Bài Tụng Xưng Tán Pháp Giới
Tán Pháp Giới Tụng
Long Thọ Bồ Tát tạo Tống Thí Hộ dịch
Bản Việt dịch của Thích Như Điển
***
Quy mạng mười phương Phật
Pháp thân và báo thân
Nguyện cùng các chúng sanh
Sớm thành pháp giới tánh
Luân hồi ba đường ác
Pháp giới lý ngưng lại
Bổn lai thường thanh tịnh
Các tướng chẳng thể rời
Tịch tịnh như hư không
Nơi nơi đều khắp cả
Thể đều lìa bỉ, thử
Không sâu cũng không cạn
Lúc chưa biến thành sữa
Chết đề hồ không thấy
Phiền não chưa dứt sạch
Pháp giới không do biển
Như chất chua trong sữa
Gốc chua thành tốt đẹp
Pháp giới phiền não che
Đầy đủ thể thanh tịnh
Như đèn bị chướng ngại
Chẳng thể chiếu ngoài vật
Vô minh thường che tâm
Pháp giới không rõ biết
Như đèn lìa chướng ngại
Nơi nơi vật được sáng
Lúc phiền não hoại diệt
Chơn như hằng hiển hiện
Đầu giữa và sau cuối
Hai chướng chẳng thể quấy
Sạch như lưu ly châu
Thường hay chiếu sáng đẹp
Ánh sáng vật bị che
Bị tối, sáng chẳng thấy
Pháp giới phiền não che
Lý chơn như khó hiện
Viên tịch thể sáng trong
Luân hồi chẳng thể nhiễm
Siêng cầu nơi pháp giới
Luân hồi chẳng thể che
Như gạo, trấu che khuất
Thể gạo ấy chẳng không
Phiền não che chơn như
Chơn như có phiền não
Như gạo đã sạch trấu
Thể gạo tự nhiên thấy
Nếu lìa vỏ phiền não
Lý pháp giới liền hiện
Vọng chấp của thế gian
Cây chuối rốt chẳng thật
Pháp giới phi thế gian
Lại chẳng thấy hư vọng
Như người uống nước ngọt
Nhiệt não đều sạch tan
Nếu chứng pháp giới tánh
Phiền não nhiệt đều bỏ
Diệt trừ những phiền não
Pháp giới cam lồ hiện
Tất cả trong hữu tình
Cao thấp đều bình đẳng
Thể thật, quả chẳng sanh
Chấp trồng, quả chẳng có
Khi trí huệ phát sanh
Hữu vi, phi pháp giới
Pháp giới vốn không nơi
Cứu cánh có thể chứng
Thanh tịnh hằng sáng sạch
Trời trăng đều tỏ rõ
Pháp giới không dơ sạch
Như rồng, đêm mưa bụi
Huống giống mặt La Hầu
Sáng sủa thường chiếu tỏ
Giống như lửa thấm bao
Nơi lửa hay lìa nhiễm
Dơ mất, vải hãy còn
Quang minh chuyển thành sáng
Tham ái làm tâm nhiễm
Hư vọng nên luân hồi
Lại như lửa thấm bao
Chơn không, vọng chẳng có
Tam độc, gốc sanh tử
Trí tuệ lửa hay đốt
Pháp giới thể thường hằng
Đương nhiên thường chiếu diệu
Phiền não nhiễm gọi dơ
Thế Tôn thường dạy bảo
Cấu uế, chơn như hiện
Như trong đất có suối
Pháp giới thể chẳng dơ
Gốc, theo đó chứa nhóm
Nếu diệt trừ phiền não
Sạch đẹp khó nghĩ lường
Pháp giới gốc vô ngã
Hai hình và nam nữ
Thể không, hư vọng chấp
Nơi nào liền tư duy
Pháp giới lìa giận yêu
Căn trần cảnh gốc không
Hư vọng chấp làm nhơn
Sai biệt từ đây sanh
Chơn không, chẳng khổ não
Tham ái, nhơn khổ não
Đắm nhiễm do vọng tưởng
Tam giới và luân hồi
Hoài thai ở nơi bụng
Con cái chưa thấy nói
Hai chướng che chơn như
Pháp giới chẳng thể chứng
Chủng chủng sanh nghi ngờ
Kiến mạng và sân nhuế
Vọng tính về chơn thật
