Thiền Pháp Yếu Giải
Dao Tần Cưu Ma La Thập dịch
Bản Việt dịch của Thích Nguyên Xuân
***
QUYỂN THƯỢNG
Khi hành giả mới đến muốn thọ pháp, thầy Hỏi: “Năm giới thanh tịnh chưa?”.
Nếu người nhiều dâm dục thì nên dạy quán bất tịnh. Bất tịnh có hai loại:
– Một là bất tịnh nhàm chán.
– Hai là bất tịnh không nhàm chán.
Vì sao? – Vì chúng sanh có sáu thứ dục: một là đắm sắc, hai là đắm hình dáng, ba là đắm oai nghi, bốn là đắm âm thanh, năm là đắm trơn láng, sáu là đắm tướng người.
Ðắm năm thứ dục trước, dạy quán bất tịnh nhàm chán. Ðắm tướng người, dạy quán xương trắng, lại quán thây chết hoặc vữa nát, hoặc chưa vữa nát. Quán thây chưa vữa nát, đoạn hai loại tham đắm: oai nghi và âm thanh. Quán thây đã vữa nát thì đoạn hết sáu loại tham đắm.
Tập quán bất tịnh có hai loại:
– Một là quán thây chết hôi hám bất tịnh. Thân ta bất tịnh giống như thây chết không khác. Quán như vậy tâm ta sanh nhàm chán, giữ lấy tướng này rồi đến chỗ thanh vắng hoặc dưới cội cây, hoặc nơi nhà vắng, dùng tướng này mà tự quán bất tịnh, quán sát khắp nơi, buộc tâm vào thân, không cho phóng ra ngoài. Nếu tâm tán loạn, thu nhiếp trở về, buộc vào bên trong.
– Hai là tuy mắt không thấy (trực tiếp) nhưng nhờ thọ pháp của thầy mà nhớ tưởng phân biệt, tự quán trong thân đầy dẫy ba mươi sáu vật bất tịnh: tóc, lông, móng, răng, nước mắt, nước miếng, mồ hôi, chất dơ, mỡ sa, màng da, thịt da, gân mạch, tủy não, tim, gan, lá lách, thận, phổi, dạ dày, ruột, màng bụng, mật, đàm dãi… sanh tạng chứa máu mủ, phân, vi trùng… Các thứ bất tịnh như vậy tụ tập, tạm gọi là thân. Tự quán như thế, đắm trước thân ngoài cũng quán như thế.
Nếu tâm nhàm chán dâm dục thì tâm dừng lặng. Nếu tâm không dừng thì cần phải tinh tấn quở trách tâm mình, nghĩ như vầy: “Khổ – già – bệnh – chết sắp đến gần, mạng như điện chớp, thân người khó được, thầy lành khó gặp, Phật pháp sắp diệt, như đèn sắp tắt, rất nhiều tai họa phá hoại pháp định. Bên trong thì có các phiền não, ở ngoài thì có dân ma. Cõi nước đói khát tràn lan, già bệnh khắp nơi, sức của giặc chết rất mạnh, phá mất sự tu tập thiền định. Thân ta đáng sợ, ở trong giặc phiền não chưa làm nó bị tổn hại nhỏ, ở trong pháp thiền định ta chưa có sở đắc. Tuy mặc pháp y nhưng bên trong rỗng tuếch, đồng như người tục, cửa các ác thú tất cả đều mở. Trong các thiện pháp chưa vào chánh định, đối với ác pháp chưa chắc không tạo. Nay ta vì sao đắm trước túi phân mà sanh biếng nhác, không thể tinh cần chế phục tâm mình? Cái thân tệ này là nơi hiền thánh quở trách, chín lỗ chảy ra bất tịnh đáng gớm mà sao tham đắm thân này? Chết đồng với súc sanh, đều rơi vào tối tăm, thật là không nên!”.
Như vậy, tâm tư duy tự trách mà thu nhiếp trở về. Ðồng thời cũng nên làm cho tâm vui, nghĩ như vầy: “Phật là bậc Nhất thiết trí, dạy thẳng đạo pháp dễ hiểu dễ hành, là Ðại sư của ta, như thế không nên lo sợ. Như nương vào vua lớn thì không còn sợ hãi. Các bậc A-la-hán việc làm đã hoàn tất, là đồng bạn của ta”. Tự tư duy như vậy rồi điều phục tâm, như tôi tớ trung thành với chủ. Tâm đã điều phục thì có đủ các quả, sáu thông tự tại.
“Ta cũng phải tự điều phục tâm mình để mong chứng đắc việc này. Chỉ có đường này, không còn đường nào khác”. Tư duy như thế rồi trở lại quán bất tịnh.
Lại tự hân hoan nghĩ như vầy: “Khi mới thực tập đạo thì gió các phiền não thổi đến phá tâm ta. Nếu ta đắc đạo thì ngũ dục thượng diệu còn không thể phá, huống gì dục tệ lậu. Như trưởng lão Mục Liên đắc đạo A-la-hán, người vợ cũ tự trang điểm lộng lẫy rồi đem theo kỷ nhạc muốn phá Mục Liên. Khi ấy, Mục Liên nói kệ:
– Thân ngươi, xương khô đứng
Da thịt bó lấy nhau
Bất tịnh đầy bên trong
Không có một vật sạch
Túi da đầy phẩn uế
Chín lỗ thường chảy ra
Như quỷ, không ngay thẳng
Có gì cho là quý?
Thân ngươi như hầm xí
Da mỏng để tự che
Người trí bỏ lánh xa
Như người vứt đồ nhớp
Nếu người biết thân ngươi
Như ta đã nhàm chán
Tất cả đều xa lìa
Như người tránh hầm xí
Thân ngươi tự trang sức
Hoa hương và anh lạc
Nơi phàm phu tham đắm
Chỗ bậc trí không mê
Thân ngươi chứa bất tịnh
Tụ tập các vật nhơ
Như trang hoàng nhà xí
Người ngu cho là đẹp
Xương sườn mắc xương sống
Như đòn tay nương cột
Năm tạng ở trong bụng
Bất tịnh như hòm phân
Thân ngươi như nhà phẩn
Kẻ ngu muốn giữ gìn
Trang sức châu anh lạc
Ngoài đẹp như bình vẽ
Người rỗng không dục nhiễm
Trước sau không đắm trước
Ngươi đến nhiễu loạn ta
Như thiêu thân vào lửa
Tất cả các độc dục
Ta nay đã diệt sạch
Ðã xa lìa năm dục
Ðã phá thủng lưới ma
Tâm ta như hư không
Không đắm trước mọi thứ
Giả sử dục cõi trời
Tâm ta vẫn không nhiễm.
Hành giả tư duy như vậy, kiên cố quyết định trụ tâm vào đề mục, không sợ các dục. Nếu người lợi căn nhất tâm tinh cần – lâu thì đến bảy ngày – tâm được trụ định. Người trung căn thì đến hai mươi mốt ngày. Người độn căn thì hơi lâu mới đắc. Như khuấy lạc thành tô, tất có thể được. Nếu không trụ vào sự thực hành thì thân này tuy tập lâu các phương tiện nhưng hoàn toàn không được gì. Như khuấy nước thì rốt cuộc không thể thành tô được.
Hỏi: – Việc gì không được?
Ðáp: – Nếu người phạm cấm giới không thể sám hối, hoặc tà kiến không bỏ, hoặc đoạn mất căn lành và ba việc chướng ngại, đó là: phiền não sâu dày, năm tội vô gián, quả báo nẻo ác. Các tội như thế không thể thực tập.
Trong Ðại thừa, Bồ-tát lợi căn thật có nhơn duyên trí tuệ phước đức thì việc ấy không đồng. Nếu không thực tập thì nên tụng kinh tu phước, xây tháp cúng dường, thuyết pháp giáo hóa, hành thập thiện đạo.
Hỏi: – Làm sao biết được tướng nhất tâm?
