Kinh Đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng

Đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng Kinh

Thất dịch

Bản Việt dịch của Thích Nữ Thuần Hạnh

***

Tôi nghe như vầy : Một thời đức Phật cùng với tám ngàn vị đại Tỳ kheo, ba vạn hai ngàn Đại Bồ tát ở núi Kỳ Xà Quật thành Vương Xá.

Các vị đều là bậc có tiếng tăm, mọi người đều biết, đắc Đà la ni, biện tài vô ngại, chứng đắc pháp Vô sanh nhẫn, chiến thắng ma oán, tự tại với tất cả pháp, thông suốt tất cả thần thông biến hóa, tất cả thiền định tam muội đều hoàn hảo, ra vào tự tại. Vì các chúng sanh hành động không cần cầu thỉnh viễn ly triền cái, khéo hiểu rõ căn bổn của chúng sanh. Y chỉ hoàn toàn nơi pháp liễu nghĩa. Thanh tịnh tu tập sáu độ đến bờ bên kia. Dạo chơi năm đường, giáo hóa chúng sanh, tâm không nhàm chán. Vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp, tu tập các hạnh, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Được sự hộ trì của chư Phật giữ vững thành Chánh pháp, không để chấm dứt hạt giống giác ngộ. Thường dùng tất cả đức thánh hỷ lạc, chuyển pháp luân vi diệu. qua lại vô biên cõi Phật dễ dàng, cung phụng chư Phật. Rống tiếng sư tử lớn, lèo lái con thuyền pháp lớn, đánh trống pháp lớn, thổi pháp loa lớn. Tập họp tất cả phước đức trang nghiêm, tướng hảo nghiêm thân, định niệm trí huệ, tinh tấn vững chắc, biết rõ tàm quí. Tự vui với pháp hỷ, thành tựu đầy đủ đại từ đại bi. Ánh sáng của các vị ấy che lấp ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Không bị ô nhiễm bởi tám pháp ở thế gian là Lợi, Suy, Hủy, Dự, Xưng, Cô, Khổ, Lạc. Không cao không thấp, khéo đoạn tận ái nhuế, thường dùng phương tiện tương ưng với trí huệ. Tùy theo căn tánh chúng sanh mà khéo léo giáo hóa, cứu độ nhưng không thấy có người để cứu độ. Có làm điều gì đều quán sát kỹ lưỡng. Không bị các khổ hoạn về nghiệp của thân, khẩu, ý. Tu tập định huệ hoàn hảo trang nghiêm.

Tâm các vị ấy được điều hòa nhu nhuyến giống như rồng lớn, như đại sư tử chiến thắng ngoại đạo. Tinh tấn hướng đến bậc đại trượng phu, xa lìa các sợ hãi. Giỏi về sự quyết đoán nghi lầm của chúng sanh. Khéo khuyến thỉnh vô lượng chư Phật chuyển pháp luân. An trú đại nguyện, vĩnh viễn xa lìa nhị kiến. Luôn luôn chuyên cần độ thoát tất cả chúng sanh. Biết rõ nhân duyên phát khởi sự trong sạch hay cấu uế. Tu tập chánh niệm, không khởi ý niệm về Thanh Văn, Duyên Giác. Trong tâm không bỏ tất cả trí huệ quý báu ấy. Tâm ấy thanh tịnh giống như hư không. Thân ấy nhu nhuyến. Tâm không nhiễm ô, ý không hư hoại. Dù đến chỗ nào tâm cũng không bị nhiễm trước. Âm thanh dịu dàng hòa nhã. Nói ra điều gì đều trình bày rõ ràng dễ hiểu, lời nói trong sạch, không nói pháp ô nhiễm. Luôn luôn quan sát ân đức người khác, dõng mãnh không bạn lữ, ý chí muốn đến đạo tràng.

Danh hiệu của các vị đó là : Bồ tát Sơn Lang, Bồ tát Đại Sơn, , Bồ tát Trì Sơn Nham, Bồ tát Sơn Tích Vương, Bồ tát Thạch Sơn Vương, Bồ tát Thiện Tấn, Bồ tát Tín Tấn, Bồ tát Cực Tấn, Bồ tát Hỷ Thủ, Bồ tát Bảo Ấn Thủ, Bồ tát Bảo Thủ, Bồ tát Đức Thủ, Bồ tát Đăng Thủ, Bồ tát Thường Cử Thủ, Bồ tát Thượng Hạ THủ, Bồ tát Thường hỷ Căn, Bồ tát Thường Tư Niệm, Bồ tát Thường Cần, Bồ tát Thường Quán, Bồ tát Pháp Dõng Vương, Bồ tát Tịnh Bảo Quang Minh Oai Đức Vương, Bồ tát Ma Ni Quang Vương, Bồ tát Quá Chư Cái, Bồ tát Tổng Trì Tự Tại Vương, Bồ tát Phát Tâm Chuyển Pháp Luân, Bồ tát Pháp Dõng, Bồ tát Tịnh Chúng Sanh Bảo Dõng, Bồ tát Đạo Phân Vị, Bồ tát Thiệp Biện, Bồ tát Vô Ngại Biện, Bồ tát Bất Động Túc Tấn, Bồ tát Kim Cang Túc Tấn, Bồ tát Kim Cang Chí, Bồ tát Hư Không Tạng, Bồ tát Tướng Hảo Tích Nghiêm, Bồ tát Hoại Quy Võng, Bồ tát Thắng Chí, Bồ tát Đạo Sư, Bồ tát Hỷ Kiến.v.v…

Mười sáu đại sĩ hiền hộ, Di Lặc.v.v… Bồ tát Hiền Kiếp ở cung trời Đâu Suất Mạn Đà La Hoa Hương làm thượng thủ. Ba vạn hai ngàn vị ở Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương.v.v… Các thiên tử như vậy và những vị khác đều hướng đến đại thừa. Chư thiên ở cõi Dục, cõi Sắc tịnh cư, Thích, Phạm hộ đời ở ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả đều đến tập họp cung kính cúng dường lễ bái Như Lai.

Khi Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn đại chúng cung kính vây quanh thì ở phương Đông, cách cõi Phật này bảy mươi hai ức, có cõi Phật tên là Thường Xuất Đại Pháp Chi Âm. Cõi đó Phật hiệu Bảo Trượng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Giác, đang còn ở đời. Mà nước đó thường phát ra pháp âm rộng lớn. Tất cả các loài nước ở sông ngòi, ao, suối, tất cả cây, tất cả hoa, tất cả lá, tất cả quả, tất cả lâu đài thường phát ra pháp âm của pháp bảo vô thượng. Chúng sanh cõi đó thường nghe pháp âm thù thắng vi diệu.

Nước của Phật Bảo Trượng thường phát ra pháp âm rộng lớn, có vị Bồ tát tên là Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương. Bồ tát này chiêm ngưỡng Phật Bảo Trượng, rồi nhanh như thời gian tráng sĩ duỗi cánh tay, trong chốc lát ẩn mất trong nước. Thường xuất Đại Pháp Âm. Trong khoảng một niệm đã đến thế giới Ta Bà này.

Bấy giờ, Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương hóa làm tám vạn bốn ngàn đài báu làm bằng các loại báu xinh đẹp. Bốn phương có bốn trụ, ngang rộng bằng nhau, trang nghiêm đẹp đẽ. Mỗi một đài hoa báu hóa thành tám vạn bốn ngàn cây báu hoa trái sum suê. Dưới mỗi mỗi cây đều hóa thành tòa sư tử báu, phủ lấp bằng các vật báu được trải bằng trăm ngàn tấm vải mềm mại. Trên các tòa này, đều thấy Phật ngồi, hình sắc, tướng mạo giống như Đức Thích Ca Mâu Ni.

Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương hóa hiện như vậy rồi, lại biến hóa lọng báu khắp trong hư không, vuông vức khắp cả trăm ngàn do tuần dải lụa thòng xuống, trang trí bằng lưới đẹp có gắn linh. Gió thổi lưới linh phát ra âm thanh nhu hòa nhẹ nhàng đáng yêu. Âm thanh đó vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

Khi ấy, ba ngàn đại thiên thế giới này bằng phẳng như lòng bàn tay, hóa ra hoa sen báu cúng dường Như Lai. Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương dùng tám vạn bốn ngàn đài báu, đến nhiễu quanh chỗ Phật.

Bấy giờ, đại chúng thấy việc biến hóa chưa từng có, nên nói rằng : “Theo sự thấy biết như vậy thì đại sĩ này đến để trang nghiêm tướng sư, chắc chắn thuyết pháp lớn và các việc trong ba ngàn đại thiên thế giới đều trang nghiêm. Lại có lọng báu lơ lững giữa hư không che trên Như Lai, làm cho tất cả cung điện trời đền bị che lấp”.