Chơn thật, thật chẳng có
Sừng thỏ gốc chẳng thật
Vọng chấp cho chơn thật
Pháp giới lìa vọng chấp
Vọng chấp thật chẳg có
Như màu liền phá hoại
Vi trần có thể rõ
Pháp giới chẳng phá hoại
Ba lúc chẳng thể được
Có sanh lại có diệt
Vinh nhục lại tùy theo
Pháp giới chẳng sanh diệt
Nói sao chỗ rõ biết
Sừng thỏ vốn không có
Ba đời có thể rõ
Chơn không chẳng sừng thỏ
Suy nghĩ chẳng thể biết
Chơn không gọi Thiện Thệ
Sắc tướng tất đều mất
Ứng hóa tùy theo duyên
Tu nhơn, lìa chấp không
Viên thông như trời trăng
Nước hiện, ảnh đều giống
Sắc, thinh cả hai mất
Sai biệt nào có gì
Ba đời có nghĩ suy
Sanh duyên thì quyết định
Nếu rõ thân pháp nầy
Thân nầy sao lại có
Như nước ở chỗ nóng
Nóng ấy, rõ rằng không
Mùa đông lại cũng thế
Viên thông đều như vậy
Tâm thường phiền não che
Mê hoặc chẳng thể rõ
Nếu lìa giây phiền não
Giác ngộ lại cũng không
Như mắt thấy màu sắc
Lìa chướng hay chiếu sáng
Chơn không lý cũng vậy
Chiếu sáng lìa sanh diệt
Nhĩ thức nghe nơi tiếng
Lìa vọng và phân biệt
Pháp giới tánh cũng thế
Phân biệt vọng, chẳng có
Mũi hay ngửi các mùi
Vọng chấp tánh chẳng có
Sắc tướng cả hai không
Chơn không lại cũng thế
Thiệt căn tự tánh không
Mùi ấy hằng xa lìa
Thức không, thể cũng vậy
Lý pháp giới như thế
Thân căn tự tánh tịnh
Lạnh nóng xúc chẳng có
Lý pháp giới cũng thế
Nơi xúc thường xa lìa
Ý duyên pháp gọi có
Tự tánh hằng lìa xa
Chư pháp tánh, vốn không
Viên thông, lý như vậy
Thấy nghe và rõ biết
Pháp tương ưng cũng không
Rõ biết các vọng tưởng
Thấy nghe, lý lại không
Căn trần khởi vọng chấp
Thanh tịnh thể nguyên không
Mê chấp có căn trần
Căn trần lý chẳng có
Thế gian cùng xuất thế
Không tánh gốc chẳng sai
Ngã pháp do mê khởi
Biến kế tự luân hồi
Pháp giới lý thanh tịnh
Tham sân si gốc không
Mê ngộ từ tâm khởi
Tam độc pháp chẳng thật
Mê chấp tự trói buộc
Rõ biết thật giả danh
Bồ Đề chẳng gần xa
Ba đời lý không có
Phiền não lầm mê chấp
Thế Tôn đã dạy thế
Trí sanh, hoặc nhiễm mất
Vọng chấp chớ buộc ràng
Đến đi khắp hơn cả
Thể không, có thể suy
Bồ Đề chẳng vọng chấp
Chứng ngộ cũng rõ không
Nước, sữa cùng một nơi
Uống ngay sữa chẳng tạp
Sanh không, phiền não ly
Hai chướng lại chẳng tạp
Vọng chấp, ngã phi vô
Liễu đạt, gốc chẳng có
Niết Bàn, lý thanh tịnh
Hai ngả đều chẳng lập
Ba đàn chay, cấp phát
Giới luật lìa hơn thua
Nhẫn, nhơn đoan chánh quả
Tinh tấn mạnh nương vào
Thiền định làm tâm yên
Bát nhã rõ chẳng ngờ
Nguyện cùng lực phương tiện
An trụ chốn Bồ Đề
Bồ Đề khó vọng báo
Chơn không, sanh diệt không
Liễu đạt bổn tánh không
Một tướng lại chẳng có
Sữa, đường lìa ngọt mật
Lìa ngọt đường chẳng có
Tam thừa chốn Bồ Đề
Lìa gốc, thể chẳng có
Giữ gìn hạt lúa giống
Mầm mống tất sanh duyên
Giữ gìn giống Bồ Đề
Bồ Đề từ đây khởi
Giống như tháng không trăng
Ánh sáng chưa thấy được
