi vào cốc tu thiền, tôi chẳng lo gì, nên đi dạy nhưng chẳng cạnh tranh với ai, ai muốn làm gì thì làm. Mình có quyền làm kinh doanh, có quyền làm giàu, có quyền kiếm tiền nhưng đừng để lo lắng, sợ hãi và tham vọng dìm mình chết. Biết vừa đủ là biết giàu có. Nhiều điều kiện mầu nhiệm khiến mình giàu có mà mình không biết. Mình có thể thư giãn và nghỉ ngơi trong lúc đang làm kinh doanh. Nhiều nhà kinh doanh bây giờ tu thiền giỏi lắm, nên cũng có nhiều nơi tổ chức khóa tu thiền cho doanh nhân và họ đến tham dự rất đông, điều này minh chứng cho việc doanh nhân cũng cần tu, cần an lạc, cần thảnh thơi. Người làm chính trị cũng vậy, cũng là con người, cũng có nhu cầu hiểu biết và thương yêu, nên xem lại tham vọng của mình, xem tham vọng đó có thực sự mang lại hạnh phúc không, hay là từ khi có tham vọng, mình bắt đầu héo úa theo tham vọng của mình. Tham vọng càng lớn, mức độ héo úa càng gia tăng. Tham vọng vừa đủ để có thì giờ sống hơn.

Kham nhẫn với tham vọng không phải là buông bỏ luôn tham vọng mà biết đem thanh tịnh vào trong kế hoạch thực hiện tham vọng của mình. Làm kinh doanh phải có thanh tịnh, đi kí hợp đồng với đối tác phải có thanh tịnh và sản xuất ra sản phẩm phải có thanh tịnh. Tham vọng của mình không gây tàn hại con người, môi sinh và các loài sinh vật. Kinh doanh bảo vệ sinh mạng con người, bảo vệ môi sinh, bảo vệ sự sống là biết kham nhẫn trong tham vọng. Có người tham vọng kinh doanh vũ khí để kiếm lời, tham vọng này nguy hiểm vì nó kéo con người vào tình trạng bạo động, tình trạng chạy đua vũ trang. Nhưng cũng có người tham vọng trồng rau xanh và sạch, vừa có lợi cho sức khỏe người tiêu dùng, vừa bảo vệ được môi trường, cung cấp màu xanh cho nhân loại. Vậy giữa vũ khí tượng trưng cho chết chóc và giữa rau xanh tượng trưng cho sự sống, mình hãy chọn đi. Biết chọn để biết kham nhẫn với tham vọng, từ trong tham vọng mà mình biết thanh tịnh vì biết chánh nghiệp, biết ứng xử trong nghề nghiệp. Bất cứ nghề nghiệp nào cũng có thể thực tập thanh tịnh, là biết giữ giới trong nghề nghiệp của mình.

Cạnh tranh thắng bại bây giờ đã bị biến thành qui luật. Đi học thì phải học cho giỏi, đi làm thì phải làm cho giỏi và thậm chí đi tu cũng phải tu cho giỏi. Trong trường, người ta xếp hạng sinh viên, cao thấp rõ ràng và người ta chạy theo các thứ hạng. Trong công sở, người ta cũng xếp hạng sinh viên thông qua đánh giá năng lực, loại A hay loại B rõ ràng và người ta chạy theo bảng phân loại. Trong tự viên, cũng có thứ hạng, đại đức, thượng tọa, hòa thượng… và người ta chờ đợi để được tấn phong. Kham nhẫn  với nhu cầu cạnh tranh thắng bại thì đi học không phải để chất chứa kiến thức, mà học cách ứng xử và suy nghĩ nhiều hơn, đi làm không chỉ đơn thuần để kiếm tiền mà còn tận hưởng sự sống và phụng xự xã hội, đi tu không chỉ để lên hàng giáo phẩm mà mục tiêu cao nhất của người tu là giải thoát ngay trong kiếp hiện tại, bất kể tu sĩ hay cư sĩ. Tôi biết có nhiều vị cư sĩ tu rất giỏi, họ âm thầm lặng lẽ mà tu, tu một cách không khoa trương, không trình diễn cái sự tu của mình. Những người như vậy bây giờ không còn nhiều, đơn giản vì họ dành thời gian để tu. Nếu lên mạng đọc báo, mình dễ dàng tìm thấy các thông tin như là người giàu nhất thế giới, người hấp dẫn nhất thế giới, người tài năng nhất thế giới, người đẹp nhất thế giới… nhưng chẳng thấy ai khảo sát đưa ra kết quả người tu giỏi nhất thế giới hay người đạo đức nhất thế giới. Người tu không cần cạnh tranh nên đâu cần xứng danh trong danh mục người tu giỏi nhất thế giới. Người nào cho rằng mình tu giỏi nhất thế giới e rằng đã bị sự kiêu mạn “delete” ngay từ khi khởi lên ý niệm đó. Không cạnh tranh hay khiêm nhường trong sự cạnh tranh, mình sẽ làm bạn với an lành, vì không mất thì giờ lo rầu đối thủ cạnh tranh đang làm gì, họ đang lên kế hoạch gì, họ đang có ý tưởng gì. An lành nằm ở chỗ biết nói không với cạnh tranh đang giăng bẫy trong tâm và lo lắng sợ hãi chính là thức ăn ngon lành của con ma cạnh tranh. Hãy để cho con ma nó biến mất vì đói khát, bằng không thì cho nó ăn tâm buông bỏ, tâm an lạc, tâm thảnh thơi, cho nó biết tu hơn.

Một lần vua Ba Tư Nặc đến thăm Phật và nhân dịp này, Phật hỏi vua những câu hỏi liên quan đến bốn trái núi. Phật hỏi, Đại vương, Nếu Đại vương đang ngồi trong cung, đang ngồi chơi hoặc đang đàm luận chính trị, thì có một phái đoàn trinh thám của Đại vương chạy về và bẩm tấu rằng từ phương đông có một ngọn núi vĩ đại, hết sức to lớn, không gì có thể ngăn cản nổi, đang di chuyển lần lần tới kinh thành, với tốc độ tăng dần, trên đường di chuyển, nó làm tan nát hết những công trình xây dựng của kinh thành, giết chết tất cả sinh mạng, các loài sinh vật và quang cảnh thiên nhiên, nếu có trái núi như vậy lăn tới, Đại vương sẽ làm gì? Vua Ba Tư Nặc không biết trả lời thế nào nên giữ im lặng.

Phật hỏi tiếp, Đại vương, lời báo cáo của đoàn trinh thám vừa xong, Đại vương chưa kịp trả lời cho đoàn trinh thám phương án giải quyết, thì có một phái đoàn trinh thám khác, vừa về tới cung, báo cáo với Đại vương rằng, từ phương tây cũng có một trái núi tương tự, hết sức vĩ đại, hết sức to lớn, không gì có thể ngăn cản nổi, đang di chuyển lần lần tới kinh thành, với tốc độ tăng dần, trên đường di chuyển, nó làm tan nát hết những công trình xây dựng và thành quách, giết chết tất cả sinh mạng và quang cảnh thiên nhiên, nếu có trái núi lớn thứ hai như vậy, Đại vương sẽ làm gì? Vua Ba Tư Nặc không biết trả lời thế nào nên tiếp tục giữ im lặng.

Phật nói tiếp, Tổng cộng có tất cả bốn trái núi như vậy Đại vương à, sức di chuyển và tàn phá rất ghê gớm, nhanh chóng, thậm chí là tích tắc, Đại vương không có thì giờ để phản ứng, thậm chí trở tay không kịp, mọi thứ đều mất hết, Đại vương sẽ làm gì để cứu đất nước mình, cứu người dân của mình, cứu ngai vàng của mình?

Phật dạy, Đại vương, bốn trái núi tượng trưng cho sinh, lão, bệnh, tử, chúng đang chạy tới, dồn Đại vương vào bước đường cùng, Đại vương không còn chỗ nào để đi nữa, Đại vương không còn sức để cứu ai nữa, chúng sắp sửa nghiền nát Đại vương giống như chúng đã nghiền nát thành quách, các sinh mạng, quang cảnh thiên nhiên. Lúc này Đại vương sẽ làm gì? Vua Ba Tư Nặc lúc này mới tỉnh ra, liền trả lời, Bạch Đức Thế Tôn, con nghĩ trong giờ phút không thể nào thoát khỏi cái chết và bị nghiền nát, thì trong giây phút còn lại của sự sống, con muốn sống thật sự có ý nghĩa, có chánh niệm, có hạnh phúc, dù giây phút ít ỏi, nhưng thời gian rất cấp bách, không còn gì phải nuối tiếc nữa, kể cả lâu đài, kể cả thành quách, kể cả đất nước này.

Trái núi thứ nhất là tượng trưng cho sinh và sinh là khổ. Âm thanh đầu tiên khi đứa trẻ chào đời là tiếng khóc, báo hiệu cho cuộc đấu tranh sinh tồn. Nó như một trái núi lớn đè nặng lên kiếp người, phải làm thế nào vượt qua những khó khăn, nên người phải bươn chãi, phải kiếm sống, phải lo cho cái thân. Nhưng sinh ra cũng là điều kiện của hạnh phúc, vì người phước báu lớn mới được làm người. Đã mang thân người thì hãy sử dụng cái thân này mà hành trì chánh pháp, đi trên con đường chánh pháp và thành tựu đạo quả. Nếu sử dựng thân vào vào việc hành trì tội lỗi, đi trên con đường nhớp nháp và thành tựu luân hồi, việc sinh ra làm người là điều kiện tạo khổ mà thôi.

Trái núi thứ hai là tượng trưng cho già và già là khổ. Có mấy ai muốn mình già đâu. Ai khen mình trẻ, mình thích lắm. Mình muốn đời sống này kéo dài lâu, nhưng làm sao được. Ngay cả quả địa cầu này, đến lúc nào đó cũng phải già, cũng phải thay đổi, cũng phải chết đi. Những mong cầu thời trai trẻ chưa làm được, những thành tựu tạo ra chưa được hưởng, những nỗi khổ niềm đau chưa được giải quyết, ngoảnh đi ngoảnh lại, mái tóc xanh ngày nào nay đã rụng hết, những đam mê, những khát vọng chưa kịp thực hiện. Khổ phát sinh khi sợ hãi về cái chết hiện ra trong đầu. Mình sợ chết lắm, sợ xa rời người thương, sợ xa lìa thế gian này. Nhưng già không chỉ là khổ, nó còn là điều kiện của hạnh phúc. Biết rằng mỗi ngày mình sẽ già đi, nên giây phút này mình trân quý sự sống, mình thực tập hạnh phúc và ban phát hạnh phúc đến người xung quanh. Một nụ hoa không thể trở thành bông hoa nếu không có sự già. Em bé không thể lớn lên nếu không có sự già. Sự già chẳng qua là sự chín muồi của sự sống, như trái chuối xanh bỗng chốc chín trên cành, có thể hái xuống và ăn được. Già là trái núi đè nặng lên vai người không biết trân quý sự sống, nhưng nó là quả bong bóng bay lên bầu trời xanh, thanh thản cùng đám mây trắng với người biết chăm sóc cuộc sống của mình.

Trái núi thứ ba tượng trưng cho bệnh và bệnh là khổ. Không phải người già mới bệnh, người trẻ vẫn bệnh như thường. Có người bệnh rất nặng, bệnh thân và bệnh tâm. Bệnh thân do bị tấn công của các loài vi khuẩn, do cách sống, do cách ăn, do cách suy nghĩ. Bệnh tâm do bực tức, mệt mỏi, chán chường, ganh tị, hiềm hận. Bệnh không tự ai mang đến mà do bản thân tự chuốc lấy. Bệnh cũng là điều kiện của hạnh phúc vì nhờ bệnh, mình trân quý sức khỏe. Lúc còn khỏe, mình phải biết giữ gìn, để khi bệnh, mình ngồi hối tiếc tại sao hồi xưa không lo giữ gìn. Bệnh là một trái núi nếu mình không biết phương cách chữa trị, không tầm cầu phương cách chữa trị và ngồi than vãn vì nó. Trái núi này sẽ tan thành bọt nước nếu thực tập sống an lạc với căn bệnh và sống thực sự sâu sắc trong những giây phút còn lại của cuộc đời.

Trái núi thứ tư là chết và chết là khổ. Mình khổ vì sợ chết, nếu không sợ chết thì cái chết đâu làm mình khổ. Chết chỉ là tiến trình của sự sống, một sự kiện đánh dấu việc tan rã của tứ đại để bắt đầu sự tiếp nối mới. Nên chết đi cũng là sự sinh ra. Mình sợ chết vì sợ sự xa lìa, sợ xa lìa người thương, sợ xa lìa những của cải vật chất và tinh thần mình tạo ra. Nhưng chết cũng là điều kiện của hạnh phúc vì không phải mang tấm thân ô trược này nữa. Nhưng đừng ngồi chờ chết, đang lúc còn sống thì hãy thực tập hạnh phúc, xây dựng tình thương đang chết dần trong mình. Tấm thân giãy chết nhưng đừng để tình thương giãy chết. Thực tập tình thương đến giây phút cuối của sự sống thì dù tấm thân tan rã, người này vẫn còn sống. Chết là một trái núi nếu người tham sống, nhường sự sống cho kẻ khác thì không sợ gì nữa, trái núi này sẽ như giọt sương, tan dưới ánh bình minh. (13)

Kệ Im Lặng Sấm Sét

Kệ Im Lặng Sấm Sét

Con đang ở trạng thái bất động
Tâm con không hề có một thứ âm thanh nào
Như một cung đàn không được lên tiếng
Như một rừng cây không còn xào xạc.

Con đang ngồi giữa nơi ồn ào nhất
Nhưng những tiếng nói thù hận đã không còn tần số
Con đang đứng giữa phố chợ sầm uất nhất
Nhưng những lời gọi mời đã không còn hiện hữu
Con đang đi giữa mây mưa vần vũ
Nhưng mà người ơi
Chấm dứt trong con đã hoàn toàn.

Một im lặng thật hùng tráng
Một im lặng như sấm sét
Một im lặng triệt để trong con khi một bức tranh đầy dẫy sự cám dỗ
Hơi thở đã hồi sức
Sự sống trong con trào dâng
Làm chùn bước những cơn giông bão
Làm sợ hãi những trận cuồng phong.

Hãy biết rằng bây giờ im lặng trong con vẫn tràn đầy
Cái im lặng bùng nổ như trận đại hồng thủy
Cái im lặng của sự sống
Thế giới im lặng tỏa sáng lớp cầu vồng
Tâm con không còn khuynh động
Con trở về trong im lặng muôn màu. (10)

Bài kệ này tôi làm hồi khoảng giữa năm 2008. Mỗi khi có sự lăng xăng trong tâm, tôi lại đọc bài kệ này, để nhắc mình phải thực tập tâm bất động. Sáu thứ giặc có thể lấy trộm tâm của mình, làm tâm mình bị khuynh động, đó là sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Mình không trốn chạy sáu trần như thấy cái đẹp thì nhắm mắt lại, bịt tai để đừng nghe âm thanh, bịt mũi để không ngửi thấy mùi hương. Tâm bất động là thấy sắc không động, nghe âm thanh không động, ngửi mùi hương không động. Nếu tâm động phải có chánh niệm mà nhận biết ngay, quán chiếu tính không đáng dính mắc và không đáng tham cầu của đối tượng, để thấy đối tượng như huyễn, không thật có, thấy được cái tính ảo của nó, để làm một người chiến binh, đi trong thế giới ảo mà không bị đồng hóa với cái ảo.

“Tâm không hề có một thứ âm thanh nào” là biểu hiện của tâm bất động. Ngoài kia đầy dẫy những âm thanh kích động, nào tiếng hạnh phúc, nào tiếng khổ đau, nào tiếng khen chê, nào tiếng được mất. Biết bao nhiêu âm thanh rót vào tai, tác động vào tâm làm tâm điên đảo. Tâm động nên tâm lăng xăng, tâm chạy theo các âm thanh và bay nhảy chiều chuộng các âm thanh đó. Âm thanh đến rồi đi, kẹt vào cái đến rồi đi thì phiền não, khi còn thì mừng vui, khi đi thì phiền não. Tâm không động thì dù âm thanh kiểu gì, bay nhảy kiểu gì cũng không tác động gì được tới tâm, tâm không chạy theo âm thanh. Mình vẫn nghe âm thanh, dù chát chúa hay dịu ngọt, âm thanh đó không làm hại được mình. Âm thanh rất vô ngã, không thể bắt âm thanh theo ý mình được, như lòng người ngược xuôi, âm thanh lúc trầm lúc bổng. Âm thanh trầm thì cứ để nó trầm, âm thanh bổng cứ để nó bổng, đừng để tâm trầm bổng theo âm thanh.

“Như một cung đàn không được lên tiếng” là cung đàn tạo ra âm thanh nhưng không thấy có âm thanh. Đàn mà không tạo ra âm thanh là cung đàn bỏ đi. Nàng tiểu thư Mỵ Nương đắm chìm tiếng sáo Trương Chi mà sinh bệnh, cái bệnh tâm tham đắm mà ra, tham đắm là một thứ vi trùng, nó làm mình khổ sở và bệnh tật. Trong phim Tây Du Ký, có một ma nữ đánh đàn tỳ bà, đánh tới đâu, âm thanh mê hoặc vang ra, khiến người nghe thất điên bát đảo. Cung tần mỹ nữ trong vua được dạy đánh đàn để làm tan nát trái tim vua, có những ông vua đam mê tiếng đàn của mỹ nữ mà quên đi triều chính, anh hùng cách mấy cũng không qua nổi ải mỹ nhân. Đàn ngân vang thì đàn cứ ngân vang, âm thanh có thể hay đó, nhưng mình không qui lụy bởi cung đàn, thì dây đàn vẫn còn đó nhưng trong tâm dây đàn đã bị đứt rồi, cái đàn đã bị đập vỡ tan tành. Như bài hát Đập Vỡ Cây Đàn, buồn cho tình đời đổi trắng thay đen, cái buồn không thấy được sự tương tức giữa đen và trắng, nên tâm bị dao động bởi thế thái nhân tình lúc trắng lúc đen. Tâm bất động thì trắng biết trắng, đen biết đen, và có cả hoàn cảnh không trắng lẫn không đen. Trắng thì không níu kéo và đen thì không xua đuổi. Trắng đen chỉ là ý niệm, buông bỏ ý niệm trắng đen thì có gì đen và có gì trắng, tâm trở nên bất động.

“Như một rừng cây không còn xào xạc” mà rừng xào xạc vì bị gió lung lay. Gió này là gió của ái dục, nó thổi một cái, mình nghiêng ngả, làn gió dục nhẹ thôi, mình đã điêu đứng rồi, nói chi đến trận cuồng phong. Cây muốn yên mà gió chẳng muốn ngừng, nhưng đừng có bắt gió ngừng, mà hãy thực tập để bắt mình ngừng lại. Gió thổi thì cứ thổi, nếu tâm không động thì gió mạnh như cuồng phong, cây vẫn đứng vững như kiềng ba chân. Ca dao Việt Nam có câu, Dù ai nói ngã nói nghiêng – Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Hãy xây cái kiềng ba chân trong tâm của mình, đó là giới, định và huệ. Ba điều tam học này như cái kiềng ba chân. Tâm có giới thì tâm không sợ gió nổi, tâm có định thì tâm không sợ cuồng phong, tâm có tuệ thì tâm không sợ bão tố. Gió đang nổi lên đấy thôi, đi trong gió nhưng không làm tâm gãy đỗ vì mình đã đặt cái kiềng ba chân trong tâm rồi. Hãy làm cho tâm bất động, là tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. Tâm bất động như bức tường thành, trái banh lăn tới, văng vào tường thì phải dội ngược trở lại.

Thực tập tâm bất động bằng phương pháp thiền Minh Sát Tuệ hay thiền quán Tứ Niệm Xứ đều được. Khi đối diện với tâm thiện, mình biết đó là tâm thiện và khi đối diện với tâm bất thiện thì biết đó là tâm bất thiện. Mình không tìm cách an trú trong tâm thiện để xa rời tâm bất thiện, như không chui rúc trong căn phòng hạnh phúc để trốn chạy căn phòng đau khổ. Tâm gì phát khởi thì biết tâm, lúc biết tâm thì tâm đó sẽ diệt, tức là không kẹt vào tâm gì cả. Trạng thái không kẹt vào tâm gì hết, gọi là tâm bất động. Tâm bất động khác với tâm bị động. Tâm bị động là đang dũ dượi trong tâm, giống như ai kêu gì thì làm nấy chứ không biết sắp xếp công việc.Tâm bất động lại khác, nó nhận diện nhưng không can thiệp, không giằng xé tâm để cho nó duy trì hay làm cho tan biến. Mình có thói quen can thiệp vào tâm nên tâm nhức nhối, không an nhiên được. Biết tâm nhưng không can thiệp vào tâm là biết kham nhẫn. Mình hạnh phúc quá nên muốn tâm vỡ òa, mình không biết kham nhẫn với hạnh phúc nên khi hạnh phúc trôi đi, mình chán rất mau. Mình đau khổ quá nên muốn tâm thoát khổ, vận động tâm quá mức để tâm không bị đớn đau, mình không biết kham nhẫn với đau khổ nên khi đau khổ trôi đi, mình đã vội vàng sung sướng. Kham nhẫn với đòi hỏi điều khiển tâm để cho tâm bất động.

Tâm bất động là tâm tỉnh thức và tỉnh thức tâm tức là biết tâm, không để tâm trôi lăn trong các điều kiện của hạnh phúc và khổ đau. Mình không đè nén tâm của mình, vì càng đè nén thì đối tượng mình đè nén càng trở nên mạnh. Người đầu bếp nấu thức ăn, khi thức ăn vừa chín tới thì bắt xuống, không để trên bếp nữa. Nếu để trên bếp quá lâu, thức ăn có thể quá chín và quá mềm, ăn không thấy ngon. Cũng vậy, đè nén tâm thì tâm sẽ muốn bùng nổ, như người mẹ cấm đứa con không được đi chơi, thì đứa con sẽ càng tìm cách trốn nhà đi chơi. Nếu muốn ép tâm ở với thân, tâm sẽ càng muốn thoát khỏi cái thân.

Rừng cây khi không có gió thì đứng yên nhưng khi có gió thì rừng cây xào xạc. Sở dĩ mình cho rừng cây xào xạc vì mình có ý niệm về sự xào xạc của rừng cây. Như một ông thầy dẫn đệ tử đi vào phố, thấy có lá cờ treo trước cổng ngôi nhà, gió thổi làm lá cờ tung bay. Ông hỏi đệ tử, Con thấy lá cờ đó làm sao? Đệ tử trả lời, Dạ, lá cờ đang tung bay. Ông hỏi tiếp, Lá cờ đang tung bay hay tâm của con đang tung bay. Mình có hai ý niệm, một ý niệm về lá cờ không động đậy vì không có gió, hai là ý niệm động đậy vì trời đang nổi gió. Chính các ý niệm này mà mình nhận thức lá cờ đứng yên hay đang động đậy. Tâm bất động thì tâm không còn ý niệm, mọi ý niệm đều im bặt. Nếu lá cờ đang tung bay mà có người cho là nó đang đứng yên rồi mình cãi lại thì tâm đang động đậy rồi. Bất động thì không tranh cãi vì tâm không còn tìm kiếm sự tranh cãi. Khi tâm chưa bất động thì đừng cố ép nó cho nó bất động. Thực tập nhận biết tâm một cách đơn thuần cho đến khi tự nhiên tâm bất động nhưng có cái gì gọi là bất động đâu, tìm kiếm tâm bất động thì làm sao được bất động.

Sáu trần là đối tượng của sáu căn còn gọi là lục tặc, tức là sáu thứ giặc. Sáu thứ giặc này gồm giặc sắc, giặc thanh, giặc hương, giặc vị, giặc xúc, giặc pháp. Mình không tránh né sáu thứ giặc bằng cách chạy trốn chúng vì chúng như huyễn, không thực có. Sở dĩ mình trốn chạy vì mình có ý niệm về chúng, u mê hoặc không nhìn thấy tự tính không mà chúng vốn có.

“Con đang ngồi giữa nơi ồn ào nhất nhưng những tiếng nói thù hận đã không còn tần số”, tức là con không còn thù hận, không tìm kiếm thù hận và không cổ vũ thù hận dù con đang ngồi chình ình giữa chốn thù hận. Có chỗ nào ồn ào như cái chợ không, có chỗ nào ồn ào như sân vận động hàng ngàn người không, có chỗ nào ồn ào như cuộc biểu tình rầm rộ chiếm phố Wall không, có chỗ nào ồn ào như lúc người ta đang chửi bới ẩu đá nhau không. Con đang đứng ở những chỗ như vậy. Người ta đang lập chợ, đang xây sân vận động, đang biểu tình và đang tranh cãi. Nhưng tâm con đang bất động, không có một chút hận thù nào, con không trả giá, con không cổ vũ, con không hò hét, con không đàm luận. Tất cả những điều đã chấm dứt trong con vì con thấy mọi thứ vừa nêu không đáng dính mắc, không đáng tham cầu và dĩ nhiên con không bồi đắp thù hận trong tâm con. Con tha thứ việc người ta ra giá cao ngất ngưỡng, con tha thứ việc người ta chỉ mong đội bóng của mình thắng trận, con tha thứ việc người ta đòi hỏi quyền lợi và con tha thứ cho việc tranh giành thắng về phía người ta. Điều cốt lõi là con không còn đam mê, không phải là con quên hết đam mê, nhưng con không muốn vì đam mê mà sinh phiền não, muốn thù hận không có cơ hội phát sóng, con cần đi vào nơi ồn ào trong im lặng.