Ðáp: – Tướng người trụ tâm thì thân nhẹ nhàng, vui vẻ. Sân hận, buồn rầu, các pháp não tâm đều đã dứt hẳn, tâm được sự khoái lạc chưa từng có, hơn hẳn năm dục. Vì tâm trong sạch không nhơ nên thân có ánh sáng. Như gương trong sạch nên phát ra ánh sáng. Như hạt minh châu trong nước thanh tịnh, phát ánh sáng rực rỡ. Hành giả thấy tướng này thì tâm tự an ổn, vui vẻ. Ví như người khát nước, đào giếng tìm nước, thấy đất ướt rồi thì biết không lâu sẽ được nước. Như vậy, hành giả khi mới thực tập thì như đào đất khô, đào mãi không nghỉ, thấy được tướng ẩm ướt, tự biết không lâu sẽ được thiền định. Nhất tâm tin ưa, chuyên cần nhiếp tâm vào sâu trong định, nghĩ như thế rồi chê trách năm dục, thấy người cầu dục là đáng chán.
Như người thấy chó vì không được thức ăn sạch nên ăn phân hôi hám. Do các nhân duyên như vậy nên quở trách dục là tội lỗi, tâm sanh thương xót người thọ năm dục: “Tâm mình có niềm vui mà không biết tìm, lại tìm cái vui bất tịnh tội lỗi bên ngoài”.
Hành giả nên thường tinh tấn, ngày đêm tập các thiện pháp để giúp cho việc thành tựu thiền định, làm cho tâm xa lìa các pháp chướng thiền. Người tập các thiện pháp quán dục giới là vô thường, khổ, không, vô ngã; như tật bệnh, như ghẻ lở, như ung nhọt, như tên bắn vào tim. Ba độc thiêu đốt phát sanh khói mù tranh đấu, ganh ghét, rất đáng chán.
Người quán như vậy gọi là mới tập pháp thiền. Nếu trong khi tập quán mà bị ngũ cái che tâm thì phải diệt trừ. Như sức gió phá tan mây đen che mặt trời, nếu dâm dục cái làm phát sanh tâm nghĩ năm dục, liền nên tư duy: “Ta ở trong đạo tự bỏ năm dục, tại sao nay còn nghĩ lại? Như người ăn lại thức ăn mửa ra. Ðây là tội pháp của thế gian. Nay ta học đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, cho đến trọn đời tình nguyện mãi mãi xa lìa, đoạn trừ năm dục, vì sao trở lại sanh đắm trước, thật là điều chẳng nên” thì liền trừ diệt. Như không cho loài rắn độc vào nhà vì nó là tai họa lớn.
Lại nữa, pháp của năm dục là chỗ cư trú của mọi thứ ác, không thể đảo ngược; lúc đầu thì còn có thể, nhưng lâu về sau sẽ bị nó lừa dối, phải chịu các khổ độc, ganh ghét, sân hận, không ác nào mà không làm. Như túi đựng nhiều dao, dùng tay ôm chặt thì cả hai tay đều bị thương tổn.
Lại nữa, giả sử đủ năm dục nhưng còn không thấy đủ, nếu không thấy đủ thì không có vui, như khát uống nước tương, chưa trừ hết khát thì đâu có vui. Như gải ghẻ lở, bệnh ấy chưa khỏi thì không thể vui.
Lại nữa, dục nhiễm vào tâm thì không còn biết tốt xấu, không còn sợ tội báo của đời này đời sau. Vì thế cho nên phải trừ bỏ dâm dục. Ðã bỏ dâm dục mà còn sanh tâm sân não, tâm sanh sân não thì nên trừ bỏ. Nghĩ đến chúng sanh từ trong thai sanh ra, không lúc nào mà không khổ, đủ các thứ khổ, tại sao lại tăng thêm sự khổ não cho họ? Như người sắp bị giết, thì có người hiền nào lại làm tăng thêm sự đau khổ ấy?
Lại nữa, người hành đạo phải bỏ hết các kết: tôi ta, ái mạn…, tuy không chướng ngại sanh cõi trời mà hành giả còn không nên nghĩ, huống gì sân hận nhổ đi cội gốc của niềm vui.
Lại nữa, như nước sôi sùng sục, không thể thấy hình dáng của mặt, tâm sân hận sanh thì không biết tôn trọng cha mẹ, sư trưởng, thậm chí không thọ nhận lời dạy của Phật. Sân là bệnh lớn, tàn hại vô cùng, giống như La-sát, phải dùng tư duy về Từ tâm để tiêu diệt sân hận. Dâm dục, sân hận đã dừng, nếu đắc thiền định thì được vui vẻ.
Nếu chưa được niềm vui của thiền mà tình thức tán loạn, buồn rầu, rối rắm, tâm chuyển trầm trọng, khù khờ không biết, thì liền biết là giặc ngủ nghỉ hại tâm. Cái lợi ở đời còn bị nó phá huống chi việc đạo. Việc ngủ nghỉ so với chết thì như nhau, khác là còn hơi thở. Như vải che mặt nước thì không thấy bóng dáng, ngủ nghỉ che tâm thì không biết tốt xấu; đối với sự thật các pháp cũng lại như vậy. Khi ấy nghĩ như vầy để trừ bỏ: “Các giặc phiền não đều muốn làm nguy hại, tại sao có thể an nhiên ngủ nghỉ? Như trong chiến trận đối địch, ở giữa mũi nhọn thì không nên ngủ nghỉ. Chưa lìa tai họa già – bệnh – chết, chưa thoát khỏi khổ của ba nẻo ác; ở trong đạo pháp – thậm chí Noãn pháp còn chưa có sở đắc thì không nên ngủ nghỉ”.
Nghĩ như vậy rồi, nếu ngủ vẫn còn thì nên đứng dậy đi lấy nước lạnh rửa mặt, ngó nhìn bốn phương, ngước xem tinh tú; nghĩ về ba việc trừ diệt ngủ nghỉ, không để che tâm:
– Một là sợ hãi, nên tự tư duy: “Vua chết rất mạnh thường muốn giết hại. Nghĩ cái chết kề cận, như giặc đến nhanh không thể ỷ lại; lại như dao bén kề cổ, ngủ liền chém đầu”.
– Hai là an ủi vui thích, nên nghĩ như vầy: “Phật là Ðại sư, có giáo pháp vi diệu chưa từng có, mà ta đã lãnh thọ học tập là sự may mắn đáng mừng” thì tâm ngủ liền mất.
– Ba là ưu sầu, lại nên nghĩ: “Ðời sau sẽ trải qua bao lần thọ thân, tai họa khổ đau vô lượng vô biên”.
Các nhân duyên như thế quở trách sự ngủ nghỉ.
Tư duy như vậy thì ngủ nghỉ liền dứt.
Nếu Trạo hối cái khởi thì nên nghĩ như vầy: “Người đời vì muốn trừ bỏ ưu buồn nên tìm cầu sự vui vẻ mà sanh trạo hý. Nay ta khổ hạnh tọa thiền cầu đạo mà tại sao tự buông lung tâm trạo hý? Thật là không nên!”. Phật pháp trọng việc nhiếp tâm, coi đó là gốc thì không nên thô tháo, tự phóng túng tâm. Như sóng nước lăn tăn không thấy bóng dáng, trạo hý làm tâm xao động không biết đẹp xấu. Hối như trong thiền độ đã nói.
Hỏi: – Tham dục, nhuế, nghi, mỗi cái riêng biệt gọi là cái. Vì sao trạo hối, thụy miên hai thứ hiệp lại mới gọi là cái?
– Ðáp: – Thụy thuộc phiền não, có thế lực yếu kém, miên không trợ giúp thì không thể che tâm. Trạo hý không có hối thì không thể thành cái. Vì thế hợp hai thứ gọi là cái. Ví như dùng dây chiếc buột vật đơn lẻ thì không đủ lực, hợp lại mới có thể buộc chặt.
Lại nữa, tâm pháp thụy miên thì vì tâm thụy nặng, mà tâm nặng nên thân cũng nặng. Vì sự ngăn che của thụy vi tế, còn sự ngăn che của miên lớn mạnh hơn, có thể ngăn và phá hoại đạo pháp, cho nên hợp cả hai lại gọi là cái.