Khi đó, đại đức Ma Ha Ca Diếp nương oai lực Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục bày vai áo bên phải, gối phải sát đất, chắp tay hướng về phía Phật nói kệ :

Ánh sáng thanh tịnh từ hư không

Che lấp ánh sáng trời Thích, Phạm

Và ánh sáng nhật, nguyệt hỏa châu

Cúi xin Nhơn Tôn thuyết tướng này

Trên không trung hiện lọng báu đẹp

Phủ khắp cả trăm ngàn do tuần

Trang nghiêm bằng cờ phướn lưới linh

Nay Thế Tôn rưới trận mưa pháp

Lưới linh phát âm thanh vi diệu

Vang khắp thế giới Phật này.

Ai nghe âm thanh, phiền não dứt

Vì lợi ích gì thuyết điều này

Ba ngàn thế giới phẳng như tay

Trăm ngàn hoa sen từ đất mọc

Hương hoa làm an lạc thân tâm

Oai đức này là thế nào đây !

Ở phương Đông phóng ánh sắc vàng

Tám vạn bốn ngàn lọng báu đẹp

Tòa sư tử trong đài cây báu

Thấy như đạo sư Thích Sư tử.

Đạo sư việc này lợi ích gì ?

Ai thấy điều này có ích chi ?

Trí huệ của Phật lại xuất hiện.

Đầy đủ vô lượng các thần biến.

Bấy giờ, Phật dạy Đại Ca Diếp :

– Cách đây bảy mươi hai ức cõi Phật ở phương Đông có nước tên Thường Xuất Đại Pháp Âm. Trong nước đó có Phật hiệu Bảo Trượng, đang còn ở đời, ở đó có Bồ tát tên Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương đến cõi này, thấy Ta nên lễ bái, thăm hỏi nghe pháp. Vì các Bồ tát sanh đại pháp dục, sanh đại pháp lực, tập đại pháp trí. Muốn hiển lộ công đức của nước Thường Xuất Đại Pháp Âm và công đức của Phật Bảo Trượng. Vì nhân duyên này nên Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương đến thế giới Ta Bà này làm lợi ích cho chúng sanh chỉ một ngày một đêm còn hơn là các pháp đại Thanh Văn ở khắp ba ngàn đại thiên thế giới làm lợi ích chúng sanh. Giả sử số lượng của quý thầy giống như lúa mè, tre,

lau, mía, rừng rậm làm lợi ích cho chúng sanh sống suốt một kiếp cũng bằng như trên không khác.

Đại đức Ca Diếp bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn ! Người ở Diêm Phù Đề nếu được nghe danh hiệu đại trượng phu này được lợi ích như trên huống chi là có tín tâm nghe thuyết pháp.

Khi ấy, Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương và các đài báu trụ trước Như Lai, bèn đảnh lễ sát chân Phật. Lúc đang lễ Phật, ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Trăm ngàn âm nhạc không đánh tự kêu. Tất cả đại chúng đảnh lễ sát chân Như Lai. Bấy giờ, Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương nhiễu quanh Phật ba vòng, tám vạn bốn ngàn đài báu cũng nhiễu Phật ba vòng. Nhiễu ba vòng rồi, chắp tay hướng Phật, nói kệ ca ngợi :

Ngôn ngữ nhu nhuyến rất trang nhã

Không lẫn, không tạp, sạch không cấu

Đáng bậc oai đức huệ thù thắng

Nay con đảnh lễ Tối Thắng Tôn

Đủ cả trăm ngàn ức công đức.

Đem niềm an lạc, diệt các khổ.

Từ bi hỷ xả khắp tam giới

Thuyết pháp đoạn trừ mọi cấu nhiễm

Chư Phật mười phương khen đức Ngài

Phật đắc Bồ đề đời ác trược

Cứu độ chúng sanh không chán nhàm

Độ một chúng sanh đã là khó

Tất cả chư Phật đều bình đẳng

Trí huệ thần thông hiệu Nhơn Tôn

Thành Phật vô đẳng pháp thanh tịnh

Thị hiện thấp hèn thuận chúng sanh

Nếu cần thị hiện cảnh giới Phật.

Tất cả chúng sanh tâm não loạn

Với lòng đại bi vì lợi ích.

Tùy theo đối tượng mà thuyết pháp

Trí huệ Thế Tôn chúng đều thích

Nhan sắc hiền hòa lời nhu nhuyến

Xét ra đức thiên nhơn không bằng

Cho nên hoan hỷ đảnh lễ Phật

Tất cả hiểu biết độ chúng sanh

Dứt tận các pháp, thắng ngoại đạo

Tất cả tri kiến chiến ma oán

Đảnh lễ Thập Lực, vượt các lực

Niềm vui chơn thật lời chắc thật

Biết rõ thực hành đúng lời nói

Khổ vui không động như núi, chúa

Con lạy đấng ban vui thế gian.

Bấy giờ, Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương nói kệ tán thán Phật rồi bạch :

– Bạch Thế Tôn ! Đức bảo Trượng Như Lai thăm hỏi Thế Tôn ít bệnh, ít não, đi đứng có nhẹ nhàng, hành đạo được lợi ích an lạc không ?

Bạch Thế Tôn ! Con muốn hỏi Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác. Xin ngài cho phép con mới dám hỏi.

Phật dạy Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương :

– Thiện nam tử ! Như Lai đang nghe. Nghi ngờ gì cứ hỏi. Ta sẽ theo lời hỏi của ông mà trả lời, để tâm ông được cởi mở.

Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn ! Trước kia con nghe Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác có pháp gọi là Như Lai bí mật tạng. Nếu có Bồ tát nào trụ ở bí mật tạng này thì chứng đắc pháp vô tận, biện tài vô tận, thấy Phật vô tận, chứng đắc thành tựu hoàn hảo vô tận. Vì các chúng sanh làm y chỉ chơn thật. Lành thay ! Thế Tôn ! Xin ngài vì con diễn thuyết pháp Như Lai bí mật tạng.

Phật dạy Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương :

– Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Có thể hỏi Phật về pháp như vậy. Thiện nam tử ! Ông đã từng ở hằng hà sa chỗ Phật, gieo trồng các căn lành, thưa hỏi, thọ thỉnh. Thiện nam tử ! Nay ông lắng nghe và khéo suy nghĩ. Ta sẽ thuyết pháp Như Lai Bí Mật Tạng.

Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn ! Con xin lắng nghe thọ giáo.

Phật dạy :

– Thiện nam tử ! Pháp Như Lai Mật Tạng gọi là tâm Nhất thiết trí, đã phát tâm này thì phải giữ gìn vững chắc, không thối lui, không xả bỏ, không rối loạn, chánh niệm hoàn hảo, chỉ đường khuyến hóa mạnh mẽ, sự dạy dỗ lấy căn lành làm then chốt, giữ gìn sự an lạc, luôn luôn vững chắc, làm việc đáng làm là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, phương tiện. Lấy tâm làm trụ, không nhiếp, không nhược, không yếu, không hoại, không làm biếng, không bỏ, không lấy. Thuận theo tâm ấy thì được giác ngộ. Thiện nghiệp làm căn bản. Ngay thẳng chất trực, đứng thẳng vững vàng, không giả, không dối, làm rồi không nghi, việc chưa làm thì làm. Việc đáng làm là nên siêng năng tu hành, bỏ hạnh bất chánh, cần tu chánh hạnh. Thiện nam tử ! ! Đây gọi là nhập vào pháp môn Như Lai Bí Mật Tạng, là giữ vững tâm Nhất thiết trí, thích kiên trì giữ gìn không xả bỏ.

Thiện nam tử ! Những gì là tâm Nhất thiết trí kiên cố ? Thiện nam tử ! Tâm Nhất thiết trí kiên cố có bốn :

1- Không nhớ nghĩ đến thừa nào khác.

2- Không kính lễ Chư thiên.

3- Không phát tâm khác.

4- Ý chí không chuyển.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Không sanh niệm nhị thừa

Lễ Phật không lạy trời

Không sanh tâm muốn khác

Không lễ bái phàm phu

Khi tu hành pháp này

Tâm vững Nhất thiết trí

Ma quân và ngoại đạo

Chẳng đụng được lông tóc.

Thiện nam tử ! Lại có bốn pháp, bảo vệ tâm Nhất thiết trí :

1- Không say đắm sắc đẹp.

2- Không lệ thuộc tiền tài.

3- Không lệ thuộc quyến thuộc.

4- Không say đắm quyền lực.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Chẳng đắm say tài sắc

Quyến thuộc và quyền lực

Ngăn tài sắc quyền lực

Quyến thuộc không phóng dật

Quán các pháp hữu vi

Tất cả đều vô thường

Không phóng dật kiêu mạn

Giữ vững tâm Bồ đề

Thực hành pháp công đức

Không thối hướng Bồ đề.

Thiện nam tử ! Lại có bốn pháp không thối tâm Bồ đề :

1- Tu tập các Ba la mật.

