22. PHÁP HỘI ĐẠI THẦN BIẾN THỨ HAI MƯƠI HAI
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ cấp Cô Độc câu hội cùng ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo và tám ngàn đại Bồ Tát. Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát và Thương Chủ Thiên Tử đều ở trong pháp hội.
Bấy giờ Thương Chủ Thiên Tử tác lễ bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai thường dùng mấy thứ thần biến điều phục chúng sanh?”.
Đức Phật phán: “Nầy Thiên Tử! Đức Như Lai dùng ba thứ thần biến điều phục chúng sanh: một là thuyết pháp, hai là giáo giới, ba la thần thông.
Thế nào gọi là Như Lai thuyết pháp thần biến?
Đức Như Lai dùng vô ngại đại trí thấy đời vị lai tất cả chúng sanh tâm hành họ sai biệt, đối với Tam bửu có tin hay không tin và nghiệp nhơn quả báo của họ đều thấy biết rõ. Như đức Phật đã nói, nếu đời hiện tại họ tạo nhơn ác họ sẽ đọa ác đạo, theo nghiệp mà thọ báo quyết định không sai. Nếu là chúng sanh có thiện nghiệp nhơn duyên thệ nguyện lực thì từ ác đạo ra sanh trong Trời Người hoặc do ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Đại Thừa mà được độ thoát. Trải bao nhiêu kiếp thọ khổ thọ vui sẽ được Niết bàn, sẽ được gặp bao nhiêu Phật, các nghiệp như vậy quyết định không sai. Hoặc là chúng sanh do thiện nghiệp nhơn duyên thệ nguyện lực sẽ sanh Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới trải bao nhiêu kiếp do ba thừa ấy mà được giải thoát. Do công hạnh như vậy sẽ được thấy Phật kính thờ cúng dường. Tất cả phẩm thượng trung hạ thiện nghiệp ác nghiệp như vậy, cho đến một niệm, đức Như Lai đều biết rõ rồi thuyết pháp cho họ. Đây gọi là thuyết pháp thần biến.
Thế nào gọi là giáo giới thần biến?
Nầy Thiên Tử! Hoặc dạy người trì giới như vầy: đây nên làm đây chẳng nên làm, đây nên tin đây chẳng nên tin, đây nên gần đây chẳng nên gần, pháp ấy tạp nhiễm pháp ấy thanh tịnh, nhẫn đến đây là pháp nhiếp thọ tất cả công đức, đây là tư lương thiện đạo, làm đạo như vậy được Thanh Văn thừa Bích Chi Phật thừa, làm đạo như vậy sẽ được Đại thừa, phải lìa phi pháp, phải trụ như pháp, như lời Phật dạy quyết định không sai, đây là nghiệp địa ngục, đây là nghiệp bàng sanh, đây là nghiệp ngạ quỷ, đây là nghiệp Nhơn Thiên, phải bỏ pháp ác, phải tu pháp thiện, đây là thánh đạo, phải học như vậy. Những chúng sanh ấy qua lại cõi trời trong người lần vào Niết bàn. Đức Phật thị giáo như vậy trọn chẳng luống qua, đây gọi là Như Lai giáo giới thần biến.
Thế nào gọi là thần thông thần biến?
Nếu vì điều phục chúng sanh kiêu mạn, hoặc hiện một thân làm nhiều thân, hoặc hiện nhiều thân làm một thân, nơi núi gộp tường vách xuất nhập vô ngại, trên thân xuất lửa dưới thân xuất nước, trên thân xuất nước dưới thân xuất lửa, vào đất như nước, đi trên nước như đất, lấy tay rờ xoa mặt nhựt mặt nguyệt, hoặc hiện thân lớn đến trời Phạm Thế, cho đến rộng lớn trùm khắp Tam thiên Đại thiên thế giới, tùy theo chỗ đáng mà hiện ra để điều phục chúng sanh. Đây gọi là Như Lai thần thông thần biến”.
Thương Chủ Thiên Tử lại bạch rằng: “Như Lai còn có thần biến nào hơn đây chăng?”.
Đức Phật phán: “Nầy Thiên Tử! Đức Như Lai còn có thù thắng thần biến”.
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát: “Này Văn Thù Sư Lợi! Ông nên diễn nói thù thắng thần biến của Như Lai khiến chư Bồ Tát được thâm pháp nhẫn xô dẹp chúng ma, cũng làm cho pháp Bồ đề của Như Lai còn lâu ở thế gian”.
Văn Thù Sư Lợi bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu đức Như Lai đem nước tứ đại hải nơi Tam thiên Đại thiên thế giới để trong lòng bàn tay mà chúng sanh thủy tộc không bị nhiễu động. Thần biến này chưa là thù thắng.
Nếu đức Như Lai ở nơi tất cả pháp chẳng thể ngôn thuyết không danh không tướng không sắc không thanh không hành không tác, không văn tự không hí luận không biểu thị, rời tâm ý thức, dứt tất cả đường ngữ ngôn tịch tĩnh chiếu minh, mà dùng ngữ ngôn khai thị, tất cả thế gian đều chẳng hiểu biết được, Sa Môn Bà La Môn nghe đến kinh sợ. Đây gọi là tối đại thần biến của chư Phật.