Tết Nhâm Thìn 2012 đang đến, người ta treo đèn, mua sắm, đi chơi, đủ thứ tiện nghi được bày biện, phố phường đông đúc, náo nhiệt lắm. Đây là dịp để người ta làm ăn, kiếm tiền và phát tài. Người nghèo lo không biết tết này lấy gì cúng ông bà, người giàu cũng lo, lo không biết phải mua cái gì, người nghèo thì lo kiếm tiền ăn tết, còn người giàu thì lo sắm đồ để xài tết. Mùa xuân chỉ đến vào dịp năm mới nên mùa xuân tràn ngập hương vị của vật chất và tinh thần. Với người có tâm xuân, họ đem tâm xuân tận hưởng sự sống nên mùa nào cũng xuân. Hạ cũng xuân, thu cũng xuân, đông cũng xuân và xuân thì xuân quá ngập tràn. Tâm xuân sẽ không tất bật với mùa xuân, không làm cho mùa xuân quá ồn ào. Người nghèo không phải lo nhiều, người giàu cũng không quá mệt mỏi. Không cần phải chạy để rồi lo sợ mùa xuân sẽ vụt mất. Con đang đứng giữa chợ xuân, nào là hoa mai, hoa đào, nào là quất, là cúc, là vạn thọ. Nhiều hoa lắm, con ngắm nhìn đến chán cả mắt vì sự thừa thãi của mùa xuân và sự thiếu thốn của những mùa còn lại. Sao con không đem xuân quanh năm bằng tâm xuân trẻ măng của con. Giữa chợ, người ta mời con mua hoa, mua tiền, mua tài, mua danh vọng. Con có cần phải đánh đổi tâm xuân của con bằng hoa, bằng tiền, bằng tài, bằng danh vọng hay không. Con trẻ và có sức khỏe, nhưng con cũng có đủ nghị lực để vượt qua những lời gọi mời.

“Con đang đứng giữa phố chợ sầm uất nhất nhưng những lời gọi mời đã không còn hiện hữu”. Ai mời thì cứ mời, con không mua thì thôi, vì mùa xuân của con không làm bằng chất liệu của tiền, của hoa, của danh vọng hay của sắc dục, mùa xuân của con làm bằng chất liệu của trời xanh, mây trắng, của an lạc, thảnh thơi. Phật không làm bằng chất liệu của thạch cao, ngọc ngà, châu báu, cẩm thạch, đá quý hay xi măng, mà Phật được làm bằng chất liệu của tình thương lớn, của đạo đức, của giới hạnh, của trí tuệ. Xin đừng mời con thức ăn ngon, con sẽ trở nên hư hỏng, mà hãy mời con thực tập tình thương. Xin đừng mời con vui chơi giải trí, con sẽ đánh mất chính mình, mà hãy mời con biết đạo đức hơn. Xin đừng mời con đi vào thế giới ảo, con sẽ rất lạc lõng và bơ vơ, hãy mời con thực tập giới hạnh và biết nương tựa. Xin đừng mời con chất chứa những kiến thức của thế gian, con sẽ trở nên rất cố chấp và ngã mạn, mà hãy mời con thực tập buông bỏ, phát khởi những tuệ giác quí báu cho đến khi con giải thoát.

Nếu ai sống ở miền Trung, nhất là những miền ven biển, sẽ không thể nào quên bão tố từ biển đi vào, hầu như là hàng năm. Ở miền Nam, thì mưa lớn hay nước sông dâng lên gây ra triều cường hay lũ lụt. Miền Bắc thì mùa đông lại thường đối mặt với rét đậm, thậm chí rét hại. Tuy nhiên đây là sự biến đổi của thời tiết, nhưng còn biến đổi ở trong tâm. Nhiều khi bên ngoài mình rất bình tĩnh nhưng bên trong lại dậy sóng, có bão tố, có lũ lụt, có giá rét ở trong tâm. “Con đang đi giữa mây mưa vần vũ nhưng mà người ơi, chấm dứt trong con đã hoàn toàn.” Tâm mình mây mưa vần vũ vì tâm không an, do mình chất chứa nhiều thứ trong tâm quá. Tâm mình không vô ngại vì còn phân biệt trước sau, cao thấp, còn mất. Muốn tâm vô ngại thì phải chấm dứt việc đi hoang của tâm. Mình đang ngồi đây, có thể ngồi chơi hay ngồi thiền, nhưng do sự tu tập không đúng cách, tâm mình vẫn đi hoang. Tâm đi đến mấy chỗ làm cho tâm hoang tàn gọi là tâm đi hoang. Vào chùa mà tâm còn lo lắng thì tâm đang đi hoang, ngồi thiền mà tâm vẫn còn lăng xăng là tâm đang đi hoang, ngồi kế bên vợ con mà tâm lang thang đến vợ kẻ khác là tâm đi hoang. Mình phải tập cho tâm không đi hoang nữa, không chạy nữa. Hãy biết dừng lại, chấm dứt cái thói đi hoang của mình.

Mình đang đi giữa mây mưa vần vũ là đi giữa những lời mời gọi mình đi hoang nhưng vì quyết tâm không để tâm hoang phế, mình chấm dứt tham đắm vào việc đi hoang cho đến khi chấm dứt hoàn toàn. Tâm lắng trong là tâm không đi hoang nữa, nên cho dù đi giữa rừng hoang vẫn tìm được lối ra và không sập bẫy. Nhiều khi đi giữa trời nắng chang chang nhưng vẫn có mây có mưa, do tâm đang kéo mây và tâm đang gọi mưa. Giống như người không thích ngồi không, ngồi không chịu không nổi, phải mở ti vi lên coi, mở vi tính lên xâm nhập Internet, mở tiểu thuyết ra đọc để khỏa lấp thời gian rảnh rỗi. Ti vi có nhiều cơn mưa làm ướt át tâm của mình, những bài ca ủy mị, những bộ phim đau thương, tưởng đem cái ti vi về có hạnh phúc ai ngờ nó tưới tẩm khổ đau cho mình. Internet có nhiều cơn mưa làm ngập lụt tâm bằng những hình ảnh kích dục, những lời nói kích động hận thù và những bài viết gây chia rẽ xói mòn mối quan hệ, tưởng cài đặt mạng lưới Internet chạy nhanh như gió, cập nhật trang web cho lẹ, ai ngờ nó làm mình chìm ngỉm trong trận lụt đó luôn. Tiểu thuyết tình sầu hay trinh thám hồi hộp làm yếu tim mình, trái tim đang khỏe mạnh không được tưới tẩm bằng hạt giống tâm hồn dễ thương, ngược lại mình tưới vào trái tim bao nhiêu chất độc của sợ hãi và trầm cảm, tưởng mua cuốn tiểu thuyết về là mình có nhiều niềm vui, ai ngờ mình bị nó làm chủ và xoay mình như chóng chóng.

Mấy phương tiện này nếu sử dụng không đúng cách đều là mây mưa hết, nó vần vũ mình nhừ tử. Mình có quyển sử dụng ti vi, nhưng hãy biết lựa chọn chương trình thích hợp. Mình có quyền sử dụng Internet nhưng phải biết lựa chọn trang web thích hợp. Mình có quyền đọc sách, nhưng hãy lựa chọn sách thích hợp. Phương tiện nào giúp mình sống sâu sắc trong hiện tại một cách đích thực, giúp mình tiến bộ và an toàn hơn thì sử dụng, còn không thì phải biết nói không với các nội dung không lành mạnh, cái này gọi là học cách chấm dứt khi sử dụng phương tiện.

Biết nói không với những lời gọi mời trong tâm là học cách chấm dứt trong mình, chấm dứt tức là dừng lại, dừng lại những đòi hỏi từ bên trong. Kinh tế phát triển sẽ đi đôi với tội phạm, tội phạm kinh tế. Công nghệ phát triển sẽ đi đôi với tội phạm, tội phạm công nghệ. Đạo pháp mà phát triển cũng sẽ có tội phạm, tội phạm tăng. Cái gọi là mạt pháp không phải từ bên ngoài đi vào mà từ bên trong đi ra, từ trong hàng tăng chúng mà đi ra. Muốn chấn hưng đạo pháp phải chấn hưng từ tăng chúng. Không phải mình xây chùa hàng loạt, tôn tượng, ấn tống kinh sách, thuyết pháp khắp nơi gọi là chấn hưng, mà phải chấn hưng chính mình, chính người tu phải tự chấn hưng. Có ông nhà giàu ở Việt Nam, ông muốn lọt vào danh sách 500 người giàu nhất thế giới. Ước muốn này có thể hay lắm, vì ông sẽ đầu tư nhiều dự án nhằm gia tăng giá trị tài sản, và đem lại công ăn việc làm cho nhiều người, nhưng ước muốn này bị chựng lại vì cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, lạm phát trong nước và nhu cầu thị trường thay đổi chóng mặt. Ông phải làm việc như cái máy và không có thì giờ dành cho  mình. Thời gian thấm thoát trôi đi, tuổi đã cao, sức đã yếu, ước muốn leo lên đỉnh cao vẫn còn đó, nhưng ngày giải thoát còn xa vời. Ước muốn làm  giàu chưa bao giờ chứng minh cho việc giải thoát cả. Một vận động viên tham gia SEAGAMES và cố dành huy chương, dù rằng phải tự bỏ tiền ra làm chi phí để đi thi. Anh dành được huy chương, mang vinh quang về cho đất nước, nhưng cái sâu xa nhất của cái huy chương là dự tính công việc làm ăn riêng. Chiếc huy chương giúp anh có thương hiệu để làm ăn hay kinh doanh sản phẩm thể thao.

Nói chung mọi thứ đều có mục đích của nó. Mục đích này vừa xong, mục đích khác xuất hiện và mình chạy trong bề thế giàn giáo của rừng mục đích. Dừng lại là không chạy theo mục đích nữa, không chạy theo đòi hỏi nữa. Chấm dứt không phải là không có mục đích gì cả, mà chấm dứt là chấm dứt ý niệm có mục đích và đạt mục đích mới khẳng định được mình và khẳng định hạnh phúc của mình. Xây chùa thì cứ việc xây, nhiều chùa thì tốt thôi nhưng cho rằng xây chùa nhiều là chấn hưng đạo pháp, thì mình đang tu đấy, nhưng mình chưa chấm dứt được. Mình làm giàu thì cứ làm giàu, giàu có lên thì tốt cho xã hội, người dân có thì giờ tu tập hơn nhưng cho rằng phải giàu có, phải được vinh danh thì mới có hạnh phúc, mới là thước đo của hạnh phúc, mình vẫn chưa chấm dứt được. Người vận động viên muốn dành huy chương thì cứ việc thi đấu, không sao cả, nhưng đừng quá lao lực vì nó, mà sinh ra sầu khổ và phiền não, vì cái huy chương mà phiền não thì không đáng, chấm dứt ý niệm có huy chương là có tất cả, có gì là phiền não nữa. Hãy tập chấm dứt phiền não bằng cách chấm dứt các ý niệm trong mình.

Cách đây không lâu báo chí trong nước có nhắc tới một cô gái ăn hải sản và trúng độc. Việc trúng độc này khiến cô bị dị ứng và da thịt chảy xệ xuống, biến cô thành một bà lão. Trường hợp khác, còn tệ hại hơn, một gia đình ăn cá nóc, trúng độc mà chết cả gia đình. Mình có thể ngăn chặn việc bị già trước tuổi hoặc bị ngộ độc mà chết bằng cách chấm dứt việc ăn uống có thể gây tổn hại đến sinh mạng, sức khỏe và các loài sinh vật khác. Mình có thói quen ăn mặn nên khó mà bỏ việc ăn mặn đi. Ngày xưa có một ông vua bên Ấn Độ chuyên ăn thịt người, ông ăn thịt thần dân của mình, đến khi bị mất cả ngôi vua, ông vẫn tiếp tục ăn thịt người. Do phước báu trong tiền kiếp mà kiếp này được làm vua nhưng do thói quen ăn thịt người trong kiếp xưa khiến kiếp này ông vẫn còn thèm khát. Học cách tiết chế giác quan, ông vua này chắc chắn không bị mất ngôi và không phải sa vào con đường đau khổ vì phục vụ cho việc ăn uống ghê tởm của mình.

Trong hàng tăng chúng cũng vậy, có những vị thánh tăng và cũng có những phàm tăng. Sở dĩ là thánh tăng vì họ biết cách giữ giới và giới luật là phương pháp thực tập chấm dứt rất hay. Không phải hiển nhiên mà đức Phật trước khi viên tịch dặn đệ tử phải lấy giới luật làm thầy. Sở dĩ là phàm tăng vì vẫn còn đang trên đường thực tập chấm dứt cho đến khi “chấm dứt trong con đã hoàn toàn”. Giới luật phải làm mới, nếu không bản thân giới luật cũng mục nát vì lỗi thời. Muốn thành đạo phải giữ giới thật nghiêm ngặt, vì giữ giới là bảo vệ tự do, chấm dứt là chấm dứt ngục tù xiềng xích, là phá tan địa ngục khổ đau, là hóa giải các phiền não triền miên.

Mình khổ là do mình không chịu chấm dứt. Biết rằng ăn tiết canh có nguy cơ dẫn tới bệnh truyền nhiễm như bệnh cúm gia cầm hay bệnh tiêu chảy cấp, nhưng mình vẫn ăn, do mình không chịu tiết chế cái thèm ăn của mình, mình chưa chấm dứt được cái thèm. Vì vậy mình tìm kiếm tiết canh để ăn, không được ăn sẽ thấy tiếc lắm, sẽ buồn, sẽ khổ đau. Như một người đi du học xa về, tìm đủ thứ món ăn để ăn, vì sợ đi nước ngoài không có món Việt Nam ăn. Mình không còn tự do trong việc ăn nữa vì sự thèm thuồng ngự trị trong tâm của mình rồi. Muốn có tự do, hãy chấm dứt thèm muốn.

“Một im lặng thật hùng tráng – Một im lặng như sấm sét – Một im lặng triệt để trong con khi một bức tranh đầy dẫy sự cám dỗ.” Mình đang bị sáu trần cám dỗ. Sắc đẹp cám dỗ, âm thanh ngon ngọt cám dỗ, mùi hương dễ chịu cám dỗ, vị ngon cám dỗ, xúc chạm cám dỗ và hoàn cảnh cám dỗ. Tất cả tạo nên một bức tranh hay một thế giới lộng lẫy xa hoa, níu kéo mình bằng hàng ngàn cái vòi của con bạch tuộc và hàng ngàn nanh vuốt của con mãnh hổ. Mình không có tất dao nào trong tay để chặt đứt những cái vòi đó và không có món võ nào để đả hổ. Cuối cùng mình bị bạch tuột nuốt chửng hay bị mãnh hổ mần thịt. Ngày xưa có bộ phim của Ý tựa đề là Con Bạch Tuộc nói về các thế lực mafia lũng đoạn hầu như mọi hoạt động kinh tế và chính trị của nước Ý. Cái vòi bạch tuộc đó ăn sâu vào đời sống của cả những quan chức và viên cảnh sát được cho là lương thiện nhất. Quan chức hay viên cảnh sát nào biết im lặng trước cảm dỗ của tiền bạc thì sẽ không bị cái vòi đó kéo đi. Trong truyện Thủy Hử, Võ Tòng đả hổ cứu dân làng thoát khỏi nguy cơ thiệt mạng do hổ cứ bắt người dân nào bén mảng vào rừng. Võ Tòng có võ, có sức mạnh nên đả hổ cứu nguy dân làng, được tôn làm anh hùng. Nhưng nếu Võ Tòng không từ chối lời mời nhục dục từ Phan Kim Liên, người chị dâu, vợ của anh bạn, chắc chắn chàng trai này sẽ bị vướng vào lưới tình sai trái, không biết bao giờ mới dừng lại được.

Từ chối trước những cám dỗ bằng cách im lặng hay nói không là biết im lặng hùng tráng. Sở dĩ gọi là hùng tráng vì người đẹp như vị anh hùng, biết chiến thắng cám dỗ từ bên ngoài. Tuy nhiên có những cám dỗ ngủ ngầm ở bên trong, nếu không tỉnh thức, mình sẽ chạy theo những tiếng gọi hoang dã ở trong tâm. Im lặng bên trong khó hơn im lặng bên ngoài. Mình có thể không nói lời nào, từ chối khéo lời mời, nhưng trong lòng vẫn nuối tiếc, vẫn thèm muốn, vẫn mong đạt được cái dục đó, nên mình chờ đợi đến lúc nào đó cái dục nó bùng phát ào ào như thác lũ, hừng hẫy như cuồng phong, mình chịu không nổi, mình để mặc cho cái dục nó nổi lên và mình trôi lăn trong cái dục đó. Cho nên mình phải tập im lặng bên trong, còn gọi là im lặng sấm sét, một thứ im lặng “làm chùn bước những cơn giông bão, làm sợ hãi những trận cuồng phong”. Im lặng đến nỗi giông bão phải tắt, cuồng phong phải lui và con ma dục co rúm lại, luống cuống khăn gói từ giã ra đi.

Có người rất sợ sự im lặng, sợ một mình, sơ yên ắng, sợ bình yên là do họ có thói quen thích ồn ào, náo nhiệt nên im lặng quá, chịu không nổi, họ thích nghe âm thanh của vũ trường chật chội đông đúc, hơn là âm thanh của sự sống trong không gian thênh thang, mà âm thanh của sự sống thì rất im lặng. Tips, hoặc tactics hoặc thủ thuật để thực tập im lặng sấm sét chính là hơi thở. “Hơi thở đã hồi sức – Sự sống trong con trào dâng”. Hơi thở là sự sống, sự sống xuất hiện thì đẩy lùi cái chết, cái chết mang đến bởi giông bão và cuồng phong. Mình ngồi đó, vững như trái núi, không giông bão hay cuồng phong nào có thể đánh sập trái núi. Hơi thở như sợi tơ sen trói chặt mãnh hỗ thì hơi thở cũng như cọng cỏ trói chặt giông bão và cuồng phong. Bà La Sát có cái quạt ba tiêu, quạt tới đâu lửa cháy hừng hực tới đó, nhưng chỉ cần một giọt cam lồ của Bồ tát Quán Thế Âm là dập tắt được lửa và tưới mát khắp ruộng đồng. Lửa này là lửa dục, dục này nó cháy trong lòng, có thể gọi là lửa lòng, thân tâm đều nóng bức khó chịu, chỉ cần trong tâm biết im lặng, phát khởi tình thương, dù chỉ một giọt từ bi nhỏ bé, cũng làm cho lửa dục tan biến, mưa rơi xuống, những hạt giống từ bi bấy lâu khô cằn có dịp tắm mát trong cơn mưa tình thương. Biết im lặng trong cơn dục là biết từ bi với chính mình.

Khi thực tập thiền, mình theo dõi hơi thở. Tâm nương theo hơi thở mà trở về với thân. Trong lúc đang thở mà tâm đi ra ngoài hơi thở, như nghĩ tới chuyện này chuyện kia, người này người kia, đây là tình trạng phóng tâm. Phóng tâm là chuyện bình thường với người mới hành thiền, mình chỉ cần niệm phóng tâm à cho đến khi việc phóng tâm kết thúc thì quay trở lại niệm hơi thở. Có thể mình phóng tâm đến việc làm cho mình giận và cơn giận bắt đầu nổi lên, hành giả niệm tâm sân bằng cách nhận biết cơn giận chưa phát sinh và bắt đầu phát sinh, cơn giận đang diễn ra và bắt đầu kết thúc, cơn giận kết thúc thì biết cơn giận đã kết thúc. Niệm như vậy sẽ thấy được tính vô thường của cơn giận. Thực tập cho đến khi đối trị với cơn giận và không còn muốn giận gì nữa. Lúc này, mình có thể thực tập im lặng trong cơn giận và khi cơn giận phát sinh, chỉ cần nương theo hơi thở mà quán chiếu cơn giận.

Tương tự như vậy, mình thực tập quán chiếu bằng phương tiện của hơi thở đế thấy rõ tính vô thường của cơn dục, cơn si mê hay cơn tham. Phải gọi là cơn vì không có gì kéo dài mãi mãi, tham lam có cơn, mê dục có cơn, giận dỗi cũng có cơn, mà đã là cơn thì lúc có lúc không. Biết cách nhận diện cơn thì mình làm chủ cơn và khi làm chủ được, nó sẽ tự nhiên mà diệt, không mắc công phải giải quyết gì nữa. Giải quyết ở đây là tìm kiếm cơ hội để giải tỏa cơn nghiện của mình, nghiện tham, nghiện sân, nghiện si. Im lặng với cơn nghiện thì cơn nghiện đâu làm được gì. Một người chửi bới mình mà mình im lặng, có thể họ làm tới, nhưng khi họ làm tới mà mình vẫn im bặt thì họ sẽ ngừng, vì họ tới bến rồi, đã tới bến thì đâu cần phải chèo nữa. Im lặng là biết buông xả.

Nghệ thuật của sự im lặng nằm ở chỗ biết buông xả. Trong thời tiền kiếp của đức Phật, ngài từng bị vua Kalinga chặt đứt cả thân thể nhưng ngài vẫn tiếp tục kham nhẫn trong im lặng vì ngài buông xả, không oán giận vua. Sở dĩ ngài làm được như vậy là do đã không bị kẹt vào tướng, nhân, chúng sinh và thọ giả. Im lặng với tướng vì tướng này không phải là ta, nó chỉ là biểu hiện của tứ đại và nghiệp tái sinh. Im lặng với nhân vì nhân này không phải là ta, nó chỉ là biểu hiện của tướng và sự đầy đủ của nhân duyên. Im lặng với chúng sinh vì chúng sinh không phải là ta, chúng sinh là biểu hiện của biệt nghiệp và cộng nghiệp. Im lặng với thọ giả vì thọ giả không phải là ta, nó chỉ là biểu hiện khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần.

Im lặng là một nghệ thuật vì nhiều khi nói cũng là nghệ thuật im lặng. Chẳng hạn, hai vợ chồng sống chung với nhau, người vợ có tri giác sai lầm với người chồng nên người chồng cần lựa thời điểm để giải thích, giúp người vợ giải tỏa tri giác sai lầm đó. Đây là biết nói, chứ không phải im lặng trong sự tan vỡ. Trường hợp khác, mình thực tập im lặng tuyệt đối, ngay cả khi bị vu khống hay bị kết oan sai. Như trường hợp của Quan Âm Thị Kính, bà phải im lặng dù biết rằng bản thân sẽ bị nhiều chỉ trích, vì bà cần cứu lấy đứa nhỏ, bà cần cứu lấy Thị Mầu, cứu lấy những tâm hồn bơ vơ, không nương tựa, phải nương tựa người biết kham nhẫn như bà. Ví dụ khác, một chàng trai xin qui y Tam Bảo và được chấp thuận, niềm vui chưa kịp trào dâng, chàng gọi điện thoại về kể với mẹ nghe. Người mẹ này ngay lập tức nổi giận vì không bao giờ muốn con của mình đi theo bất cứ đạo nào. Chàng mất hứng và nỗi buồn trỗi dậy. Nếu chàng thực tập im lặng thì sẽ không có buồn, cái này gọi là im lặng với nỗi buồn. Hãy nhìn cho kỹ vì sao mẹ không muốn anh theo đạo, vì mẹ sợ chàng rơi vào con đường mê tín khi Phật giáo ngày nay bị biến tướng quá nhiều, nên người mẹ bị mất niềm tin và có những khổ đau do sự mất niềm tin gây ra, chính điều này khiến bà khuyên con không nên theo đạo. Bên cạnh đó, bà không hiểu rõ con đường thực tập Phật giáo đích thực và bà chưa bao giờ thực sự tiếp xúc hạnh phúc đích thực, cho nên bà có sự sợ hãi, có sự lo toan, lo cho con của mình có sự nguy hiểm. Nghĩ vậy mà thương bà, chàng trai sẽ không phải buồn, có thể thương bà nhiều hơn vì bà đã nằm trong hoàn cảnh không thuận lợi cho việc thực tập Phật giáo. Im lặng vì thế không chỉ im lặng với bên ngoài mà im lặng với chính mình.

“Hãy biết rằng bây giờ im lặng trong con vẫn tràn đầy – Cái im lặng bùng nổ như trận đại hồng thủy.” Trong giây phút này, con đang thực tập sự im lặng. Nhiều người nói rất nhiều nên không làm được bao nhiêu, im lặng thì lắng nghe được, học được và làm được nhiều. Tranh cãi chỉ làm hao tổn phước, do chấp ngã gia tăng. Im lặng vì biết mọi sự vật vốn như của nó. Bỏ hòn đá vào đáy giếng, hòn đá sẽ chìm xuống. Dù có hàng ngàn người cầu nguyện để hòn đá nổi lên, là chuyện không bao giờ có. Mình tranh cãi, sử dụng ngôn từ, nhưng sự thật vẫn là sự thật, ngôn từ không thể miêu tả sự thật. Ví dụ mình làm bài kệ rất hay hoặc viết thư pháp rất giỏi nhưng bài kệ chỉ mang tính chất trình diễn và bức thư pháp chỉ mang tính chất tô điểm, nó không nói lên tính chất thực của nội dung bài kệ hay lời viết trong thư pháp nếu không thực tập được nó. Lại nữa, lấy một bát dầu đổ xuống giếng, dầu sẽ nổi trên mặt nước. Dù có hàng ngàn người cầu nguyện để dầu chìm xuống đáy giếng, e rằng đây là chuyện không tưởng. Khi đọc một bài kinh, điều mà mình hiểu kinh chưa chắc ý bài kinh muốn nói. Muốn hiểu kinh, phải hành kinh. Muốn hành kinh phải im lặng, việc giảng giải kinh chỉ làm xa rời kinh.