Ngủ đã thức rồi mà tâm không chuyên nhất, dong ruỗi, nghĩ về năm dục, hành các phiền não thì gọi là trạo. Như khỉ được ra khỏi chuồng, tự ý nhảy nhót, đùa giỡn với cây rừng, trạo cũng như thế, đã nghĩ năm dục hành các kiết sử thì thêm thân, miệng, ý lầm lỗi, rồi sanh ưu sầu hối hận, nghĩ như vầy: “Việc không nên làm mà làm, nên làm mà không làm”, cho nên tướng của trạo hối do hợp cả hai, gọi là cái.
Hỏi: – Tạo ác có thể ăn năn thì chẳng phải là cái chăng?
Ðáp: – Như phạm giới mà tự ăn năn: “Từ nay về sau không tái phạm”, như vậy thì chẳng pải là cái. Nếu thường nhớ tâm tạo tội không quên, buồn rầu loạn tâm nên gọi là cái. Các nhân duyên như thế quở trách trạo hối cái, buộc tâm vào duyên, nếu tâm sanh nghi thì nên trừ diệt. Vì sao vậy? Vì nghi là pháp chẳng như ái, mạn nên đời này không sanh tâm vui vẻ và đời sau làm cho rơi vào địa ngục, nghi ngăn che các pháp lành; như gặp đường rẽ, do dự không biết đi theo đường nào, bèn đứng yên. Hành giả cũng thế, pháp trước đã tu tập nghi nên không tập nữa, liền biết tai họa của nghi là ngăn che chánh đạo, phải mau trừ bỏ.
Lại nghĩ: “Phật là bậc Nhất thiết trí, phân biệt pháp là thế gian, là xuất thế gian, là thiện, là bất thiện, là lợi, là hại… rõ ràng phân minh. Nay chỉ thọ nhận thực hành, không nên sanh nghi, cần theo giáo pháp, không nên chống trái. Lại nữa, Phật pháp vi diệu, tu định trí tuệ biết pháp như thật. Ta không có trí này thì làm sao tự tâm suy lường các pháp. Như người tay cầm vũ khí sắc bén thì mới có thể chống cự với giặc. Nếu không nắm binh khí mà chống đối với địch mạnh thì ngược lại sẽ bị hại. Ta nay chưa được trí tuệ tu định thì tại sao muốn đo lường thật tướng các pháp. Ðó là việc không nên”.
Lại nữa, vì ngoại đạo chẳng phải là đệ tử của Phật nên mới sanh nghi, còn ta là đệ tử (của Phật) tại sao đối với Phật lại sanh nghi? Phật thường chê trách nghi là hoạn, là phủ, là che, là ngăn, là ngại, là pháp tự dối. Như người đã biết thích khách thì nên bỏ tránh. Nghi cũng như vậy, dối hoặc hành giả; dục cùng nghi tuệ hay chướng thật trí. Ví như bệnh ghẻ ngứa, càng gãi nhiều càng lây lan đến khắp cả thân, thầy thuốc cho thuốc, bệnh ghẻ liền hết. Hành giả cũng thế, đối với các pháp sanh tưởng nghi ngờ, muốn hiểu việc ấy, tâm nghi càng nhiều, nhờ Phật chỉ thẳng khiến cho đoạn nghi, tâm sanh nghi liền diệt. Các loại nghi ngờ bị quở trách như vậy, phải gấp trừ bỏ.
Hành giả tư duy như vậy trừ bỏ năm cái, tập các pháp lành vào sâu nhất tâm, đoạn phiền não dục giới, được định sơ thiền. Như kinh Phật dạy: Hành giả lìa dục và ác pháp bất thiện, có giác, có quán lìa dục, sanh hỷ lạc, vào sơ thiền.
Hỏi: – Thế nào là đắc tướng sơ thiền?
Ðáp: – Như trước dùng chánh niệm quở trách, ngăn chặn năm dục, đắc vị đáo địa, thân tâm vui thích, nhu hòa, nhẹ nhàng; thân có ánh sáng, được tướng sơ thiền, lại càng tăng tiến nên bốn đại thuộc sắc giới biến mãn khắp thân, nhu hòa, nhẹ nhàng, lìa dục ác bất thiện, do định nhất tâm nên khiến cho vui thích. Vì tạo sắc của sắc giới có tướng ánh sáng nên hành giả thấy ánh sáng đẹp chiếu trong và ngoài thân. Hành giả như thế tâm ý chuyển khác, là chỗ sân không sân, chỗ vui không vui, tám pháp thế gian không thể làm lay động, tín, kính, tàm quý chuyển tăng gấp bội, đối với áo mặc cơm ăn, tâm không đắm trước, chỉ lấy các công đức thiện làm quý, ngoài ra là giặc. Ðối với năm dục cõi trời còn không màng đến, huống gì năm dục bất tịnh của thế gian. Người đắc sơ thiền được các tướng như vậy.
Lại nữa, khi đắc sơ thiền, tâm rất vui mừng, ví như người nghèo mà được kho báu, tâm hết sức vui mừng, nghĩ như vầy: “Ðầu đêm, giữa đêm, cuối đêm tinh cần khổ hạnh, tập đạo sơ thiền, nay được quả báo như thật không hư. Cái vui kỳ diệu như vậy mà các chúng sanh cuồng mê, ngu ngơ, đắm trong năm dục bất tịnh, chẳng phải vui. Thật đáng thương xót!”.
Sơ thiền vui thích trong ngoài khắp thân, như nước ngấm vào đất khô, trong ngoài đều thấm nhuần. Thân thọ vui ở cõi dục không thể biến khắp. Các thứ lửa dâm, sân cõi dục thiêu đốt thân, còn vào ao sơ thiền thì mát mẻ, vui vẻ bậc nhất, trừ các thứ nóng bức. Như nóng bức cùng cực mà vào ao mát mẻ, đã được sơ thiền thì nghĩ đến pháp môn tu hành đã tu tập, hoặc các duyên khác, đó là: niệm Phật tam muội, niệm bất tịnh, quán từ tâm.v.v… Vì sao vậy? – Vì sức tư duy của sự thực hành này khiến được thiền định, dần dần thâm nhập thì pháp quán trước tăng gấp bội sự thanh tịnh sáng suốt.
Hành giả được sơ thiền rồi, tiến cầu nhị thiền. Nếu đạo hữu lậu ở ranh giới của nhị thiền thì nhàm chán giác quán. Như năm dục cái ở cõi dục khiến cho tâm tán loạn, giác quán sơ thiền não loạn định tâm cũng lại như vậy. Nếu đạo vô lậu lìa dục sơ thiền, dùng vô lậu sơ thiền mà quở trách giác quán.
Hỏi: – Như kiết sử của sơ thiền cũng hay làm loạn tâm, vì sao chỉ nói giác quán?
Ðáp: – Kiết sử sơ thiền gọi là giác quán. Vì sao? – Vì do thiện giác quán mà sanh tâm đắm trước, cho nên kiết sử cũng gọi là giác quán. Mới được sơ thiền thì chưa có đắm trước thứ khác.
Lại nữa, vốn chưa từng được cái mừng vui của giác quán, vì quá mừng vui nên phá hoại định tâm. Do phá định nên trước tiên phải trừ bỏ.
Lại nữa, muốn vào sâu trong định nhị thiền thì nên trừ đi giác quán. Vì cái lợi lớn nên bỏ cái lợi nhỏ, như bỏ cái vui nhỏ ở dục giới mà được cái vui lớn.
Hỏi: – Sao chỉ nói nên diệt giác quán mà không nói phiền não của sơ thiền?
Ðáp: – Giác quán tức là thiện giác quán của sơ thiền vậy. Ái,… thuộc sơ thiền cũng gọi là giác quán. Bởi giác quán chướng đạo nhị thiền cho nên cần phải diệt trừ. Vì thiện giác quán hay giữ hành giả, làm cho tâm trụ trong vui cho nên cần phải diệt trừ.