Hữu tình, phiền não trói
Chơn như chưa rõ hiện
Ánh sáng trăng ban đầu
Dần dần sáng hẳn lên
Sơ địa chứng Bồ Đề
Bồ Đề chưa viên mãn
Mười lăm ngày trăng tròn
Nơi nơi ánh sáng chiếu
Giải thoát hiển pháp thân
Pháp thân lý chẳng thiếu
Nhiễm ô ý tương ưng
Trói chặt đều sanh mất
Giải thoát mọi chướng ngại
Tam thế ngộ có không
Đầu, đại tăng đầy đủ
Tam đàn, khắp cả tu
Đoạn trừ, chướng phân biệt
Hoan hỷ trí khó khăn
Ba nghiệp sai cùng phạm
Phòng giữ nặng và nhẹ
Thi La đầy đủ giới
Lìa dơ gọi độc lập
Hai chướng thường hay nhiễm
Đều không, dao huệ trừ
Phát sáng hay chiếu diệu
Phá diệt tận vô dư
Xa lìa gốc gác nhiễm
Dần tăng lửa huệ mạnh
Bồ Đề xưng tối thắng
Đốt sáng chuyển tốt hơn
Chơn tục gọi hai trí
Tương ưng cùng khởi lên
Hợp lại không chỗ ngại
Khó hơn việc thường có
Mười hai duyên sanh trí
Tuần hoàn theo lý ấy
Sâu xa gọi tối thắng
Bát nhã ở trước hiện
Thế tục nhị thừa hạnh
Ròng tu đạo sẽ sáng
Tướng, vô công, dụng đủ
Tối hậu gọi viễn hành
Cảnh trí vô phân biệt
Hằng lúc nhiệm vận hành
Chúng ma tạo tới lui
Bất động, riêng gọi chướng
Thiện huệ chính vô ngại
Mười phương nói pháp hiếm
Thân mưa nước cam lồ
Mọi vật chỗ cậy nhờ
Chúng đức giống như nước
Hư không giống như thân
Nặng nhẹ đều có lối
Đại pháp trí gọi mây
Nói rõ chốn luân hồi
Thuần rồi miễn ngục tốt
Trí chính không khổ não
Tịnh độ chớ buộc ràng
Quy mạng thật con Phật
Nơi đèn mây trí tuệ
Vi tế đều đoạn hết
Qua khổ lìa các trần
Quán đảnh ánh sáng chiếu
Căn trần khắp châu thân
Kim Cang tịch đại định
Những khổ chớ gần gũi
Đại bảo hoa vua ngồi
Cu Ti đều thành tốt
Trang nghiêm đều phổ biến
Công đức thật khó lường
Mười phương chẳng sợ hãi
Tam thân, tứ trí đủ
Lục thông hằng tự tại
Các vật hóa cơ duyên
Chiếu diệu như trăng tròn
Lúc nào cũng chiếu sáng
Mười phương đều khắp cả
Cháy sáng chuyển sáng hơn
Đoạn tuyệt duyên sanh nhiễm
Hằng hay ở Niết Bàn
Bồ Đề gọi tối thắng
Hóa thành vật tịnh, vui
Trí dụng sâu như biển
Tùy cơ hiện ứng thân
Nước trong, ánh trăng hiện
Xứ xứ qua khỏi mê
Huống giống đồ quý báu
Tùy duyên hiện ảnh giống
Vật trong, gốc cá cảm
Chu biến thật vô cùng
Ngạ quỷ thường đói khát
Chẳng thể thấy nước suối
Chúng sanh ít tín tâm
Nghiệp trước tự buộc ràng
Hóa hiện thân các tướng
Quang minh đều chiếu sáng
Phật tuy ở giữa đời
Chẳng thấy trước không duyên
Sáng rỡ trần sa giới
Căn theo nhiễm không lâu
Nhị không, châu thắng trí
Diệu dụng hóa trẻ ngu
Thanh tịnh tuyệt chẳng dơ
Tự tha, thân thọ dụng
Hằng ở sắc cứu cánh
Lợi ích người Ngũ Thừa
Cứu giúp khổ chúng sanh
Cu Ti thọ mệnh lâu
Nhị nghiêm, chẳng có dứt
Công đức thật khó lường
Phật diễn pháp nhứt thừa
Tùy cơ ngộ cạn sâu
Hoa sen chẳng nhiễm dơ
Gốc ngọc thật tuyệt vời
Xưng tán một phần nhỏ
Nói rộng lý nhiệm mầu
Nguyện cùng các công đức
Phổ lợi đến trời người.