Con người làm đủ thứ nên đọa lạc vì tạo nghiệp quá nhiều. Im lặng tức là không làm gì cả, không nói gì cả, không suy nghĩ gì cả, im lặng sẽ rất tràn đầy. Một cái li không có nước không có nghĩa là nó trống, mà nó đang đầy không khí. Một tâm đang không dao động, không có nghĩa tâm trống rỗng, mà tâm đang đầy, đầy sự im lặng. Im lặng đến nổi trận hồng thủy phải bùng nổ. Ngày xưa, cách đây hàng triệu năm, trận đại hồng thủy làm tiêu diệt các loài khủng long và các sinh vật trên địa cầu, nhưng đại hồng thủy không đơn thuần làm tận thế thế giới mà nó lại bắt đầu một thế giới mới, từ đó mà nhiều loài sinh vật và loài người xuất hiện. Im lặng khiến trận hồng thủy bùng nổ, đó là giác ngộ. Giác ngộ nhẹ như mây nhưng mạnh như trận hồng thủy, nó quét sạch thế giới của u minh, để bắt đầu một thế giới mới, thế giới của im lặng, thế giới của sự giác ngộ. Ở trên, tôi nói im lặng có thể chặn đứng cuồng phong, nhưng ở đây tôi nói im lặng tạo ra trận đại hồng thủy. Dòng nước lớn này nhờ im lặng, nhờ không làm gì, nhờ ngồi yên mà tiếp xúc được với tĩnh lặng. Mình không tĩnh lặng vì mình đang lăng xăng, tâm mình đi hoang, thân mình lang thang, cho nên mình khổ. Không làm gì hết, thì còn gì phải khổ.

Ngồi ở nhà buồn, chàng trai không biết làm gì, nên rủ bạn đi nhậu. Lúc nhậu, ban đầu chưa xỉn, sau đó uống nhiều quá nên xỉn. Xỉn thì lời ra tiếng vào, không làm chủ được nên hai người bạn thân choảng nhau. Tỉnh lại mới thấy hối hận, cái buồn còn nhiều hơn lúc chưa đi nhậu, mà còn mất tình bạn. Ở nhà buồn thì im lặng với cái buồn của mình. Mình buồn vì có thói quen không chịu ngồi không, phải làm gì đó, phải đi chơi, phải giải trí. Mình không im lặng từ ban đầu nên những cái không im lặng bắt đầu lấp đầy, kéo thành chuỗi, nhấn mình trong vòng xoáy của say xỉn, của lời ăn tiếng nói, của lời rượu lời bia. Im lặng để biết ngăn ngừa, ngăn ngừa những trận cuồng phong.

 “Cái im lặng của sự sống – Thế giới im lặng tỏa sáng lớp cầu vòng.” Sự sống vốn im lặng, im lặng trong hành trình tự nhiên của nó. Mình đau khổ là do không chịu chấp nhận hành trình tự nhiên của sự sống. Ví dụ, đã sinh ra thì ắt phải già, già thì ắt phải bệnh hoặc già thì đến lúc mệnh chung. Do sợ hãi tiến trình này, mình không muốn già, không muốn bệnh, không muốn chết, cho nên mình khổ, mình tìm đủ mọi cách để kéo dài sức trẻ, sức khỏe và sự sống. Tần Thủy Hoàng bên Trung Quốc cho các ngự y bào chế thuốc trường sinh bất lão, nhưng trên thế gian này làm gì có, cuối cùng ông ta cũng phải chết. Ngày nay, đủ thứ mỹ phẩm làm sáng da, căng da mặt, đủ thứ thuốc giúp trẻ hóa nhưng không ai trẻ hóa mãi mãi, sống lâu cách mấy cũng đến hồi kết. Mình làm đủ thứ chuyện nhưng sự sống vẫn trôi, vẫn im lặng, không phản ứng trước sự tần tảo đáp ứng nhu cầu của chúng sinh.

Sau cơn mưa trời lại sáng và sau cơn mưa, cầu vồng xuất hiện. Bảy sắc cầu vồng hiện lên chân trời là minh chứng cho cơn mưa thôi rơi và bình yên quay trở lại bầu trời. Mưa có thể là điều tốt lành nhưng cũng có thể là điều không tốt lành. Nơi hạn hán chỉ cần một cơn mưa cũng đủ làm mát dạ trời đất, nên mưa có thể là điều tốt lành. Nơi lũ lụt, lạnh lẽo, trời cứ mưa suốt, nước sông lại dâng, mưa xói đất xói cát làm hư hại mùa màng, nên mưa có thể là điều không tốt lành. Mưa mãi rồi cũng tạnh, trời quang mây, bảy sắc cầu vòng lại khoe sắc, mọi thứ đều tốt đẹp. Mưa bên ngoài làm sao bằng mưa trong lòng, bên ngoài trời không mưa không nắng nhưng trong lòng thì đang kéo mây, một lát sau là mưa kéo đến, làm ngập lụt tâm của mình. Hãy làm cho bình minh sáng rực trong tâm, bình thường hóa mọi cơn mưa, để cho mọi khổ đau do cơn mưa mang lại đều trở nên êm dịu. Im lặng thì thế giới tỏa sáng lớp cầu vồng, thế giới này không nằm bên ngoài, không nằm bên trong, mà từ sâu thẳm của tâm, đã định sẵn lớp cầu vòng. Chỉ khi tâm tĩnh lặng, hay tâm thực sự im lặng, lớp cầu vồng sẽ biểu hiện. Kinh thường nói tới ánh hào quang của chư Phật. Các chư Phật tỏa sáng hào quang vì tâm im lặng cùng tột, chính im lặng này làm mọi đen tối tan biết, chỉ còn lại ánh sáng chói diệu kỳ. Tâm mình cũng có ánh hào quang như vậy, vụt sáng trong đêm tối của ồn ào để trở về trong im lặng. Nhờ biết im lặng, tâm mình biết phóng hào quang, biết phóng bảy sắc cầu vồng.

“Tâm con không còn khuynh động – Con trở về trong im lặng muôn màu.” Tâm động nên mọi thứ đều động, dù đó là hoàn cảnh bên ngoài hay cảm thọ bên trong. Khi tâm không khuynh động, mình có sự bình an và đây là bình an vô hạn. Nụ hoa nở thành đóa sen, ngày hôm sau hoa sen héo úa và trở về bùn. Nhìn nụ sen nở và sen trở về bùn nhưng tâm động đậy, mình sẽ vui mừng vì sen nở và buồn bã vì sen héo tàn, nhưng với tâm bất động, sen nở thì biết sen nở, sen tàn thì biết sen tàn, vì đó là chuyện bình thường, quá vui hay quá buồn với chuyện bình thường là do mình thêm hương vị vào tâm mà thôi. Con người cũng vậy, mình sống với người thương thì đến lúc nào đó người thương sẽ ra đi, người thương không thể sống đời với mình. Khi người thương còn sống, mình trân quý sự có mặt của người đó và cống hiến sự bình an của mình cho người đó. Khi người thương ra đi, mình vẫn tiếp tục sống và tiếp tục hiến tặng sự bình an của mình, đơn giản vì người thương có đi đâu đâu, mình chính là người thương đấy thôi. Tâm không còn khuynh động thì chuyện hợp tan không phải là vấn đề. Có bài kệ, Đã hợp thì phải tan – Hãy tập sống đàng hoàng – Yêu thương trong hiện tại – Xá gì chuyện hợp tan. Khi đang hợp thì mình cứ vui đi, yêu thương cho đàng hoàng đi, tận hưởng niềm vui mầu nhiệm trong hiện tại đi, tại sao phải lo chuyện hợp tan, hãy để chuyện hợp tan tự lo cho nó.

Im lặng muôn màu là im lặng trong mọi hoàn cảnh, là bài thực tập kham nhẫn trong mọi hoàn cảnh. Im lặng chưa hẳn là không làm gì cả mà im lặng là biết chấp nhận, lắng nghe, nhìn sâu và học cách chuyển hóa. Chấp nhận điều khác biệt để cái tôi, cái ngã tan dần. Lắng nghe để xem vì sao cái ngã không đáng có và vì sao người ta lại dính vào nó. Nhìn sâu để thương cái ngã không đáng có kia vì chính nó làm người ta khổ và làm cho mình không im lặng được. Học cách chuyển hóa cái ngã đó đi, tức là buông nó ra, xả nó. Hoàn cảnh muôn hình vạn trạng, đều do duy tâm biến hiện, tạo ra, vẽ vời, cho nó nếm trải đủ mùi vị và trở nên linh động như thật. Như một nhà văn xây dựng tính cách nhân vật, nhân vật không có thật nhưng tài của nhà văn là vẽ ra một hình tướng, một tính cách và một hoàn cảnh cho nhân vật. Người đọc sẽ buồn vui lẫn lộn với nhân vật, dù biết rằng nhân vật này không thật. Đọc sách chỉ để đọc sách thôi, nếu không tỉnh thức, mình sẽ buồn tủi cho số phận nhân vật, nhưng thực ra là xót xa cho chính thân phận mình. Mình đồng hóa mình với nhân vật và sống hay hành xử như nhân vật vậy. Mình đang ảo hóa đời mình đấy thôi. Tất cả hoàn cảnh đều ảo, không thật, như huyễn, nên im lặng để không bị lây lan, không bị lan truyền, không bị gậm nhấm. Người kia làm mình giận, mình im lặng. Người kia tìm cách hãm hại mình, mình im lặng. Lời mời giải trí đang lả lơi, mình im lặng. Người nọ đang hận thù mình, mình im lặng. Thực tập im lặng cho đến khi mình trở thành sự im lặng. Im lặng muôn màu là chỉ biết im lặng thôi, đây gọi là kham nhẫn cùng tột, kham nhẫn cho đến khi không còn cái gì gọi là kham nhẫn nữa. Kham nhẫn đích thực là biết im lặng, im lặng trong muôn màu của sắc thái sự sống.

Hãng phim Kodak nộp đơn phá sản sau khoảng hơn 130 năm hoạt động là minh chứng cho sự vô thường của đời sống kinh doanh. Hiếm khi có hãng kinh doanh nào tồn tại đến 200 năm nói chi là ngàn năm. Im lặng với vô thường để thấy vô thường không hẳn là con ma như người ta thường nói là ma vô thường hay quỷ vô thường. Nhờ vô thường, chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại, người chiến sĩ trở về. Nhờ vô thường, cái khổ chấm dứt và mình có thể tiếp tục tu tập giải thoát. Hương vị giải thoát mang dáng dấp của vô thường, như đi từ chỗ chưa giải thoát đến chỗ giải thoát. Nhờ vô thường mà nụ hoa nở thành hoa, em bé lớn lên thành thiếu nữ và người mẹ có sự tiếp nối. Vậy vô thường cũng là tin mừng. Im lặng với mọi hoàn cảnh của vô thường thì sẽ thương và trân quý vô thường. Vô thường giúp mình đi tới, nên cứ dạo chơi giữa vô thường, lợi dụng vô thường mà tiến tu.

Động đất dưới lòng biển Nhật Bản dẫn tới sóng thần đánh tan nát miền Đông bắc Nhật Bản, đây là thiên tai, mà thiên tai thì khó mà ngăn chặn. Tại sao lại như vậy? Vì tất cả mọi hiện tượng đều vô ngã hay pháp vô ngã. Mình thương người kia và muốn người kia thương mình, nhưng việc người kia có thương mình không mang tính vô ngã, mình không ép người đó thương mình được. Hoặc ăn cơm xong, một lát sau phải đi cầu, đến lúc thì phải đi thôi, không thể ép mình không nên đi cầu được. Hoặc mình có tiền muốn mua chiếc Smartphone nhưng mình không thể tạo ra chiếc đó được ngay cả Steve Jobs, mà phải sử dụng các yếu tố thiên nhiên và sức người mới tạo được. Cho dù có tiền mà không ai bán Smartphone thì cũng chẳng mua được, cũng dễ hiểu vì Smartphone hết sức vô ngã. Im lặng với vô ngã để kham nhẫn với sự biến đổi của vô thường. Động đất không tác động được nhưng động đất đến rồi cũng sẽ đi. Việc đi cầu không thể tác động được nhưng đến lúc muốn thì cứ đi. Có tiền mua Smartphone thì cứ mua nhưng đừng bị kẹt vào sự bấp bênh về tính sở hữu của chiếc máy. Im lặng với vô ngã mà không giận vô ngã, mình biết mọi thứ đều đang vay mượn, không có tự tính riêng biệt, không có cái tôi. Biết mọi thứ mong manh thì không chấp nhặt vào cái gì. Im lặng để biết dạo chơi giữa vô ngã, lợi dụng vô ngã tạo nhân duyên thuận lợi cho việc tiến tu.

Im lặng với quá khứ, hiện tại và tương lai giúp hành giả vượt thắng thời gian. Người chiến binh trở về từ chiến trường, hình ảnh tan thương chết chóc cứ ảm ảnh anh, nên tinh thần không được lành mạnh. Người khác thì cứ mãi kể về chiến công hiển hách mà quên đi hiện tại, bao nhiêu dĩ vãng cứ tuôn chảy mãi không dứt. Hiện tại đang có hòa bình nhưng mình không chịu tận hưởng, mình đem xác xe tăng, xác pháo, xác chết vào hòa bình của hiện tại khiến cho cái hòa bình đó bị nhuốm máu. Lại thêm, cô gái thương chàng trai và chàng trai ra đi, không ở với cô nữa, cô đau khổ. Những kỷ niệm đẹp đẽ cứ tuôn ra và cô sống trong hoài niệm, cô hờ hững với thực tại, không chấp nhận được thực tại là chàng trai không còn ở bên cô và cô cần phải tiếp tục sống. Biết “quá khứ đã đi qua” là biết im lặng với quá khứ. Quá khứ không phải là cái để chìm đắm vì quá khứ đã là lịch sử, mình không thể thay đổi quá khứ. Muốn hạnh phúc trong hiện tại phải thay đổi trong hiện tại. Muốn bù đắp cho quá khứ, hãy làm điều đó ngay trong hiện tại. Mình có quyền nghiên cứu và học hỏi quá khứ nhưng không chỉ trích, lên án và buộc tội quá khứ, mà hãy xem quá khứ như bài học xây đắp hiện tại.

Im lặng với tương lai để biết kiên nhẫn, kiên nhẫn nhưng không chờ đợi. Mình hay phóng tâm về tương lai, cho rằng tương lai mình sẽ như thế này, hình dáng thế này, địa vị thế này, cuộc sống thế này, làm các giá trị của thực tại bị xóa nhà. Vô hình chung mình bị rơi vào trạng thới mơ mộng viễn vông và chạy tìm kiếm các hình ảnh hay viễn cảnh của tương lai. Sự kiên nhẫn đối với mình là gì đó rất xa vời, do thói quen chạy tất bật được xây dựng bởi giáo dục, bởi kinh tế, bởi sinh hoạt trong đời sống hàng ngày. Tương lai có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào cách mình sống trong hiện tại. Mình có quyền hoạch định cho tương lai, nhưng kế hoạch này phải được thực hiện trong hiện tại. Nếu hiện tại không làm gì hết mà mong đạt mục tiêu trong tương lai, e rằng mình đang đi trong thế giới ảo của ước mơ không bao giờ thành hiện thực.

Sống sâu sắc trong hiện tại nhưng không trôi lăn trong hiện tại, đây gọi là im lặng với hiện tại. Hiện tại đầy dẫy những cạm bẫy của ái dục, nếu đi vào ái dục trong hiện tại thì ngay cả hiện tại cũng bị mất luôn. Đắm chìm trong ái dục có khác nào đắm chìm trong quá khứ và tương lai. Chàng trai kiếm ma túy chơi để trốn cái đời đen bạc, vì anh sợ hãi, vì anh không chịu nổi sự thật đang diễn ra nên muốn trốn chạy trong cái dục của ma túy. Hoặc có người đi học rất nhiều, làm việc rất nhiều để chứng minh là mình giỏi, lúc nào cũng bận rộn để chứng minh mình không có thì giờ, nhưng thực ra đang hun đúc cho cái ngã, cho sự kiêu mạn của mình, hiện tại đối với người này rất xa vời. Im lặng với hiện tại để tiếp xúc thực tại cùng tột. Hãy thử nhìn xem, bầu trời đang xanh trong, đàn chim đang hót líu lo ngoài cửa, tiếng gà đang gáy sáng, mặt trời vừa lên. Hãy chiêm nghiệm xem, trái tim này vẫn còn đập, khối óc vẫn còn minh mẫn, bước chân vẫn còn khỏe, và mình đi chỉ để đi, ngồi chỉ để ngồi và sống trong sự tận hưởng sự sống đích thực.

Sáng sớm, mặt trời vừa lên, chàng trai thức dậy thiền tập, anh đang tập im lặng. Bữa ăn sáng đạm bạc cũng đủ làm anh khỏe để làm việc. Người ta ăn phở mấy chục ngàn mới thấy ngon, anh ăn chỉ có gói xôi vậy mà sao thấy ngon quá. Anh biết im lặng trong khi ăn nên biết xôi ngon không khác gì cao lương mỹ vị. Vấn đề là anh biết ăn. Đường phố đông đúc. Anh không ngạc nhiên vì lúc nào nó chả đông. Anh vẫn chạy xe từ tốn trên đường, ai muốn chạy nhanh thì chạy, ai muốn chạy chậm thì chạy, ai muốn bấm còi thì bấm, ai xin đường thì anh nhường. Đi để mà đi, đi không phải để đến, vì anh đã đến trong từng bước đi, anh đã đến trong từng bánh xe lăn. Nơi công sở người ta cạnh tranh nhau, người muốn được sếp yêu thích, người muốn được tăng lương, người muốn được thăng quan tiến chức, người muốn được trọng dụng trong xã hội. Mấy cái muốn được đó đẩy họ đi như chạy và chạy như bay. Đi như vậy chóng mặt là cái chắc. Anh không đẩy mình vào vòng xoáy của sự canh tranh, ai muốn cạnh tranh thì cạnh tranh, anh chỉ muốn im lặng, im lặng trong cơn lốc xoáy cạnh tranh. Đã cạnh tranh thì sẽ có kẻ thắng kẻ thua. Kẻ thua sẽ dễ trở nên mặc cảm. Người thắng sẽ dễ trở nên kiêu mạn. Anh không cạnh tranh, anh đâu tìm kiếm cơ hội kiêu mạn và mặc cảm. Im lặng trong công việc để công việc có sự sống, có sự tiếp xúc sâu sắc vì làm việc chính là tận hưởng sự sống.

Buổi chiều, anh từ chối những lời mời đi chơi, nào là xem phim, nào là đi nhậu, nào là karaoke, vì anh thấy chúng làm anh mệt mỏi. Anh về nhà sớm, nấu bữa cơm chiều, bật đĩa lên nghe pháp thoại, rồi anh lại ngồi thiền. Anh thực tập im lặng hùng tráng cho đến sáng ngày hôm sau. Anh không thấy chán với đời sống của mình, mà thấy mình may mắn vì có thì giờ để làm được nhiều việc một cách thảnh thơi, không bị tai nạn. Anh trân quý sự sống nên không cho phép mình lãng quên sự sống. Anh mỉm cười, nụ cười nhẹ nhàng, đó là hoa trái của khoảng thời gian anh thực tập im lặng.

Ngoại Đạo Dùng Cô Cincà Vu Cáo Phật

Ngoại Đạo Dùng Cô Cincà Vu Cáo Phật

Các ngoại đạo thấy người trẻ, người tri thức đi theo đức Phật và xuất gia theo Phật, đồng thời các tín thí cứ cúng dường Phật cùng tăng đoàn của người, nên ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Họ tìm cách nói xấu và tung ra những tin đồn thất thiệt nhằm làm hạ uy tín và bôi nhọ phẩm giá của Phật và tăng đoàn. Thấy các đệ tử lo lắng, bàn ra tán vào, có thể ảnh hưởng đến sự tu học của mọi người, Phật an ủi, Các thầy chớ có sinh tâm phiền muộn vì những lời đồn thổi, những lời đồn đó trước sau gì cũng sẽ im bặt.

Ngoại đạo thấy không có kết quả gì nên bắt đầu lập mưu, cùng với đạo sư Ajita-Kesakambala, xúi giục một cô gái tên là Cincà Manavika khá xinh đẹp, đề nghị cô thường xuyên lui tới tinh xá Jetavana để mọi người biết mặt, sau đó khi vắng người thì thỉnh thoảng có mặt trong tinh xá. Nếu có ai đi từ tinh xá Jetavana về Sàvatthi thì cô Cincà đi ngược lại từ Sàvatthi đến Jetavana. Nếu có ai hỏi cô đi vào tinh xá làm gì thì cô trả lời một cách lơ lửng, Tôi đi đâu kệ tôi, liên quan gì đến các người. Vài tháng sau, cô sử dụng rơm độn vào bụng, từ nhỏ đến to dần, để chứng minh mọi người mình đang có thai. Cho đến một hôm, cô dùng cái gáo bằng gỗ độn vào bụng để cái bụng săn chắc và to lớn hơn, dùng dây thắt ngang lưng, mặc áo rộng thùng thình dành cho đàn bà có thai, đi tới tinh xá Jetavana trong lúc Phật đang thuyết pháp cho hàng tứ chúng. Không chào hỏi ai, cô đứng trước Phật và hàng đại chúng, dùng tay chỉ vào bụng mình rồi nói thật to cố ý cho mọi người đều nghe, Này sa môn Gotama, ông cứ mãi sử dụng lời đạo đức để lừa dối thiên hạ, trong khi ông không phải là người đạo đức, ông thường xuyên dùng lời mật ngọt để khuyến dụ tôi, đến nỗi tôi phải xiêu lòng, bây giờ bụng mang dạ chửa, ông phải tính làm sao, ông phải lo cho tôi và đứa con của tôi, ông tính hưởng lạc rồi bỏ mặc mẹ con tôi sao, ông làm khổ mẹ con tôi giờ ông tính sao.

Nói xong, cô giả vờ khóc nức nở như một người diễn viên. Đức Phật bình tĩnh lắng nghe lời cô nói từ đầu đến cuối, cũng như quan sát từng hành vi của cô, rồi ngài nói một cách ôn tồn, Này cô Cincà, những gì cô vừa nói chẳng có bằng chứng chi cả, sự thật thì vẫn là sự thật, chỉ có tôi và cô mới biết sự thật này thôi. Nhìn thấy vẻ mặt điềm tĩnh không chút dao động nào của đức Phật, đồng thời vẻ tĩnh lặng của tăng đoàn khiến cô Cincà bắt đầu cảm thấy áy náy, hành vi trở nên khác thường, cô luống cuống đi tới lui, vấp phải cục đá và ngã xuống đất. Sợi dây cột cái gáo đứt ra, cái gáo trong bụng văng ra ngoài, hàng tứ chúng đều ồ lên. Cô xấu hổ vì biết mình lộ tẩy, nên nhắm thẳng cửa tinh xá mà chạy đi, không dám bén mảng tới nữa. Kể từ lúc này, chẳng ai nói xấu Phật và tăng đoàn của ngài, mọi lời đồn đãi không hay trước đây bây giờ đều im bặt.

Khi quyền lợi bị xâm phạm, người ta thường lập kế hoạch bôi xấu người khác. Do dính mắc vào quyền lợi nên tâm chưa giải thoát, ngoại đạo lên phương án và kế hoạch hành động để tấn công và làm hạ uy tín của Phật. Nhưng bằng sự bình tĩnh và an nhiên của ngài, hành động sai trái không làm ngài gục ngã, mà từ sau sự cố đó, uy tín của ngài lại càng gia tăng. Ngày nay, với sự phát triển của mạng lưới Internet, người ta có thể sử dụng một cái “nick” nào đó và đưa lên mạng những hình ảnh sai trái, lời nói sai trái để chỉ trích hay lên án một đối tượng mà họ không thích hoặc cố ý làm hủy hoại thanh danh của đối tượng đó. Với người vững vàng, hình ảnh hay lời nói sai trái không ảnh hưởng gì, nhiều khi nó làm chất xúc tác cho mình thực tập. Nếu biết im lặng hay kham nhẫn với thế lực sai trái đang cố tình bôi xấu, đến lúc nào đó sự thật cũng phơi bày ra ánh sáng và mọi bôi xấu đều sẽ im hơi lặng tiếng. Sự giấu mặt của giả dối thường nằm trong bóng tối và bị dị ứng với ánh sáng. Do tu tập chưa tới, sự hiềm hận và ganh ghét phát khởi, đồng thời không đủ phương tiện để chuyển hóa các tâm này nên họ trong tình trạng rất đau khổ, đau khổ vì không biết hoan hỷ, không biết yêu thương. Người như vậy đáng thương hơn đáng trách. Do không dám đối diện với sự thật, nên đành phải ẩn danh, phải dùng “nick name”, phải nằm trong bóng tối. Mình đang ở ngoài sáng thì hằng cớ gì phải đi vào bóng tối. Hãy để cho ánh sáng ngập tràn thân tâm, bằng cách không phản ứng trở lại bất cứ sự bối xấu nào. Cái kim lâu ngày trong túi cũng sẽ phải lòi ra. Sự thật vẫn là sự thật, không bóng đêm nào đủ sức khuất phục một tia sáng dù rất lẻ loi. Người làm sai chắc chắn sẽ phải nhận hậu quả thê thảm. Biết vậy, mình không bắt chước họ, không chạy theo lối mòn của họ, mà ngược lại phát khởi tình thương với họ, mong họ không bị quả báu, mong họ có đủ phước để nhận ra con đường sai trái mà sửa chữa. Mình không phải là tên đánh thuê cho tâm ganh tị và tâm ganh tị không phải là ông chủ đi kiếm mình làm kẻ đánh thuê. Tâm ganh tị đó có thể dẫn mình đi xa con đường hạnh phúc và kéo gần đến con đường khổ đau. Kham nhẫn với tâm ganh tỵ để tâm bất thiện này không sai khiến nữa, không lên kế hoạch phòng thủ hay tấn công đối tượng nào nữa. Thương cả tâm ganh tỵ, cho nó cơ hội buông bỏ cái bản chất nhỏ nhen mà đón nhận sự khiêm nhường và phát khởi tùy hỷ. Người đang bôi xấu kia đang tự tố cáo họ, tự vạch trần bộ mặt thật của họ, cho nên im lặng có thể làm bộ mặt đó bộc lộ yếu tố đau khổ, sợ hãi và tình thương khô khan. Ngoại đạo không đủ sức ra tay nên phải nhờ một người phụ nữ yếu đuối đi bôi xấu Phật, nhưng chính yếu đuối của cô mà cô biết xấu hổ, biết bỏ chạy, bằng không thì hậu quả sẽ khôn lường.