Lại tư duy: “Biết ác giác quán đúng là giặc, còn thiện giác quán tuy giống như thân thiết nhưng cũng lại là giặc cướp mất lợi lớn của ta. Phải tiến đến mong diệt trừ hai giác quán; giác quán não loạn như các âm thanh não loạn sự an ngủ của người mệt mỏi”. Cho nên hành giả trừ diệt giác quán này để cầu nhị thiền.
Ví như gió và đất hay làm nước bị vẩn đục, không thấy được bóng mặt, năm dục của dục giới làm vẩn đục tâm như đất làm dơ nước. Giác quán làm loạn tâm như gió làm lay nước. Vì giác quán diệt nên bên trong được thanh tịnh. Không giác, không quán thì định sanh vui mừng, vào trong nhị thiền.
Hỏi: – Thế nào là tướng nhị thiền?
Ðáp: – Trong kinh nói: “Diệt các giác quán hoặc thiện hoặc vô ký, do không có giác quán làm loạn động nên trong tâm thanh tịnh. Như nước lắng yên không có sóng gió thì trăng sao, núi non chiếu vào, thảy đều thấy”. Như thế nội tâm thanh tịnh, gọi là sự tĩnh lặng của hiền thánh. Tam thiền, tứ thiền tuy đều tĩnh lặng nhưng vì mới được nhị thiền nên gọi là có giác quán, cũng nói là nhân duyên. Do nhân duyên mới diệt nên được gọi là tĩnh lặng, định sanh vui mừng, vi diệu hơn sơ thiền. Vui mừng của sơ thiền do lìa dục sanh, còn vui mừng ở đây từ định sơ thiền sanh.
Hỏi: – Nhị thiền cũng lìa kiết sử của sơ thiền, tại sao không nói là ly sanh?
Ðáp: – Tuy cũng là lìa kiết sử nhưng ở đây phần nhiều nương vào sức định nên lấy định làm tên. Lại nữa, nói ly dục tức là lìa dục giới, nói ly sơ thiền mà chưa lìa sắc giới cho nên không gọi là ly sanh. Như vậy là tướng nhị thiền.
Hành giả đã được nhị thiền, lại cầu đi sâu vào định. Ðịnh nhị thiền có phiền não che tâm. Ðó là ái, mạn, tà kiến, nghi.v.v… phá hoại định tâm, là giặc của nhị thiền, chắn cửa tam thiền, cho nên phải mong đoạn diệt họa này để cầu tam thiền.
Hỏi: – Như vậy thì tại sao Phật nói: lìa mừng hành xả được vào tam thiền?
Ðáp: – Ðắc nhị thiền rất mừng, mà tâm mừng là tâm tội lỗi, trở thành chấp trước, do mừng sanh các kiết sử. Vì thế cho nên mừng là gốc của phiền não. Lại nữa, các kiết sử không ích lợi, không nên sanh tâm đắm trước; còn mừng là cái vui rất lợi ích mà đắm trước thì khó bỏ. Vì thế, Phật nói bỏ mừng thì được vào tam thiền.
Hỏi: – Cái vui tội lỗi của năm dục bất tịnh thì cần phải bỏ, còn cái vui tịnh diệu này chúng sanh ưa thích thì tại sao nói bỏ?
Ðáp: – Trước đã Ðáp: sanh nhân duyên đắm trước là cửa tội lỗi. Lại nếu không bỏ mừng thì không thể đắc công đức thượng diệu. Vì thế nên bỏ nhỏ được lớn thì đâu có lỗi. Hành giả tiến cầu tam thiền, quán mừng biết là nhân duyên của đau khổ, sầu ưu, họa hoạn. Ðiều mà có thể vui mừng là việc vô thường, biến đổi thì sanh sầu khổ.
Lại nữa, mừng là cái vui thô. Nay muốn bỏ cái vui thô mà cầu cái vui tế, nên nói là lìa cái mừng, lại vào sâu trong định để cầu cái vui của định khác.
Tại sao tướng của tam thiền diệt cái mừng? – Bỏ cái mừng vi diệu này tâm không hối tiếc, biết mừng là cái tai hại. Ví như người biết vợ là La-sát thì có thể lìa bỏ mà tâm không hối tiếc. Mừng là mê loạn, là pháp thô, chẳng phải là vi diệu. Ở đệ tam thiền, thân cảm thọ vui thì cái vui nhất ở thế gian không có cái vui nào hơn được. Vì bậc Thánh đã trải qua nên có thể thọ, có thể bỏ cái vui không mừng để niệm cái tuệ tinh tế, thì thân vào khắp tam thiền.
Hỏi: – Nói nhất tâm niệm tuệ thì sơ thiền, nhị thiền vì sao không nói?
Ðáp: – Vì ở đệ tam thiền thân thọ vui khắp, còn tâm hành pháp xả, không khiến cho tâm phân biệt đẹp xấu nên nói nhất tâm niệm tuệ. Lại nữa, trong tam thiền có ba lỗi: một là tâm chuyển vi tế trầm trệ, hai là tâm phát động mạnh, ba là tâm sanh mê muội.
Hành giả thường phải nhất tâm nghĩ ba lỗi này. Nếu khi tâm trầm trệ thì dùng sức trí tuệ và tinh tấn làm cho tâm phấn khởi trở lại. Nếu phát động mạnh thì phải nhiếp vào tĩnh lặng. Nếu tâm mê muội thì nên niệm diệu pháp của Phật, làm cho tâm vui trở lại. Thường nên hộ trì đối trị ba tâm này, gọi là nhất tâm thực hành cái vui vào đệ tam thiền.
Hỏi: – Như kinh nói: Trong đệ tam thiền có cái vui hai thời”, vậy những gì là hai thời vui?
Ðáp: – Trước thì nói vui cảm thọ, sau thì nói vui thích thú.
Hỏi: – Có ba loại vui: vui cảm thọ, vui thích thú, vui vô não, thì đối với tam thiền cái vui nào là vui bậc nhất?
Ðáp: – Vì cái vui ở tam thiền là thượng diệu, hơn hẳn cái vui ở bậc dưới, bởi vì vui cảm thọ là cái vui bậc nhất nên gọi là địa vị vui rốt ráo tận cùng. Còn hai cái vui kia ở trên còn có nên trong đây không gọi tên.
Hỏi: – Cái vui mừng, cái vui không mừng có gì khác biệt?
Ðáp: – Cảm thọ vui có hai loại: một là hỷ căn, hai là lạc căn. Hỷ căn hỷ lạc thuộc sơ thiền và nhị thiền. Lạc căn vô hỷ lạc thuộc tam thiền..
Lại nữa, cảm thọ vui thô của sơ thiền ở dục giới thì gọi là lạc căn, còn tế thì gọi là hỷ căn. Cảm thọ vui thô của nhị thiền, tam thiền thì gọi là hỷ căn, còn tế thì gọi là lạc căn. Ví như nóng bức được nước mát mẻ, lấy rửa tay rửa mặt thì gọi là hỷ (mừng), vào trong ao lớn mát mẻ tắm rửa toàn thân là cảm thọ lạc (vui)… Sơ thiền do có giác quán nên vui không biến khắp thân. Nhị thiền thì quá mừng sinh kinh sợ nên không thể biến khắp thân. Tam thiền không có chướng ngại nên vui biến khắp thân. Ðó gọi là khác biệt.
Lại nữa, cảm thọ vui có bốn loại: sáu thức ở dục giới tương ưng với vui thì gọi là hỷ căn, cũng gọi là lạc căn. Bốn thức sơ thiền tương ưng với vui thì gọi là lạc căn, cũng gọi là hỷ căn. Ý thức nhị thiền tương ưng với vui thì gọi là hỷ căn. Vì tam thiền lìa hỷ (mừng) ý thức tương ưng với cảm thọ vui, gọi là lạc căn.