Lại nữa, nếu đức Như Lai đem Tam thiên Đại thiên thế giới nạp vào trong miệng, tứ thiên hạ không bị chướng ngại, ánh sáng nhựt nguyệt chẳng bị che khuất vẫn an ở như cũ, chúng sanh trong ấy cũng chẳng hay biết nơi chỗ dời đi. Thần biến này chưa là thù thắng.
Nếu đức Như Lai ở nơi tất cả pháp chẳng thể nói được không văn tự nhẫn đến rời tâm ý thức dứt đường ngữ ngôn tịch tĩnh chiếu minh, mà dùng ngữ ngôn tuyên nói hiển thị. Đây gọi là tối đại thần biến của chư Phật.
Lại nữa, thân bất cộng của Như Lai do nơi thần lực tùy theo chúng sanh thị hiện nhiều thứ thân đều làm cho họ vui mừng. Thần biến này chưa là thù thắng.
Nếu đức Như Lai vô ngã nói ngã, không chúng sanh nói chúng sanh, không nhơn nói nhơn, không dưỡng dục nói dưỡng dục, không danh nói danh, không sắc thọ tưởng hành thức nói sắc thọ tưởng hành thức, không xứ nói xứ, không giới nói giới, dầu nói nhãn không mà nhãn chẳng nói không, dầu nói sắc không mà sắc chẳng nói không, nói nhãn thức không mà thức chẳng nói không, cho đến ý không pháp không và ý thức không cũng như vậy. Như Lai nói pháp vô danh vô tướng vô động vô tri vô ngôn ấy dẹp dứt tất cả tướng sanh diệt. Đây là Như Lai tối đại thần biến.
Thần biến ấy chẳng tương ưng với nhãn với sắc với nhãn thức, cho đến chẳng tương ưng với ý với pháp, với ý thức.
Thần biến ấy chẳng hiệp với thân tâm, vô hành vô tác, rời các cảnh giới, tất cả thế gian chẳng thể tin được. Tại sao? Vì nói thế gian thì gọi là ngũ uẩn, nơi đây kẻ phàm phu vọng chấp trước, hoặc nói uẩn thường, hoặc nói uẩn vô thường. Do nghĩa ấy mà thế gian vọng nói uẩn là thường rồi nghe nói vô thường thì chẳng tin, họ vọng thấy uẩn là lạc rồi nghe nói khổ thì chẳng tin, họ vọng thấy ngã rồi nghe nói vô ngã thì chẳng tin, họ vọng thấy tịnh rồi nghe nói bất tịnh thì chẳng tin, họ vọng thấy ngã sở rồi nghe nói không ngã sở thì không tin, họ vọng chấp ngũ uẩn thiệt rồi nghe nói chẳng thiệt thì chẳng tin. Do đây nên thần biến của Như Lai ra khỏi tâm tướng người nghe chẳng ưa vui nên tất cả thế gian chẳng thể tin.
Lại nữa, vì siêu cảnh giới của nhãn căn chẳng phải là sắc pháp nên gọi thần biến, cho đến vì siêu ý cảnh giới chẳng phải là sắc pháp chẳng thể hiển thị chẳng phải chỗ biết của trí nên gọi là thần biến.
Lại nữa, không vô tướng vô nguyện chẳng thể nói mà nói không vô tướng vô nguyện đây gọi là thần biến.
Không khởi không tác không tánh không tướng không sanh không diệt bổn lai Niết bàn chẳng thể ngôn thuyết mà nói Niết bàn đây gọi là thần biến.
Lại nữa, vì bố thí thanh tịnh ba luân nên gọi là thần biến. Đó là rời ngã tướng lìa chúng sanh tướng chẳng niệm Bồ đề vậy.
Trì giới thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì thân khẩu ý ba nghiệp vô sở tác vậy.
Nhẫn nhục thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì sát na hoại diệt không chỗ chấp trước vậy.
Tinh tấn thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì không khứ không lai thân tâm bất động vậy.
Thiền định thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì tâm không sở y trong ngoài tịch tĩnh như vậy.
Trí huệ thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì chiếu sáng các pháp dứt tất cả kiến chấp vậy.
Lại nữa, pháp không tướng xuất mà nói pháp xuất ly đây gọi là thần biến.
Pháp không sai biệt mà phân biệt văn tự đây gọi là thần biến.
Pháp không sở hành mà nói có tu hành đây gọi là thần biến.
Pháp không lai khứ mà nói có lai khứ đây gọi là thần biến.
Ở nơi nhứt đạo chứng nhập mà kiến lập các quả vị đây gọi là thần biến.
Nơi pháp nhứt vị phân biệt ba thừa đây gọi là thần biến.
Tất cả chư Phật chỉ là một Phật nói vô lượng Phật đây gọi là thần biến.
Tất cả Phật độ chỉ một Phật độ nói vô lượng Phật độ đây gọi là thần biến.