2- Thân cận Bồ tát chân thật.

3- Tu tập đại bi.

4- Dùng bốn nhiếp pháp để giúp đỡ chúng sanh.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Thường tu lục độ không ngừng nghỉ

Lắng nghe, nghe rồi tâm nhu nhuyến

Tuy sống cõi dục lìa bạn xấu

Thân cận bạn lành tùy sở thích

Thường tu thắng đạo gần hướng thượng

Luôn tập tâm bi trụ tứ nhiếp

Ưa thích an trụ tâm Bồ đề

Tạo công đức Phật đâu còn khó.

Thiện nam tử ! Bồ tát đầy đủ bốn pháp không bỏ tâm Nhất thiết trí :

1- Tin công đức Phật.

2- Tu tập trí Phật.

3- Biết thần thông Phật.

4- Không mất hạt giống giác ngộ.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Tin hiểu công đức Phật

Siêng tu tập trí Phật

Biết được thần thông Phật

Luôn giữ giống Bồ đề

Hành trì pháp như vậy

Không bỏ tâm giác ngộ

Tùy chỗ thấy chư Phật

Càng sanh sức tinh tấn.

Thiện nam tử ! Bồ tát đầy đủ bốn pháp, trọn đời tâm Bồ đề không bị rối loạn :

1- Luôn luôn thân cận bên Phật.

2- Từ đó được nghe pháp của Như Lai.

3- Thường ca ngợi công đức Phật.

4- Y chỉ vào sự tịch tịnh, luôn nghĩ đến Phật.

Đây là bốn, Phật nói kệ :

Hầu hạ nơi Như Lai

Tôn trọng và cung kính

Nếu có được nghe pháp

Nghe rồi thực hành theo

Thường ca ngợi Như Lai

Tin tưởng và yêu thích

Đã được nghe pháp rồi

Người trí nương vào nghĩa

Tán thán công đức Phật

Điều Ngự cả thế gian

Cần y chỉ vào đó

Chánh niệm nơi Chư Phật

Công đức Phật vô số

Luôn quán hành động mình

Thường thích chỗ thanh tịnh

Nhớ nghĩ đức Như Lai

Khéo giữ pháp như vậy

Tu hành tâm bất loạn

Người ấy được Tam muội

Không mất tâm Bồ đề.

Thiện nam tử ! Bồ tát đầy đủ bốn pháp không quên tâm Bồ đề.

1- Tôi cần phải vì tất cả chúng sanh làm phước điền tốt.

2- Tôi phải thuyết đạo pháp.

3- Tôi phải tùy theo chỗ đến của Như Lai mà đến.

– Tôi phải thật sự biết các hành của chúng sanh.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Ta làm phước điền tốt thế gian

Người theo tà đạo chỉ đường chánh

Phật đi đến đâu, con đến đó

Thường xuyên biết hành các chúng sanh

Đại sĩ Bồ tát nhớ đức này

Đạo tâm thù thắng, niệm Bồ đề

Mau chóng thành tựu đạo pháp vương

Đắc trí thần thông, vượt thế gian.

Thiện nam tử ! Bồ tát đầy đủ bốn pháp nhớ nghĩ tâm Nhất thiết trí :

1- Dốc lòng nhớ nghĩ các pháp căn bản này.

2- Nên nhớ pháp căn bản.

3- Phát tâm Nhất thiết trí là tháp báu ở đời.

4- Nên nhớ tưởng bảo tháp.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Nên dốc lòng hết ý

Nhớ nghĩ điều tốt đẹp

Các pháp căn bản này

Tất cả tháp thế gian

Thường nhớ tâm Bồ đề

Giữ ý tốt lòng lành

Căn bản bậc mười lực

Làm tháp cho trời người.

Thiện nam tử ! Bồ tát có đầy đủ bốn pháp, phát khởi tâm Nhất thiết trí :

1- Dùng sức thần thông tu tập không để mất bổn hạnh.

2- Năm căn, năm lực viên mãn.

3- Thân tâm tinh tấn nhưng không có ngã chấp.

4- Siêng năng thực hành tinh tấn vì lợi ích người khác.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Diễn thuyết được bốn pháp

Phát khởi tâm Bồ đề

Nếu trí huệ tăng trưởng

Ngăn chặn các phiền não

Nghệ, lực và thông đạt

Siêng tinh tấn như vậy

Là đã an trụ rồi

Trang nghiêm không biếng nhác

Không quên lời đã nguyện

Khéo an trụ căn, lực

Thân tâm không mệt mỏi

Tinh tấn cầu chân thật

Phát khởi được như vậy

Tăng trưởng tâm Bồ đề

Trí huệ được như vậy

Như trăng lớn theo ngày.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp khuyến khích phát tâm Bồ đề :

1- Ở giữa đại chúng ca ngợi, tán thán tâm Bồ đề.

2- Làm cho họ hiểu rõ phát triển tâm Bồ đề.

3- Dạy dỗ họ theo sư trưởng để phát tâm thanh tịnh hoàn hảo.

4- Tất cả phiền não đều không bị khống chế.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Hướng dẫn về đạo tâm

An trụ căn bản này

Sẽ được Nhất thiết trí

Đây gọi người có trí

Tâm Nhất thiết trí này

Thanh tịnh thường chiếu sáng

Thường trụ ở nơi đây

Bậc thế gian đảnh lễ

Luôn nói lời hòa nhã

Mau chóng vâng lời dạy

Hỏi các bậc sư trưởng

Được tâm Nhất thiết trí

Bổn tánh thường thanh tịnh

Giữ gìn tâm Bồ đề

Thanh tịnh lìa phiền não

Tối thắng không chống trái

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp, hiển lộ tâm Bồ đề :

1- Đây là chỗ tối trụ.

2- Trụ chỗ này rồi thì khai thị diễn thuyết.

3- Biết trong tâm này có vô lượng công đức.

4- Vì người khác mà thuyết các điều như vậy.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Khéo trụ đúng chỗ trụ

Bồ tát trụ đây rồi

Ca ngợi pháp như vậy

Tâm Bồ đề vi diệu

Đạo tâm đức vô lường

Phát khởi và xưng tán

Khen ngợi rồi làm theo

Chứng đắc theo lời khen.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp dạy dỗ tu tập tâm Bồ đề :

1- Không hung hăng.

2- Lời nói dịu dàng.

3- Không thô tháo.

4- Sắc mặt vui vẻ.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Diễn thuyết nghĩa nhu hòa

Thường không có hung hăng

Trụ pháp này hòa nhã

Dạy người phát Bồ đề.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp, lấy thiện căn làm đầu để xây dựng tâm Bồ đề :

1- Thành tựu tướng hảo viên mãn, mở cửa bố thí.

2- Tu hành thanh tịnh cõi Phật, thực hành các loại bố thí.

3- Trí huệ thanh tịnh, điều phục lòng kiêu mạn.

4- Đầy đủ trí huệ, tu tập đa văn.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Thường mở cửa bố thí

Tướng hảo đến bờ kia

Khéo làm các việc thí

Được đến cõi tịnh độ

Không bao giờ kiêu mạn

Thường cầu trí huệ Phật

Tập nghe không đầy đủ

Có lợi cho trí huệ

Được diệu tướng như vậy

Phương tiện khởi đạo căn

Tâm khéo tùy chỗ chuyển

Tu tập các công đức.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp thường hỷ lạc.

1- Vui mừng khi thấy Phật.

2- Thấy các Bồ tát khác là các bậc tinh tấn, trong lòng hỷ lạc.

3- Nói như vầy : “Đến bao giờ Ta mới được thọ ký đạo Vô Thượng Bồ đề ! Đến bao giờ Ta mới làm Phật sự cho chúng sanh đây !”

4- Sanh hỷ lạc đối với trí huệ Phật.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Biết đến bao giờ, Ta gặp Phật

Sanh lòng hoan hỷ muốn thấy Phật

Bậc tinh tấn và Bồ tát khác

Ưa thích tu tập tinh tấn này

Đến bao giờ ta mới đủ đức

Lại được thọ ký chứng Bồ đề

Thắng trí phương nào làm Pháp vương

Bồ tát thường sanh hỷ lạc này

Đến bao giờ làm được Phật sự

Trí huệ thần thông đến bờ kia

Tiếng khen vang khắp mười phương cõi

Bồ tát thường sanh hỷ lạc này.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn điều không vui lòng:

1- Không vui khi được khen ngợi về những công đức không thật và được lợi dưỡng.

2- Không vui khi được hưởng niềm vui của trời Thích, Phạm hộ thế, và giàu sang ở trời người.

3- Không vui với tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác.

4- Không vui khi được cúng dường hơn cả ngoại đạo.