Bình tĩnh quán chiếu khổ đau của sự bôi xấu, vì sao người ta bôi xấu và việc này sẽ dẫn đi tới đâu. Kham nhẫn với việc này để khuất phục khiếp đảm và sợ hãi, không để khiếp đảm và sợ hãi khuất phục mình. Có lần tôi nhận được thư nặc danh từ một người đi nói xấu sinh viên và giảng viên trong trường, khuyên tôi nên nhận lớp này không nên nhận lớp kia. Thực tập quán chiếu về bức thư nặc danh, tôi thấy người gửi thư có nhiều đau khổ ở trong tâm. Do không thể đối diện trực tiếp nên đành gửi thư nặc danh, do có sự so đo với giảng viên khác nên buộc lời chỉ trích, do thiếu sự tôn trọng từ sinh viên nên phát ngôn không hay về sinh viên của mình. Người đau khổ đáng thương hơn đáng trách, nên tôi im lặng không trả lời thư gì cả, vì không biết rõ người viết thư là ai, chỉ mong rằng người đó có nhiều niềm vui trong cuộc sống, nhiều hạnh phúc trong công việc và nhiều thành tựu trong sự nghiệp. Và bức thư nặc danh đầu tiên đó cũng là bức thư cuối cùng vì khi không nhận được phản ứng nào, người gửi không đủ sức kiến nhẫn để viết tiếp.

Thực tập quán tâm trong tâm giúp biết về tâm. Không ai biết tâm mình bằng chính mình. Tâm mình mà không biết thì làm sao người khác biết được. Quán tâm thấy tâm vô thường, luôn biến đổi, như một dòng chảy. Dòng chảy vẫn có thể được lèo lái để đi đúng hướng, như người đào mương dẫn nước ra đồng, tưới mát ruộng nương. Tâm được lèo lái đúng hướng thì tâm sẽ ngay hàng thẳng lối, bằng không thì tâm đi hoang, đi lông bông, đi lang thang. Bàn tay không thể che nổi ánh sáng le lói nói chi che cả mặt trời. Dù tom góp tất cả đôi bàn tay của chúng sinh, cũng không thể che nổi mặt trời. Mặt trời ngược lại, có thể soi thấu sự thật, đem sự thật ra phơi bày trước ánh sáng. Sự bôi xấu như đêm đen, hòng che chắn mặt trời sự thật, nhưng sự thật đã là mặt trời và mặt trời xóa tan đêm đen nên sự thật xóa tan giả dối. Một gương mặt bị quẹt lên lọ nồi thì gương mặt sẽ đen đủa và trông không sạch sẽ, nhưng lọ nồi không thể làm ô nhiễm một tâm sáng trong. Bằng cách nào làm đen tối tâm sáng trong khi tâm đã trở nên thanh tịnh. Việc bị bôi xấu âu cũng là nghiệp bất thiện mình phải trả đã từng làm trong tiền kiếp, nhưng tu là để chuyển nghiệp nên mình không đổ thừa cho cái nghiệp. Đôi khi mình yếm thế vì cứ mãi đổ thừa cho nghiệp. Thay đổi thái độ để thấy nghiệp là điều kiện để tu tập, nhờ nghiệp mà biết tu, biết tu rồi thì cái gì gọi là nghiệp nữa.

Hãng Symantec Norton vừa công bố bản báo cáo Norton Online Families, theo đó hiện tượng cyberbaiting hay hiện tượng bôi xấu trên mạng đã trở nên hết sức phổ biến. Đối tượng bị công phá là các giảng viên hoặc giáo viên và chính các sinh viên hay học sinh đi gây rối thầy cô của mình. Học trò tạo ra nhiều tình huống gây sốc hoặc chọc tức thầy cô để thầy cô không làm chủ được, có phản ứng và học trò sử dụng các phương tiện ghi hình, rồi tung lên mạng khiến thầy cô trở nên xấu hổ, hình ảnh về trường học cũng hoen ố. Đây là sự xuống cấp về đạo đức học đường cũng như thiếu đi mối quan hệ thầy trò, nhất là hành vi ứng xử giữa các thầy trò với nhau. Việc phụ huynh phó mặc giáo dục cho nhà trường và xem thầy cô như các đối tượng cung cấp dịch vụ giáo dục và con cái của họ là khách hàng, cộng với xu hướng dạy học theo kiểu dân chủ cũng khiến tình trạng giảm thiểu ứng xử truyền thống là tôn sư trọng đạo. Công nghệ phát triển nhưng lại không được sử dụng cho việc phát triển giáo dục đích thực, mà lại bị lạm dụng trong các trò chơi ảo và các trò chơi làm tha hóa đạo đức. Giáo dục được cho là phát triển nhưng đạo đức càng suy đồi thì nên xem lại cách giáo dục. Thầy cô có thể kham nhẫn và không để ý đến những chuyện học trò làm với mình, nhưng sức người có hạn, tức nước thì vỡ bờ, nếu thầy cô phản kháng theo kiểu của học trò thì sự việc sẽ càng tồi tệ hơn. (14)

Bôi nhọ có tính dấu mặt là biểu hiện tình trạng run rẩy đầy sợ hãi của người gây ra việc bôi nhọ. Vì không thể đối diện trực tiếp, nên phải viết kịch bản, phải dựng cảnh, phải có đạo diễn, phải dàn dựng đủ thứ. Người này cũng thuộc dạng thông minh, nhưng cái thông minh này mang tính phá hoại. Người tu có cần phải lên tiếng đính chính việc bôi nhọ này để mang lại thanh danh cho bản thân không hay thực tập im lặng? Nếu đã quyết tâm tu học, việc bôi xấu cách mấy, dù cho việc bôi xấu có thể tước đi sinh mạng, nhưng cũng không cần đính chính nếu như bản thân người bôi xấu không muốn lắng nghe. Tuy nhiên, việc bôi xấu này có thể ảnh hưởng đến một nhóm người, đến sinh mạng của một nhóm người, mình nên lên tiếng bảo vệ sự công bằng của nhóm người này. Sở dĩ đức Phật nhiều lần bị bôi xấu nhưng vẫn im lặng, không đính chính là vì ngài đã thực tập đến mức im lặng tuyệt đối. Những gì đang diễn ra trước mắt là vô thường, chẳng mấy chốc sẽ qua đi. Người đi bôi xấu là do bị sai sử bởi tâm tham lam, tâm sân hận, tâm si mê nên không biết mình đang tạo nghiệp, đang lầm đường lạc lối. Người lạc đường rất bơ vơ, rất đau khổ, tâm đầy dẫy các hạt giống sợ hãi, vì không biết làm gì nên làm chuyện không ai khen ngợi. Người như vậy đáng thương lắm, mình im lặng vì mình thương người đó, im lặng để người đó nhụt chí, dừng lại việc đang làm, có đủ điều kiện nhìn lại hành động của họ mà thôi không làm như vậy nữa. Tình thương vững chãi thì dù gương mặt đầy lọ nồi nhưng tâm vẫn không thay đổi, vẫn điềm nhiên thì chính cái tâm điềm nhiên này như dòng nước mát rửa sạch lớp lọ nồi kia đi. Hãy thực tập tâm điềm nhiên như vậy.

Thực Tập Nhẫn Là Thực Tập Bố Thí

Thực Tập Nhẫn Là Thực Tập Bố Thí

Thực tập kham nhẫn là thực tập bố thí, cụ thể là thực tập vô úy thí. Vô úy thí là bố thí sự không sợ hãi, tức là bố thí sự bình thản trước hoàn cảnh và những tiếng gọi thúc bách thấp kém từ bên trong. Do biết kham nhẫn, mình không sợ hãi quá khứ, không trốn chạy thực tại và không lo lắng về tương lai. Người trẻ thường hay lo lắng về tương lai nên không có thực chứng về thực tại và không thể an trú trong thực tại. Do thói quen sợ hãi, mình vung vãi sự sợ hãi của mình cho chính mình, cho người xung quanh và cho chúng sinh mười phương. Nếu biết mọi thứ đều do nhân duyên mà hợp và cũng do nhân duyên mà tan thì sẽ không còn sợ hãi. Kham nhẫn được là do có hiểu biết và sợ hãi quá nhiều là do thiếu hiểu biết.

Hãy làm cho kham nhẫn trở thành một nhu cầu thì mình có xu hướng thực tập kham nhẫn nhiều hơn. Người không còn sợ hãi không phải là phó mặc cho mọi thứ diễn ra vì đã có quá nhiều sợ hãi nên vô cảm với sự sợ hãi. Người này sợ hãi rất nhiều và đang bế tắc trong thành quách sợ hãi cũng như co rúm trong thành quách đó. Người kham nhẫn ngược lại, không mặc kệ sợ hãi mà chuyển hóa sợ hãi. Sợ hãi là phiền não do đau đớn trong thân và tâm, do chấp vào điều phân biệt, do mặc cảm và buông lung số phận, do thiếu thốn phương tiện và thân tâm bị xâm lấn, do buồn tủi hay cảm thấy bất an. Muốn hết sợ hãi phải học buông thư thân tâm, buông xả cái chấp, chấp nhận hiện tại, thay đổi thái độ, khéo sử dụng phương tiện và đón lấy bình an. Khi thân tâm bình an, mình mới bố thí sự bình an được. Tất cả đều do kham nhẫn mà ra, có thể nói kham nhẫn là sự không sợ hãi.

Kham nhẫn là biểu hiện của tình thương lớn, là tìm kiếm sự giác ngộ. Trước đây mình chỉ thương mình, thương cái ngã của mình, không chấp nhận được cái ngã của người khác. Bây giờ, mọi thứ cho là ngã đều không thực có, mình không có cái ngã nào và người kia cũng không có cái ngã nào. Kham nhẫn làm cho mọi ý niệm về ngã đều buông xuống, mình bắt đầu tỉnh ra và bắt đầu hoan hỷ trong khu vườn vô ngã. Mình biết thương người, biết thương người hồi nào giờ mình cho rằng không thể thương được, biết thương đồng loại, biết thương muôn loài. Cái ngã tan biến thì còn gì nữa mà kham nhẫn. Tình thương lớn dần theo sự vụt bay của ngã.

Ý niệm về ngã làm các vọng tưởng xuất hiện trong tâm nên tình thương trong tâm teo ngắt lại. Nếu chấm dứt ý niệm về ngã, các vọng tưởng không còn, không có gì phải bám víu vào, tâm rảnh rang không bận rộn trong chấp ngã, tình thương trong tâm có dịp hồi sinh, và chấm dứt càng bao nhiêu, tình thương càng lớn bấy nhiêu. Cho nên nói mình thương chúng sinh, không phải mình bắt cái tâm thương chúng sinh, mà mình đang buông cái tâm không thương chúng sinh, tức là buông cái tâm đang còn chấp ngã và còn phân biệt chúng sinh.  Nên nói thương chúng sinh là thương chính mình, thương tính chúng sinh trong mình. Chúng sinh đang ở trong mình đấy thôi, vậy mà không biết, mình đan tâm đi ghét chúng sinh, có khác nào ghét mình đâu.

Kham nhẫn là bố thí tình thương và vì tình thương mà tập kham nhẫn. Kham nhẫn trước hết là kham nhẫn với chính mình, với chính tính chúng sinh trong mình, không phải với đối tượng nào khác ở bên ngoài, không phải với người A hay người B, không phải với hoàn cảnh C hay hoàn cảnh D.

Chàng trai có thói quen đi du lịch nên khi có thời gian hay tiền bạc là anh đi chỗ này chỗ kia chơi. Dần dần đi du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của anh. Đến Thái Lan anh làm quen với người Thái Lan và nền văn hóa Thái Lan. Đến Hong Kong, anh làm quen với người Hong Kong và nền văn hóa Hong Kong. Đến Pháp, anh làm quen với người Pháp và nền văn hóa Pháp. Các ý niệm về sự khác biệt của nền văn hóa hình thành các nhóm người khác nhau bắt đầu xuất hiện trong anh. Trong anh đẻ ra đủ thứ ranh giới, ranh giới về quốc gia, ranh giới về dòng giống, ranh giới về ngôn ngữ, ranh giới về thức ăn, ranh giới về quan niệm. Quốc gia nào phù hợp với tiêu chuẩn văn hóa của anh thì anh lấy làm ưa thích và muốn quay lại nơi đó nữa. Quốc gia nào không phù hợp với tiêu chuẩn văn hóa của anh thì anh lấy làm không ưa thích và không muốn quay lại nơi đó nữa. Anh đi nhiều, học hỏi nhiều, nhưng nhờ đó tâm phân biệt cũng gia tăng, cái chấp cũng gia tăng, cái ngã cũng gia tăng, gia tăng trong việc chấp trong sự hiểu biết, cho mình là người đi nhiều, biết nhiều và ý kiến của mình cần được tôn trọng. Nếu đi nhiều mà để phân biệt như vậy thì sự hiểu biết có thừa đấy nhưng trí tuệ chưa chắc phát sinh.

Hãy quán chiếu thử xem, người Thái, người Hong Kong hay người Pháp đều có những khổ đau và hạnh phúc, đều có nhu cầu hiểu biết và yêu thương, máu của ai cũng đỏ, nước mắt của ai cũng mặn, và nhất là đều sống chung trên quả địa cầu, đều phải cùng hít thở trong bầu không khí của địa cầu. Văn hóa riêng biệt nhưng hành trình của sự sống trong người đó không hề riêng biệt. Nếu đức Phật là người Ấn Độ, không lẽ chỉ có người Ấn Độ mới có thể giác ngộ? Tất cả chúng sinh đều giác ngộ nếu biết cách giác ngộ và đủ phước duyên để giác ngộ.  Cho nên không cần phải đi nhiều mới có thể giác ngộ, đi nhiều chỉ tom góp cái lăng xăng và thân tâm càng yếu kém. Nhiều khi chỉ ở một chỗ vẫn có thể biết yêu thương được. Đi nhiều mà không yêu thương được thì tốn tiền, mất sức khỏe và phí thời gian.

Kham nhẫn đòi hỏi buông bỏ những đam mê. Đam mê không còn thì không có sợ hãi. Muốn vô úy thí thì hãy thôi hết những đam mê. Bố thí không phải chỉ đơn thuần là cho đi những tài sản mình có mà còn biết chấm dứt những mong muốn tiêu thụ của mình. Giảm sự tiêu thụ cũng là bố thí đấy. Người có tiền muốn mua nhà to như lâu đài, nhưng người khác có tiền thì mua nhà nhỏ thôi, đủ sống là được. Nhà nhỏ thì xây dựng ít tốn kém, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, tiết kiệm chính là hạnh bố thí vậy.

Cô Sundarì Bị Giết Chôn Tại Jetavana Để Vu Cáo Phật

Cô Sundarì Bị Giết Chôn Tại Jetavana Để Vu Cáo Phật

Uy tín và danh tiếng của đức Phật ngày càng tăng và vang xa, nhất là ở Sàvatthi, mọi người đến tinh xá Jetavana cúng dường Phật cùng tăng đoàn, đồng thời nghe Phật giảng dạy. Ngoại đạo thấy vậy nên càng bực tức hơn nữa vì quyền lợi ngày càng sa sút, các vị trước đây cúng dường cho họ giờ chuyển sang cúng dường cho Phật và tăng đoàn. Họ bắt đầu suy nghĩ phương kế mới nhằm triệt hạ uy tín Phật. Họ mời cô Sundarì, một nữ du sĩ vừa xinh đẹp vừa thông minh, nhằm hỗ trợ cho kế hoạch. Họ tung ra những tin về mối quan hệ giữa cô Sundarì và Phật rồi thừa lúc thuận lợi, họ thuê du đãng giết chết cô Sundarì, vùi xác cô vào đống rác gần nơi Phật ở trong tinh xá Jetavana. Sau đó, họ loan báo là cô Sundarì mất tích.

Các ngoại đạo lên yết kiến đức vua Pasenadi, thông báo về tình trạng mất tích của cô du sĩ, đồng thời xin phép đức vua cho họ đi tìm cô gái mất tích trong phạm vi Jetavana. Sau một hồi giả bộ tìm kiếm, họ cho biết là tìm thấy cô trong đống rác gần nơi Phật ở. Chẳng cần chờ đợi gì, họ tuyên truyền khắp nơi, Gần đây nghe nói sa môn Gotama có quan hệ với cô Sundarì, để che mắt thế gian, có thể ông ta hoặc đệ tử ông ta đã giết người bịt miệng chăng. Dân chúng nghe vậy tưởng thật, nên lên án hết lời các vị tu sĩ và tăng đoàn của Phật. Phật trấn an các đệ tử, Này các thầy, ai nói lời sai sự thật, đổi trắng thành đen, đổi đen thành trắng, nói những chuyện không đúng với sự thật, kẻ đó chắc chắn sẽ gánh chịu hậu quả.

Đức vua Pasenadi không tin vào lời vu khống của các ngoại đạo, nên cho người đi điều tra, tìm hiểu chứng cứ, bắt được quả tang hai tên du đãng chia nhau tiền thưởng, ăn nhậu say sưa, cãi cọ làm tiết lộ hành động sai trái. Vua bắt những tên ngoại đạo đi khắp thủ đô Sàvatthi nhận mình là kẻ đã vu oan cho đức Phật. Lúc này Phật được giải oan nhưng vẫn khuyên vua, Đại vương, do bị sai sử bởi tham lam, sân hận và si mê, ba thứ tâm độc này đã làm lu mờ bản tính thanh tịnh của con người, xin ngày hãy giảm nhẹ tội cho họ, cho họ cơ hội để được hối cải và làm mới lại. Vua càng cảm kích trước tấm lòng vị tha của Phật, nhờ đó uy tín của Phật và tăng đoàn tăng cao hơn nữa, tín tâm của mọi người thêm vững chắc.

Tham lam, sân hận và si mê là ba thứ được chất chứa sau bao nhiêu kiếp của chúng sinh. Tham và dính mắc vào quyền lợi, mình không đành lòng chia sẻ quyền lợi đến cho ai, nên tâm từ và tâm hỷ không phát triển. Không chịu chia sẻ quyền lợi nên tâm từ bị thui chột, không chịu vui với quyền lợi người khác có được nên tâm hỷ bị thui chột. Vì không chịu làm bạn với tình thương, niềm sân hận trỗi dậy, đẩy tâm từ và tâm hỷ xuống tận cùng đáy mồ, và dĩ nhiên đây là dịp để tha hóa tâm bi, không biết thương xót nỗi khổ của chúng sinh, nên nỗi khổ nào cũng dám làm. Càng đi sâu vào nỗi khổ, si mê càng lớn, dính vào một chân thì muốn dính chân thứ hai, đến cả thân tâm ngập chìm trong nỗi khổ, làm thức ăn cho các tâm độc. Độc tố từ trong tâm làm cho độc tố trên cơ thể tiết ra, không tiêu hóa được nên nó lan tỏa khắp nơi, gây bệnh tật, gây đau nhức và bắt đầu bị hoành hành bởi khổ đau.

Bất cứ ai đang là chúng sinh đều có ba thứ tâm độc này. Muốn chuyển hóa chúng, phải kham nhẫn với tâm độc bên trong và tâm độc bên ngoài. Thực tập bốn tâm vô lượng để chuyển hóa tâm độc. Hành bố thí diệt trừ tham lam, hành tha thứ diệt trừ sân hận và hành khai thông trí tuệ diệt trừ si mê. Sinh ra làm người là phước lớn nhưng cái phước này còn nhỏ bé, vì còn trôi lăn trong sinh tử, trong sự trói buộc của ái ân, ái ân với cái dục của tham, sân, si, sinh tử trong cái dục của tham, sân, si. “Hãy quán tánh pháp giới, tất cả do tâm tạo.” Tâm ngủ mê, nên pháp giới cũng ngủ mê. Muốn thành Phật, hãy trực chỉ nhân tâm. Phật là tỉnh thức nên hãy làm tâm tỉnh thức, tạo điều kiện xây nhà Như Lai. Tỉnh thức trong mọi tình trạng của ân ái, của ân ái với tham, ân ái với sân và ân ái với si. Kết hôn với ba cái tâm này rồi ân ái với chúng, tình trạng không tỉnh thức xảy ra, mình tạo điều kiện xây ngôi nhà ma.

Kham nhẫn với tâm độc bên trong thì cũng kham nhẫn với tâm độc bên ngoài. Người kia đang bị tâm độc sai sử và do không có phương tiện nào kiềm chế, không ai chỉ dạy, không ai can ngăn, không ai giúp soi sáng, bản thân yếu đuối không đủ sức chuyển hóa, bản thân sợ hãi không đủ sức vượt qua, bản thân mê muội không đủ sức chế ngự sự hoang tàn của tâm nên có khuynh hướng phó mặc cho tâm, cho ngôi nhà ma xây dựng đầy dẫy trong mọi ngõ ngách của tâm, làm cạn kiệt tài nguyên của hạt giống từ bi, hạt giống thiện trong tâm. Biết vậy, mình không phản ứng với tâm độc bên ngoài kia, tâm đã bất động thì hiềm chi bạo động. Hãy bắc một cây cầu trong tâm, từ tâm của mình đến tâm người kia, tâm mình đã bất động, thì hãy giúp cho tâm bạo động nương vào cây cầu mà leo ra khỏi địa ngục. Từ trong địa ngục, bắt một cây cầu, để chúng sinh khổ đau không còn trầm luân, không còn giam hãm chúng sinh trong màng lưới sắt của ân ái. Kham nhẫn với tâm độc là đập tan địa ngục vì tâm độc là địa ngục. Người đầy dẫy tâm độc là đang sống trong địa ngục, muốn cứu độ chúng sinh hãy phá tan cái tâm độc này, địa ngục tự khắc mở cửa, giải phóng chúng sinh. Chúng sinh có giải phóng hay không là do biết giải trừ tâm độc. Không ai xây địa ngục cho mình, chính mình xây địa ngục cho mình. Niết bàn đang hiện tiền thì địa ngục cũng hiện tiền. Tâm xây niết bàn thì tâm cũng xây địa ngục. Muốn niết bàn, hãy làm vắng lặng mọi nhu cầu ân ái. Muốn địa ngục, chỉ cần đồng lõa với mọi nhu cầu ân ái.

Kinh tế phát triển ở khu vực này nhưng lại không phát triển ở khu vực khác. Châu Á hiện nay được xem như nơi duy trì được sự phát triển kinh tế trong khi Châu Âu lại rơi vào suy thoái. Kinh tế mang tính vô thường, không gì phát triển mãi mãi và không gì suy thoái mãi mãi. Không có gì đảm bảo rằng kinh tế Châu Á sẽ không bị suy thoái và kinh tế Chậu Âu sẽ không tăng trưởng trở lại. Kinh tế phát triển nhưng lại khai thác quá mức, tiêu thụ quá mức, như con sóng lên cao đến hết sức thì phải đổ ập xuống. Vấn đề là hãy biết phát triển kinh tế một cách bền vững. Sự bền vững không có dấu hiện bừa bãi, không khai thác bừa bãi, không sản xuất bừa bãi và không tiêu thụ bừa bãi. Tính bừa bãi của con người minh chứng cho tâm tham, muốn lấp đầy càng nhanh càng tốt, minh chứng cho tâm sân vì muốn cạnh tranh vược bậc, minh chứng cho tâm si mê vì nghĩ đến bản thân nhiều quá mà quên đi thế hệ con cháu. Quốc gia nào lấy tiêu chí “phát triển kinh tế bằng mọi giá” hay doanh nhân nào lấy tiêu chí “làm giàu bằng mọi giá” làm sứ mệnh thì thôi rồi, con đường mình đi sẽ có nhiều suy thoái. Kham nhẫn với tâm độc để phát triển kinh tế bền vững và làm giàu bền vững. Bền vững này có mặt chất liệu của sự lành mạnh, tức là không chất chứa sự bừa bãi, như khai thác lành mạnh, sản xuất lành mạnh và tiêu thụ lành mạnh. Khai thác lành mạnh là không gây ô nhiễm môi trường, việc khai thác không làm mất cân bằng sinh thái và gây tổn hại đến sức khỏe đến nhân công. Sản xuất lành mạnh là chất lượng sản phẩm nâng cao phẩm chất đích thực cho đời sống của người tiêu dùng. Tiêu thụ lành mạnh là việc tiêu thụ giúp bảo tồn các hạt giống trí tuệ quí báu trong thân tâm, giữ giới và nâng cao tình yêu cuộc sống. Kham nhẫn được như vậy, nền kinh tế sẽ bền vững hơn, nguy cơ suy thoái giảm thiểu, sự nghiệp làm giàu chắc chắn hơn, nguy cơ phá sản được giảm thiểu. Cái này gọi là kinh tế có đạo đức và làm giàu có đạo đức, âu cũng là do biết kham nhẫn vậy.