Vô lượng chúng sanh tức một chúng sanh nói vô lượng chúng sanh đây gọi là thần biến.
Tất cả Phật pháp chỉ một Phật pháp nói vô lượng Phật pháp đây gọi là thần biến.
Pháp chẳng thể hiển thị, hiển thị các pháp đây gọi là thần biến.
Pháp vô sở đắc tu tập chứng nhập đây gọi là thần biến”.
Bấy giờ Thương Chủ Thiên Tử bạch Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát rằng: “Như chỗ tôi hiểu nghĩa được Ngài nói thì ở nơi tất cả pháp có bao nhiêu ngôn thuyết đều gọi là thần biến cả”.
Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát nói: “Đúng như vậy, tất cả ngôn thuyết thiệt vô sở thuyết gọi là đại thần biến vậy”.
Lúc nói pháp trên đây, có một vạn hai ngàn Thiên Tử phát tâm Vô thượng Bồ đề, năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Tôn giả Xá Lợi Phất bảo Thương Chủ Thiên Tử: “Ông nghe đại thần biến ấy mà chẳng kinh sợ chăng?”.
Thương Chủ Thiên Tử nói: “Tôi tức là thần biến sao lại kinh sợ!”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Có mật ý gì mà ông nói như vậy?”.
Thương Chủ Thiên Tử nói: “Tất cả các pháp hoặc thiện hoặc bất thiện không động mà động, đây gọi là đại thần biến. Vì thế nên người tạo nghiệp lành sanh lên trời có oai đức lớn, nghiệp lành ấy chẳng thể nghĩ bàn, tất cả chúng sanh qua lại sanh tử cũng chẳng thể nghĩ bàn, đây gọi là đại thần biến.
Như đức Phật nói bốn thứ cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn: một là nghiệp cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, hai là long cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, ba là thiền cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn và bốn là Phật cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, do nghĩa này mà nói tất cả pháp gọi là đại thần biến chẳng nên kinh sợ.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Nếu đức Như Lai nói đại thần biến ấy, hư không giới chừng có sợ chăng?”.
Tôn giả đáp: “Không có”.
Thiên Tử nói: “Nếu hư không chẳng kinh sợ sao ngài lại hỏi ông có kinh sợ chăng?”.
Tôn giả nói: “Ông há lại đồng như hư không ư?”.
Thiên Tử nói: “Như đức Phật nói hoặc nội không ngoại không có phải là hư không chăng?”.
Tôn giả nói: “Đúng vậy”.
Thiên Tử nói: “Vì thế nên tất cả chúng sanh là tánh hư không”.
Tôn giả nói: “Nầy Thiên Tử! Như lời ông nói, chẳng bao lâu ông cũng sẽ hiện thần biến như vậy. Tại sao? Vì siêu quá tất cả cảnh giới là đại thần biến vậy”.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Thương Chủ Thiên Tử đây từ xưa đã cúng dường chư Phật Thế Tôn và Văn Thù Sư Lợi nên mới thành tựu biện tài như vậy”.
Đức Phật bảo Tôn giả: “Nầy Xá Lợi Phất! Đúng như vậy, như lời ông nói. Đó là do Văn Thù Sư Lợi làm cho thành thục.
Nầy Xá Lợi Phất! Thuở quá khứ vô lượng kiếp có đức Phật hiệu Đẳng Tu Di Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xuất hiện thế gian, nước tên An Lạc, kiếp tên Hoan Hỉ, tất cả chúng sanh nước ấy đều đầy đủ an vui cho đến không có chút tiếng khổ não. Nước ấy bằng bốn báu kim ngân lưu ly và pha lê, đất bằng như bàn tay, sạch sẽ dịu mềm như thiên y, không chỗ tai nạn, trời người sung mãn an ổn đông nhiều khoái lạc vô lượng, do đó mà gọi là thế giới An Lạc. Trong pháp của đức Phật Đẳng Tu Di ấy thuần là Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh trí huệ sáng suốt, được tu đa la vương đà la ni, biện tài vô tận, thiện xảo phương tiện phân biệt thuyết pháp, thần thông trí huệ xô dẹp ma oán, giải thoát vô ngại thành tựu đỉnh nhẫn, khéo biết căn tánh đúng bịnh cho thuốc, đủ phước đức trí huệ tư lương lớn, làm bạn bất thỉnh của các chúng sanh, dùng sức thần thông đi khắp các quốc độ chư Phật, vào biển trí hành an trụ thí giới trí huệ đa văn, vô biên thiện căn phương tiện hồi hướng, trụ nơi thập lực vô úy tất cả Phật pháp, du hí tam muội các thiền giải thoát. Đức Phật Thế Tôn ấy dùng chư đại Bồ Tát như vậy làm quyến thuộc.
Nơi nước An Lạc ấy, bấy giờ có Chuyển Luân Vương tên Tịnh Trang Nghiêm dùng chánh pháp trị đời lãnh bốn thiên hạ có đủ bảy báu. Vua ấy có ngàn con trai đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vua Tịnh Trang Nghiêm và hậu cung cũng đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đức Đẳng Tu Di Như Lai thọ bảy mươi câu chi tuổi.