Đây là bốn điều không vui, Phật thuyết kệ :

Danh dự, lợi dưỡng đều không mừng

Thân mạng, tài sản cũng như vậy

Không vui thích, Phạm và hộ đời

Các cõi tà này đều vô thường

Không vui Duyên Giác và Thanh Văn

Nhất tâm hướng đến thừa Tối Thắng

Không thích ngoại đạo và định đó

Không ưa thân kiến và biên kiến.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp ủng hộ tâm Nhất thiết trí :

1- Giảng về điều nói đúng như pháp, trụ đúng như pháp, làm đúng như pháp.

2- Đối với các chúng sanh, tâm luôn bình đẳng.

3-4 – Sanh tâm rất ham muốn đối với thiện pháp.

Đây là bốn, Phật nói kệ :

Nói làm ngừng nghỉ đều như pháp

Chúng sanh cầu đạo tâm bình đẳng

Bốn thắng pháp này khéo an trụ

Đem lòng hộ đạo không quên mất.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp đáng nên làm:

1- Tu tập việc nghe rộng.

2- Nhớ nghĩ điều nghe rộng.

3- Nói về điều được nghe.

4- Không thối lui sự tịch tịnh.

Đây là bốn, Phật thuyết kệ :

Tinh cần tu tập điều chưa nghe

Luôn luôn nhớ nghĩ điều nghe rộng.

Đối với đa văn thường xuyên thuyết

Siêng năng tu tập đắc thiền định.

Thiện nam tử ! Bồ tát có hai pháp định tâm Nhất thiết trí để hành bố thí :

1- Chuyên tâm nhớ nghĩ về thiền định.

2- Xả bỏ, không mong cầu quả báo.

Đây là hai, Phật thuyết kệ :

Đem tâm hoan hỷ mà bố thí

Không mong quả báo khi đã cho

Tất cả đều bỏ hướng Bồ đề

Tâm định thí rồi chứng Bồ đề.

Thiện nam tử ! Bồ tát có hai pháp, lấy Nhất thiết trí làm đầu để tu trì tịnh giới :

1- Đối với tất cả chúng sanh không có tâm làm tổn hại.

2- Sanh tâm đại bi với người hủy giới.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Không sanh tâm hủy hại

Trên, dưới, giữa bình đẳng

Tăng trưởng tâm đại bi

Với chúng sanh ác nghiệp.

Thiện nam tử ! Bồ tát có hai pháp lấy Nhất thiết trí làm đầu để tu hạnh nhẫn nhục.

1- Tự bỏ cái vui của mình.

2- Đem ban niềm vui cho người.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Không cầu vui cho mình

Lợi ích người khác vui

Tu nhẫn nhục như vậy

Bồ đề Phật làm đầu.

Thiện nam tử ! Bồ tát có hai pháp, lấy Nhất thiết trí làm đầu để tu hạnh tinh tấn :

1- Tâm Bồ đề làm đầu.

2- Không bỏ các chúng sanh.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Tất cả hạnh trong sạch

Lấy đạo tâm làm đầu

Không thấy Ta, chúng sanh

Tinh tấn không hủy diệt.

Thiện nam tử ! Bồ tát thành tựu hai pháp, lấy Nhất thiết trí làm đầu để tu hành thiền định :

1- Nhập định theo phương tiện.

2- Xuất thiền theo nguyện lực.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Người dõng mãnh thường khởi

Trí huệ hành thiền định

Chiến thắng các kiết sử

Thường muốn đắc thiền định

Xuất thiền theo nguyện lực

Đáng là bậc đạo sư

Người có đức như vậy

Chứng đắc nơi thiền định.

Thiện nam tử ! Bồ tát thành tựu hai pháp, lấy Nhất thiết trí làm đầu ở nơi trí huệ :

1- Tự xa lìa các kiến chấp.

2- Đoạn trừ tất cả kiến chấp của chúng sanh để tu hành trí huệ.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Xa lìa các kiến chấp

Tu hành lợi chúng sanh

Thắng trí được hiện tiền

Trí an ổn hành đạo.

Thiện nam tử ! Bồ tát thành tựu bốn pháp ở nơi phương tiện :

1- Đem lòng từ bi thương xót chúng sanh, làm việc để cứu độ.

2- Tấm lòng đại bi chơn thật không có mõi mệt.

3- Hỷ lạc đối với pháp, sanh lòng hoan hỷ.

4- Xa lìa các phiền não, không có khiếp nhược.

Đây là bốn. Phật thuyết kệ :

Tu từ không sân nhuế

Lòng bi không mệt mỏi

Dùng pháp sanh hoan hỷ

Bỏ phiền não không sợ.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp không nhàm chán :

1- Nghe nhiều không nhàm chán.

2- Tu tập công đức mãi vẫn không mãn nguyện.

3- Ở chốn tịch tịnh nhưng cũng chưa mãn nguyện.

4- Hồi hướng cũng chưa mãn nguyện.

Đây là bốn. Phật thuyết kệ :

Tạo đức nghe nhiều chưa tự mãn

Ở chốn tịch tĩnh chưa tự mãn

Hồi hướng phước đức chưa tự mãn

Bốn pháp như vậy, không nhàm chán.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp vô túc :

1- Bồ tát tưởng niệm Phật ở thời quá khứ mà suy nghĩ như vầy : “Chư Phật đều tu tập Bồ đề tối thắng. Sao mình lại không tu tập ?”

2- Nhớ nghĩ đến chư Phật ở đời vị lai, biết mình cũng ở trong số đó.

3- Quán niệm Phật ở hiện tại.

4- Khi quán niệm Phật khởi lên suy nghĩ: “ Chư vị Phật đã hiểu rõ tất cả các pháp”. Trong lúc quán niệm không có khiếp nhược.

Đây là bốn. Phật thuyết kệ :

Tưởng niệm Phật quá khứ

Tâm trí không khiếp nhược

Phật kia đắc đạo quả

Sao mình lại không được

Nghĩ đến Phật vị lai

Mình cũng trong số đó

Không dao động tinh tấn

Quyết định ở số này

Quán chiếu đấng đạo sư

Khi hành Bồ tát đạo

Mình sẽ trừ kiết sử

Chứng Bồ đề tịch diệt

Hiểu rõ tất cả pháp

Chỗ trụ như điều mong

Không sanh tâm khiếp sợ

Tinh tấn gấp bội lần.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp không thối thất đối với đại thừa :

1- Tâm như đất.

2- Tâm như nước.

3- Tâm như lửa.

4- Tâm như gió.

Đây là bốn. Phật thuyết kệ :

Tâm giống như đất, nước

Cũng giống như gió lửa

Làm không làm đồng đẳng

Không đắc đạo không thối.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp hiểu rõ vô ngã:

1- Bồ tát suy nghĩ thế này: “ Ta phải biết tất cả tư tưởng, hành động trong cảnh giới của các chúng sanh. Ta phải biết các căn trong cảnh giới của các chúng sanh. Ta phải đoạn trừ tất cả phiền não trong cảnh giới của các chúng sanh, để vì họ mà thuyết pháp.

2- Vô lượng chư Phật đã biết rõ, chúng ta cần phải hiểu được.

3-4 – Chẳng phải ngã thân cũng chẳng phải ngã tâm, có thể hiểu rõ được pháp này. Các thiện pháp của ta có thể hiểu rõ pháp này, không có ngã thì gọi là Bồ tát.

Đây là bốn. Phật thuyết kệ :

Tâm, hành của chúng sanh

Không thể suy lường được

Phiền não và phân biệt

Vọng tưởng sanh thị phi

Trí Phật cũng như vậy

Vô lượng bất tư nghì

Không phải sức của Ta

Hiểu rõ nơi trí Phật

Các kiết sử ngược lại

Không sắc, không thể thấy

Cần phải đoạn trừ hết

Hiển lộ đạo giải thoát.

Thiện nam tử ! Bồ tát có bốn pháp không có khiếp nhược :

1- Nguyện làm các căn lành.

2- Tu tập trí tuệ phương tiện.

3- Tu tập tín, tấn, niệm, lực.

4- Tin tưởng nơi đạo Vô thượng.

Đây là bốn. Phật thuyết kệ :

Khéo vui vẻ thấm nhuần

Các hương, huệ, phương tiện

Tín, tấn, niệm và lực

Đạt được đạo giải thoát

Bốn pháp trí huệ này

Trì pháp không nhàm chán

Không mệt mỏi xa lìa

Cứu giúp cho thế gian.

***

Thiện nam tử! Có bốn pháp chướng ngại, Bồ tát phải nên biết rõ :

1- Hủy báng chánh pháp.

2- Bỏn xẻn về giáo pháp.

3- Ôm lòng tăng thượng mạn.

4- Tu định vô sắc.

Đây là bốn. Phật thuyết kệ :

Có bốn điều chướng ngại

Tổn hại tâm Bồ đề

Bồ tát cần phải biết

Nên xa lìa chúng gấp

Đối chánh pháp hủy báng

Học rộng mà không dạy

Tăng thượng mạn, cống cao

Nhập thiền định bất thiện

Nên hộ trì chánh pháp

Học rồi phải truyền dạy

Bỏ kiêu mạn, cống cao

Xa thiền định, bất thiện.