Hãy Là Bậc Chân Tu

Hãy Là Bậc Chân Tu

“Kham nhẫn đem lại hạnh phúc – Sắc đẹp cầu chúc cho người – Hiền nhân trí thức vui cười – Con đường xuân tươi La Hán.” Hoa trái của sự thực tập kham nhẫn là hạnh phúc, thứ hạnh phúc không mua ở siêu thị Big C hay rạp chiếu phim Megastar. Mình tầm cầu hạnh phúc từ các trò giải trí, nhưng hạnh phúc có được từ kham nhẫn rất lớn, không có tiền bạc nào có thể mua được. Do biết kham nhẫn, mình không phải chịu khổ, mình an nhiên với khổ đau nhưng không xem thường khổ đau, và do khổ đau vắng mặt, hạnh phúc đành phải hiện tiền. Người có kham nhẫn có sắc đẹp từ vóc dáng đến tâm hồn. Tâm đẹp sinh tướng đẹp. Tâm giải thoát sinh tướng giải thoát. Đẹp này không mang dáng dấp của sắc dục mà mang hương vị của giải thoát, của phẩm chất giải thoát. Nhìn gương mặt đẹp đẽ của Phật là người ta muốn tu, muốn từ bi, không phải là để sinh tâm dâm cuống. Cầu chúc mọi người đều có sắc đẹp, đẹp từ tận tâm cang. Bậc chân tu không đẹp hình đẹp dáng, mà đẹp từ uy nghi được xây dựng do biết giữ giới miên mật và rèn luyện tâm đẹp qua từng khoảnh khắc thời gian và không gian.

Khi khổ đau đã qua, mình nở nụ cười thật tươi, biết rằng kham nhẫn đã thành, nên mừng vui. Cái vui này không phải là cái vui của thế gian. Thế gian vui vì lấp đầy, còn hiền nhân vui vì đã làm rỗng những cái không đáng phải lấp đầy, là biết cho đi, là biết buông bỏ. Buông bỏ được thì con đường thành đạo mới sáng. Mục tiêu của người tu là giải thoát và khi hành trì chánh pháp, không bao giờ quên xem xét mức độ giải thoát của mình. Mình đã kham nhẫn chưa, mình đã im lặng chưa, mình đã buông bỏ chưa? Buông bỏ những thứ khiến mình mắc kẹt thì giải thoát thôi, giải thoát ra khỏi những cái mắc kẹt. Bậc chân tu thì đâu mắc kẹt gì, không kẹt vào danh, không kẹt vào sắc, không kẹt vào thanh, không kẹt vào hương, vị, xúc, pháp, và ngay cả chuyện tu cũng không kẹt luôn. Tu chỉ để tu thôi mà.

“Kham nhẫn luôn tầm đạo đức – Ráng sức trì giới tham thiền – Bố thí nhẫn nại chẳng kiên – Sống trong an nhiên tự tại.” Người kham nhẫn là người tầm đạo đức, bao nhiêu đức hạnh đều muốn thực tập hết, bao nhiêu hạnh Bồ tát đều muốn thực tập hết. Muốn nói về đạo đức trước hết phải thực tập đạo đức, như muốn dạy về thiền phải là người thực tập thiền, phải là một hành giả. Trong xã hội có chuẩn mực xã hội, trong văn hóa có chuẩn mực văn hóa và trong đạo đức có chuẩn mực đạo đức. Danh sách chuẩn mực đạo đức đưa ra không phải để trình diễn và làm đẹp văn tự, như không phải viết thư pháp để chứng minh tài năng, mà danh sách viết ra để nhắc nhở mình thực tập, hướng mình đi trên con đường thực tập. Đức Phật nếu không thực tập và chứng ngộ thì không thể giảng pháp được, không thể chuyển pháp luân được.

Đạo đức không phải là cái để nói, mà là cái để thực tập. Muốn có đạo đức phải trì giới và hành thiền. Trì giới giúp mình phát triển đạo đức từ hành động, suy nghĩ và lời nói. Thế giới này suy đồi là do việc trì giới yếu kém. Chẳng có trường đại học nào dạy cho sinh viên học cách giữ giới, nếu không muốn nói nhiều chương trình khuyến khích người ta phạm giới. Các nhà giáo dục phải là người hành trì đạo đức hơn ai hết, lúc này mới đủ tư cách đứng lớp và truyền đạt tư tưởng đạo đức cho sinh viên. Một thế hệ giáo dục suy đồi sẽ tạo ra một thế hệ sinh viên suy đồi và xã hội đi xuống là cái chắc. Kham nhẫn trong việc trì giới để hành động có giới hạnh, lời nói có giới hạnh và suy nghĩ có giới hạnh. Người đẹp nhờ có giới hạnh, bằng không xã hội sẽ đầy dẫy những người bất hạnh.

Đạo đức cần thực tập triệt để từ trong tâm, mà muốn bảo hiểm tâm, gột rửa tâm, cách hay nhất là tham thiền. Niệm các tâm sở phát khởi trong tâm để không kẹt vào tâm nào hết, không vồn vã tâm thiện và không trôi lăn trong tâm bất thiện. Biết tâm để tâm không còn tham đắm và dình mắc, lúc này tâm giải thoát khỏi những nỗi khổ niềm đau, mình bình an. Khi bình an được rồi, mình không có xu hướng vi phạm đạo đức hay làm tổn hại đạo đức của người khác. Kham nhẫn với tham thiền là cho phép bình an ngự trị trong tâm, tâm không còn trốn tìm, trốn khổ đau và tìm kiếm hạnh phúc.

Kham nhẫn cần được bố thí liên tục vì tình trạng không kham nhẫn đang biểu hiện khắp nơi. Thế giới đánh nhau vì giành miếng dầu, miếng đất, miếng đảo, chẳng qua vì không kham nhẫn với sự đói khát. Con người đánh nhau giành công việc, tiền tài, danh vọng, chẳng qua vì không không kham nhẫn với sự thiếu thốn. Vì vậy, cho đi kham nhẫn chưa bao giờ đủ cả, mà cần “bố thí nhẫn nại chẳng kiên”. Bố thí cần liên tục, tức là thực tập kham nhẫn liên tục. Lúc này, mình nằm trong vùng của tranh giành nhưng không bị cuốn theo vòng xoáy tranh giành. Đi làm trong công sở, người ta đang lập kế hoạch thao túng lẫn nhau nhưng mình đứng ngoài vùng phủ sóng dù mình đang trong cơn sóng đó. Không bị nhiễm ô, mình trở nên an nhiên tự tại, tức là mình vô nhiễm. Kham nhẫn trở thành chất kháng sinh chuyển hóa tất cả những con vi trùng đòi hỏi phải tranh giành, đòi hỏi phải đấu đá. Mọi cạnh tranh đều là trò chơi ảo, biết nó ảo nên mình không đi vào, mình an nhiên với thế lực ảo đang dày vò tấn công mình. Nếu ai đó gieo rắc cái ảo đến cho mình, mình vẫn trụ vững như núi, thì mình tự tại thôi, có ai ở không gieo rắc suốt đời đâu, đến lúc nào đó họ cũng phải tự dừng lại. Đừng bao giờ đòi hỏi bất kì ai kết thúc với mình mà mình hãy kết thúc mình trước.

“Kham nhẫn vui sướng làm sao – Chư Thiên cùng bao Bồ Tát – Hoan hô ngợi khen ca hát – Người mới thực là chân tu.” Bậc chân tu là người tu hành chân chánh, đi tu chỉ để tu thôi, không vì mục đích gì khác, nếu có chăng thì mục tiêu tối thượng của họ chính là giải thoát. Chưa giải thoát được thì không cần làm gì hết, ngoài việc chuyên tâm tu hành. Kham nhẫn đem lại hạnh phúc lớn vì chuyển hóa được khổ đau, thấy được bộ mặt thật của khổ đau và không còn sợ hãi khổ đau. Người kia tới chửi bới mình, người đó đang trong tình trạng khổ đau, mình không vậy, nên im lặng, mình không đón nhận khổ đau đó, nên mình vẫn vui sướng như thường. Cầu mong cho người đó có đủ phước báu để vượt qua khổ đau. Mình không phải ứng lại lời chửi mắng của người kia, mình chưa làm gì cả, chỉ mới im lặng mà đã có công đức, đã vậy mình còn rải tâm từ hay tình thương đến cho người đó, trời đất ơi, công đức còn lớn hơn nữa. Năng lượng tình thương có khi làm chuyển hóa được sự bực tức của người kia, người kia hối hận và thôi không la lối. Sự kham nhẫn này giúp được mình và giúp được người kia luôn. Hay vậy đó. Người biết kham nhẫn được chư Phật, chư Bồ tát và chư thiên nhìn thấy nên sẽ được các vị này yểm trợ trong việc tu tập. Chư thiên luôn tán thán người biết thực tập kham nhẫn. Ngày xưa đức Phật không biết thực tập kham nhẫn không biết bao nhiêu mà kể, trong kiếp chót của ngài và trong tiền kiếp của ngài. Nếu ngài không kham nhẫn, ngài phản ứng lại mọi sự tấn công của hữu tình, chắc chắn ngài không thể là bậc đại giác ngộ, không ai hướng về ngài cúng dường và không ai quỳ lạy ngài cả. Sự kham nhẫn của ngài mang chất liệu của giác ngộ và khi ngài đã giác ngộ, ngài trở thành bậc đại kham nhẫn, kham nhẫn ngay chính trong tiến trình tu tập của ngài.

Bậc chân tu thực tập kham nhẫn nhưng không chứng minh mình đang thực tập kham nhẫn vì có gì gọi là kham nhẫn đâu. Chẳng qua mình làm chút ít im lặng, chút ít tình thương, chút ít nhân duyên, chút ít quán chiếu để kham nhẫn biểu hiện. Chấp vào kham nhẫn, mình đã mang cái ngã vào trong kham nhẫn, trong phúc chốc, kham nhẫn biến mất, mình đánh mất hạnh kham nhẫn đang thực tập. Kham nhẫn mang yếu tố vô ngã. Nếu không có hoàn cảnh đang khó khăn, nếu không có đối tượng đang gây hấn, hay nếu không có các phương tiện thực tập, mình không thể kham nhẫn và mình không có điều kiện của kham nhẫn, nên kham nhẫn không thực có, nó chỉ là biểu hiện của nhân duyên. Thực ra, hoàn cảnh khó khăn kia đang giúp mình kham nhẫn, đối tượng gây hấn kia đang giúp mình kham nhẫn và các phương tiện thiện xảo như tăng thân đang có mặt hay hình ảnh Phật đang có mặt nhắc nhở mình kham nhẫn. Hành kham nhẫn đến khi trở thành thói quen và khi kham nhẫn hiện tiền, mọi kham nhẫn trở nên im bặt, vì không còn thấy gì cần phải kham nhẫn nữa, mọi thứ đã đang kham nhẫn, kham nhẫn trở thành tự tính của mọi thứ. Đây đích thực gọi là chân kham nhẫn.

Vị tu sĩ khép cuốn sách kinh lại và đứng dậy bước ra ngoài sân, ông bắt đầu đi thiền hành trên mặt đất. Buổi tối, trăng đã lên cao nhưng ông vẫn chưa ngủ, ông muốn dành chút ít thời gian để đi thiền hành. Trong từng bước chân, ông quay về nương tựa với sự vững chãi và thảnh thơi nơi phút giây hiện tại. Ông ngắm nhìn vầng trắng sáng. Cái thất nhỏ bé giữa chốn phồn hoa đô hội, nhưng thật may các tòa nhà cao tầng xung quanh chưa che mất ánh trăng. Ông đi trên mặt đất, đi cho địa cầu, đi cho vầng trăng. Thế gian đang chạy nhưng địa cầu vẫn quay 24 giờ mỗi ngày, mặt trăng đến ngày rằm vẫn mọc, và ông đêm nào cũng đi thiền hành. Ai chạy thì cứ chạy, ông đi chậm rãi và đường hoàng. Ông trở về trong từng bước chân nên ông đâu cần chạy, đâu cần tìm kiếm gì nữa. Ông kham nhẫn với sự thúc giục trong việc chạy của mình. Người tu nhiều khi muốn tu cho mau, giải thoát cho lẹ và nhập Niết Bàn cho rồi nên muốn tu cấp tốc. Vì vậy, việc tu tập cũng cần có sự kham nhẫn. Tu là giải thoát ngay trong lúc tu, cho nên không cần chờ đợi khi tu. Hạnh phúc thực sự có mặt trong lúc tu thì có chi phải kham nhẫn nữa. Tu trong hiện tại không phải để có hạnh phúc trong tương lai, cái tu trong hiện tại phải mang lại chất liệu hạnh phúc đích thực trong hiện tại. Khi nhai một khúc mía, từng giọt nước ngọt của mía đi vào cơ thể, mình tiếp xúc được vị ngọt của mía ngay trong lúc đó. Khi mở cái quạt máy vì trời nóng quá, làn gió mát nhờ lực quạt máy đẩy vào da thịt khiến cho mình mát mẻ và cảm giác dễ chịu, mình tiếp xúc được cơn gió ngay trong lúc mở quạt. Người con đi học xa, không có cơ hội nói chuyện với ba mẹ, nhưng chỉ cần dành một ít thời gian nghĩ về ba mẹ thôi, ba mẹ đã ngay lập tức hiện tiền trong tâm trí người đó. Niết Bàn không phải là đối tượng tìm kiếm trong tương lai. Mình có thể tiếp xúc với Niết Bàn ngay trong giờ khắc hiện tại. Mọi thực tại đều đang vắng lặng nên mọi thực tại đều có tính Niết Bàn. Chỉ cần dừng lại sự mong muốn tìm cầu Niết Bàn, mình sẽ nằm trong Niết Bàn ngay lập tức. Kham nhẫn trong tu tập, cho phép việc tu tập không bị sai đường. Tu tập mà cứ rầu rầu, chấp vào giáo lý, chấp vào ngôn ngữ văn tự, chấp vào đúng sai, ý niệm vì thế sẽ gia tăng, Niết Bàn đang hiện tiền đấy, đang sờ sờ ra đấy, nhưng mình chẳng tiếp xúc được, nói chi là hiểu về nó. Bậc chân tu không tầm cầu Niết Bàn vì họ đã là Niết Bàn rồi. Hãy kham nhẫn với Niết Bàn để không trôi lăn trong muôn hình vạn trạng những ý niệm về Niết Bàn.

Devadatta Âm Mưu Ám Sát Phật

Devadatta Âm Mưu Ám Sát Phật, Lăn Đá Hại Phật, Thả Voi Say Hại Phật

Đức Phật nhiều lần bị ám sát, trong đó có sự chủ mưu của Devadatta. Có lần Phật hành thiền trên núi Griddhakùta, ngài nghe tiếng động từ nhỏ đến lớn. Phật nói to, Ai đó, ra đây đi, giờ này đến đây làm gì. Một thanh niên cường tráng xuất hiện, tay cầm gươm, vẻ mặt tỏ lộ sợ hãi và run rẩy. Người thanh niên quỳ xuống thưa, Thưa ngài Gotama, con được lệnh đến để giết ngài, nhưng con sợ quá, con không dám ra tay, nếu con không giết ngài, người ta sẽ giết con mất. Phật hỏi, Ai đã sai anh đến giết ta? Người thanh niên nói, Dạ có người nhờ con đến giết ngài, con sợ lắm, con không nói được đâu. Phật vẫn điềm tĩnh, Anh không nói cũng không sao, nhưng bây giờ anh hãy về nhà, dẫn người nhà trốn đi, đi qua nơi khác mà sinh sống lương thiện, đừng làm nghề này nữa, đừng ở đây mà tổn hại đến tính mạng. Người thanh niên lập tức cảm tạ Phật và rời khỏi chỗ đó.

Thất bại vì không giết được Phật, Devadatta thuê 31 cung thủ phục kích bắn lén Phật. Nhưng khi Phật đi ngang qua với vẻ mặt thảnh thơi, điềm đạm, uy nghi, họ bị cảm hóa, nên bước ra thú tội với Phật và xin xuất gia.

Thuê người không có kết quả, Devadatta quyết định tự mình đi giết Phật. Buổi chiều nọ, thấy Phật đi thiền hành xuống núi, trên sườn núi Griddhakùta, đến chỗ đường hẹp có dốc đá cao, Devadatta đứng trên dốc lăn xuống một tảng đá lớn, tảng đá đã được chuẩn bị sẵn từ trước. Do đi trên con đường hẹp và hai bên là vách núi cao, Phật không thể nào tránh được. Nhưng tảng đá trên đường lăn của nó, va phải hai tảng đá khá ở lưng chừng dốc, bị vỡ ra thành nhiều mảnh, một mảnh nhỏ văng trúng chân Phật, làm ngài chảy máu ướt cả vạt áo sanghàti. Các thầy khiêng Phật xuống chân núi, băng bó vết thương tạm rồi đưa ngài đến vườn xoài của ông Jìvaka để nghỉ. Ông Jìvaka là y sĩ, giúp Phật tẩy trùng, đắp thuốc và băng bó vết thương. Tối hôm đó Phật nói về năm tội nặng có thể bị đọa vào địa ngục A tỳ, đó là giết ba, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp tăng và làm thân Phật chảy máu. Năm tội nặng này sẽ khiến người phạm chịu khổ liên tục trong địa ngục cho đến khi hết nghiệp mới ra khỏi. Sáng hôm sau y sĩ Jìvaka đến thăm Phật, ông sốt sắng hỏi, Thế Tôn, vết thương có làm ngài đau nhức lắm không. Phật ôn tồn nói, Người có đầy đủ giới hạnh thì không còn thiếu thốn gì nên không biết buồn rầu, người đã tự giải thoát mọi buộc ràng thế gian nên không còn biết đau đớn, người buông bỏ mọi vướng mắc thì cái gì gọi là đau khổ nữa.

Devadatta cay cú vì không giết được Phật nên lập âm mưu mới. Một lần, Phật và các thầy đi từ tinh xá Venuvana vào thành Ràjagaha khất thực. Mới tới cổng thành, mọi người nghe dân chúng la hoảng, bỏ chạy tứ tung. Một con voi từ chuồng voi hoàng gia chạy ra, miệng rống to, chạy như bay về phía cổng thành, trông rất hung dữ và điên dại, đôi mắt đỏ ngầu. Một số thầy chạy tìm chỗ núp, vài thầy núp sau lưng Phật, thầy Anan kéo Phật sang một bên, nhưng Phật không di chuyển, ngài vẫn đứng yên chỗ cũ. Thầy Anan định đứng che cho Phật thì nghe tiếng rống rất gần, tiếng rống của con voi oai vệ nhất núi rừng, vang dội khắp kinh thành. Đó là tiếng rống của Phật, cách rống của voi mà Phật đã học được khi thực tập trong rừng. Con voi hung dữ bỗng nhiên khựng lại, đôi mắt thay đổi, ngoan ngoãn nằm mọp xuống đất. Phật rải tâm từ đến con voi và bằng lòng từ bi, ngài đưa tay sờ đầu của nó, rồi nắm lấy vòi voi dẫn về chuồng của hoàng gia trong sự tán thưởng của dân chúng hai bên đường. Từ miệng voi, mùi rượu nồng nặc tỏa ra. Phật nhắc người quản voi, Này ông, con voi này tính tình bất thường, ông phải coi sóc nó cẩn thận, đừng để nó chạy ra đường làm hại sinh mạng người dân.

Vậy đó, thưa quý vị, hãy thương và giúp đỡ người hại mình. Người thanh niên chuẩn bị giết Phật nhưng sau đó Phật lại giúp người này trở lại, không mảy may hận thù. Do miếng cơm manh áo, người thanh niên đành bán cả lương tri, đành đoạn cầm dao giết chết bậc đại giác ngộ và nguy hiểm cả tính mạng. Bậc giác ngộ cảm hóa được người thanh niên nhờ năng lượng tình thương mạnh mẽ, nên ác nghiệp đã không diễn ra. Người thanh niên vẫn còn chút ít phước báu để không gây ác nghiệp và không dấn thân sâu hơn nữa vào con đường trầm luân. Phật duy trì được niềm vui và xa lánh hận thù do không phát khởi tâm sân, không giận người thanh niên và không muốn đi xa hơn nữa về người chủ mưu. Ngài làm được vậy vì quá đỗi yêu thương chúng sinh đang phiền não, đang chìm đắm ngoài kia. Sử dụng tình thương để hóa giải hận thù, mình chấm dứt hận thù bằng cách không để cho hận thù phát khởi vì hận thù sẽ kéo theo hận thù. Có thể ngài từng có oan trái với người chủ mưu, nên người chủ mưu dùng phương tiện là người thanh niên để giải đi oan kết. Nếu ngài căm thù người chủ mưu và tìm cách trả đũa, chắc chắn oan trái sẽ gia tăng thêm, muốn chấm dứt oan trái, hãy im lặng, im lặng để tình thương ngập tràn.

Oan trái là một pháp và pháp tự thân có thể giái thoát nên oan trái tự thân có thể giải thoát. Oan trái tự nhiên chấm dứt, còn làm đủ thứ việc nhiều khi làm gia tăng thêm oan trái. Thản nhiên với oan trái thì oan trái trôi đi như làn gió thoảng. Thản nhiên với khổ đau thì khổ đau sẽ tan nát như vi trần. Thản nhiên không phải là thờ ơ và vô cảm, mà là điềm tĩnh trước khổ đau vì đã quá biết rõ bộ mặt thật của khổ đau, nên khổ đau kia chỉ là tên gọi, chỉ là ý niệm, chỉ là pháp, mà pháp thì vô ngã, pháp đã tự giải thoát và khổ đau cũng tự giải thoát, tự chuyển hóa rồi. Tha thứ cho oan trái thì oan trái sẽ đi chỗ khác chơi, không trói mình bằng sợi dây oan nghiệt. Sử dụng lời ái ngữ và hòa giải để chấm dứt oan trái, sử dụng tha thứ và mở trái tim ra mà ôm lấy oan trái, oan trái sẽ không gây đau khổ mà tự động tan biến. Xung quanh mình tràn ngập tình thương, hoa đang nở, hoa đang thương mình đấy, bầu trời đang xanh trong, bầu trời đang thương mình đấy, chim hót líu lo, muôn thú đang thương mình đấy, đừng gây oan trái làm hoa phải héo tàn, bầu trời phải xám xịt và đàn chim bay đi mất. Từ trong sâu thẳm, trái tim đang nuôi dưỡng tình thương, nuôi dưỡng tha thứ, nuôi dưỡng sự thản nhiên, đừng gây thêm oan trái làm trái tim khô héo, làm tình thương cằn cỗi và làm sợ hãi bủa giăng.  Hãy làm cho tâm thản nhiên, thản nhiên với oan trái, với khổ đau. Thản nhiên thì không gì là oan trái, không gì là khổ đau. Chất liệu thản nhiên là hạt giống tốt tạo ra hoa trái của tự tại, của bình thản tột cùng.

Có những oan trái và khổ đau làm đau nhức cơ thể. Mình đặt cho cơ thể này những cái nhãn hiệu, đây là đầu, đây là cổ, đây là tay, đây là chân, đây là mình. Mỗi bộ phận đều có nhãn hiệu và mình kẹt vào nhãn hiệu. Nếu ai đả động đến nhãn hiệu là mình sừng sỏ, không chịu bỏ qua. Oan trái với bộ phận nào, bộ phận đó sẽ đau nhức. Oan trái với cái đầu, cái đầu sẽ đau nhức, oan trái với cái mình, cái mình sẽ đau nhức. Thân này kết hợp bởi tứ đại hay bốn yếu tố nên khi bốn yếu tố này chuyển động, không quân bình, mình có cảm giác đau đớn, cảm giác này không vượt qua được sẽ sinh đau khổ. Đức Phật bị mảnh đá văng trúng chân chảy máu, chắc chắn ngài có đau đớn, nhưng ngài không bị đau đớn này làm cho đau khổ, vì ngài thấu hiểu, đã mang thân tứ đại ắt sẽ bị bệnh, ắt sẽ bị tai nạn, tứ đại không bền chắc, cho nên nhờ cái biết này mà ngài không thấy đau khổ, vì không đau khổ nên đau đớn không làm hại được ngài.

Năm tội nặng nhất gọi là ngũ nghịch tội, có thể dẫn đến quả báo ngay lập tức và phải trả nghiệp liền mà đức Phật đã nói đến. Ba mẹ là người sinh ra mình, là người thân nhất, có mối liên hệ lớn nhất, mình là sự tiếp nối của ba mẹ, công sinh thành nuôi dưỡng to lớn không gì so sánh bằng. Người giết ba mẹ là phủ nhận tất cả tình thương, triệt tiêu cả tình thương, phủ nhận tất cả ân đức mà ba mẹ trao tuyền và hạt giống quí báo mà ba mẹ trao truyền. Giết ba mẹ thì không còn gì nữa, việc gì cũng dám làm, người trong nhà còn giết thì nói chi đến người bên ngoài. Tội nặng không thể lường được. Tiếp theo, tăng đoàn là phước điền của chúng sinh, là đoàn thể nguyện sống đời tỉnh thức, là tiếp nối của đức Phật. Người mà phá hòa hợp tăng, làm cản trở con đường tu tập của họ, con đường giải thoát xa dần, phước điền bị mai một, đạo pháp bị tàn lụi, chẳng tội nào cao hơn tội này nữa, đây là kiểu tội ngăn cản sự thanh tịnh. Bậc A La Hán là người đã chứng ngộ Niết bàn, tiếp xúc với giải thoát trong hiện tại, là người có giới hạnh và phước báo lớn. Giết một người giới hạnh và phước báo lớn là đồng lõa với việc tạo ra sự bất hạnh, suy đồi và chối bỏ phước báo, tội này không biết phải dùng ngôn từ gì để nói nữa. Làm thân Phật chảy máu là một tội nặng khác. Phật có mặt trên đời là nhân duyên kết hợp của hằng hà sa số phước báo và tu tập, làm một người tỉnh thức tột cùng đau đớn, chẳng khác nào làm hằng hà sa số Phật đau đớn. Đau khổ đến với người liên tục mãi không thôi.