Trong trăm ngàn năm kính thờ cúng dường đức Phật Đẳng Tu Di và chúng Bồ Tát những đồ ăn uống y phục đồ cần dùng. Nhà vua cùng ngàn con trai và tất cả hậu cung đều được thanh tịnh tín yêu chánh pháp vui mừng chẳng còn có dị tâm, thường ở trước đức Phật ấy tự tay cúng dường thân cận nghe pháp. Quá trăm ngàn năm rồi, ngàn Vương tử và hậu cung được thành tựu bốn chánh niệm: một là niệm Phật và Bồ Tát, hai là niệm thí, ba là niệm giới, bốn là chẳng quên tâm Bồ đề. Vì được bốn chánh niệm nên ngày đêm đều thường thấy Phật và chư Bồ Tát.
Thời gian sau, một hôm nhơn nghe pháp, nhà vua Tịnh Trang Nghiêm và hậu cung đến chỗ Phật.
Đức Đẳng Tu Di Như Lai muốn giáo hóa chư Bồ Tất nên ở giữa đại chúng hiện các thứ thần biến.
Vua Tịnh Trang Nghiêm bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Có thần biến nào hơn đây chăng?
Đức Đẳng Tu Di Như Lai nói:
Nầy Đại Vương! Đức Như Lai còn có thù thắng thần biến. Đó là biết rõ quá khứ đã diệt, hiện tại chẳng trụ, vị lai chưa sanh không có tâm sở mà nói pháp tâm và tâm sở ba đời. Trong pháp nhứt vị nói ba giải thoát. Nơi một diệt chứng nói bốn thánh đế, khai thị không vô tướng vô nguyện thành tựu chúng sanh điên đảo khổ não, nói vô tướng vô vi thành tựu Bồ đề. Nơi chẳng thủ chẳng xả nói Bố thí Ba la mật. Nơi vô trụ vô tác nói trì giới Ba la mật. Nơi không ngã không pháp nói Nhẫn nhục Ba la mật. Thân tâm tịch tĩnh nói Tinh tấn Ba la mật. Chẳng loạn chẳng nhiếp nói Thiền Ba la mật. Rời lìa bờ đây bờ kia nói Bát Nhã Ba la mật. Không chỗ động niệm mà thật hành phương tiện. Rời tướng nương nhờ mà tu tập tâm từ. Dùng pháp vô tác mà tu tập tâm bi. Vì lìa mừng vui mà tu tập đức hỉ. Do pháp bất trụ mà tu đức xả. Vì không chỗ thấy mà khởi thiên nhãn. Vì không chỗ nghe mà khởi thiên nhĩ. Không chỗ phan duyên mà khởi tha tâm trí. Rời lìa tiền tế mà khởi trí túc mạng. Thân tâm bất động mà khởi thần túc. Chẳng trụ các pháp mà tu niệm xứ. Vì không sanh diệt tu bốn chánh cần. Chẳng phải căn nói căn, chẳng phải lực nói lực. Các pháp tịch tĩnh nói Bồ đề phần. Các pháp vô sai biệt nói tám thánh đạo. Chẳng trụ tịch tĩnh mà tu xa ma tha. Viễn ly pháp tướng mà tu tì bát xá na. Bổn lai tịch diệt mà nói Niết bàn.
Lúc đức Phật Đẳng Tu Di vì vua Tịnh Trang Nghiêm và hậu cung nói pháp thần biến ấy, có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vua Tịnh Trang Nghiêm và ngàn Vương Tử chứng vô sanh pháp nhẫn rồi do thần lực của Phật liền ở trước Phật nói kệ tán thán:
Như núi Tu Di
Chói sáng đại hải
Oai quang của Phật
Chói che đại chúng
Như mặt nhựt mọc
Phá tất cả tối
Hào tướng của Phật
Chiếu khắp thế giới
Như mặt nguyệt tròn
Ánh sáng rực rỡ
Phật công đức đầy
Huệ quang chiếu khắp
Ví như hoa sen
Chẳng dính bùn nước
Phật ở tại đời
Không hề nhiễm trước
Như sư tử chúa
Gầm nơi rừng sâu
Đấng đại Pháp Vương
Rống nơi tánh không
Nơi tất cả pháp
Phi hữu phi vô
Khiến rời biên kiến
Gọi sư tử hống
Nơi tất cả tướng
Hoặc sanh hoặc diệt
Nói không sanh diệt
Gọi sư tử hống
Phân biệt bờ đây
Hoặc dạy bờ kia
Chẳng trụ các pháp
Gọi sư tử hống
Phân biệt hai tướng
Là nhiễm là tịnh
Các pháp thanh tịnh
Gọi sư tử hống
Tham sân si hành
Từ phân biệt sanh
Chẳng khởi phân biệt