Hành giả đã đắc tam thiền, biết ba loại vui trên (?) nên chuyên tâm giữ gìn, sợ bị mất đi, thì đó là phiền não. Cho nên vui lại là họa, phải mong lìa vui. Ví như người cầu cái vui giàu sang, khi cầu đã khổ, lúc được không chán thì thêm khổ; được rồi giữ gìn cũng lại là khổ. Có người vì cầu cái vui, bị khổ nên bỏ; hoặc có được cái vui, không chán, biết khổ nên bỏ; hoặc đã được, giữ gìn là khổ, nên bỏ. Cái vui tai họa của hành giả cũng lại như vậy, mong cái vui của sơ thiền thì do giác quán não loạn nên bỏ. Còn nhị thiền thì cái quá mừng làm động, nên bỏ. Biết cái vui ở tam thiền là vô thường, khó giữ nên bỏ. Vì thế cho nên phải bỏ cái vui này để cầu địa vị an ổn của tứ thiền.
Hỏi: – Hành giả nương vào cái vui thiền định để bỏ cái vui của dục, thì nay nương vào cái vui gì để bỏ cái vui của thiền? Nếu bỏ cái vui của thiền thì được lợi ích gì?
Ðáp: – Hành giả nương vào cái vui Niết-bàn thì có thể bỏ cái vui của thiền, được ba lợi ích là: đạo A-la-hán, Bích-Chi Phật và Phật. Cho nên bỏ cái vui thiền định mà hành tứ thiền an ổn khoái lạc, dùng đạo ba thừa tùy ý mà nhập Niết-bàn.
Hỏi: – Làm sao biết là tướng của đệ tứ thiền?
Ðáp: – Như Phật nói tướng của tứ thiền: “Tỳ-kheo nào dứt vui, dứt khổ, trước diệt mừng lo, không khổ không vui, giữ niệm thanh tịnh thì nhập vào tứ thiền.
Hỏi: – Ðoạn trừ cái vui của tam thiền thì đương nhiên khi lìa dục đã đoạn khổ rồi, nay vì sao nói đoạn khổ nữa?
Ðáp: – Có người nói đoạn trừ có hai loại: một là biệt tướng đoạn, hai là tổng tướng đoạn. Như bậc Tu-đà-hoàn dùng đạo tỷ trí đoạn hết tất cả kiết sử để kiến đế. Việc này thì không như vậy. Vì sao? – Vì Phật nói: “Dứt khổ dứt vui thì trước tiên diệt mừng lo. Nếu khổ ở Dục giới thì đáng lẽ nói trước đoạn khổ mừng lo, nhưng mà không nói, cho nên biết chẳng phải khổ ở Dục giới, vì cái vui ở tam thiền là tướng vô thường, nên hay sanh ra khổ, cho nên nói đoạn khổ.
Lại như Phật nói: “Khi thọ vui nên quán là khổ”. Cái vui tam thiền khi mới sanh, khi trụ là vui, khi diệt là khổ, cho nên nói dứt vui, dứt khổ.
Trước tiên diệt mừng lo: là cái khổ ở trong Dục giới và cái mừng ở sơ thiền, nhị thiền.
Hỏi: – Ở trong Dục giới có khổ có lo, khi lìa dục thì diệt hết, tại sao chỉ nói dứt lo mà không nói dứt khổ?
Ðáp: – Khi lìa dục tuy dứt cả hai việc nhưng gốc của lo lại không thành tựu, mà gốc khổ thành tựu. Do thành tựu nên không được nói là diệt.
Hỏi: – Nếu cái vui ở trong tam thiền phát sanh, khi trụ là vui, khi diệt là khổ, thì nay nói cái mừng trong sơ thiền. Nhị thiền sao lại không như vậy?
Ðáp: – Trong kinh Phật đã nói: Khi rời tam thiền thì dứt vui, dứt khổ, không diệt lo mừng, còn sơ thiền, nhị thiền thì không nói như vậy.
Hỏi: – Vì sao Phật không nói như vậy?
Ðáp: – Vì cái vui trong tam thiền ở trong ba cõi là cái vui vi diệu hơn hết, nên tâm đắm trước. Do vì tâm đắm trước, khi vô thường mới sanh ra khổ. Do cái mừng thô nên không thể biến khắp thân, tuy bị mất đi nhưng không sanh ưu buồn, cho nên trong kinh Phật không nói.
Không khổ không vui: trong đệ tứ thiền chỉ có cảm thọ cái không khổ không vui.
Xả: là bỏ cái vui trong tam thiền, hành không khổ không vui, thọ cái không nhớ nghĩ, không hối tiếc.
Niệm thanh tịnh: vì diệt bốn việc lo – mừng – khổ – vui nên niệm thanh tịnh.
Hỏi: – Trong ba thiền trên không nói thanh tịnh nhưng tại sao ở đây lại nói riêng?
Ðáp: – Vì sơ thiền giác quán làm loạn nên niệm không thanh tịnh. Ví như đốt đèn trước gió giữa khoảng đất trống, tuy có tim dầu nhưng vì gió thổi nên ánh sáng không chiếu được. Trong nhị thiền tuy nhiếp trong nhất thức nhưng vì vui mừng quá nên định tâm tán loạn, vì thế không gọi là niệm thanh tịnh. Trong tam thiền vì tâm quá vui làm loạn thiền định này nên không nói là niệm thanh tịnh. Trong tứ thiền hoàn toàn không có việc đó nên nói là niệm thanh tịnh.
Lại nữa, các bậc thiền thấp tuy có định tâm nhưng còn hơi thở ra vào, làm cho khó nhiếp tâm. Còn trong tứ thiền không có hơi thở ra vào nên dễ nhiếp tâm, vì dễ nhiếp nên niệm thanh tịnh. Vả lại, đệ tứ thiền mới gọi là chân thiền, còn ba thiền kia là thềm bậc phương tiện. Ðệ tứ thiền ví như đỉnh núi, còn ba thiền định kia như đường lên núi. Cho nên đệ tứ thiền Phật nói là chỗ bất động. Vì định không còn loạn động nên gọi là chỗ an ổn, điều hòa. Ðó là tướng của đệ tứ thiền. Ví như giỏi điều khiển ngựa, tùy ý đến nơi muốn đến, hành giả đắc tứ thiền này muốn hành bốn vô lượng tâm thì tùy ý dễ được, muốn tu tập bốn niệm xứ thì dễ tu, muốn đắc bốn đế thì mau đắc, không khó, muốn vào bốn định vô sắc thì vào rất dễ, muốn đắc sáu thông.v.v…, cần điều gì cũng dễ được.
Vì sao? – Vì trong đệ tứ thiền không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh, điều hòa tùy ý. Phật ví dụ: Như thợ vàng gia công vàng, luyện đúng cách thì tùy ý tạo ra đồ trang sức, không gì mà không được.
Hỏi: – Làm thế nào hành giả đắc Từ tâm vô lượng?
Ðáp: – Hành giả nương vào tứ thiền rồi nghĩ đến chúng sanh trong một thành, mong cho họ được an lạc; như vậy đến một quốc độ, bốn thiên hạ trong một Diêm-phù-đề, nhất tiểu thiên quốc độ, nhị thiên quốc độ, tam thiên đại thiên quốc độ… cho đến hằng hà sa vô lượng vô biên chúng sanh trong mười phương, tâm từ che khắp, mong họ đều được an vui.
Ví như vào thời thủy kiếp tận, nước cạn dần, hỏa châu diệt, không còn xuất hiện, ở biển lớn Long vương tâm kích động mạnh, từ ý niệm phát sanh ra nước tràn đầy cả biển. Thiên chủ làm mưa đầy khắp thế giới, khi ấy trời đất lênh láng, tràn đầy nước. Hành giả cũng vậy, dùng nước đại từ dập tắt sân hận, lòng từ làm tiêu tan lửa (sân), nước từ lan tràn dần dần rộng lớn, khắp vô lượng vô biên chúng sanh đều nhờ đó mà thấm nhuần, mãi mãi không dứt. Hoặc nghe thuyết pháp thêm lớn tâm từ.