Thiện nam tử! Bồ tát có bốn pháp cần phải mau chóng hành động :

1- Phải dùng sự hiểu biết để hành động chớ không dùng tâm kiêu mạn.

2- Có căn lành thì đem hồi hướng đạo Bồ đề không nên hướng đến hạ thừa.

3- Đối với các cõi không sanh tâm nhiễm trước. Nếu có sanh tâm nhiễm trước thì phải một lòng vì hóa độ chúng sanh ở đó.

4- Ngày đêm ba thời luôn luôn tu ba phần. Diệt trừ tội lỗi, ác nghiệp chưa đến không làm.

Đây là bốn. Phật thuyết kệ :

Dùng trí hành động, không dùng mạn

Hồi hướng vô thượng, không hạ thừa

Người trí không tin, nơi các hữu

Phát tâm lợi ích cho chúng sanh

Ngày đêm ba thời cũng như vậy

Ba phần hối lỗi diệt ác trược

Không làm điều ác tu việc thiện

Người trí nên tu thiện nghiệp này.

Thiện nam tử! Bồ tát có bốn pháp rất hoàn hảo.

1- Không tự khen mình.

2- Không khinh hủy người.

3- Xa lìa điều ác.

4- Diệt trừ các mạn.

Đây là bốn. Phật thuyết kệ :

Không tự khen mình, chẳng khinh người

Điều ác đã làm nguyện sám hối.

Không sanh kiêu mạn và tà mạn

Giữ tâm đoan chánh tu hạnh lành.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp mau chóng làm đoan nghiêm chơn chánh :

1- Nếu có ai hỏi điều gì thì như thật đáp.

2- Trước đã thấy điều gì thì không nên che giấu. Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Trả lời theo câu hỏi

Không dấu điều đã thấy

Thà xả bỏ thân mạng

Không nói lời vọng ngữ

Chơn chánh nơi pháp này

Đây là gốc hiền thiện

Người ấy được chơn chất

Mau hiểu đạo Bồ đề.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp không có nịnh hót dối trá :

1- Tuy được nhiều lợi dưỡng hơn nhưng không muốn ca ngợi phước đức của mình.

2- Không được lợi dưỡng cũng không nên tự đề cao mình.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Tuy được nhiều lợi dưỡng

Không tự thị phước đức

Người trí không ham muốn

Không nịnh hót để được

Giả sử không lợi dưỡng

Đây là nghiệp của mình

Không muốn hơn người khác

Để nghiệp kia thuần thục.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp không mong cầu người khác đền đáp :

1- Ta phải vì lợi ích cho chúng sanh chứ không bao giờ để cho chúng sanh làm lợi ích cho mình.

2- Ta cần phải hiểu biết, chỉ vì để giác ngộ.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Nên lợi ích chúng sanh

Gánh vác cho mọi người

Ta cầu đạo vô vi

Không trông mong người khác

Không cầu pháp hữu vi

Chỉ cầu đạo vô vi

Ta hộ trì thế gian

Chẳng mong được đền đáp.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp, việc không nên làm cần phải làm :

1- Đối với người không biết ân nghĩa nhưng vẫn thường giúp đỡ.

2- Đối với người biết ân nghĩa càng gánh vác trọng trách.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Chúng sanh không biết ân

Không mong cầu đền đáp

Các ấm, giới và nhập

Đều làm vì Bồ đề.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp, nên đến những chỗ này :

1- Thường diện kiến chư Phật.

2- Thường gặp chư Bồ tát.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Hai chỗ thường nên gặp

Làm tăng trưởng chủng tánh

Thường gặp chư Như Lai

Bậc Bồ tát, tri thức.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp không nên tu:

1- Không cùng người tu hạnh Thanh Văn đồng ở chung.

2- Không sợ hãi những chỗ độc hại nhưng yên tỉnh.

Đây là hai. Phật thuyết kệ :

Không cùng ở chung với

Người tu hạnh Thanh Văn

Các nơi đều không sợ

Miễn sao được tịch tỉnh.

Thiện nam tử! Đây gọi là mới nhập vào pháp căn bản Như Lai Mật Tạng. Bồ tát nào nếu nhập vào sơ pháp căn bản này thì Bồ tát đó thành tựu được pháp Như Lai Bí Mật Tạng.

Khi Thế Tôn thuyết nhập vào sơ pháp Như Lai Mật Tạng này, sáu vạn chúng sanh trời, người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Chơn, mười ngàn Bồ tát đắc pháp Vô sanh nhẫn. Năm trăm Tỳ kheo không nhiễm thọ các pháp, vĩnh viễn dứt trừ các lậu hoặc, tâm được giải thoát. Khi ấy, ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách, hào quang chiếu khắp, âm nhạc trời không đánh tự kêu. Trời, người, A tu la.v.v… đồng thanh xướng lên ba lần như vầy “Chúng sanh nào được nghe pháp Như Lai Mật Tạng chắc chắn được lợi ích an lạc. Nếu có ai viết chép, thọ trì, đọc tụng, tu hành đúng như lời thuyết thì các chúng sanh này sẽ không mất pháp Như Lai Bí Mật Tạng”.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương nghe pháp Như Lai Mật Tạng này bèn suy nghĩ : “Ta nên dùng pháp gì để cúng dường đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri”. Rồi lại nghĩ tiếp : “Vật ở ngoài dễ bỏ, vật bên trong khó xả. Ta nên dùng thân để cúng dường Như Lai Thế Tôn”. Liền bay lên hư không thuyết kệ :

Con xin dùng thân này

Cúng dường đấng Biến Giác

Dùng pháp xả Vô Thượng

Nguyện như bậc Đạo sư

Cúng dường Lưỡng Túc Tôn

Việc này không gì khó

Thế nào là hy hữu

Đó là thân cúng dường

Con cúng bậc Vô Đẳng

Dâng thân bậc Từ Nhãn

Vì trời người cúng dường

Như Đại trí Sư Tử.

Bấy giờ, Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương liền phóng thân đến chỗ Như Lai. Nhờ thần lực của Phật nên có hoa kỳ lạ với màu sắc đặc biệt khác lạ chưa từng thấy rất là đẹp, rực rỡ, trang nghiêm thanh tịnh rải trên Như Lai. Thân Bồ tát này không rơi xuống đất cũng không hiện ở hư không. Các loại hoa này bay đến trên thân Phật, tức khắc trở về trụ trong hư không biến thành tràng hoa lớn phủ khắp bốn thiên hạ. Trong tràng hoa này có loại hoa treo lủng lẳng, có hoa xâu thành dây đều phát ra ánh sáng lớn. Trong hào quang này lại hiện ra hoa sen tươi đẹp. Trên hoa sen các Bồ tát ngồi giống như Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương. Bồ tát này từ trên hoa bước xuống, đảnh lễ sát chân Phật, đồng thanh cất lời thỉnh cầu : “Cúi xin đức Thế Tôn thuyết pháp Như Lai Bí Mật Tạng khiến cho chánh pháp không bị đoạn tuyệt và giữ gìn quyến thuộc Như Lai Mật Tạng”.

Bấy giờ, Đại đức Ca Diếp sanh tâm hoan hỷ ca ngợi điều chưa từng có và bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn! Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương dùng thân trang nghiêm cúng dường Như Lai. Đã dùng thân cúng dường Như Lai rồi, Bồ tát lại thị hiện các điều trang nghiêm. Bạch Thế Tôn! Cúi xin ngài làm cho tất cả chúng sanh đươc thân trang nghiêm như vậy. Nguyện cầu Như Lai thường trụ ở đời. Bạch Thế Tôn! Chúng con rất sung sướng được lợi ích lớn mới thấy Đại Trượng Phu và được nghe thuyết pháp.

Phật dạy Đại Ca Diếp :

– Thầy thấy Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương không?

– Bạch Thế Tôn! Con đã thấy!

Phật dạy :

– Ca Diếp! Thiện nam tử này đã ở hằng hà sa số chư Phật thường xuyên cung thỉnh luận bàn pháp Như Lai Bí Mật Tạng ở chỗ chư Phật hiền kiếp cũng sẽ thỉnh vấn pháp Như Lai Bí Mật Tạng như vậy.

Đại Ca Diếp bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn! Lành thay! Thế Tôn! Cúi xin ngài trình bày diễn thuyết pháp Như Lai Bí Mật Tạng như Bồ tát này đã cung thỉnh vậy.

Phật dạy Đại Ca Diếp :

– Thầy hãy chú ý lắng nghe một ít phần giáo pháp Như Lai Mật Tạng. Vì sao? Vì nếu ở trong một kiếp mà thuyết hết pháp này thì không thể hết được.

Ca Diếp bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy.