Gọi sư tử hống
Nơi pháp sanh tử
Vô thường vô ngã
Từ điên đảo khởi
Gọi sư tử hống
Sanh tử Niết bàn
Bổn lai tịch tĩnh
Là đại Bồ đề
Gọi sư tử hống
Bị kiến chấp trói
Lưu chuyển thế gian
Khai thị tánh không
Gọi sư tử hống
Như Lai Đại Sư
Hiện những thần biến
Đều hay khai thị
Gọi sư tử hống
Nơi tất cả trái thuận
Tâm ấy chẳng khuynh động
Thường an trụ bình đẳng
Gọi tùy thuận pháp nhẫn
Tùy thuận pháp thâm tịch
Của đức Phật từng dạy
Cũng chẳng chứng trong ấy
Gọi tùy thuận pháp nhẫn
Lìa xa các lỗi ác
Tăng trưởng các pháp lành
Trong ấy chẳng chấp trước
Gọi tùy thuận pháp nhẫn
Nói tiếng các pháp không
Nói tiếng tất cả kiến
Hai thứ đều không chấp
Gọi tùy thuận pháp nhẫn
Tiếng vô biên Phật pháp
Tiếng các thứ phiền não
Chẳng phân biệt nơi tiếng
Gọi tùy thuận pháp nhẫn
Nơi thí, giới, nhẫn nhục
Tinh tấn và định huệ
Mà tu hành như pháp
Gọi tùy thuận pháp nhẫn
Chẳng bỏ tâm Bồ đề
Bình đẳng quán tất cả
Thanh tịnh đạo Bồ đề
Gọi tùy thuận pháp nhẫn
Như Lai tự ý nói
Khai thị các Phật pháp
Nghe pháp không nghi hoặc
Gọi tùy thuận pháp nhẫn
Nếu tôi chứng Bồ đề
Sẽ đại sư tử hống
Diễn nói thần biến này
Như Phật nay đã nói
Nơi ruộng phước vô thượng
Chẳng thể nghĩ bàn này
Tôi đã gieo hạt giống
Trọn không hề thối chuyển
Giả sử đại địa rã
Biển lớn đều khô cạn
Căn lành tôi đã trồng
Vĩnh viễn không thối thất
Biết rõ tâm chúng sanh
Tánh nó như hư không
Trồng sâu giống Bồ đề
Được phước đức vô biên
Chí nguyện tôi hôm nay
Chỉ đức Phật chứng biết
Trời, Người, Càn Thát Bà
Không ai có thể biết
Nay tôi trọn chẳng cầu
Báo chư Thiên thắng diệu
Tôi sẽ được trí huệ
Như đức Phật Thế Tôn
Tôi trong trăm ngàn năm
Thân cận cúng dường Phật
Vì phát nguyện Bồ đề
Tu vô biên hạnh này
Nay tôi và ngàn con
Các quyến thuộc hậu cung
Nguyện thường cúng dường Phật
Để thành thục Bồ đề
Nay tôi được thiện lợi
Được thấy rõ chư Phật
Được nghe diệu pháp này
Ưa thích đạo Bồ đề
Nếu ưa thích Bồ đề
Thì là thích ưa pháp
Vì thương xót chúng sanh
Nên chẳng bỏ Phật thừa.
Bấy giờ trong chúng có Bồ Tát tên Pháp Tốc Tật nói với vua Tịnh Trang Nghiêm rằng:
Nầy Đại Vương! Nhà vua chẳng tùy thuận thần biến của Như Lai cũng chẳng phải phát xu Vô thượng Bồ đề. Tại sao? Nầy Đại Vương! Bồ đề ấy an trụ nơi pháp giới chẳng đến chẳng đi không tri không hành chẳng phải sắc chẳng phải tướng chẳng phải thủ chẳng phải bỏ, như họa vẽ trong hư không, không có chạm đụng, bổn tánh thanh tịnh.
Nầy Đại Vương! Bồ đề ấy vào tất cả chỗ vì các pháp bình đẳng vậy. Bồ đề ấy không phân biệt vì rời các tướng vậy. Bồ đề ấy tịch tĩnh vì ngăn dứt các tướng vậy. Bồ đề ấy tánh thanh tịnh vì rời chấp trước vậy. Bồ đề ấy bất động vì không tạp loạn vậy. Bồ đề ấy gọi là tâm bình đẳng vì không chỗ khởi lên vậy. Bồ đề ấy gọi là chúng sanh bình đẳng vì bổn vô sanh vậy. Bồ đề ấy gọi là bất sanh sanh vì duyên khởi vô tánh vậy. Bồ đề ấy chẳng thể hiển thị vì rời tâm ý thức vậy.
Nầy Đại Vương! Bồ đề ấy vô sở hành vì quá các cảnh giới vậy. Bồ đề ấy vô hí luận vì rời tướng tầm tư vậy. Bồ đề ấy là không vì tánh tướng không vậy. Bồ đề ấy vô tướng vì rời tất cả tướng vậy. Bồ đề ấy vô nguyện vì vô sở trụ vậy. Bồ đề ấy vô tác vì không nghiệp báo vậy. Bồ đề ấy vô vi vì rời ba tướng vậy.