Ví như mưa lớn khắp nơi, hành giả thương yêu nghĩ đến chúng sanh, khiến họ được niềm vui thanh tịnh của thế gian. Lại đem sự vui thích của thiền định mà mình đã được ban bố cho chúng sanh; cũng đem cái vui hết khổ của Niết-bàn.v.v… cho đến cái vui chân thật đệ nhất của Phật ban cho chúng sanh. Nhờ sức của Từ nên thấy sáu đường chúng sanh trong mười phương không nơi nào mà không vui vẻ.
Hỏi: – Như trong A-tỳ-đàm nói: Thế nào là Từ tam muội? – Ðó là quán tất cả chúng sanh thấy họ đều vui vẻ. Lại trong kinh nói: Từ tâm tam muội thấy khắp mười phương tất cả đều vui vẻ. Vì sao chỉ mong cho chúng sanh được vui?
Ðáp: – Mới tập tâm từ thì mong cho chúng sanh được vui. Thâm nhập từ tâm tam muội rồi thì thấy chúng sanh không ai là không vui. Như dùng dụng cụ phát lửa, mới cháy thì bén bùi nhùi cỏ khô, lửa càng cháy mạnh thì cây ướt, núi rừng một lúc đều bốc cháy. Từ cũng như vậy, khi mới nhập pháp quán, thấy sự vui vẻ của người thì mong cho người khổ được sự vui ấy. Sức từ lớn mạnh dần thì thấy tất cả đều được vui.
Hỏi: – Chúng sanh thật sự không thể được thì tại sao thấy họ đều được vui mà không phải điên đảo?
Ðáp: – Ðịnh có hai loại: một là quán thật tướng các pháp, hai là quán tác dụng của pháp. Ví như thợ ngọc, một là biết rành hình dạng quý tiện, đẹp xấu của ngọc; hai là (biết) khéo léo mài dũa sử dụng; hoặc biết hình tướng mà không thể (biết) công dụng; hoặc biết công dụng mà không biết hình tướng; hoặc biết hình tướng cũng biết công dụng. Hành giả cũng vậy, hiền thánh chưa lìa dục hay quán tướng pháp bốn chân đế… mà không thể biết công dụng, vì không hành bốn vô lượng. Như phàm phu lìa dục, hành các công đức, có công dụng phát sanh bốn tâm vô lượng mà không thể quán tướng chân thật. Như các bậc A-la-hán hoàn toàn giải thoát, hay quán thật tướng, đầy đủ thiền định nên sanh bốn vô lượng. Ðắc bốn vô lượng tức đắc pháp Giải. Vì là công dụng nên chẳng phải là điên đảo.
Lại nữa, pháp Phật chân thật thì không có chúng sanh. Tại sao quán khổ là thật, vui là điên đảo? – Cái mà gọi là điên đảo là cái không có chúng sanh mà chấp có tướng ngã, hoặc thường hoặc vô thường, hoặc biên hoặc vô biên…, đó là điên đảo. Người hành từ biết chúng sanh là giả danh, như bánh xe và các thứ hợp lại, gọi là chiếc xe. Vì vậy cho nên tâm từ thanh tịnh của hành giả chẳng phải là điên đảo.
Lại nữa, nếu không có chúng sanh mà cho là thật có chúng sanh thọ vui thì đúng là điên đảo. Nhưng có chúng sanh, không có chúng sanh đều là hai bên, thì không nên cho là chỉ có chúng sanh mới là điên đảo.
Lại nữa, nhờ sức từ tam muội nên hành giả thấy tất cả chúng sanh đều được vui. Như pháp quán nhất thiết nhập, nhờ sức của thiền định duyên vào cảnh giới mà màu xanh chuyển thành màu đỏ, huống gì chúng sanh đều có tướng vui mà không tự thấy. Như thuộc hàng sang hèn, nghèo giàu, cầm thú đều tự có cái vui thương mến lẫn nhau. Cái họa của người giàu sang thì người nghèo hèn không có. Cái họa của người nghèo hèn thì người giàu sang không có.
Hỏi: – Các cõi khác có thể như vậy, còn địa ngục thì sao?
Ðáp: – Chúng sanh ở địa ngục cũng có phần vui, xa trông thấy núi đao, sông tro sanh tưởng vui mừng, ngỡ là rừng cây suối nước. Thấy người nữ trên cây cũng sanh tưởng vui. Lại tâm ta điên đảo nên yêu mến thân này. Nếu khi sắp bị giết thì chạy trốn, khóc lóc, van xin ngục tốt, mong cho được thả ra. Nếu ngục tốt nói tha cho ngươi được thoát khổ này thì tâm họ cũng rất vui. Như vậy, các chúng sanh ấy đều có phần vui.
Lại nữa, nhờ sức thần thông nên trong mỗi loại biến hóa với tâm hành từ, đều khiến cho chúng sanh được vui. Hoặc ban cho những sở hữu của mình bằng hành động, lời nói, giúp đỡ họ thành tựu lợi ích. Như thâm tâm của chư Phật, Bồ-tát nghĩ thương chúng sanh mà phá tan các nẻo ác, thật khiến cho họ được các thứ vui. Vì vậy cho nên không những mong cho họ vui mà còn làm cho được vui.
Hỏi: – Người hành từ được công đức gì?
Ðáp: – Người hành từ thì các ác không thể tăng trưởng, như khéo phòng bị thì giặc bên ngoài không thể gây hại. Nếu muốn gây hại thì tự chuốc lấy tai họa, như dùng tay vỗ vào mũi nhọn thì tay bị thương tổn, còn mũi nhọn thì không hề gì. Năm thứ tà ngữ không thể phá tâm vị ấy. Năm thứ là:
– Một là lỗi nói hư dối.
– Hai là lỗi nói ác khẩu.
– Ba là lỗi nói không đúng lúc.
– Bốn là lỗi nói ác tâm.
– Năm là lỗi nói không lợi ích.
Ví như đại địa, không thể phá được, mọi thứ sân hận, vu khống,v.v… không thể hủy hoại. Ví như hư không, không thể làm tổn hại. Tâm trí người ấy nhu hòa, giống như áo chư thiên.
Lại nữa, hành giả nhập từ thì các loài thú độc như cọp, sói, rắn hổ mang…. đều không thể gây hại. Như vào ngục tù cũng không bị tổn hại. Vị ấy được vô lượng công đức như vậy.
Hỏi: – Ðức từ như vậy, còn thế nào là pháp từ?
Ðáp: – Nghĩ thương chúng sanh, thấy họ đều được vui. Tâm ấy tương ưng với pháp thuộc về hành ấm, gọi là pháp từ, hoặc thuộc cõi sắc, hoặc không thuộc, là pháp tâm sở, tâm cộng sanh, theo tâm hành, chẳng phải sắc pháp, chẳng phải nghiệp, tương ưng nghiệp, cộng sanh nghiệp, theo nghiệp hành, chẳng phải sanh hóa, là phải tu, đắc tu hành tu, phải chứng thân chứng và tuệ chứng. Hoặc tư duy để đoạn, hoặc không đoạn, hoặc có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán; hoặc có mừng hoặc không mừng, hoặc có hơi thở ra vào, hoặc không hơi thở ra vào, hoặc hiền thánh hoặc phàm phu, hoặc tương ưng với cảm giác vui, hoặc tương ưng với cảm giác không khổ không vui, chẳng phải đạo phẩm, trước duyên tướng sau duyên pháp, ở tứ thiền cũng ở các địa. Vì duyên với vô lượng chúng sanh nên gọi là vô lượng. Vì thanh tịnh, vì từ niệm, vì thương yêu làm lợi ích nên gọi là phạm hạnh, phạm thừa, vì có thể đến cõi phạm thế nên gọi là phạm đạo, là chỗ hành đạo của chư Phật trong quá khứ.
Hỏi: – Tu tập tâm từ như thế nào?
Ðáp: – Hành giả nào nghĩ như vầy: “Ta bỏ râu tóc, không còn trang sức đẹp để phá tướng kiêu mạn”. Nếu nghĩ như thế thì phải nên hành từ. Nay mặc y nhuộm thì phải hành từ, khiến tâm không ô nhiễm, thì ăn thức ăn của người mới không luống uổng. Như trong kinh nói: “Nếu Tỳ-kheo tập tu tâm từ, tức là làm theo lời Phật dạy, như vậy mới không uổng của tín thí”.