Ca Diếp và đại chúng đều thọ giáo lắng nghe. Phật dạy :

– Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Thầy cho rằng khi ta hành đạo Bồ tát, xả bỏ tay, chân, đầu, mắt, mũi, lưỡi, da, thịt, xương, tủy, máu mủ, vợ con cho đến tất cả tài sản. Nơi nào chốn nào Bồ tát cũng bị bức não. Các chúng sanh này không đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ và các đường ác. Vì sao? Vì chí nguyện của Bồ tát vốn thanh tịnh và đại thệ nguyện thanh tịnh, đầy đủ giới thể, nên đối với chúng sanh chỉ thuần nhất với tâm đại bi và lòng nhẫn nhục. Vì dùng lòng đại từ, đại công đức, kiên cường tinh tấn nhất định hướng đến đại thừa tự tâm thanh tịnh, đại nguyện rộng rãi, không chỉ tự vui. Các chúng sanh nào có xúc não hủy nhục Bồ tát thì nhờ ân đức của Bồ tát vẫn không đọa vào đường ác.

Ca Diếp! Ta dẫn một ví dụ để thầy hiểu rõ nghĩa này. Ví như có người bị bệnh đến lương y cho thuốc nhưng người bịnh này lại chê bai thuốc và vị lương y. Trước thì chê bai thuốc sau lại dùng thuốc. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Thuốc bị chê bai nên không là thuốc chăng? Bệnh không chữa được chăng?

– Bạch Thế Tôn! Không phải! Tuy bị chê bai nhưng dược tính của thuốc không mất, nên có thể chữa lành bệnh được.

– Đúng vậy! Ca Diếp! Bồ tát cũng giống như thuốc và vị lương y kia. Tuy không được cung kính và bị xúc não nhưng Bồ tát này vẫn thuần thanh tịnh, ý chí không bị khuyết giảm, giống như châu báu được thành tựu là do tánh chất của nó đã được gạn lọc trong sạch, không có vết bẩn. Nên có người chê bai không cung kính châu báu. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Châu báu này bị chê bai có mất năng lực quý báu không?

– Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy :

– Ca Diếp! Châu báu trong sạch này giống như ý chí thanh tịnh của Bồ tát kia vậy. Tất cả chúng sanh tuy không cung kính nhưng công đức không bị tổn giảm. Giống như đèn dầu lớn, nếu có người phá hoại nó có bị tối đen đi không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Ca Diếp! Ý chí của Bồ tát thanh tịnh cũng như vậy. Tuy bị xúc não nhưng không mất đặc tánh ấy. Ca Diếp! Do điều này nên biết chúng sanh tuy có quấy nhiễu Bồ tát nhưng không bị rơi vào đường ác. Vì sao vậy? Vì do bổn nguyện của Bồ tát thanh tịnh, nên sở nguyện được thành tựu.

– Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu ý nghĩa Phật dạy thì nếu ai khởi lên nghiệp bất thiện đối với Như Lai thì chúng sanh đó cũng không sợ rơi vào đường ác.

– Đúng vậy! Ca Diếp! Nếu có chúng sanh nào đối với lòng đại bi của Như Lai, sanh lòng tin tưởng cung kính, tinh tấn thâm nhập. Nếu Phật ở hiện tại hay sau khi Phật diệt độ, hoặc có cúng dường Như Lai và tháp, hoặc đem cờ đèn, tràng hoa, hương thơm, vật báu, y phục và thức ăn uống. Tùy theo vật dụng ở mỗi nơi hoặc lấy, hoặc ăn, hoặc tự mình lấy hay bảo người lấy. Ca Diếp! Ta nói người này không có phạm tội. Ca Diếp! Bần cùng là điều khổ nhất. Vì không biết cung kính nên làm việc cướp đoạt, không biết sợ hãi. Không tin tưởng cung kính nên không hiểu gì về nghiệp, không lo sợ quả báo. Vì lòng tham cầu nên khó điều phục. Nhiều tham, sân, si không có tàm quí, hung dữ, ngang tàn, ác độc, không suy nghĩ Như Lai có lòng đại từ bi, không tin Như Lai làm nhiều lợi ích cho chúng sanh, nên lấy vật trong tháp Như Lai cho đến dùng đủ mánh khóe hoặc tự mình lấy hoặc bảo người lấy. Ta nói người này không phạm tội nhỏ nào. Ta nói người kia không rơi vào đường ác. Ca Diếp! Nếu chúng sanh nào đối với vật của Như Lai và vật cúng tháp Phật, mà tự lấy hay bảo người lấy. Như Lai ắt biết người ấy thấy được người ấy sẽ rơi vào cõi ác. Lại dùng lý do này nên đoạn trừ kiết sử. Vì sao? Vì tâm hành của người này vì muốn ủng hộ Phật. Ca Diếp! Nếu đối với Như Lai hoặc tháp Như Lai, sanh tâm nhớ nghĩ cho đến khởi lên một chút lòng hối cải. Ca Diếp! Tâm chúng sanh này sẽ tự hối cải. Vì sanh tâm sám hối đối với Như Lai nên họ lìa khỏi tất cả tội lỗi sanh tử, kiết sử được bào mòn. Ca Diếp! Ví như có người rớt xuống mặt đất. Rớt xuống đất rồi lại dựa vào đất mà đứng dậy được. Cũng vậy, Ca Diếp! Chúng sanh nào đối với Như Lai sanh tâm bất thiện rơi ngay vào đường ác. Đã rớt xuống đường ác rồi lại nhờ ân đức Như Lai mau chóng được thoát khỏi tai nạn ấy. Vì sao gọi là nhờ ân đức Như Lai. Vì họ đã sanh trọng ân đối với Như Lai.

Bấy giờ, Đại Ca Diếp bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn! Người này dùng tâm xấu ác như vậy mà có thể sanh tâm nhớ nghĩ đến Như Lai được lợi ích lớn, huống chi người có tâm thanh tịnh.

Phật dạy :

– Ca Diếp! Đúng như lời thầy nói! Nếu có chúng sanh nào khởi niệm Như Lai, nhớ nghĩ đến Như Lai, quán tưởng Như Lai, thì tất cả đều sẽ chứng quả Niết bàn.

– Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu lời Phật dạy là thà khởi nghiệp bất thiện đối với Như Lai còn hơn làm việc cúng dường theo cách bố thí của tà kiến ngoại đạo. Vì sao? Vì nếu khởi nghiệp bất thiện với Như Lai còn có thể sám hối, cuối cùng chắc chắn đến Niết Bàn. Còn theo tà kiến ngoại đạo sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.

Ca Diếp! Đúng như lời thầy nói! Giả sử có người mạ nhục, muốn trừ khử hương chiên đàn nên dùng tay cào đánh cho nó rớt xuống đất. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Người như vậy, còn có hương gì không?

– Bạch Thế Tôn! Người đó vẫn còn hương chiên đàn.

– Đúng vậy! Ca Diếp! Nếu có chúng sanh nào dùng mắt thấy, tai nghe và miệng ca ngợi Như Lai. Nên biết người này có hương giải thoát. Ca Diếp! Nếu có người cầm phân ô uế rồi dùng các loại ca nhạc, hương hoa cúng dường Như Lai. Người như vậy có loại hương gì?

– Bạch Thế Tôn! Người này chỉ có mùi phân ô uế hôi thối.

– Đúng vậy! Ca Diếp! Người này có thân cận cúng dường các ngoại đạo. Nên biết người đó cũng như vậy, thấy sợ hãi ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ. Nếu thiện nam, thiện nữ nào tin tưởng Như Lai có tấm lòng từ bi rộng lớn, ân cần, tôn trọng, tin tưởng, cung kính trừ diệt tâm kiêu mạn, không có tham sân và ngu si, ý chí quyết định, hiểu rõ nghiệp báo, chân thật không giả dối lừa gạt, tín tâm đối với sở đắc thanh tịnh của Như Lai. Các căn không dối trá, ý chí không hư hoại, thành tựu thanh tịnh, tin Phật có lòng đại bi, lợi ích lớn cho chúng sanh, tin bổn hạnh Phật, tin tưởng nơi Như Lai không bỏ tất cả chúng sanh, có tâm như vậy, có ý như vậy. Giả sử như thiếu các vật cần dùng như cơm, nước, thuốc men nên chưa đắc đạo quả, chưa nhập chánh vị. Nếu được các vật cần dùng mà đắc đạo quả, nhập chánh vị. Hoặc có người đói khát, gầy ốm không thể tu thiện, không đắc đạo quả. Người này nếu lấy những vật cần dùng của Phật như y phục, cơm nước, thuốc men để ăn mặc. Ca Diếp! Ta nói người này không bị quả ác. Ca Diếp! Đây gọi là pháp Bí Mật Tạng của Như Lai. Nên biết, để khéo mật trì, giữ gìn, không nên trình bày trước những kẻ bị nhiễm trước sẽ làm cho họ tăng trưởng tà kiến.