Do không kham nhẫn trước tâm độc, mình bỏ thân mạng nơi địa ngục. Vậy có ai mang địa ngục đến cho mình đâu, tự mình xây địa ngục giam hãm mình. Muốn thoát ngục, phải tu, phải sám hối những tội đã làm. Trước Tam Bảo tối thượng, hãy quỳ xuống mà thành tâm sám hối, đồng thời làm những việc thiện, tu tập miên mật nhằm hóa giải nghiệp chướng. Việc giữ giới rất quan trọng, trong đó có giới không sát sinh, giới tôn trọng sự thật, giới không tà dâm… để làm mới trở lại. Người giữ giới là người biết kham nhẫn, biết dừng lại những việc có thể gây ác nghiệp. Người phạm tội ngũ nghịch âu cũng là do tâm quá điên đảo, đến nỗi không còn là con người nữa, mà cái gì đó rất lạ lẫm, rất xa xăm.

Thực tập rải tâm từ giúp phần nào giảm bớt tội lỗi do các tội nặng gây nên. Muốn có tâm từ để rải phải hành tâm từ, hãy tập yêu thương, hãy tập tình thương lớn. Rải tâm từ cho mình vì bản thân lúc nào cũng có nhu cầu của yêu thương, nhắc nhở bản thân biết trân quí sự sống. Rải tâm từ cho ba mẹ, vì ba mẹ là người thương nên họ cũng cần tình thương, họ là con người nên cũng cần sự sống. Rải tâm từ cho tăng thân, các đoàn thể, các cộng đồng, vì nhân duyên mà có mặt cho nhau, cùng sống chung với nhau, nguyện mọi người an lạc và thành tựu. Rải tâm từ cho các chúng sinh, từ người đang thực tập đạo đức đến người chưa biết thực tập đạo đức. Với người đang thực tập đạo đức, nguyện cho họ tiếp tục duy trì nền tảng đạo đức và tiến xa hơn nữa trên con đường tu tập. Với người chưa biết thực tập đạo đức, nguyện cho họ có đủ phước báo để nhận ra con đường chánh pháp. Rải tâm từ cho ba cõi bốn loài, cho cõi dưới, cõi trên, cho chúng sinh mười phương, loài hữu tình lẫn vô tình, đều hưởng an lạc thái bình, đều tiếp xúc với bình yên, đều biết thắp đuốc lên để đi, cùng quay về bến bờ giải thoát. Rải tâm từ thì không lên án người phạm tội nặng nữa, hãy rộng đôi tay đón họ quay về nhà, bằng không họ đã sợ hãi lại càng sợ hãi hơn, đường về nhà thêm xa xôi, tội thêm nặng và thế giới thêm điêu tàn.

Năm 496 trước công nguyên, Câu Tiễn lên nối ngôi sau khi vua Doãn Thường qua đời. Lúc này, vua Ngô Hạp Lư muốn chinh phạt nên đem quân đi đánh và xâm chiến nước Việt, ngày nay là Thượng Hải. Câu Tiễn yêu cầu quân lính đánh trả quyết liệt và đại thắng quân Ngô ở thành Huề Lý. Quân Ngô thua nặng, và vua Ngô Hạp Lư trước khi qua đời, dặn con là Ngô Phù Sai phải báo thù cho mình. Ba năm sau, Phù Sai chuẩn bị binh cường để đánh nước Việt. Hay tin, Câu Tiễn vì muốn đánh úp quân Ngô nên điều binh đánh trước. Tướng Phạm Lãi can ngăn Câu Tiễn không nên làm như thế mà cần tìm hiểu thế lực quân địch như thế nào. Câu Tiễn bỏ ngoài tai lời của Phạm Lãi, vẫn cứ điều binh, cuối cùng bị thua to ở Phù Tiêu, rồi cùng 5000 quân còn lại trốn ở Cối Kê. Phù sai bao vây Cối Kê và Câu Tiễn nằm trong thế tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Phạm Lãi khuyên Câu Tiễn nên dùng lời lẽ khiêm nhường và hạ mình hầu lấy lòng vua Ngô, đồng thời hứa là sẽ hậu lễ để thoát nạn, nếu không được thì phải đích thân đến hành lễ Phù Sai. Sau nhiều mưu kế Câu Tiễn cũng phải đầu hàng, bị bắt về nước Ngô, chịu nhiều khổ nhục, kể cả việc nếm phân của Phù Sai.

Sau nhiều năm phục dịch, Phù Sai tin tưởng và tha cho Câu Tiễn về nước. Nhưng sự căm thù bên trong không hề nguôi ngoai, Câu Tiễn vẫn tiếp tục nuôi lòng phục thù. Phạm Lãi chia sẻ một phương cách là sử dụng mỹ nhân kế, dùng nàng Tây Thi dâng cho Phù Sai để ông vua này sa vào việc ăn chơi trụy lạc, bỏ bê việc triều chính, nhân cơ hội này mà trả thù. Câu Tiễn theo đuổi mục tiêu báo hận cho đến cùng. Mười năm sau, nước Việt chấn hưng kinh tế, chính trị và quân sự, trở nên hết sức hùng mạnh, đã tiến vào nước Ngô đánh bại thái tử nước Ngô. Sau nhiều lần bị đánh bại, Ngô Phù Sai cho người giảng hòa nhiều lần. Câu Tiễn muốn chấp nhận nhưng Phạm Lãi can ngăn và ông vua Ngô đâm cổ tự sát.

Qua câu chuyện lịch sử này, có thể nhận thấy lòng căm thù của con người ghê gớm, nó dẫn đến chiến tranh, nhất là lòng căm thù của nguyên thủ. Nguyên thủ quốc gia mà căm thù thì cả dân tộc chìm trong máu lửa. Hận thù tiếp nối theo hận thù. Của cải, tài nguyên, nhân lực vật lực đều đem ra phục vụ cho hận thù. Nếu biết nhường nhịn, đối thoại và hợp tác, thì chiến tranh không xảy ra. Biết tha thứ, biết yêu thương, biết chia sẻ, thì chiến tranh không xảy ra, hòa bình sẽ kéo dài hơn. Con người dại dột trong những trò chơi của chiến tranh như thế, chẳng qua vì lòng căm thù không thể dập tắt nổi, nó đốt cháy tâm can của người đó, không những thế, nó đốt cháy cả một thế hệ, mà thế hệ này chưa đủ, nó bắt thế hệ tiếp theo phải trả, và cứ thế mãi không thôi.

Con người khổ là do mình tạo ra rồi gánh lấy, mình tạo ra hận thù nên phải gánh chịu hậu quả của hận thù đó. Tùy theo cách nhận thức mà mình sẽ thấy khổ đau hay hạnh phúc. Có người cho rằng đất nước mình tuy nhỏ bé, nhưng thiên hạ thái bình, người người thương yêu nhau, như vậy là hạnh phúc lắm, nhưng có người lại cho rằng như vậy là không đủ, phải bành trướng sang nước khác, phải có chiến tranh, phải là bá chủ thiên hạ thì mới có hạnh phúc, nên người này mãi không nằm trong vùng của hạnh phúc. Đơn giản vì không biết đủ, lúc nào cũng thiếu thốn. Những khổ đau mà mình cho là người khác đem tới chỉ là ngoại cảnh, thực chất khổ không do ngoại cảnh mà do cách nhìn nhận của mình về ngoại cảnh. Như một người ăn gói xôi cũng thấy vui mà có người ăn xôi thì thấy khổ lắm, chẳng qua là cách nhìn nhận của mình. Kiểm soát suy nghĩ, để không chiều theo cái ham muốn, ham muốn càng ít thì ngoại cảnh ít tác động, tham muốn càng nhiều thì làm nô lệ cho ngoại cảnh, chiều chuộng ngoại cảnh và mong cầu ngoại cảnh, cho nên mình khổ. Mình hận thù vì ngoại cảnh không thuận theo suy nghĩ, mình tranh cãi vì ngoại cảnh không thuận theo tiêu chuẩn trong suy nghĩ, mình đấu đá vì ngoại cảnh không phục suy nghĩ hay tiếng nói của mình. Kiềm chế cái muốn bên trong thì cái ham thích ngoại cảnh giảm đi, hạnh phúc sẽ phát khởi. Hạnh phúc có được là nhờ biết kiềm chế như thế. Hãy làm cho tâm biết kiềm chế.

Kinh Dễ Thương

Kinh Dễ Thương

Puràna là một trong mười đại đệ tử giỏi nhất của đức Phật và là người thuyết pháp giỏi nhất. Trước khi xuất gia, thầy là con của ông trưởng giả giàu có. Một lần, nghe Phật thuyết pháp, thầy đã phát tâm xuất gia, hành trì đạo giải thoát.

Phật hỏi, Vì lí do gì mà ông xuất gia? Thầy Puràna thưa, Bạch Thế Tôn, con xuất gia vì con thấy Thế Tôn có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.

Phật nói tiếp, Như vậy thì không được, sắc thân của ta sẽ già đi và tàn hoại, không còn tốt đẹp nữa, ông sẽ không tu nữa sao? Thầy Puràna tiếp tục xin xuất gia. Phật hỏi, Vì lí do gì mà ông xuất gia? Thầy Puràna thưa, Bạch Thế Tôn, lúc con nghe Thế Tôn thuyết pháp, lời pháp thật hay nên con xin xuất gia.

Phật nói, Vậy cũng chưa được, ta sẽ già nua, sức cùng lực kiệt, ta không thuyết pháp được nữa, ông sẽ không tu nữa sao? Thầy Puràna tiếp tục xin xuất gia. Phật hỏi, Vì lí do gì mà ông xuất gia? Thầy Puràna thưa, Bạch Thế Tôn, con thấy các thầy ai cũng tu hành thanh tịnh, giới hạnh trang nghiêm, thật là phước điền của chúng sinh nên con xuất gia.

Phật nói, Vậy cũng chưa được, nếu có một thầy tu hành không thanh tịnh, giới hạnh không trang nghiêm, ông sẽ không tu nữa sao? Thầy Puràna tiếp tục xin xuất gia. Phật hỏi, Vì lí do gì mà ông xuất gia? Thầy Puràna thưa, Bạch Thế Tôn, con muốn chứng quả giải thoát.

Phật nói, Thật là hay, ông đã được xuất gia chân chánh.

Thầy Puràna được xuất gia, thường xuyên nghe Phật thuyết pháp, tu hành hết sức tinh tấn và chứng quả A La Hán.

Một lần, thầy Puràna mong muốn đến giáo hóa tại một vùng mà dân chúng ở đó rất hung dữ. Trước khi thầy đi, Phật cho gọi thầy đến rồi hỏi, Giả sử khi thầy đến đó dân chúng mắng chửi thầy thì thầy làm sao? Thầy Puràna thưa, Bạch Thế Tôn, họ vẫn còn dễ thương vì chưa đánh con.

Phật hỏi, Giả sử họ đánh thầy thì thầy làm sao? Thầy Puràna thưa, Bạch Thế Tôn, họ vẫn còn dễ thương vì chưa giết chết con.

Phật hỏi, Giả sử họ giết thầy thì sao? Thầy Puràna thưa, Bạch Thế Tôn, con nghĩ họ vẫn còn dễ thương, con sẽ rất cám ơn họ vì họ đã giúp con giải thoát ra khỏi thân tứ đại đầy bất tịnh và khổ đau này.

Phật nói, Thật là hay, thầy đích thực là người giáo hóa giỏi nhất.

Qua bài Kinh Dễ Thương, mình thấy người xuất gia tu học với mục tiêu tối thượng là giải thoát. Người giải thoát không kẹt vào hình tướng, như 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật, và không kẹt vào âm thanh, như lời thuyết pháp của Phật, đồng thời không kẹt thanh tịnh hay giới luật từ bên ngoài như tăng thân hay đối tượng nào khác. Người giải thoát chắc chắn đã tự mình thực tập, tự mình xoay vần từ chưa giải thoát đến giải thoát. Đây là yếu tố dễ thương của người tu, nói cách khác, người tu là người dễ thương và người biết tu là người biết hành xử dễ thương, suy nghĩ dễ thương, hành động dễ thương và lời nói dễ thương.

Người tu cần hành kham nhẫn và kham nhẫn là yếu tố tạo nên chất liệu dễ thương của người tu. Người kia sử dụng lời nói không dễ thương nhưng với cái tâm dễ thương thì lời nói dù không dễ thương vẫn thấy dễ thương, nên lời nói không dễ thương không thể tác động đến người đang tràn ngập năng lượng dễ thương. Người kia hành động không dễ thương như đánh đập, khủng bố, thậm chí tước đi mạng sống, nhưng với người tâm địa dễ thương thì hành động kia có xá gì. Tâm dễ thương không còn kẹt vào ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả, nên không còn thấy đau đớn, không thấy hờn giận, không thấy thù hận, không thấy riêng biệt với hành động gọi là gây hấn hay hành động chưa dễ thương. Hãy làm cho tâm dễ thương.

Trong Kinh Diệt Trừ Phiền Giận, có một số đoạn nói về việc nhìn vào điều dễ thương của người mà diệt trừ hay chuyển hóa sự hờn giận. Thứ nhất, nếu có một ai đó mà hành động không dễ thương nhưng lời nói lại dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận người đó thì mình phải nên biết cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi. Thứ hai, nếu có một ai đó mà nói lời không dễ thương nhưng hành động lại dễ thương thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận người đó thì mình phải nên biết cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi. Thứ ba, nếu có một ai đó mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận người đó thì mình phải nên tìm cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi. Thứ tư, nếu có một ai đó mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà trong tâm cũng không còn lại một chút gì gọi là dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận kẻ đó thì mình nên tìm cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi. Thứ năm, nếu có một ai đó mà hành động dễ thương, lời nói cũng dễ thương mà tâm ý cũng dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận hoặc ganh ghét với kẻ đó thì mình phải nên tìm cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi. (15)

Sự phiền giận có thể che lấp khả năng quán chiếu và thừa nhận điều dễ thương của người khác. Như một ông vua ra lệnh chém đầu quan trung thần chỉ vì một lỗi lầm nhất thời mà quên đi những thành tựu mà ông này mang lại trong nhiều năm. Cũng vậy, mình giận vì cái lỗi nhất thời của người kia trong khi họ vẫn còn đầy dẫy những điều dễ thương. Cái giận làm mình quên mất đó là người dễ thương và người đó vẫn đang là người dễ thương. Cái giận đã “delete” mọi điều dễ thương của người đó. Với người hành động, lời nói và trong tâm không còn chút gì dễ thương thì ắt hẳn là người rất đau khổ, nếu không nói là đau khổ tột cùng và đang bế tắc trong lối thoát, nếu mình sinh tâm phiền giận người này thì có phải mình là người đáng trách hay không. Không phải họ không dễ thương, mà do chưa biết cách dễ thương, không ai chỉ dẫn cho phương cách dễ thương nên họ hành xử không kịp dễ thương. Hãy cho họ thời gian, hãy cho họ phương tiện, hãy cho họ hoàn cảnh, khi thuận duyên đầy đủ, tự nhiên họ sẽ dễ thương ra thôi, đơn giản vì họ có khả năng tự chuyển hóa, khả năng tự dễ thương.

Angulimala đã từng là một tên sát nhân, phải nói là tên sát nhân hàng loạt. Ngày nay người ta gọi những người như vậy là tên khủng bố. Nhắc đến tên Angulimala là người ta đã sợ hãi nói chi  đối diện trực tiếp hay giáo hóa người này. Người ta đã xây dựng cho riêng mình về hình ảnh của Angulimala là một quỷ dữ, một thứ độc địa, một thứ nguy hiểm nhất mà mình phải tránh, phải chạy trốn, phải xua đuổi, phải bắt giữ và phải hành hình. Kiểu Angulimala xuất hiện thời đại này nhiều lắm, cái tội danh giết người hàng loạt, cái tội danh sát hại sinh mạng cướp của, cái tội danh đánh bom liều chết, cái tội danh khủng bố, cái tội danh thảm sát thường dân, cái tội danh diệt chủng và đủ thứ tội danh ghê gớm khác. Thế đức Phật đã đối diện với một Angulimala, một ác quỷ như thế nào.

Thấy Phật đi trên đường, Angulimala muốn giết Phật lấy một đốt xương tay để làm tràng xương đeo vào cổ. Anh muốn giết một người mà không có một tấc sắc trong tay, không có một võ khí nào trong tay. Phật bưng bát đi khất thực trong thành Xá Vệ, nghe tiếng chân chạy rầm rập phía sau, ngài biết Angulimala đang đuổi tới, nhưng ngài vẫn đi thản nhiên. Khi còn là thái tử Sĩ Đạt Ta, ngài là người giỏi võ công, nhưng trong trường hợp này, ngài không hề dụng một tí võ công nào. Angulimala lớn tiếng nói, Ông thầy tu kia, đứng lại mau. Phật vẫn đi, dù ngài vẫn nghe tiếng của thúc giục ngài đứng lại. Angulimala tiếp tục la lớn, Cái ông thầy tu này, có đứng lại không. Phậtt vẫn đi như không, không tỏ vẻ sợ hãi. Hồi sau, Phật nói, Ta đã đứng lại rồi, chỉ có anh là chưa đứng lại thôi. Angulimala ngạc nhiên, Sao vậy, ta có đi đâu, ta đang đứng đây, chỉ có ông là đang đi, ông đứng lại hồi nào, ông dừng lại hồi nào. Phật bình thản đáp, Ta đã dừng lại các hành động ác nghiệp từ lâu rồi, chỉ có anh vẫn đang tiếp tục những hành động đó, anh mới là người phải dừng lại. Angulima gần như giật mình trước lời của Phật. Phật tiếp tục, Con người ai cũng sợ chết, sợ đau đớn hoành hành, mình phải biết thương người, thương người chính là thương mình vậy. Angulimala sau đó được Phật xuất gia, tu tập rất tinh chuyên và đạt được mục đích của người tu.

Qua câu chuyện này, Phật đã hành xử một cách hết sức văn minh, đối xử với tên khủng bố ác liệt nhất bằng thanh gươm của từ bi và trí tuệ. Thanh gươm này có thể chặt đứt mọi phiền não, mọi bạo động và mọi hận thù. Chỉ có từ bi mới khơi gợi từ bi của người khác. Chỉ có trí tuệ mới biết cách sử dụng từ bi. Con người dù dã tâm cách mấy cũng còn chút ít từ bi, chút ít từ bi này tuy nhỏ bé nhưng rất quan trọng vì nó là cái gốc còn xót lại, nó đang tiềm ẩn, nó đang chờ một cơn mưa cam lồ, chỉ cần đủ thuận duyên, nó sẽ nảy mầm, nếu được nuôi dưỡng sẽ đơm hoa kết trái. Mình không có quyền loại từ bi ra khỏi sự sống vì bản chất của sự sống là từ bi. Hitler là phải chết, Osama Bin Laden là phải chết, Pol Pot là phải chết vì họ là diệt chủng, là khủng bố. Vậy khi họ chết rồi, thế giới này cò còn hết sợ hãi, có còn hết bạo động, có còn hết những khổ đau, hay những khổ đau vẫn còn đó, những đau thương vẫn còn đó. Chỉ có từ bi, tha thứ và bao dung, con người mới chấm dứt được sự thù ghét nhân loại. Chỉ có trí tuệ, biết ôm lấy niềm đau, biết chuyển hóa niềm đau thì kẻ khủng bố mới trở lại làm người. Bằng không, tên khủng bổ này vừa bị tiêu diệt, tên khủng bố khác sẽ xuất hiện, thậm chí tàn khốc hơn trước. Kham nhẫn với khổ đau để khổ đau được chút ít từ bi, cho đến khi thấm nhuần từ bi. Kham nhẫn với Angulimala là để Angulimala có chút ít từ bi, để chuyển hóa, để giác ngộ. Kham nhẫn với khủng bố để khủng bố nhận ra mình vẫn còn chút ít từ bi mà hóa giải hận thù. Hãy làm cho tâm từ bi.

Thông thường mình chỉ thương được những người dễ thương, những người cùng hội cùng thuyền, những người hợp nhãn, hợp tiêu chuẩn, hợp với sở thích hay quan điểm của mình, còn ngược lại thì mình không thích gì mấy, hoặc bị gán là người này không được dễ thương. Vậy làm sao thương được người không dễ thương? Mình có xu hướng chọn bạn mà chơi, nhưng cách chọn bạn mà mình sử dụng không phải để giúp mình tốt hơn, mà lại khiến mình rơi vào tình trạng kì thị. Ví dụ người đó hay khen mình và tốt với mình thì mình thương, còn người kia hay chê bai,  hiềm hận và đối xử tệ bạc với mình, nên mình ghét, mình không thương nổi người kia. Và kết quả là gì, mình thích người theo phe mình và không thích người không theo phe mình, theo kiểu ngày nay người ta dùng từ lề phải hay lề trái gì đó. Hãy thử nhìn đôi bàn tay, đã có tay phải thì phải có tay trái, đã có lề phải thì phải có lề trái, đã có người dễ thương thì phải có người không dễ thương, đã có cái này thì phải có cái kia, không có cái gọi là đơn phương độc mã, hay đơn thân. Khi tay phải bị đau, tay trái tự nhiên nắm lấy tay phải và xoa cho tay phải bớt đau, nên tay phải cũng cần biết ơn tay trái. Khi bên lề phải người ta đào đất, không có chỗ cho người đi bộ, nên người đi bộ sẽ dời sang lề trái mà đi, người đi bộ tùy nghi mà sử dụng lề, đâu nhất thiết là phải hay trái. Người không dễ thương vì mình chưa hiểu người, chưa thấy được cái dễ thương của người, mình chỉ châm mẫm vào điều không dễ thương thôi, mình ích kỉ vậy đó, tâm mình không chịu mở ra và mình đem cái tâm không dễ thương để nhìn người, nên nhìn ai cũng thấy không dễ thương.

Muốn thương người mà mình cho là không dễ thương, phải hiểu họ, tại sao họ không dễ thương, điều gì đã khiến họ không dễ thương, điều gì khiến cho mình chưa nhìn thấy điều dễ thương và điều gì khiến mình chưa thương được điều không dễ thương ở họ. Có hiểu thì mới có thương, muốn thương người không dễ thương hãy hiểu điều không dễ thương và hiểu vì sao họ hành xử không dễ thương.  Vì hoàn cảnh, vì sự bất lực, vì những yếu đuối, vì nhỏ nhen, vì mệt mỏi, vì chán chường, vì ganh tị, vì hiềm giận, vì bị ép buộc và đủ thứ cái vì khác nên họ không thể dễ thương được, nhưng nếu nhìn kĩ, họ vẫn có nhu cầu dễ thương, họ muốn dễ thương lắm chứ, nhưng vì mấy cái vì kia nên họ không đủ sức để dễ thương. Nghĩ vậy mà thương họ, đã thương rồi thì mấy cái chưa dễ thương này nọ, mình cũng thương luôn. Nhưng trước hết mình khoan bắt họ dễ thương với mình, mình hãy dễ thương với họ trước đã. Còn cứ nhìn vào điều họ chưa dễ thương, trong phút chốc mình đã trở nên không dễ thương rồi.

Nhiều điều không dễ thương xảy ra cho mình và mình chỉ muốn khóc thôi. Khóc đôi khi giúp ích vì tâm có thể nhẹ đi phần nào, nhưng nếu khóc rồi sau đó không làm gì hết, không giải quyết nguyên nhân của cái khóc thì khổ đau vẫn còn. Khóc vì hạnh phúc cũng đáng khóc, nó giúp người ta gần gũi và hiểu nhau hơn. Nếu có bài thiền cười cũng nên có bài thiền khóc. Tuy nhiên việc khóc lóc cũng bị lạm dụng, và nó sinh ra hội chứng khóc lóc. Cái gì cũng có thể khóc, đụng chuyện là khóc. Con gái mít ướt đã đành, con trai cũng mít ướt luôn. Bây giờ người ta thích khóc và trở thành hội chứng. Sự bình tĩnh không được rèn luyện nên khóc nhiều quá khiến người ta yếu đuối và chìm đắm trong việc khóc, chìm đắm trong sự đau thương. Đành rằng mình thương nên mình khóc nhưng nếu khóc để đi tới giải pháp lành mạnh thì khóc vẫn mang ý nghĩa tích cực. Ví dụ mình nhìn cảnh chiến tranh khốc liệt, mình thương cảnh chia lìa nên mình khóc, từ cái khóc này, mình thấy bây giờ đang có hòa bình, thì mình hãy nỗ lực xây dựng hòa bình, bây giờ còn ở bên nhau thì trân quý sự có mặt cho nhau, trong cái khóc có sự thực tập. Ngược lại, mình khóc vì sự bi lụy, vì không thể chịu nổi đau đớn, và từ cái khóc đó, mình bi quan, mình chạy trốn khổ đau hay muốn trả thù khổ đau bằng cách đi gieo rắc khổ đau, khóc này không đáng. Có cười thì phải có khóc. Có người tu tập bắt được con đường chánh pháp, mừng vui quá nên khóc, khóc vì sung sướng. Sau bao nhiêu năm trôi lăn trong biển đời ái dục tối tăm, nay tìm được ánh sáng, mừng rỡ như đứa con trở về nhà. Về nhà nhìn thấy Phật, thấy ba mẹ, thấy anh chị em, thấy bạn bè, thấy những người thân thương, mừng mà rơi nước mắt. Việt Nam sau nhiều năm chiến tranh, người anh đi chiến trường thấy cảnh chết chóc của đồng đội, không còn đủ sức để rơi nước mắt nữa. Giờ về nhà, hòa bình rồi, bây giờ mới có thời gian mà khóc. Khóc vì không còn chiến tranh, khóc vì không còn chứng kiến đồng đội ngã xuống nữa.