Lại nữa, hành giả – hoặc xuất gia hay tại gia – mà nghĩ như vầy: “Nhờ sức của từ tâm nên trong đời ác được an ổn, không hoạn nạn, ở trong chúng phá pháp mà riêng mình vẫn nương pháp tu hành, ở nơi phiền não thiêu đốt mà vẫn khiến cho tâm được mát mẻ, như gần thôn xóm có ao mát mẻ”.
Lại nữa, nhờ sức hành Từ nên oan gia độc hại không thể gây hại. Như mang giày da, gai nhọn không thể làm tổn thương. Hành giả ở trong cõi Dục có nhiều tổn hại do sân hận như đấu tranh, oán độc, đủ các loại tổn hại… nhờ sức Từ tâm nên không bị thương tổn. Ví như lực sĩ mặc giáp kim cương, cầm binh khí bén, tuy vào trong trận lớn nhưng không hề bị tổn thương.
Lại nữa, Từ hay làm lợi ích cho ba hạng người: Phàm phu hành từ trừ các sân hận, được phước vô lượng, sanh vào cõi tịnh, phước đức thế gian không thể hơn được. Người cầu Thanh văn và Bích Chi Phật: sức từ hay phá sự sân hận của cõi Dục, các phiền não khác cũng theo đó diệt, được lìa cõi Dục, dần dần ra khỏi ba cõi. Như Phật đã nói: “Tâm từ gần như bao quát sự tu tập của bảy giác”. Phát tâm đại thừa vì độ chúng sanh nên lấy tâm từ làm gốc. Như vậy, tâm từ đối với ba hạng người có vô lượng lợi ích.
Lại, ban đầu tập từ có mười sáu hạnh làm cho mau đắc Từ, lại khiến cho vững chãi, cũng thường tu hành:
– Một là trì giới thanh tịnh.
– Hai là tâm không hối hận.
– Ba là sanh vui mừng trong pháp lành.
– Bốn là vui thích.
– Năm là thu nhiếp, phòng hộ năm tình.
– Sáu là khéo niệm tuệ phương tiện.
– Bảy là lìa thân lìa tâm.
– Tám là đồng hành cùng trụ.
– Chín là hoặc nghe hoặc nói thuận theo pháp từ.
– Mười là không làm não loạn người.
– Mười một là ăn biết điều độ.
– Mười hai là ít ngủ nghỉ.
– Mười ba là nói năng tỉnh thức.
– Mười bốn là bốn oai nghi của thân an ổn, thoải mái.
– Mười lăm là vật cần dùng tùy ý không thiếu.
– Mười sáu là không hý luận các pháp hành.
Ðó là mười sáu pháp hỗ trợ Từ tam muội.
Bi là quán cái khổ của chúng sanh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thế gian, các khổ như gia hình, đói khát, lạnh lẽo, bệnh hoạn… Vì giữ tướng khổ này nên tâm Bi phát triển, thậm chí thấy người vui cũng có cái khổ này.
Hỏi: – Vì sao cho vui là khổ?
Ðáp: – Vì vui là vô thường, vui không lúc chán, từ nhân duyên sanh, niệm niệm sanh diệt không có lúc dừng, vì thế nên khổ. Lại nữa, như trời cõi Dục thọ vui như cuồng, như say, không còn biết phân biệt, khi chết mới biết. Chúng sanh cõi Sắc và Vô sắc thì tâm đắm trước thiền định sâu xa; thọ mạng hết, theo nhân duyên của nghiệp chịu quả báo. Như vậy chúng sanh có gì vui? Ở địa ngục thuộc ba nẻo ác là nơi thường trú của họ, trong cõi trời người thì họ như khách tạm dừng nghỉ. Do nhân duyên này nên Phật chỉ nói Khổ đế mà không nói Lạc đế. Vì thế, tất cả chúng sanh chỉ có khổ. Thật đáng thương cho chúng sanh không biết thật khổ, ở trong điên đảo mà sanh tưởng vui; đời này đời sau chịu bao thứ sầu não mà không nhàm chán. Tuy tạm lìa khổ nhưng lại cầu cái vui mà gây ra các sự khổ, nhưng lại cầu cái vui mà gây ra các sự khổ. Tư duy như vậy thấy các chúng sanh đều thọ khổ. Ðó là tâm Bi.
Ngoài nghĩa tâm Bi thì như trong bốn vô lượng của luận Ðại thừa còn nói: Mừng là hành giả biết thật tướng các pháp, quán chúng sanh khổ đều là tướng vui, quán chúng sanh vui đều là tướng khổ. Như vậy, các pháp không có tướng nhất định, tùy theo sức của tâm mà chuyển biến. Nếu các pháp không có tướng nhất định thì thành Vô thượng Chánh đẳng chánh giác còn không khó, huống gì các đạo quả khác. Vì tùy ý có thể đắc nên sanh tâm hoan hỷ.
Lại nữa, hành giả nghĩ như vầy: “Ta nhờ trì giới tinh tấn.v.v… chút ít, liền được lìa dục, đạt được vô lượng công đức của các thiền định”. Nhờ nghĩ về các công đức nên tâm sanh hoan hỷ. Ví như khách buôn đem đổi một ít đồ vật mà được lợi gấp trăm ngàn lần. Tâm hành giả rất hoan hỷ, lại nghĩ như vầy: “Pháp lợi như vậy đều nhờ ân Phật. Phật tự nhiên đắc đạo, giảng thuyết cho mọi người, theo lời dạy tu hành thì được lợi ích như vậy”.
Khi ấy tâm nghĩ đến thân cảu mười phương chư Phật có sắc như vàng ròng, tướng hảo trang nghiêm và pháp thân có mười lực.v.v… vô lượng công đức. Nhờ nghĩ đến Phật như thế nên tâm sanh hoan hỷ. Lại nữa, ở trong chín mươi sáu đạo, Phật là hơn hết, hay diệt các khổ, hướng đến thường lạc, tâm sanh hoan hỷ.
Lại phân biệt ba loại pháp Phật:
– Một là tướng thường vô lượng Niết-bàn, là pháp bất hoại, rốt ráo.
– Hai là tám thánh đạo phương tiện Niết-bàn.
– Ba là mười hai bộ loại kinh điển trình bày tám thánh đạo.
Niệm pháp như thế, tâm sanh hoan hỷ.
Lại nữa, biết thật tướng như vậy, thực hành chánh đạo, lìa các đường tà, đó là người chánh. Nghĩa là trong tất cả chúng, chúng đệ tử Phật là bậc nhất. Tự tư duy rằng: “Ta đã ở trong chúng này, là bạn chân thật của ta, họ có thể giúp ích cho ta”. Vì nhân duyên ấy nên tâm sanh hoan hỷ, lại mong cho chúng sanh thảy đều hoan hỷ. Nhờ định lực chuyển thành nên thấy chúng sanh đều được cái mừng ấy.
Xả: hành giả như người hơi mệt mỏi, tâm tạm nghỉ ngơi, chỉ quán một tướng chúng sanh, không quán khổ vui thì tướng mừng giống như trẻ thơ; nếu thường thương yêu, cưng chiều thì sẽ hư hỏng; nếu thường áp bức, làm sợ hãi thì sẽ ốm gầy. Cho nên có lúc buông xả, không thương không ghét. Như vậy, hành giả nếu thường hành cái mừng của Từ thì tâm phóng túng, vì vui mừng. Nếu thường hành Bi thì tâm sanh sầu não vì nghĩ khổ nhiều. Vì thế hành Xả không để khổ vui thái quá.
Lại nữa, hành giả vào đạo, đắc vị thiền định, phân biệt chúng sanh tốt xấu, là thiện, là bất thiện. Ðối với người thiện thì cung kính, thương nhớ; người bất thiện thì sanh khinh mạn. Như người được nhiều trân bảo mà xem thường người nghèo, còn thấy người có của báu thì cung kính, thương nhớ. Vì để phá hai tướng này nên hành tâm Xả.