– Ca Diếp! Sao gọi là hiểu? Nghĩa là hiểu rõ tất cả pháp của Như Lai thuyết. Sao gọi là triền phược? Ca Diếp! Triền phược là do tham trước. Sao gọi là giải mở? Nghĩa là không đắm trước, không phân biệt nhị biên. Ca Diếp! Ta không nói điều vô trước này gọi là phạm. Vì sao? Ca Diếp! Vì phiền não yếu kém từ hư không sanh ra. Ca Diếp! Nếu điều đó không thật, không bị sanh thì gọi là thật. Ca Diếp! Ta đưa ra ví dụ để trình bày điều không thật, vọng tưởng. Ca Diếp! Ví như có người đem đốm lửa nhỏ như hạt cải thổi cho nó lớn ra dần dần, thiêu đốt cả đồ vật thành đống lửa lớn. Cũng vậy, Ca Diếp! Người phàm phu ngu si chỉ khởi một tí suy nghĩ vọng niệm bất chánh đắm trước các cố chấp tùy theo sự vọng tưởng, do đó mà tăng trưởng kiết sử. Ca Diếp! Nếu có lửa lớn như núi Tu Di nhưng không dựa vào đâu cả. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Lửa như vậy thì lan tràn hay tiêu diệt?

– Bạch Thế Tôn! Lửa này sẽ bị tắt, không có lan tràn.

– Ca Diếp! Các phiền não vọng tưởng không thật. Nếu đã không khởi, không đắm trước, không vọng tưởng, không ưa thích, không phân biệt, sẽ dần dần tiêu diệt không tăng trưởng. Ca Diếp! Do việc này nên biết phiền não vọng tưởng yếu kém không thật là không chân thật.

– Ca Diếp! Ví như có người đến nhà có nhiều chất độc hại nhưng không bị ngộ độc mà lại sợ hãi, ôm nỗi thống khổ kêu lớn: “Tôi bị ngộ độc rồi, tôi bị ngộ độc rồi”. Các vị lương y giỏi đem thuốc không thật đến cho người bịnh này để trị bệnh không thật, nên thoát khỏi các khổ. Ca Diếp! Ý thầy thế nào? Nếu vị lương y đó đem thuốc thật đến cho người này thì người ấy có còn sống không?

– Bạch Thế Tôn! Không. Vì người này thật sự không ăn trúng độc, chỉ sanh tư tưởng ngộ độc, nên chỉ cần thuốc không thật dùng để trị bệnh.

– Đúng vậy! Ca Diếp! Các hàng phàm phu bị khổ não vì phiền não không thật cho nên Như Lai thuyết pháp không thật.

– Bạch Thế Tôn! Như Lai thuyết pháp không chơn thật sao?

– Ca Diếp! Theo chỗ thầy hiểu thì chơn thật này không không chơn thật sao?

– Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu không có chơn thật. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì dùng bất tịnh để đối trị tham dục. Từ bi đối trị sân nhuế, nhân duyên đối trị ngu si. Bạch Thế Tôn! Nếu bất tịnh là thật thì không thể trừ tham dục không thật, cũng chẳng phải tham dục sanh quán bất tịnh. Nếu ngu si là thật, khởi tâm ngu si rồi thì chẳng phải nhân duyên đối trị, cũng chẳng phải nhân duyên có thể diệt trừ ngu si. Bạch Thế Tôn! Thế nên tất cả kiết sử và pháp đoạn trừ kiết sử, cả hai đều không thật, không có vật, không mất định, không có thành tựu. Cho nên các phiền não đều không thật. Đến gần với không thật liền bị trừ bỏ. Bạch Thế Tôn! Kiết sử không đi. Vì sao? Vì nếu có trừ bỏ thì là có đi. Nếu đã có đi liền có đến. Thế nên, bạch Thế Tôn! Tất cả kiết sử không đi không đến. Nên biết tất cả pháp hữu vi không đến không đi gọi là lìa phiền não.

– Ca Diếp! Như Lai Mật Tạng này, thuyết tất cả pháp tánh vốn thanh tịnh.

– Bạch Thế Tôn! Theo lời Như Lai thuyết thì mười đường ác, tánh nó vô cấu, bản tánh trong sạch sao?

– Đúng vậy! Đúng vậy! Ca Diếp! Vì sao? Vì không có quyền lực mà phạm tội sát sanh, không phải thân tín mà phạm tội trộm cướp. Người có chủ, có bảo hộ mà phạm tội tà dâm, chẳng phải vì bảo vệ người khác mà phạm tội vọng ngữ, chẳng phải vì điều phục mà phạm tội ác khẩu, chẳng phải vì sự phá hoại kiêu mạn khủng bố của tà kiến ngoại đạo mà phạm tội hai lưỡi, không vì thức ăn mà phạm tội ỷ ngữ, không dạy điều dối trá xấu xa mà phạm tội sân nhuế, không có mong cầu tăng trưởng thiện căn mà gọi là tham lam, không có gần gũi người có quyền lực, ý ít nói lời bất chánh mà phạm tội tà kiến. Ca Diếp! Mười ác đạo này nếu không chấp trước Ta nói người kia không có lỗi. Ca Diếp! Mười ác đạo này nếu không chấp trước gọi là không phạm. Như vậy, Ca Diếp! Tất cả phiền não nếu không chấp trước, Ta nói không phạm. Ca Diếp! Người không chấp trước gọi là lìa kiến chấp.

– Bạch Thế Tôn! Trong mười nghiệp ác thì cái nào là nặng nhất?

– Ca Diếp! Trong mười nghiệp ác này, sát sanh và tà kiến là nặng nhất. Ca Diếp! Các điều ác bất thiện bất cứ ở đâu. Nếu không trụ vững, không giữ vững, không nắm vững thì tất cả điều Ta nói gọi là không phạm. Ca Diếp! Năm tội về vô gián nếu không trú vững, cố giữ vững, cố nắm vững thì sanh tâm trụ nơi kiến thức. Ta nói người kia phạm tội. Huống chi lại trừ ít nghiệp ác bất thiện. Ca Diếp! Ta không dùng pháp bất thiện mà được Bồ đề, cũng không dùng thiện pháp mà được Bồ đề. Ca Diếp! Nếu dùng pháp bất thiện được Bồ đề thì các phàm phu cũng được Bồ đề, nếu dùng thiện pháp được Bồ đề thì tất cả cỏ cây rừng đều bị thiêu đốt sẽ được sanh trưởng trở lại. Ca Diếp! Ta hỏi thầy, vì sao Như Lai chứng đắc Bồ đề?

– Bạch Thế Tôn! Phật là pháp căn bổn, Thế Tôn là mắt. Thế Tôn là chỗ dựa. Theo lời Thế Tôn mà cùng nhau phụng hành.

Phật dạy :

– Ca Diếp! Hiểu rõ phiền não từ nhân duyên sanh gọi là Bồ đề. Ca Diếp! Sao gọi là hiểu rõ phiền não từ nhân duyên sanh? Hiểu rõ pháp khởi không tự tánh này là pháp vô sanh. Hiểu như vậy thì gọi là đắc Bồ đề. Ca Diếp! Chỉ ví dụ danh từ gọi là được Bồ đề nhưng Bồ đề này không dùng văn tự ngôn ngữ thuyết mà chứng đắc. Nếu không văn tự, không ngôn ngữ, không thuyết giảng, không chứng đắc Bồ đề. Đây là nghĩa đệ nhất. Ca Diếp! Theo lời thầy hỏi trong mười ác nghiệp điều gì là nặng nhất. Ca Diếp! Ví như người có cha đắc đạo Duyên Giác. Người con giết cha gọi là tội nặng trong giới sát sanh. Cướp đoạt vật của Tam Bảo gọi là tội nặng trong giới trộm cướp. Nếu lại có người mẹ xuất gia đắc đạo La hán, cùng làm điều bất tịnh, đây là tội nặng trong giới dâm dục. Nếu dùng điều không thật phỉ báng Như Lai, gọi là tội nặng trong giới vọng ngữ. Nếu nói hai lưỡi làm tổn hại hiền thánh tăng, đây là tội nặng trong giới lưỡng thiệc. Nếu mạ nhục Thánh nhơn là tội nặng trong giới ác khẩu. Nói lời não loạn người cầu pháp là tội nặng trong giới ỷ ngữ. Nếu phạm năm nghịch tội là tội nặng trong sân nhuế. Nếu muốn cướp đoạt vật của người trì giới thanh tịnh là tội nặng trong việc tham lam, tội nặng trong tà kiến. Đó gọi là biên kiến.