Kham nhẫn với đau thương, đồng cảm với đau thương nhưng không làm tình làm tội đau thương, không làm nô lệ cho đau thương, không xây nhà tù hắc ám cho đau thương, bằng không mình rơi vào hội chứng đau thương. Xu hướng tìm kiếm đau thương qua phim ảnh, sách báo, âm nhạc, đưa mình đi vào thế giới của đau thương. Nếu một tác phẩm nghệ thuật như phim chẳng hạn khi lột tả đau thương và chia sẻ phương hướng giải quyết đau thương lành mạnh thì tốt hơn là đưa người xem vào sự bế tắc. Theo chuyên viên tâm lý lâm sàng, bệnh viện Nhi Đồng 1, cô Nguyễn Thị Diệu Anh, cho rằng đau khổ gây nên rối loạn dạng cơ thể, nhất là trẻ em, do bị lừa dối, bị bỏ rơi, bị hụt hẫng… Nghe một bản nhạc đau thương có thể dẫn đến tình trạng như vậy và vô hình chung bài nhạc đau thương kia tưới tẩm hạt giống như là bị lừa dối, như là bị bỏ rơi, như là bị hụt hẫng… Mình có xu hướng tìm kiếm đau thương dù trong thực tế chuyện đau thương này chưa xảy ra với mình. Đau thương đó bủa giăng khắp nơi, khắp phương tiện thông tin đại chúng, nó bám lấy, ám lấy và hắc vào mình như ai đó tạc vào cái nồi nước sôi, đây là nồi đau thương. Cái âm thanh đau thương tạc vào tai khiến tâm mình nhức nhối, nhiều khi nó còn nặng hơn nồi nước sôi. Kham nhẫn với đau thương bên trong đã đành, mình còn phải thực tập bình tĩnh để kham nhẫn với đau thương bên ngoài. Biết cái đau thương bên ngoài để chuyển hóa đau thương bên trong, không chìm đắm và cổ xúy cho đau thương bên ngoài đó. Biết đau thương bên trong để đối trị với đau thương và bình thản với đau thương bên ngoài. Đau thương có mặt vì hạnh phúc có mặt, học cách chấm dứt đau thương chứ không hùa theo đau thương. Đã có đau thương thì có nguyên nhân của nó, có phương pháp để chấm dứt đau thương, hùa theo đau thương chẳng khác nào tạo điều kiện cho đau thương có sự tiếp nối.

Mẹ đột ngột qua đời và ba đi thêm bước nữa. Đứa con đau khổ vì mẹ mất nên chỉ muốn ba thương và dành toàn bộ tình thương cho mình. Việc ba cưới thêm người vợ khác khiến đứa con cảm nghĩ, chắc ba không thương mẹ nữa và sự có mặt của đứa con không đủ để ba dành trọn vẹn tình thương. Đứa con thấy ba không dễ thương và người mẹ kế bị ghét lây. Đứa con thấy bà không dễ thương vì đã xen vào đời sống của mình, đã dành mất ba và dành mất tình thương mà ba đang dành cho nó. Thật ra ba vẫn thương đứa con nhưng vì đứa con chưa hiểu ba, chưa thấy được tình thương dành cho đứa con trong ba và trong tâm có sự hờn giận nên thấy ba mình ích kỉ. Đứa con có sự sợ hãi như vậy. Hãy thử nhìn xem, ba mình còn trẻ và cần người chăm sóc. Người phụ nữ thứ hai cũng đáng tuổi mẹ mình, chắp nối với ba mình bằng tình thương, hãy nghĩ mình có thêm người mẹ, có phải hạnh phúc hơn không. Hiểu rồi thì hãy biết thương, biết chấp nhận người mẹ thứ hai, và tìm phương pháp để giữ hòa khí trong gia đình, đây là đứa con biết nghĩ, biết đem cái tâm dễ thương mà nhìn. Nếu tâm không dễ thương, mình nhìn người dễ thương cách mấy cũng thành ra không dễ thương. Ba mình dễ thương lắm, nhưng do hành động đi bước nữa của ba, theo suy nghĩ của mình, làm như vậy là không dễ thương với mẹ, không dễ thương với mình, nên giận ba, giận luôn người mẹ kế. Kham nhẫn với đòi hỏi người khác phải hành xử dễ thương với mình, trái tim mình sẽ lớn hơn, sẽ dễ thương hơn. Người biết yêu thương chấp nhận tất cả, chấp nhận hy sinh, không đòi hỏi người kia phải hành xử trong những ý niệm nhỏ bé. Hãy làm cho trái tim biết dễ thương.

Trái Tim Không Biên Giới

Trái Tim Không Biên Giới: Phương Pháp Thực Tập Hạnh Kham Nhẫn
Và Im Lặng Giữa Rừng Đại Ngàn

Mỗi người ai cũng có trái tim nhưng trái tim không hạn hẹp trong lồng ngực mà trái tim có thể vượt ra khỏi lồng ngực, ra khỏi giới hạn của hình hài, của biên giới, của quả địa cầu. Không ai cấm mình yêu thương và mình cũng không dừng lại được tình thương của mình. Người thông minh là người biết thương bản thân, vì thương thân nên không kìm hãm mình trong những điều kiện làm hư trái tim, làm hư cái thân. Trái tim có thể nhỏ bé, nhưng hết sức mạnh mẽ, nó vượt qua những khó khăn của thân và tâm. Mình cho trái tim đi ra khỏi lồng ngực, mình ôm trái tim của mình và mình ôm trái tim của người khác. Đứa con biết thương ba mẹ, thương anh chị, thương bạn bè, thương đồng nghiệp. Trái tim có sự trưởng thành. Ngày xưa trái tim non nớt, đòi người này người kia phải thương mình, giờ mình đã biết đi thương người khác, trái tim trưởng thành là vậy. Không chỉ dừng lại đó, trái tim có nhu cầu lớn hơn, trái tim muốn thương đồng loại, thương cả muôn loài, thương môi trường, thương địa cầu, thương chúng sinh mười phương. Đơn giản thôi, tất cả các đối tượng này đều có mặt trong trái tim, nếu thiếu chúng, trái tim sẽ khó có mặt, trái tim sẽ rất khô khan. Trái tim có trí tuệ không chỉ vậy, mà còn biết tha thứ, biết bao dung, biết kham nhẫn. Đây đích thực gọi là trái tim không biên giới. Vì không có biên giới, nên trái tim không có giới hạn, vượt thắng cả không gian và thời gian. Tình thương làm cho tâm từ lớn lên, làm cho tâm bi lớn lên. Từ bi là biểu hiện của tình thương. Trái tim thiếu vắng tình thương thì tội nghiệp lắm. Trái tim không có sự bị động vì trái tim lúc nào cũng chủ động, thôi thúc mình phải thương, thương tất cả, hạnh phúc cũng thương mà khổ đau cũng thương. Trái tim không kỳ thị là trái tim không biên giới.

Muốn kham nhẫn, đừng bao giờ ngừng thực tập trái tim không biên giới. Khi trong tâm không còn chút ít kì thị nào, mình nhìn mọi thứ bằng con mắt bình đẳng. Mọi phán xét ngay lập tức chấm dứt, trí tuệ bát nhã phát triển. Không cao không thấp, không dơ không sạch, không thành không bại, không tội không phước, không đẹp không xấu. Cái thấy của sự bình đẳng chấm dứt mọi kì thị và khi không còn kì thị, mọi ý niệm vắng bặt. Không nhẫn vì còn kì thị, còn vẽ đường ranh giới, còn thấy được sự khác biệt. Yêu thương hết muôn loài thì thương tất cả chúng sinh. Chúng sinh dù ở góc độ nào, hình thái nào, quốc gia nào, giới tính nào, sắc tộc nào, tôn giáo nào, đều có thể thương được. Cái thương này không thuộc kiểu thương say đắm mà thương vì đã không còn kì thị, thương như thương mình, không thấy chúng sinh khác biệt với mình, nên thương chúng sinh giống như thương bản thân vậy. Đây không phải là trách nhiệm và nghĩa vụ, mà là sự hưởng thụ. Thương chúng sinh là sự hưởng thụ. Hãy là người ôm lấy muôn loài, ôm lấy cả hạnh phúc lẫn niềm đau của muôn loài. Ngồi đây ngắm nhìn trăng sao, đôi mắt tràn trề ánh sáng của trăng sao. Trái tim cũng vậy. Ngồi đây, ngắm nhìn chúng sinh, trái tim tràn trề tình thương chúng sinh. Trong bài kệ Trái Tim Không Biên Giới, có đoạn, đem cả thân mạng này mà ban phát tình thương, dù chúng sinh sống ở quốc độ nào, quốc gia, châu lục hay hành tinh nào. Thương hết thì ai cũng là người thương, mình giàu có, mình không cô đơn, vì lúc nào cũng có người để thương, lúc nào cũng có chúng sinh để thương, để mà hy sinh, để mà che chở. Yêu thương hết muôn loài là kham nhẫn với tâm kì thị, tâm muốn ngăn chia, tâm muốn tạo khoảng cách, tâm muốn đánh đấm, tâm muốn gây chiến tranh. Chỉ cần ngồi lại, nhìn vào chúng sinh trong mình, mình thấy chúng sinh gần gũi và dễ thương biết bao.

Giữa rừng đại ngàn, có những cây rất lớn, tuổi thọ có thể vài trăm, dài hơn cả đời người, nhưng cũng có những có những cây nhỏ, vừa mới mọc. Cây lớn sống chung với cây nhỏ và không có kì thị cây nhỏ. Bên canh đó, có những loài thú nguy hiểm, thường xuyên rình rập để tấn công và ăn thịt loài thú hiền lành yếu đuối. Khi lũ lụt hay bão tố nổi lên, rừng có thể nép vào nhau mà trường tồn vì rừng có chất liệu của sự che chở. Vị khất sĩ đi vào rừng một mình, tìm nơi thực sự yên tĩnh, đặt chánh niệm trước mặt và bắt đầu thực tập quán niệm hơi thở. Mỗi khi có loài thú dữ nào phát khởi trong tâm, vị ấy nhận biết, quán chiếu tình trạng nguy hiểm và diệt trừ tình trạng này bằng cách im lặng. Im lặng với điều hung dữ thì điều hung dữ sẽ tự bỏ đi. Chánh niệm là nhận diện đơn thuần, tức là im lặng với điều mình nhận diện, mình biết nhưng không trốn chạy hay níu kéo. Biết rõ sự thật về loài thú dữ, vị khất sĩ im lặng nên không bị con thú ăn thịt mất. Còn nếu vị ấy sợ hãi, chạy trốn con thú thì con thú sẽ chạy theo, chạy không nổi thì bị con thú ăn thịt. Trong rừng có muôn ngàn thú dữ như trong tâm có muôn ngàn sự cám dỗ, im lặng giữa rừng đại ngàn như im lặng với cám dỗ ở trong tâm. Kham nhẫn với mọi cám dỗ là thực tập im lặng. Cám dỗ có mặt trong mọi hoàn cảnh nên im lặng trong mọi hoàn cảnh, đi vào rừng đại ngàn, đi một mình giữa thế gian, không bị thú dữ ăn thịt, không bị các pháp thế gian thuần hóa.

Một quốc gia muốn có kỉ cương và duy trì an ninh xã hội đề ra luật pháp để vừa giáo dục vừa răn đe người dân. Nhưng có một thứ luật không tuân theo phép kỉ cương nào, nó phá vỡ trật tự xã hội, đề cao tự do sai trái, muốn làm gì thì làm, bất cần luật, có thể hiểu theo kiểu phép vua thua lệ làng, đó là luật rừng. Luật rừng thường ám chỉ cho thành phần xã hội đen, thế lực đen tối hay những người bất hảo trong xã hội. Một khi luật pháp không được thực thi, luật rừng phát triển và bành trướng phạm vi hoạt động. Luật rừng đầy dẫy đồng nghĩa với xã hội bạo loạn và đất nước rơi vào bạo động. Vị khất sĩ đối diện với tâm không thanh tịnh giống như đối diện với luật rừng. Thân này là một lãnh thổ, tâm này là cả một đại dương. Nếu không bảo vệ lãnh thổ bằng giới luật, bằng uy nghi, thân sẽ rơi vào tình trạng mất ổn định vì đã bị luật rừng chiếm giữ, tức là sống bằng không giới, không luật, không uy nghi. Vị khất sĩ này đã đánh mất mình, đánh mất thân, đánh mất lãnh thổ, đất nước bị thất thủ, thân bị thất thủ. Nếu không bảo vệ tâm bằng chánh niệm, bằng thiền quán, bằng phát triển trí tuệ, tâm sẽ tán loạn và bị luật rừng sai khiến, tức là sống bằng thất niệm, đánh mất tâm, đánh mất đại dương, biển cả bị ô nhiễm bởi những vết dầu loang. Năm 2010, vụ tràn dầu ở vịnh Mexico được xem là thảm họa môi trường khủng khiếp nhất, nó giết chết không biết bao nhiêu sinh mạng, ảnh hưởng đến đời sống không biết bao nhiêu người và môi sinh bị ô nhiễm không biết bao nhiêu mà kể. Thân tâm này cũng thế, không hành trì chánh pháp thì thân tâm này sẽ là thảm họa, còn ghê gớm hơn cả thảm họa tràn dầu ở vịnh Mexico. Kham nhẫn với việc khó khăn trong thực tập chánh pháp, vị khất sĩ giúp cho thân tâm từ từ thấm nhuần hương vị của chánh pháp, tạo ra chất kháng thể, đối trị với những nhu cầu bất thiện vẫn còn ngủ ngầm trong thân tâm. Im lặng với bất thiện thì bất thiện không lấn lướt, biết được điều bất thiện sẽ dẫn mình đi về nẻo của khổ đau nên mình im lặng, không kí hợp đồng với điều bất thiện. Hãy thực tập im lặng khi cần thiết.

Kệ Hành Xử Văn Minh

Kệ Hành Xử Văn Minh

Hãy hành xử như đất
Đất hiền lành đôn hậu
Dù người trồng hoa cỏ
Vứt rác rến hôi thối
Khạc nhổ hay tưới nước
Chất thanh tịnh hay bất tịnh
Đất chấp nhận tất cả
Không mảy may phản kháng.

Hãy hành xử như nước
Nước hiền lành đôn hậu
Dù người làm ô nhiễm
Giặt giũ vứt rác rến
Khạt nhổ gây hao tổn
Chất thanh tịnh hay bất tịnh
Nước chấp nhận tất cả
Không mảy may phản kháng.

Hãy hành xử như lửa
Lửa hiền lành đôn hậu
Dù người đốt lửa lên
Bằng chất dơ hay sạch
Cẩn thận hay bất cẩn
Thực vật hay động vật
Chất thanh tịnh hay bất tịnh
Lửa chấp nhận tất cả
Không mảy may phản kháng.

Hành xử như không khí
Dù người thải vào đấy
Mùi thơm mùi hôi thối
Văng vào đó lời nói
Ái ngữ hay ác ngữ
Chất thanh tịnh hay bất tịnh
Không khí chấp nhận tất cả
Không mảy may phản kháng.

Nếu như đất phản kháng
Đất sẽ là động đất
Sa mạc hoá xói mòn
Thật hết sức nguy hiểm.

Nếu như nước phản kháng
Nước sẽ là lũ lụt
Sóng thần và hạn hán
Thật hết sức nguy hiểm.

Nếu như lửa phản kháng
Lửa sẽ là núi lửa
Cháy rừng và nóng nực
Nhiệt độ lại gia tăng
Thật hết sức nguy hiểm.

Nếu không khí phản kháng
Không khí sẽ ô nhiễm
Sẽ phong ba bão táp
Bệnh tật phát sinh thêm
Thật hết sức nguy hiểm.

Nếu con người hành xử
Bằng tình thương đích thực
Cho dù người ác độc
Người vu oan chém giết
Người đày đoạ trả thù
Người tương tàn lẫn nhau
Tình thương chấp nhận tất cả
Không mảy may phản kháng.

Nếu tình thương phản kháng
Tình thương sẽ phản kháng
Bằng từ bi bao dung
Bằng tha thứ khiêm cung
Bằng im lặng sấm sét.
Là đệ tử con Phật
Hãy hành xử như thế. (9)

Một trong các phương pháp thực tập kham nhẫn là học hạnh của đất. Từ đất có thể mọc lên hoa trái, nuôi dưỡng chúng sinh, và từ đất các loại khoáng vật chất chứa bao nhiêu năm, giúp con người có điều kiện sản xuất và gia tăng phẩm chất của đời sống. Tất cả mọi thứ mình xài, kể cả thức ăn hay uống đều lấy từ đất mà ra. Đất có tính chất nuôi dưỡng nên được nhân cách hóa thành đất mẹ. Đất này như người mẹ to lớn, nuôi dưỡng đàn con khổng lồ, hơn sáu tỉ người. Đất mẹ kham nhẫn dữ lắm mới chịu đựng việc cưu mang số lượng chúng sinh nhiều như thế, chưa kể các loài sinh vật và thực vật. Bất kì ai có khả năng nuôi dưỡng như đất mẹ, cống hiến như đất mẹ và chấp nhận hi sinh như đất mẹ là người có hạnh kham nhẫn đã được nâng lên tầm vóc. Đất mẹ được đưa vào hình tượng vủa vị Phật Địa Mẫu Diêu Trì. Địa là đất và mẫu là mẹ. Vì thương trái đất nên hình tượng trái đất như người mẹ. Khi người ta niệm Phật Mẫu là niệm đất mẹ, niệm năng lượng của đất mẹ, năng lượng này đang sẵn có ở trong mỗi chúng sinh.

Đất vốn hiền lành và đôn hậu. Chỉ cần biết cách là có thể trồng lúa, trồng hoa màu, trồng cỏ hay trồng rừng. Con người sống được nhờ cây lúa, nhờ hoa màu. Con người tận hưởng màu xanh nhờ đồng cỏ bao la và hít thở không khí trong lành nhờ những cánh rừng bạt ngàn. Từ đất, sự hiền hòa sinh ra, sự sống sinh ra, màu xanh sinh ra. Nhưng mình có cái tính vô tâm, mình vứt đủ thứ rác rến vào đất, thải ra đủ thứ bùn dơ và chất độc hóa học, khạc nhổ làm ô nhiễm đất, làm xói mòn đất, làm đất thêm cằn cõi. Theo số liệu thống kê, trong cuộc chiến tranh hóa học tại Việt Nam, khoảng ba triệu hecta rừng cây và đồng ruộng đã phải hứng chịu khoảng 80 triệu lít thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây nhưng cơn mưa hóa chất ấy đem đến cho con người những hủy hoại không thể lường được về thân và tâm. Nhưng có điều mình xem là đất không hề phản kháng lại, đất vẫn đón nhận những chất độc đó và âm thầm chịu đựng trong thời gian dài. Đất cống hiến cây xanh tươi tốt và thức ăn trong lành, nhưng con người rất bất hiếu, chỉ biết xâm hại đất, vậy mà đất vẫn im lặng với tình trạng bất hiếu của con người.

Hạnh của đất là một hạnh nguyện cao cả của Bồ tát Địa tạng. Bồ tát nguyện đi vào địa ngục, đi vào những nơi khổ đau để giáo hóa và cứu độ chúng sinh, nguyện rằng khi nào trên thế gian này không còn địa ngục, không còn khổ đau, khi ấy ngài mới thành đạo giải thoát. Thực tập quán về đất sẽ biết hạnh của đất và thực tập hạnh của đất giúp phát triển năng lượng địa tạng. Địa tạng là một biểu tượng và ai cũng có năng lượng này. Nếu biết chuyển hóa khổ đau là giang tay góp phần giải trừ địa ngục. Thân này có thể khổ đau, tâm này có thể khổ đau. Nếu không chịu nhận diện và chuyển hóa khổ đau, khổ đau sẽ sâu dày và tạo điều kiện cho địa ngục hiện tiền. Địa ngục ở trong cái thân này và địa ngục ở trong cái tâm này. Muốn giải trừ địa ngục, hãy hợp tác với năng lượng địa tạng vốn có. Đất có chất liệu của sự vững chãi, từ bi và bao dung. Đất không biết chán ghét hay tủi nhục, dù người văng vào đó chất thanh tịnh hay bất tịnh, xác động vật hay xác người. Đất vững chãi vì đất ít khi đổi dời, như trái núi, mạnh mẽ và kiên quyết. Đất có chất liệu của từ bi, đất thương muôn loài nên cung cấp thức ăn, cung cấp chỗ ở, cung cấp sự che chở. Đất có chất liệu của bao dung, dù người đó là Phật hay là chúng sinh, dù giác ngộ hay mê muội, thân xá lợi hay thân bất tịnh, đất vẫn đón nhận, như người mẹ chào đón đứa con trở về. Thực tập hạnh của đất để tình thương tràn ngập mặt đất, cho địa cầu hòa bình, cho chúng sinh giải thoát. Lời nhạc của Trịnh Công Sơn có đoạn, Hãy yêu nhau đi quên ngày u tối – Dù vẫn biết mai đây xa lìa thế giới – Mặt đất đã cho ta những ngày vui mới – Hãy nhìn vào mặt người lần cuối trong đời. Dù cuộc đời có u tối, dù mai đây ta nhắm mắt xuôi tay, xin nguyện giờ phút này yêu thương, như mặt đất yêu thương muôn loài.

Phương pháp tiếp theo thực tập kham nhẫn là thực tập hạnh của nước. Có bài kệ về nước như sau, Nước từ nguồn suối cao – Nước từ lòng đất sâu – Nước mầu nhiệm tuôn chảy – Ơn nước luôn tràn đầy. (17) Nước có giá trị nuôi dưỡng rất lớn, không thua kém gì đất. Dòng nước tinh khiết, như dòng sữa thơm nuôi dưỡng con người. Thử tưởng tượng đi giữa sa mạc khô cằn, bỗng nhiên vớ được một ngụm nước hay dù chỉ một giọt nước, kẻ sắp chết khát kia như lấy lại sức sống, bước đi tiếp mà vượt qua địa ngục nóng bức. Nước hiền lành và trong vắt. Nước từ nguồn chảy ra thì trong vắt và tinh khiết, không có bất kì ô  nhiễm nào. Các bài ca dao ca ngợi người mẹ thường ví mẹ như nước từ nguồn, vì mẹ là nguồn cội, nước là nguồn cội. Nước có tính kham nhẫn, dù nước cống hiến sự tinh khiết của mình, nhưng con người đôi khi vô tâm, làm nước ô nhiễm. Sông Hằng ô nhiễm, sông Thị Vải ô nhiễm nhưng nước không hề kêu than, vẫn gánh chịu tủi nhục. Con người vứt vào lòng sông đủ thứ rác rến, đủ thứ chất độc công nghiệp, đủ thứ hóa chất, nhưng nước không kêu than. Con người lại giặt giũ làm nước không còn sạch sẽ, khạc nhổ đủ thứ chất bất tịnh, vậy mà nước vẫn im lặng không có sự phản kháng nào. Nước biết chấp nhận vì nước biết kham nhẫn.

Có một thứ nước có khả năng làm thanh tịnh mười phương là nước cam lồ. Nước cam lồ là biểu tượng từ bi của Bồ tát Quán Thế Âm. Người thực tập hạnh Quán Thế Âm là tự chế tác cho mình dòng nước cam lồ, nó mạnh mẽ và mầu nhiệm, chỉ cần rải dòng nước này ra, dù chỉ một giọt, cũng đủ làm thanh tịnh cả mười phương. Giọt nước từ bi này trong trái tim của mình, trong tâm của người biết tỉnh thức. Rải tình thương là rải tâm từ, rải tâm bi, rải giọt cam lồ. Tình thương trong thân này, tình thương trong tâm này và năng lượng Quán Thế Âm trong thân tâm của mỗi người. Mình đã có sẵn năng lượng của cam lồ, của từ bi, nên chỉ cần thực tập cho dòng cam lồ, dòng từ bi đến khi đầy dẫy trong thân tâm, mình làm cho Quán Thế Âm hiện tiền. Khi Quán Thế Âm hiện tiền, mình kham nhẫn với mọi thứ được cho là không thanh tịnh và chuyển hóa chúng trở nên thanh tịnh. Như gương mặt của vị khất sĩ, vì đi đường xa gió bụi, bắt gặp một con sông hay ao hồ, vị khất sĩ ngồi xuống vả nước vào mặt và rửa mặt. Làn nước trong mang lại sự thoải mái và làm sạch gương mặt của ông. Cũng vậy, vị khất sĩ đó ngồi dưới gốc cây, quán soi tâm mình, xem chỗ nào đã thanh tịnh và chỗ nào chưa thanh tịnh. Với chỗ đã thanh tịnh, vị ấy thực tập để duy trì. Chỗ nào chưa thanh tịnh, vị ấy quán chiếu tính không đáng tham cầu và không đáng dính mắc để chuyển hóa điều không thanh tịnh đó. Đây gọi là biết mình, biết mình thì biết kham nhẫn.