Nầy Đại Vương! Bồ đề ấy tánh tướng như vậy. Nếu ở nơi pháp ấy mà có chỗ nguyện cầu thì luống tự nhọc nhằn vô ích. Tại sao? Vì đúng như tánh Bồ đề ấy, Bồ Tát phải nên thật hành. Có thể thật hành như vậy thì gọi là chánh hạnh.
Vua Tịnh Trang Nghiêm bạch Bồ Tát Pháp Tốc Tật xin chỉ dạy chánh hạnh của Bồ Tát.
Pháp Tốc Tật Bồ Tát nói:
Nầy Đại Vương! Xả bỏ các sở hữu là chánh hạnh của Bồ Tát vì chúng sanh bình đẳng không phân biệt vậy. Đầu đà học giới là chánh hạnh của Bồ Tát vì giới tánh bình đẳng vô sở hành vậy. Rời sân nhiệt não là chánh hạnh của Bồ Tát vì nhẫn tánh bình đẳng không có tâm tướng vậy. Kiên cố dũng mãnh là chánh hạnh của Bồ Tát vì tinh tấn bình đẳng rời tâm hành vậy. Tam muội giải thoát là chánh hạnh của Bồ Tát thiền định bình đẳng không sở duyên vậy. Văn huệ tư lương là chánh hạnh của Bồ Tát vì huệ tánh bình đẳng không sở niệm vậy. Sanh nơi phạm trụ là chánh hạnh của Bồ Tát vì nhiễm tịnh bình đẳng rời cả hai vậy. Khởi các thần thông là chánh hạnh của Bồ Tát vì thần thông bình đẳng chẳng sanh niệm vậy. Đầy đủ biện tài là chánh hạnh của Bồ Tát vì pháp nghĩa bình đẳng rời tâm tướng vậy. Thành tựu thắng giải là chánh hạnh của Bồ Tát vì pháp giới bình đẳng vô sở động vậy. Tu thất giác phần là chánh hạnh của Bồ Tát vì quán chiếu bình đẳng chẳng giải đãi vậy. Khởi tứ nhiếp pháp là chánh hạnh của Bồ Tát vì các pháp bình đẳng đồng sự việc vậy. Tâm bình đẳng đối với chúng sanh là chánh hạnh của Bồ Tát vì tâm tánh bình đẳng vô phân biệt vậy. Trang nghiêm Phật độ là chánh hạnh của Bồ Tát vì thanh tịnh bình đẳng như hư không vậy. Ba mươi hai tướng là chánh hạnh của Bồ Tát vì quán pháp vô tướng nhập vào bình đẳng vậy. Thanh tịnh thân khẩu ý là chánh hạnh của Bồ Tát vì rời ba nghiệp tánh bình đẳng vậy. Tùy hỉ chúng sanh là chánh hạnh của Bồ Tát vì tất cả chúng sanh bình đẳng vô ngã vậy. Chẳng chán sanh tử là chánh hạnh của Bồ Tát vì biết rõ như mộng tánh bình đẳng vậy. Thường tu nghiệp lành là chánh hạnh của Bồ Tát vì biết nghiệp bình đẳng không nghiệp báo vậy. Kiên cố tu hành là chánh hạnh của Bồ Tát vì quán tất cả pháp như ảo hóa vậy. An nhẫn các sự khổ là chánh hạnh của Bồ Tát vì biết rõ bình đẳng khổ chẳng sanh vậy. Thân cận thiện hữu là chánh hạnh của Bồ Tát vì nơi bạn chẳng phải bạn tâm bình đẳng vậy. Siêng tu thâm tâm là chánh hạnh của Bồ Tát vì quả báo bình đẳng vô sở cầu vậy. Đa văn không chán là chánh hạnh của Bồ Tát vì thuyết pháp thính pháp đều bình đẳng vậy. Chẳng xen lẫn pháp là chánh hạnh của Bồ Tát vì bình đẳng thuyết pháp chẳng mong cầu vậy. Nhiếp thọ chánh pháp
là chánh hạnh của Bồ Tát vì bình đẳng thành thục các Phật pháp vậy. Thường cầu thiệt trí là chánh hạnh của Bồ Tát vì đệ nhứt nghĩa đế tánh bình đẳng vậy. Tâm mình khiêm hạ là chánh hạnh của Bồ Tát vì tâm bình đẳng khiêm hạ đối với chúng sanh vậy. Nhiếp khắp tất cả các công đức lành là chánh hạnh của Bồ Tát vì công đức bình đẳng vô sở niệm vậy.
Vua Tịnh Trang Nghiêm nghe nói chánh hạnh của Bồ Tát như vậy, nhà vua rất vui mừng hớn hở sanh lòng ưa thích liền cởi y phục và đồ nghiêm sức trên thân dâng cho Bồ Tát Pháp Tốc Tật. Ngàn Vương Tử cũng cởi đồ nghiêm sức trên thân dâng Bồ Tát Pháp Tốc Tật và đồng nói rằng: Nguyện tất cả chúng sanh thành Bồ Tát hạnh được biện tài ấy. Nay chúng tôi rất sung sướng được lợi ích lành là được thấy bực thiện tri thức này để cung kính cúng dường.