Ca Diếp! Mười ác đạo này là nặng nhất. Ca Diếp! Như Lai biết mười ác nghiệp này là nặng nhất. Ca Diếp! Nếu có một người phạm đủ mười ác nghiệp này. Ca Diếp! Chúng sanh ác này nếu hiểu rõ pháp nhân duyên Như Lai thuyết, trong đây không có thọ, mạng, chúng sanh, không nhơn, không trượng phu, không ngã, không tuổi nhỏ, không người tạo nghiệp, không người thọ, người khởi, không người biết người thấy không, không sanh không diệt. Đây là tận pháp không nhiễm không trước, không thiện bất thiện, bổn tánh thanh tịnh. Tất cả các pháp bổn tánh thường thanh tịnh, hiểu rõ, tin tưởng, thâm nhập. Ca Diếp! Ta không thuyết hướng đến ác đạo, không thuyết quả ác đạo. Vì sao? Ca Diếp! Vì pháp không tích tụ, pháp không tập họp, không não loạn. Ca Diếp! Tất cả các pháp sanh diệt bất trụ. Do nhân duyên hòa hợp mà sanh khởi, khởi rồi lại diệt. Ca Diếp! Nếu tâm sanh diệt thì tất cả kiết sử cũng sanh rồi diệt. Nếu hiểu như vậy thì không có phạm và chỗ phạm. Ca Diếp! Nếu phạm có trụ thì không có chỗ này. Ca Diếp! Ví như có cái nhà rất tối, trăm ngàn năm không thắp đèn, căn nhà tối tăm này không có cửa ra vào, cửa sổ cho đến không có một lỗ nhỏ bằng cây kim, không có một ánh sáng nhỏ nào của mặt trời mặt trăng có thể lọt vào. Ca Diếp! Nếu trong căn nhà tối tăm đó được đốt lên ánh sáng của đèn, lửa thì bóng tối đó có thể nói rằng : “Ta ở đây đã trăm ngàn năm rồi, nay không bỏ đi nữa”.

– Bạch Thế Tôn! Không thể được. Vì khi thắp đèn lên thì bóng tối sẽ tan mất.

– Đúng vậy! Ca Diếp! Đã tạo nghiệp chướng ở trong trăm ngàn vạn kiếp, nếu tin tưởng lời Như Lai, hiểu rõ pháp nhân duyên, tu hành quán sát chuyên tu định tuệ, quán vô ngã, vô mạng, không nhơn, không trượng phu.v.v… Ta nói người này không phạm, không chỗ phạm, không tập. Ca Diếp! Do đây nên biết các phiền não yếu kém, dùng trí huệ đốt sáng, nó không thể tồn tại được.

Ca Diếp! Như Lai thuyết Mật Tạng trụ xứ vô thượng này là rống tiếng Đại Sư Tử, chuyển pháp luân thanh tịnh. Trời, người, ma, phạm không thể chuyển được. Ca Diếp! Nếu có chúng sanh nào tin pháp Như Lai Bí Mật Tạng này, thọ trì như vậy, quán sát như vậy, người kia sẽ rống tiếng sư tử cũng như vậy.

Khi ấy, đại đức A Nan bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn! Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương tự này dùng thân mình cúng dường Như Lai, thì sẽ dùng thân nào để giác ngộ đạo Bồ đề?

Bấy giờ, các Bồ tát trong Hoa Đài hỏi A Nan :

– Ý thầy thế nào? Có thể dùng thân để giác ngộ Bồ đề sao? A Nan! Chớ nên nhận xét như vậy, phải dùng thân tâm để giác ngộ Bồ đề.

A Nan hỏi :

– Các bậc trượng phu! Nếu chẳng phải thân tâm giác ngộ Bồ đề, thì nên dùng cái gì để giác ngộ Bồ đề?

Chư Bồ tát đáp :

– Đại đức A Nan! Thật tánh của thân là thật tánh Bồ đề. Thật tánh Bồ đề là thật tánh của tâm. Thật tánh tâm tức là thật tánh tất cả pháp, hiểu rõ tất cả các thật tánh này gọi là giác ngộ Bồ đề.

Khi ấy, các vị Bồ tát ở Hoa Đài, đảnh lễ sát chân Phật, bạch rằng :

– Bạch Thế Tôn! Khi chúng con đến trái đất này thì Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương mới đắc đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

A Nan bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn! Chư vị Bồ tát ở Hoa Đài đến cõi này đã bao lâu rồi?

Phật dạy A Nan :

– Chư vị Bồ tát này đến chỗ chư Phật Như Lai ở hạ phương thế giới và hằng hà sa thế giới, thỉnh vấn pháp Như Lai Bí Mật Tạng này, nghe rồi hiểu nghĩa.

A Nan bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn! Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương Thành Vô Thượng Chánh Đẳng Giác đã bao lâu?

Phật dạy :

– A Nan! Ngàn đức Phật đã xuất hiện sẽ xuất hiện trong hiền kiếp này. A Nan! Đức Như Lai cuối cùng hiệu là Lô Chí. A Nan! Lô Chí Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác, chúng Thanh Văn rất nhiều.Có chúng Thanh Văn tăng nhiều hơn chúng Thanh Văn của chư Phật trước đó. A Nan! Đức Lô Chí Như Lai này thọ ký cho Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương thành đạo Vô Thượng. Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương trải qua chín mươi tám kiếp sẽ được thành Phật hiệu Trang Nghiêm Vương, cũng ở trong cõi này chứng đắc đạo Vô Thượng. Khi đức Như Lai Trang Nghiêm Vương ngồi ở cõi này, thì các vị Bồ tát ở trong Hoa Đài mới đến cõi này, lại được nghe pháp Như Lai Mật Tạng này.

A Nan! Khi ấy thế giới của Như Lai Trang Nghiêm Vương gọi là Vô Lượng Công Đức Trang Nghiêm. A Nan! Tất cả cung điện chư thiên đều ở cõi Dục, trong cõi Phật Trang Nghiêm Vương có một đài báu là thế giới Ta Bà, bấy giờ gọi là cõi Diệu Hảo Sắc. A Nan! Thọ mạng của Như Lai Trang Nghiêm Vương là một trăm kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ đời đủ mười kiếp, chỉ thuần là Bồ tát tăng.

Khi nói lời thọ ký Như Lai Trang Nghiêm Vương rồi, lọng hoa phía trên Phật liền biến mất. Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương đứng phía trước Phật.

Bấy giờ, A Nan bạch Phật :

– Bạch Thế Tôn! Hộ trì pháp này thế nào khiến cho được trụ lâu dài ở cõi Diêm phù đề, tăng trưởng lưu bố cùng khắp, làm cho bậc trượng phu có thể giữ gìn pháp Như Lai Mật Tạng thành tựu công đức chứng đắc pháp này.

Khi ấy, Thế Tôn dạy A Nan :

– Giả sử tánh bốn đại đều biến đổi, tất cả không phải là trương phu, không nghe pháp này nhưng giữ lấy khi thọ mạng chúng. A Nan! Nếu người viết chép, thọ trì, đọc tụng nên biết người này tức là thọ trì pháp của Như Lai. A Nan! Nếu có người dùng tay phải cầm bảy báu đầy khắp hằng hà sa cõi Phật, tay trái lại cầm bảy báu đầy khắp hằng hà sa cõi Phật, suốt ngày ba thời, đêm ba thời, đem vật ra bố thí. Người này không giãi đãi, trải qua hằng hà sa kiếp. A Nan! Công đức bố thí của người này rất lớn, Nhưng nếu có người nào viết chép, thọ trì, đọc tụng kinh điển này thì công đức đã tạo hơn người trên rất nhiều. Cho nên, A Nan! Quí thầy nên thọ trì, đọc tụng Kinh này làm cho pháp khí được phổ biến. Những vị này là thọ trì pháp Như Lai Bí Mật Tạng.

Phật thuyết Kinh này rồi, Bồ tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, đại đức A Nan, đại đức Ca Diếp, tất cả đại chúng trời, người, A tu la.v.v… nghe Phật thuyết đều rất vui mừng.

    Xem thêm:

  • Kinh Hoằng Đạo Quảng Hiển Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Ca Diếp Tiên Nhơn Nói Phương Thuốc Cho Người Nữ - Kinh Tạng
  • Thiền Pháp Yếu Giải - Kinh Tạng
  • Kinh Phật dạy Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 39 – Ðại Kinh Xóm Ngựa (Mahà-Assapura sutta) - Kinh Tạng
  • Thần Chú Thường Cù Lợi Độc Nữ Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Ta Già La Long Vương Sở Thuyết Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 26 - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Di Lặc Hỏi Đức Phật Về Bổn Nguyện - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 2 - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 60 – Kinh Không Gì Chuyển Hướng (Apannaka sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Hải Long Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Thiện Giới - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 65 – Kinh Bhaddàli (Bhaddàli sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ 23 – Kinh Tệ Túc (Pàyàsi Sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Tối Thượng Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 18 - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 27 – Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi (Cùlahatthipadopama sutta) - Kinh Tạng
  • Bài Tán Thán Đức Kiết Tường Của Phật - Kinh Tạng