Khi nói đến lửa, người hay nghĩ tới sự nóng bức, khó chịu và lửa đau đớn nung nấu trong địa ngục. Thực ra, lửa rất hiền lành và đôn hậu, đơn giản vì lửa có giá trị nuôi dưỡng. Lửa có thể nấu chín thức ăn, sưởi ấm cơ thể vào mùa đông lạnh giá, đi vào cơ thể giúp cơ thể tuần hoàn tự nhiên. Lửa có thể đốt cháy tất cả mọi thứ, dù đó là chất dơ hay sạch, thân thực vật hay thân động vật. Nếu quăng vào lửa chất thanh tịnh, chất đó cũng sẽ cháy, nếu quăng vào lửa bằng chất không thanh tịnh, chất đó cũng sẽ cháy. Lửa không có sự phản kháng dù điều kiện như thế nào. Khi đủ điều kiện lửa sẽ biểu hiện và cũng khi đủ điều kiện lửa sẽ không biểu hiện, nhưng lửa vẫn có mặt ở, một cách rất kham nhẫn. Bất kì nơi nào, lửa vẫn làm nhiệm vu thiên thu, là sưởi ấm và bốc cháy.

Hạnh của lửa là hạnh của sự che chở, đùm bọc và truyền hơi ấm. Như một người mẹ chỉ muốn che chở cho đàn con, muốn đùm bọc đứa con, cung cấp các điều kiện cần thiết cho đứa con lớn mạnh và sống trong tình yêu thương. Khi đứa con cảm nhận được tình thương thì đứa con sẽ trở về nhà và chỉ mong muốn trở về nhà thôi. Ngôi nhà là chiếc nôi của đùm bọc và hàn gắn. Hạnh của lửa như hạnh của mẹ, hạnh của sự sống, chỉ muốn trào dâng, muôn ôm lấy tất cả, dù tất cả này có hạnh phúc có cay đắng. Thương như người mẹ thương con, trăm cay ngàn đắng vẫn vui cười. Lửa có thể là cay đắng, nhưng từ đống tro tàn của sự cay đắng, hoa cỏ mọc lên, đồng lúa mọc lên, sự sống mọc lên, không để sự sống héo úa theo đống tro tàn kia, nên cái tàn tro cũng là điều kiện để thúc đẩy sự sống. Lửa có sự kham nhẫn tức là đốt cháy đến tận cùng, đốt cháy cả chánh lẫn tà, không phân biệt. Tính không phân biệt của lửa là hạnh kham nhẫn, là tự tại trước sự phân biệt của thế gian.

Thực tập hạnh của gió hay hạnh của không khí để tăng trưởng tính kham nhẫn. Gió đến rồi đi, gió không trụ lại lâu nhưng gió không phân biệt không gian. Gió tràn qua những cánh đồng, qua các vùng thảo nguyên, băng qua núi đồi, vào thành phố, đến những căn phòng mở toang cánh cửa. Làn gió mát không phân biệt mùi hương. Dù con người thải vào đó hương thơm hay hương không thơm, gió vẫn mang mùi hương đó đi. Dù con người văng vào đó lời ái ngữ hay lời nói không ái ngữ, gió vẫn thổi đi không kẹt vào. Dù con người vương vãi chất thanh tịnh hay chất bất tịnh, gió vẫn thổi đi, gió vẫn cuốn đi. Gió hết sức vô thường, như đất, nước và lửa, đến rồi đi, có đó rồi không thấy nữa. Gió cũng rất trẻ thơ vì gió vô tư. Vì vô tư nên gió cứ cuốn đi, cứ ôm ấp tất cả, cái thương cũng ôm, cái ghét cũng ôm. Học hạnh của gió là không níu kéo cái thương và không xua đuổi cái ghét. Cuốn đi là cái thương cũng cuốn mà cái ghét cũng cuốn, tức là thương cũng chịu, ghét cũng chịu luôn, và không thương không ghét thì cũng OK. Gió vô tư vì gió chấm dứt phân biệt thương, ghét, không thương không ghét. Lời của gió là như thế, là lời ngợi ca không phân biệt.

Hạnh của gió như hạnh của Bồ tát Thường Bất Khinh. Vị bồ tát này gặp ai cũng xá chào rồi nói, Tôi không dám khinh người, trước sau gì người cũng sẽ thành Phật. Từ nông dân đến nhà lái buôn, từ người nông thôn đến người thành thị, từ trẻ nhỏ đến người già, vị bồ tát cũng đều nói một câu như thế. Đây gọi là hạnh không dám khinh người, mà khiêm cung hết mực vì tính Phật trong mỗi chúng sinh. Xá chào người là xá chào Phật tính, xá chào khả năng chuyển hóa và chấm dứt khổ đau, xá chào một vị Phật tương lai. Thay vì đợi vài tỉ kiếp sau khi người đó thành Phật thì bồ tát mới xá chào, bây giờ xá chào trước, tích lũy sự xá chào hay tích lũy việc không dám xem thường. Không dám xem thường dù đó là một tên cướp đi chăng nữa. Nhận thấy hành động kì quặc của bồ tát, có người khen ngợi, có người chê bai, có người không phản ứng, có người ghét, có người thương, có người chẳng ghét cũng chẳng thương. Vậy mà bồ tát vẫn điềm nhiên tiếp tục việc thực tập của mình. Đây không phải là sự trình diễn mà là sự thực tập, thực tập chuyển hóa tính kiêu căng ngạo mạn và biết tôn trọng đến kẻ khác. Hạnh của gió là vậy đó, là kham nhẫn với tính tăng thượng mạn để vẽ nên nét đẹp của sự khiêm nhường.

Tuy nhiên, nhìn vào hiện trạng khí hậu và thiên tai, vẫn có sự phản kháng của đất, nước, lửa gió. Đất phản kháng bằng động đất và hậu quả của nó như thế nào chắc ai cũng biết. Nhiều nơi đất bị sa mạc hóa do nhiệt độ trái đất gia tăng, nhiều nơi đất bị xói mòn, sự màu mỡ không còn, việc trồng trọt trở nên khó khăn. Sự thay đổi này phần lớn là do có sự tác động của con người, do ý thức bảo vệ tài nguyên đất đã bị lấn lướt bởi cách ăn ở, bởi tham vọng phát triển kinh tế. Tuy nhiên vẫn còn những vùng đất tươi đẹp, được cải tạo từ cằn cỗi. Nhiều thành phố xanh và sinh thái được xây dựng, ý thức bảo vệ môi trường cũng được nâng cao, nhưng những gì con người làm vẫn không đủ cho tính ăn mòn của con người. Đất đai bị ăn mòn, rừng cây bị ăn mòn, đồng lúa bị ăn mòn, hoa cỏ bị ăn mòn. Đất vẫn có tính rỉ sét, tức là không còn sử dụng được nữa. Sự phản kháng của đất là bài học cho những ai chỉ biết lấy mà không biết cho đi, chỉ biết vay mà không biết trả, chỉ biết hưởng thụ mà không biết phụng sự.

Tiếp theo, nước cũng bắt chước đất phản kháng lại việc tàn hại tài nguyên nước của con người. Nhiều dòng sông đang cạn nước vì đập thủy điện, vì sử dụng quá mức, vì dân số gia tăng, vì mưa không rơi xuống, vì quy hoạch đô thị bất bình thường và đủ thứ vì khác. Có hai nguyên nhân chính là sự biến đổi của khí hậu và việc sử dụng nước vô tội vạ của con người, nhưng trong nguyên nhân của biến đổi khí hậu, con người tác động không phải là ít. Nơi thì hạn hán và nơi thì lũ lụt. Nơi quá thiếu thốn nước trong khi nơi khác lại dư thừa. Cả hai đều có thể có hại vì khả năng gây bệnh tật đều lớn. Lại nữa, nếu động đất xảy ra dưới lòng biển, sóng thần xảy ra, tràn vào bờ và cuốn trôi tất cả những gì người ta xây dựng nên. Nước là nguồn tài nguyên quí giá của nhân loại. Muốn bảo vệ hòa bình và sự trường tồn của nhân loại, phải bảo vệ nguồn nước. Khoảng 70% thành phần trong cơ thể là nước. Có thể nhịn ăn nhiều ngày nhưng không thể thiếu nước trong thời gian ngắn. Bảo vệ nước là bảo vệ chính thân thể của mình.

Lửa cũng không thua kém đất và nước, có sự phản kháng, phản kháng theo kiểu của địa ngục. Núi lửa phóng những mảnh đất nóng chảy và tiêu hủy tất cả trên đường đi của nó. Nhiệt độ nóng bức cùng với sinh hoạt bất cẩn, con người đối diện cháy rừng, hỏa hoạn và lửa được ví như con quái thú thè cái lưỡi nóng ra và nuốt phăng tất cả những gì trên đường đi của nó. Nhiệt độ gia tăng sinh ra nhiều loại bệnh. Nóng nực và bệnh tật thường đi đôi với nhau. Lạnh quá cũng chết và nóng quá cũng chết. Thử tưởng tượng, nếu nhiệt độ gia tăng lên năm độ C, băng tuyết từ Bắc Cực và Nam Cực tan chảy, nhiều quốc gia sẽ chìm xuống biển cả, làn sóng tị nạn khí hậu diễn ra và thế giới chắc chắn sẽ rơi vào hỗn loạn. Lúc này người ta sẽ giành đất để ở và giành khu vực có khí hậu thuận lợi để ở. Theo truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, vì muốn mang công chúa về dinh mà hai chàng trai sử dụng năng lực siêu việt của mình để tấn công nhau, vô hình chung lại gây hại cho dân. Thủy Tinh dâng nước tới đâu thì Sơn Tinh dâng núi tới đó khiến Thủy Tinh không làm gì được. Nước biển dâng cao, nói ví von, Sơn Tinh có vẻ đang thua cuộc và Thủy Tinh đang muốn đòi lại nợ năm xưa.

Gió và không khí phản kháng cũng ghê gớm không kém. Sự ô nhiễm của không khí đã lên mức báo động, nhất là ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp. Khói bụi từ xe cộ và từ sản xuất làm đen tối cả không khí, con người nghẹt thở, sự sống nghẹt thở và bệnh tật từ đường hô hấp gia tăng nghiêm trọng. Con người nghẹt thở trong những sản phẩm của chính mình, nhưng không chỉ sản phẩm về những thứ vật chất bên ngoài mà còn bên trong. Yêu thương thế nào mà tình thương giãy chết, quan hệ thế nào mà quan hệ giãy chết, làm ăn thế nào mà sự thảnh thơi giãy chết. Mình nghẹt thở từ những tiện nghi tinh thần mình tạo ra rồi giãy chết trong những tiện nghi đó. Phong ba bão táp nổi lên không chỉ từ hiện tượng thiên nhiên mà còn hiện tượng tâm lí. Bão táp từ biển đi vào đất liền, như những cụm gió khổng lồ, đánh tan tác những gì được cho là vững chắc như trường thành. Trường thành rồi cũng sẽ sụp đổ, vài ngàn năm có chi trong tích tắc của vô thường. Nhưng bão táp này có xá gì với bão táp trong lòng. Con người có sự dậy sóng ở trong tâm, sóng thần chẳng nhằm nhò gì, bão biển chẳng nhằm nhò gì. Bão táp từ biển khơi có thể kéo dài một ngày, một tuần hay một tháng, nhưng bão táp trong lòng có thể nhấn chìm cả thành quách, cả giang sang, cả một cơ nghiệp hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm. Sức công phá của bão táp trong lòng dữ dội như thế.

Ban tặng sự tinh khiết như giọt sương long lanh là hạnh của Bồ tát Quán Tự Tại. Do thấy được mọi thứ đều không, năm uẩn gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không nên bồ tát vượt tất cả khổ nạn. Khổ nạn tan biến, mọi thứ tiếp xúc đều tinh khiết, đều tươi mới vì nhìn bằng con mắt trí tuệ, không còn dính mắc, không còn điên đảo, không còn bão tố trong lòng. Năm uẩn như huyễn không là sự sáng tạo của đôi mắt, mà là cái thấy tìm về sự khám phá tự nhiên của trí tuệ. Không đây là tự nhiên, không gói gọn trong ngôn từ, mà tự nhiên trong tự tính của nó. Biết rằng cơn gió thổi đến rồi đi, bão giông đến rồi đi, không gì là mãi mãi, nên hạnh phúc đến rồi đi, khổ đau đến rồi đi. Nhiệm vụ của người tu là thực tập để duy trì hạnh phúc và chuyển hóa khổ đau, nhưng không kẹt vào việc duy trì và chuyển hóa đó. Mọi thứ như huyễn thì có chi là khổ đau trong tích tắc vô thường và có chi là hạnh phúc trong tích tắc vô thường. Nhưng cũng biết cám ơn vô thường, vì nhờ vô thường địa ngục cũng biết từ bi, từ chúng sinh mà thành bậc giác ngộ. Quán tự tại để quán tự tính không của vạn vật, không có gì bất biến, không có gì thường còn, biết được vậy nên an nhiên với sự biến đổi, thản nhiên với khổ đau hay sự chia lìa, và tự tại với các pháp. Khổ đau bị diệt và hạnh phúc cũng diệt luôn, thế thì còn lại gì nữa mà diệt. Không kẹt vào gì nữa thì tự tại thôi, không khởi tâm vọng động thì tự tại thôi. Bản sắc của tự tại là biết chấm dứt những bão táp trong lòng.

Thực tập tình thương đích thực để có cách hành xử văn minh, nhất là trong thời đại đầy dẫy bạo động và khủng bố hiện nay. Dạ thưa đúng như thế, bạo động đấy, khủng bố đấy, ác độc phong tỏa đấy, vu khống chem. giết đấy, trả thù đày đọa đấy, tương tàn sát hại đấy nhưng tình thương đích thực chấp nhận, không có chút phản kháng nào. Chấp nhận này không phải là hùa theo hay khuyến khích những tà nghiệp theo kiểu khủng bố như thế mà chấp nhận rằng, những kẻ khủng bố kia vẫn còn chút gì đó dễ thương, chút gì đó rất người. Ẩn sâu trong những hành động khủng bố là khát khao muốn được yêu thương, muốn được lắng nghe, muốn được chia sẻ. Vì không ai yêu thương họ, không ai lắng nghe họ, không ai chia sẻ với họ, không ai chấp nhận họ, không ai cho họ chút ít cơ hội nào, nên họ phản kháng bằng tâm khủng bố. Họ đáng thương vì đang bị ngập lụt bởi những khổ đau và tự xây nhà tù hắc ám cho chính họ. Họ cần phương tiện, cần sự chăm sóc để đập tan những song sắt của nhà tù đi. Tình thương đích thực là thực tập ôm lấy muôn loài, tên khủng bố cũng là con người đó, vậy thực tập thương đi thì hãy nói biết thương chúng sinh, thực tập thương người như thế đó. Chưa thương được con người thì làm sao thương được chúng sinh. Hãy nguyện thực tập rằng, ngày hôm nay thực tập yêu thương đến tận cùng, đến hơi thở cuối cùng, trong giây phút cuối của hơi thở, cũng hãy nguyện thương cả người đang cầm súng bắn vào trái tim bằng viên đạn đang thiếu thốn tình thương. Hành xử văn minh là hành xử dễ thương với cả khủng bố, với bạo động dày đặc. Văn minh nhân loại được đo lường bằng các chỉ số của khoa học, của công nghệ, của kinh tế, nhưng kì thực, cách con người đối xử với nhau vẫn chưa được văn minh lắm. Hành xử bằng chất liệu của tình thương mới thực sự gọi là văn minh, vì kẻ thù của chúng ta không phải là con người, mà chính những tâm bất thiện đang đòi hỏi triệt tiêu, đang đòi hỏi cầm tù. Hãy giải phóng tình thương của mình, thì tình thương sẽ có tự do, lúc này thương cả các phương tiện hay đối tượng đang kìm hãm hay cố tình bóp nghẹt tình thương trong mình. Thương thì vẫn cứ thương thôi.

Tình thương vẫn có sự phản kháng nhưng không phản kháng theo kiểu của đất, nước, lửa, gió. Nếu tình thương phản kháng, tình thương sẽ phản kháng bằng lòng từ bi, bằng tha thứ, bằng bao dung, bằng khiêm cung, bằng im lặng sấm sét. Từ bi là chất liệu của tình thương nên chỉ có thương người gây hấn thì khổ đau mới chuyển hóa, chấm dứt hận thù. Tha thứ người gây hấn thì không còn hờn giận, nhìn vào khổ đau của người gây hấn và khổ đau của bản thân mình. Tha thứ được cho người đó là tha thứ cho cả bản thân mình. Bao dung là tha thứ, nhưng trong đó còn thực tập chuyển hóa khổ đau của bản thân và giúp người gây hấn chuyển hóa khổ đau của chính họ, đồng thời tìm kiếm những phương tiện bất bạo động có thể được để đối thoại và hòa giải. Khiêm cung là không tìm kiếm sự hơn thua, buông bỏ nhu cầu hơn thua và xa lìa dục trong việc mong muốn hơn thua. Cạnh tranh gay gắt chỉ có thể mang tới hậu quả gay gắt nên không tham gia cạnh tranh thì không phải lo lắng về hơn thua. Không thể nói cạnh tranh là điều kiện tất yếu vì con người tạo ra cạnh tranh, nó không phải là qui luật tự nhiên nên không thể gọi là tất yếu. Là đệ tử của Phật, là con của đức Thế Tôn, cần thực tập tình thương như Phật. Cuộc đời của ngài là cả một tình thương bao la, nên nếu muốn phản kháng, hãy đem tình thương của Phật ra mà phản kháng, mà tình thương của Phật là gì, là không phản kháng gì cả, mà chỉ thương cái điều đang phản kháng với mình thôi, và thương luôn đối tượng đang tạo nên sự phản kháng đó. Năng lượng tình thương của Phật là như vậy, không gì khác hơn là im lặng tuyệt đối.

Có một lần thầy Sariputta bị một vị khất sĩ phàn nàn và vị khất sĩ đã đem chuyện nói với Phật. Vị ấy nói rằng thầy Sariputta đã hất hủi vị ấy. Phật hỏi, Thầy Sariputta đã hất hủi thầy như thế nào? Vị khất sĩ trả lời, Con thấy thầy ấy đi ra ngoài nên hỏi thầy ấy đi đâu, thầy ấy không những không thèm trả lời câu hỏi của con mà con xô con ngã xuống rồi bỏ đi mà không thèm nói một lời xin lỗi nào, Phật xem, như vậy có phải hay không chứ? Lúc này, Phật mới bảo thầy Anan, Chắc thầy Sariputta chưa có đi xa, thầy hãy kêu thầy ấy quay trở lại và đêm nay tập trung đại chúng. Thầy Sariputta quay trở lại theo lời của thầy Anan. Lúc trình diện Phật, Phật nói, Vị khất sĩ này đã nói rằng thầy xô thầy ấy té ngã rồi bỏ đi mà không nói một lời xin lỗi nào.

Thầy Moggallana và thầy Ananda đi khắp đại chúng, thông báo về cuộc gặp tối nay. Họ nói, Mời các huynh đêm nay tập trung lại nghe thầy Sariputta nói, thế nào thầy ấy cũng gầm lên tiếng của sư tử, các huynh nhớ đến nhé. Ai cũng biết thầy Sariputta là đại tử lớn của Phật, được Phật tin yêu và khen ngợi trước đại chúng, nên bây giờ có người công kích và hiềm khích như vậy, thế nào thầy cũng có phản ứng, bằng không Phật sẽ thay mặt thầy mà phản ứng.

Khi Phật đến nơi, đại chúng đứng dậy xá chào người. Sau đó mọi người an tọa. Thầy Sariputta được Phật chỉ cho một chỗ ngồi gần đó. Thầy đến chỗ của mình và ngồi xuống. Lúc mọi người đã an tọa và thực sự yên ắng, Phật cất tiếng hỏi thầy Sariputta, Thầy Sariputta, có một vị khất sĩ đã buộc tội thầy xô ngã vị ấy rồi thầy bỏ đi không nói một lời xin lỗi nào, thầy có muốn nói gì về lời buộc tội này không?

Thầy Sariputta đứng dậy, chắp tay hướng về Phật và trả lời.

Bạch đức Thế Tôn, con tập hành xử như đất. Đất vốn hiền lành và đôn hậu. Từ đất mọc lên các loại cây đem lại thực phẩm cho con người. Dù người trồng hoa cỏ, trồng lúa, trồng các loại rau củ, đất chấp nhận và cung cấp chất dinh dưỡng cho các loại cây đó. Dù người vức rác rến hôi thối, xác động vật sình trương, các cặn bã chất thải, đất chấp nhận và đưa các chất bất tịnh trở về với đất. Dù người khạc nhổ, đổ nước, văng vãi các chất thanh tịnh hoặc các chất không được sạch sẽ, đất vẫn im lặng mà chấp nhận, không hề tỏ thái độ phản kháng nào. Một người mà xô bạn đồng tu của mình rồi bỏ đi không một lời xin lỗi thì không thể hành xử như đất. Con không đến nỗi như vậy.

Bạch đức Thế Tôn, con tập hành xử như nước. Nước vốn hiền lành và đôn hậu. Từ nước, hơi nước bốc lên cao, khi gặp lạnh sẽ rơi xuống thành mưa, mang lại sự mát mẻ cho con người. Dù người làm ô nhiễm, từ dòng nước xanh trong mà trở nên đen đủa, nước chấp nhận và biết gạn đục lóng trong. Dù người vứt rác rến làm nguồn nước không còn tinh khiết, dòng chảy bị đứt đoạn và mùi hôi thối xông lên, nước chấp nhận và đưa các chất bất tịnh đi vào nước. Dù người khạc nhổ vào nước, sử dụng nước một cách bừa bãi, không biết tiết kiệm, không biết giữ gìn, nước chấp nhận và không tỏ vẻ bực bội. Dù người văng vãi các chất tươi đẹp hay các chất không tươi đẹp, nước vẫn im lặng mà chấp nhận, không hề tỏ thái độ phản kháng nào. Một người mà xô bạn đồng tu của mình rồi bỏ đi không một lời xin lỗi thì không thể hành xử như nước. Con không đến nỗi như vậy.

Bạch đức Thế Tôn, con tập hành xử như không khí. Không khí vốn hiền lành và đôn hậu. Nhờ không khí, con có thể thở, thực tập thiền và bảo tồn sự sống. Dù người thải vào không khí mùi thơm hay mùi hôi thối, các mùi này xộc vào mũi gây cảm giác dễ chịu hay khó chịu, không khí chấp nhận và mang các mùi đi. Dù người văng vào lời nói ái ngữ hay ác ngữ, lời hạnh phúc hay khổ đau, lời hòa giải hay chia rẽ, không khí chấp nhận và không sinh tâm hiềm giận. Dù người văng vãi chất tươi tốt hay chất héo khô, không khí chấp nhận trong im lặng, không hề tỏ thái độ phản kháng nào. Một người mà xô bạn đồng tu của mình rồi bỏ đi không một lời xin lỗi thì không thể hành xử như không khí. Con không đến nỗi như vậy.

Bạch đức Thế Tôn, con tập hành xử như lửa. Lửa vốn an toàn và không gây hại. Nhờ lửa, con người sưởi ấm cơ thể vào mùa đông lạnh giá và nấu chín thức ăn. Dù người đốt lửa lên bằng chất dơ hay sạch, lửa chấp nhận mà bao trùm khắp cả. Dù người sử dụng lửa với thái độ cẩn thận hay bất cẩn, lửa cũng chấp nhận không phân biệt đối tượng sử dụng lửa là ai. Dù người nấu thức ăn thực vật hay động vật, lửa chấp nhận và làm chín thức ăn. Dù người sử dụng chất đẹp đẽ hay không đẹp đẽ để thắp lửa, lửa vẫn im lặng mà chấp nhận, không hề tỏ thái độ phản kháng nào. Một người mà xô bạn đồng tu của mình rồi bỏ đi không một lời xin lỗi thì không thể hành xử như lửa. Côn không đến nỗi như vậy.

Thầy Sariputta còn muốn nói tiếp nhưng vĩ khất sĩ buộc tội thầy đã đứng dậy, vắt chéo áo lên vai, trước Phật mà lạy xuống, rồi trong từ thế quỳ, vị ấy chắp tay, Bạch đức Thế Tôn, con đã buộc tội thầy Sariputta một cách oan uổng, con thực sự không phải, con đã phạm giới, trước Phật, trước thầy Sapiputta và trước đại chúng, con xin sám hối để được thanh tịnh trở lại, con hứa rằng, từ nay về sau, con sẽ không bao giờ tái phạm lần nào nữa.

Vị khất sĩ đến phía thầy Sariputta và đảnh lễ. Thầy Sariputta cũng đáp lễ trở lại. Không khí trong đại chúng lúc bấy giờ trở nên êm ái và vui tươi trở lại.

Đây đích thực gọi là hành xử văn minh.

Thiền Im Lặng

Thien im lang

Thiền Im Lặng

Thở vào, con thực tập im lặng bên ngoài

Thở ra, con thực tập im lặng bên ngoài.

Thở vào, con thực tập im lặng bên trong.

Thở ra, con thực tập im lặng bên trong.

Thở vào, con thực chấp nhận những điều đang xảy ra.

Thở ra, con thực tập chấp nhận những điều đang xảy ra.

Thở vào, con và người không có sự riêng biệt.

Thở ra, con và người không có sự riêng biệt.

Thở vào, con thực tập im lặng tuyệt đối.

Thở ra, con thực tập im lặng tuyệt đối.

Phật Pháp Ứng Dụng chân thành cảm tạ Thiền giả Minh Thạnh đã cho phép chúng tôi sử dụng bài viết để trích đăng trên Website. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả.

TG.Minh Thạnh

http://sachminhthanh.wordpress.com/

Theo Phật Pháp Ứng Dụng