Pháp Tốc Tật Bồ Tát nói với vua Tịnh Trang Nghiêm:
Chỗ cúng dường của nhà vua rất hạ liệt, nên biết lại có sự cúng dường thù thắng.
Pháp Tốc Tật Bồ Tát nói kệ rằng:
Chúng sanh khắp Đại Thiên
Đều phát xu Bồ đề
Giả sử trọn một kiếp
Đem nam nữ bố thí
Nếu người phát đạo tâm
Tịnh tín mà xuất gia
Theo Phật để tu học
Phước nầy hơn phước kia
Chư Phật thuở quá khứ
Tất cả Phật vị lai
Không ai chẳng xuất gia
Mà được thành Phật đạo
Tất cả Phật tam thế
Đều khen pháp xuất gia
Nếu thích cúng dường Phật
Nên theo Phật xuất gia
Dầu đầy hằng sa cõi
Trân bửu dâng cúng Phật
Chẳng bằng trong một ngày
Xuất gia tu tịch tĩnh
Người này gần Bồ đề
Xô dẹp quân chúng ma
Xuất gia chẳng phóng dật
Pháp lành luôn tăng trưởng
Chẳng hư các căn lành
Rời xa các phiền não
Bỏ gia nghiệp phiền lụy
Thuận đạo được thánh khen
Xuất gia rời phiền não
Trừ não rời ma nghiệp
Tâm giải hành không nhiễm
Chẳng lâu chứng Bồ đề.
Nghe kệ xong lòng vua đối với vương vị tự tại tất cả ái dục thảy đều rời bỏ liền bạch Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Tôi nguyện ở trong luật pháp lành của Phật xuất gia thọ giới.
Đức Đẳng Tu Di Như Lai bảo rằng:
Nầy Đại Vương! Xuất gia không họa hoạn mà ta thường khuyên gắng, mến luyến ở nhà chẳng phải là điều mà Phật hứa khả. Ở nơi vương vị nhà vua còn ái trước ta sẽ dạy nhà vua an trụ như pháp.
Vua Tịnh Trang Nghiêm bảo Ngàn Vương Tử trong các con ai có thể nối giữ vương nghiệp?
Các Vương Tử đều nói chúng tôi thích xuất gia xin vua cha cho phép.
Vua bảo nếu các con xuất gia cả thời nhơn dân quốc độ bốn thiên hạ nầy lấy ai dưỡng dục. Nếu trong các con người nào đại bi vững chắc nên ra làm vua khiến tất cả chúng sanh an trụ pháp lành.
Tron ngàn Vương Tử có một vị tên Niệm Đại Bi nói kệ đáp lời phụ vương:
Phụ vương nơi Phật pháp
Được nhiều công đức lành
Tôi xin lãnh ngôi vua
Cũng sẽ học như vậy
Tôi thường tu phạm hạnh
Trọn đời giữ tám giới
Tôi sẽ chẳng uống rượu
Chẳng thoa đeo hương hoa
Thân bỏ đồ trang sức
Chẳng ngồi nằm tòa vàng
Chưn chẳng mang giầy vàng
Đầu chẳng đội mão báu
Chẳng mặc y phục đẹp
Chẳng xem những kỹ nhạc
Chẳng ngắm điểu thú lạ
Chẳng gần các cung nữ
Tuần khắp bốn thiên hạ
Tuyên hành mười đạo lành
Quở trách lỗi tại gia
Khen ngợi pháp xuất gia
Bỏ tự tại kiêu ngạo
Thân cận Phật Pháp Tăng
Chẳng bỏ tâm Bồ đề
Thường nhàm chán ba cõi
Dùng thí ái lợi hành
Đồng sự nhiếp chúng sanh
Khắp khiến ở Đại thừa
Đều sẽ được thành thục
Ngày đêm cả sáu thời
Sẽ qua đến chỗ Phật
Để được nghe chánh pháp
Cúng dường đức Như Lai.
Đức Đẳng Tu Di Như Lai khen Vương Tử Niệm Đại Bi:
Lành thay, lành thay, nầy thiện nam tử! Vì ông thấy pháp bình đẳng nên an trụ đại bi chánh tín nơi xuất gia, trong hàng Bồ Tát tại gia ông là tối thắng, cùng với công đức xuất gia không khác.
Vua Tịnh Trang Nghiêm liền lập Niệm Đại Bi nối ngôi vua, rồi cùng chín trăm chín mươi chín Vương Tử theo Phật xuất gia. Khi đã xuất gia rồi đức Đẳng Tu Di Như Lai dạy cho pháp thần biến như vậy, sau đó chẳng bao lâu được ngũ thần thông chứng niệm tổng trì đa văn trí huệ.
Niệm Đại Bi trong ngày rằm thọ ngôi quán đảnh rồi cũng đem pháp ấy tuyên bày giáo hóa cho tất cả chúng sanh trong bốn châu thiên hạ. Có chín mươi hai câu chi chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề đồng theo Phật xuất gia tu hành an trụ Đại thừa được bất thối chuyển.