Như trong kinh nói: “Tu tập tâm Từ thì phá trừ sân hận, còn tu tập tâm Bi thì trừ sự não hại chúng sanh, tu tập tâm Hỷ thì trừ ưu sầu, tu tập tâm Xả thì phá trừ thương ghét; chỉ quán chúng sanh được giải thoát nên làm theo ý muốn, như người quán rừng mà không quán cây vậy”.
Lại như người đời khi lạnh được ấm, khi nóng được mát, của cải tùy ý sanh thì gọi là vui. Nếu được chức quan, kho báu, ca múa, vui đùa thì gọi là mừng. Nếu mất những thứ này thì gọi là sầu khổ. Nếu không có ba việc ấy thì gọi là Xả. Hành giả cũng vậy, có đủ bốn tâm, tự thân thọ vui, mong niềm vui ấy đến với chúng sanh. Tâm đã nhuần nhuyễn thì thấy tất cả chúng sanh đều được vui.
Lại thầy chư thiên và thế gian giàu sang thì giữ tướng vui ấy, nguyện cho chúng sanh tâm đã nhuần nhuyễn thì thấy tất cả chúng sanh đều được cái vui này. Khi tu tập pháp từ thì tâm rất mừng, đem sự vui mừng này mà ban cho chúng sanh. Hoặc từ định xuất, đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng, khen ngợi, cúng dường cũng được tâm mừng, thì nguyện cho chúng sanh và lấy cái mừng bên ngoài nguyện ban cho chúng sanh.
Hoặc khi gặp các khổ như: già, bệnh, buồn rầu, đói khát, lạnh lẽo, khốn khổ… thì mong cho chúng sanh lìa các khổ não này. Nghĩ rằng: “Ta có thể phân biệt, liệu định, có tâm nhẫn mà còn khổ não, huống gì chúng sanh không có trí tuệ, nhẫn nhục mà chịu các khổ thì sao không khổ não?”, liền sanh tâm Bi.
Lại thấy có người bị phanh thây, đánh đập; lại nghe trong kinh nói sự khổ đau ở đường ác thì giữ tướng khổ này, quán tất cả đều khổ mà sanh tâm Bi.
Xả là từ bỏ thương ghét, cũng quán chúng sanh không có thương ghét và giữ tướng không thọ khổ vui của chúng sanh. Từ đệ tứ thiền cho đến cõi Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng và khi Dục giới không khổ không vui, giữ tướng này rồi quán tất cả chúng sanh cũng đều như thế, không khổ không vui.
Lại như người giàu có, chỉ có một đứa con nên hết mực thương yêu và thường nhớ đến, các thứ vui ở thế gian nguyện cho nó đều được; thứ mình có được cũng đều ban cho nó. Hoặc khi đứa con ấy gặp các buồn phiền thì cha rất thương xót. Nếu con không còn khổ sở thì cha rất vui mừng. Tâm sanh vui mừng rồi thì mới buông bỏ trách nhiệm để con tự trưởng thành, cha được nghỉ ngơi.
Như vậy, hành giả trong bốn vô lượng tâm, quán các chúng sanh cũng như con mình, tùy theo các thứ vui mà mình có và các thú vui thế gian nguyện cho họ được niềm vui ấy. Nhờ định lực của Từ nên thấy tất cả đều vui vẻ.
Hành giả rời tâm Từ, nếu thấy chúng sanh chịu các khổ đau thì giữ tướng này, rồi sanh tâm Bi.
Nhờ sức tâm Bi nên thấy chúng sanh thảy đều thọ khổ, thấy rồi thì nguyện cho chúng sanh đều lìa khổ ấy.
Ra khỏi Bi tam muội, nếu thấy chúng sanh cảm thọ vui đắc đạo, nhập Niết-bàn thì giữ tướng này rồi sanh tâm mừng, mong cho họ đạt được. Tâm thức nhu nhuyến thì thấy chúng sanh đều được vui mừng.
Ra khỏi định này thấy chúng sanh không khổ, không vui, không lo, không mừng thì giữ tướng này, rồi sanh tâm Xả, nguyện cho chúng sanh không khổ, không vui, không mừng, không lo. Vì khéo tu định lực xả nên thấy chúng sanh đều không khổ, không vui, không mừng, không lo, được lìa sự thiêu đốt của phiền não.
Lại nữa, nếu chúng sanh có các lỗi lầm thì bỏ qua mà không tra hỏi. Nếu được cung kính, yêu mến thì không vì thế mà mừng, gọi là tâm Xả.
Ðó là nghĩa bốn tâm vô lượng như trong đại thừa nói.
Tịnh quán có ba bậc:
1- Mới thực tập.
2- Ðã thực tập.
3- Thực tập đã lâu.
Nếu người mới thực tập thì nên dạy: Phật bỏ lớp da bất tịnh nên quán bộ xương trắng, buộc ý tại pháp quán, không cho nghĩ bên ngoài, nghĩ các duyên ngoài liền thu nhiếp trở về.
Nếu đã thực tập thì nên dạy: Tâm trừ hết da thịt, quán toàn bộ xương đầu, không cho nghĩ bên ngoài, nghĩ các duyên ngoài thì thu nhiếp trở về.
Nếu người đã tập lâu thì nên dạy: Bỏ một tấc da thịt trong thân, buộc ý năm chỗ: trên đảnh, trên trán, giữa hai chân mày, sống mũi, tim. Các chỗ như thế trụ ý tại xương, không cho nghĩ bên ngoài, nghĩ các duyên ngoài thì thu nhiếp trở về.
Lại nên quán tâm, nếu tâm mệt mỏi thì bỏ các tướng bên ngoài, trụ niệm ở duyên. Ví như khỉ bị buộc tại trụ cây, suốt ngày chạy nhảy nhưng vẫn bị buộc lại một chỗ, mệt nhoài mới yên nghỉ. Sở duyên như trụ cây, niệm như xiềng xích, tâm dụ con khỉ. Cũng như người vú nuôi, trông coi đứa bé không cho rơi té, hành giả quán tâm cũng lại như vậy, dần dần chế phục tâm, làm cho trụ vào duyên. Nếu tâm trụ lâu thì hợp với pháp thiền. Nếu đắc thiền định thì có ba tướng:
– Thân thể hòa vui, mềm mại, nhẹ nhàng.
– Xương trắng tỏa sáng như ngọc kha trắng.
– Tâm được trụ yên.
Ðó là tịnh quán. Khi ấy liền được tâm trong sắc giới. Ðó gọi là mới học pháp môn thiền.
Nếu tại định đắc được thắng tâm thì không cần chế phục nó khiến cho an trụ. Ðó gọi là nhất tâm.
Nếu có thể trụ trong một tấc thì liền được lột khắp, không chỉ quán xương người màu đỏ, mà đắc pháp quán này rồi thì bỏ xương đỏ, quán tiếp xương trắng, không nghĩ bên ngoài, nghĩ các duyên ngoài liền thu nhiếp trở về.
Nếu tâm thanh tịnh trụ trong pháp quán xương thì thấy quanh xương có ánh sáng trắng phát ra quanh thân, như ánh mặt trời sáng trong giữa trời trong. Ánh sáng này đã xuất hiện mà dùng mắt tâm quán thì thấy rõ tất cả. Nhờ sức ánh sáng nên thấy tướng trong xương người giống như các pháp sanh diệt của tâm và tương ưng với tâm, như nước chảy trong ống ngọc Tỳ-lưu-ly. Khi ấy, tâm liền được khoái lạc mà dục lạc của người dâm dục không thể ví dụ.
Quán thân bên ngoài cũng lại như vậy. Như thế, quán một thân, lần lượt quán đến nhiều thân,… cho đến một Diêm-phù-đề, lại từ một Diêm-phù-đề trở lại một tâm cũng được tự tại, thì đó là pháp tam muội tịnh trong bất tịnh.
Lại nữa, thân này rỗng không, xương nhờ lớp da mỏng che phủ thì có gì đáng ưa? Rất đáng lo ngại vậy.