Nầy Xá Lợi Phất! Ông xem pháp ấy có vô lượng công đức thành thục tất cả thiện căn chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất! Vua Tịnh Trang Nghiêm thuở xưa là Thương Chủ Thiên Tử đây, Bồ Tát Pháp Tốc Tật ấy nay là Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát. Ngàn Vương Tử ấy nay là ngàn Phật trong Hiền kiếp. Chính Vương tử Niệm Đại Bi ấy nay là thân ta đây vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát ấy thâm tâm chánh hạnh chẳng phóng dật nên được Vô thượng Bồ đề”.
Lúc đức Phật nói pháp tu hành thuở xưa ấy, có ba vạn hai ngàn Thiên Tử phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Ngài và Thương Chủ Thiên Tử đã lâu tu phạm hạnh cúng dường nhiều chư Phật trồng các căn lành”.
Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát nói: “Nầy Đại Đức! Luận về phạm hạnh gọi là tám thánh đạo là pháp hữu vi, tôi tức vô vi nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Luận về phạm hạnh gọi là có sở hành, tôi không sở hành nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Lại phạm hạnh ấy gọi là hai tướng, tôi không hai tướng nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Lại phạm hạnh ấy gọi là diệt phiền não, tôi không phiền não cũng không sở diệt nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Vì lung chạy theo ngũ dục nên nói phạm hạnh, với ngũ dục tôi vốn chẳng hành nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Siêu quá ma đạo gọi là phạm hạnh, tôi đương an trụ trong ma đạo nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Thành tựu thiện pháp gọi là phạm hạnh, nơi thiện ác tôi đều vô sở đắc nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Chánh vị an trụ của Thanh Văn và Duyên Giác gọi là phạm hạnh, tôi không sở chứng nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Tu Niết bàn đạo gọi là phạm hạnh, nơi Niết bàn tôi không nguyện cầu nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh.
Lại nầy Tôn giả Xá Lợi Phất! Tôn giả nói tôi cúng dường nhiều chư Phật. Tôn giả cho rằng đức Như Lai có thể cúng dường chăng? Tại sao? Đức Như Lai chẳng phải sắc cũng chẳng thấy được thì sao lại cúng dường được. Đức Như Lai chẳng phải thọ vì dứt tất cả thọ, đức Như Lai chẳng phải tưởng vì rời lìa tất cả kiết sử, đức Như Lai chẳng phải hành vì cứu cánh vô tác, đức Như Lai chẳng phải thức vì ra khỏi tâm ý, làm sao cúng dường được Như Lai.
Lại đức Như Lai hành nơi tánh không chẳng phải nhãn sắc giới, Như Lai trụ vô tướng tế chẳng phải nhỉ thanh giới, Như Lai rời hai tướng chẳng phải tỉ hương giới, Như Lai không tướng khả tri chẳng phải thiệt vị giới, Như Lai không tướng chướng ngại chẳng phải thân xúc giới, Như Lai nhập vào bình đẳng chẳng phải ý pháp giới, làm sao cúng dường được Như Lai.
Lại Như Lai gọi là pháp giới, gọi là như như, vào thiệt tế, trụ đại không, chẳng động bổn tánh, dứt các hí luận, không chỗ phan duyên, chẳng trụ nơi thức, chẳng y tam giới, chẳng trụ đời nầy đời sau, thường tịch cực tịnh, rời thân khẩu ý, không hình không tướng, không hủy không dự, không lậu không thất, như hư không, khắp tất cả, làm sao có thể cúng dường Như Lai được.
Lại nầy Tôn giả! Như lời Tôn giả nói trồng các căn lành. Căn lành ấy chẳng phải gốc thân kiến, chẳng phải gốc tham sân, chẳng phải điên đảo, chẳng phải trụ gốc ngũ uẩn lục nhập thất thức, chẳng phải gốc tám tà chín não mười nghiệp đạo bất thiện, căn lành ấy chẳng phải gốc giới học tâm học huệ học, chẳng phải gốc chánh xu đạo, chẳng phải gốc minh giải thoát, chẳng phải gốc tứ đế lục thông, chẳng phải gốc cửu thứ đệ định thập vô học, chẳng phải gốc ngũ căn ngũ lực thất Bồ đề phần bát thánh đạo phần. Lại căn lành ấy chẳng phải gốc kiết sử, chẳng phải gốc chướng ngại, chẳng phải gốc ác tác, chẳng phải gốc sanh diệt kiến, đoạn thường kiến, ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chẳng phải gốc uẩn ma phiền não ma tử ma thiên ma, chẳng phải gốc vọng niệm, vô minh hành thức danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ hữu sanh lão tử ưu não, chẳng phải gốc Dục Sắc Vô sắc giới, chẳng phải gốc bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tấn thiền định trí huệ, chẳng phải gốc từ bi hỉ xả, chẳng phải gốc sở chứng của Thanh Văn Duyên Giác. Luận về căn lành của Bồ Tát là gốc Nhứt thiết trí tâm vô sở trụ gốc không tự tác tha tác, gốc nhẫn nhục điều phục, gốc trang nghiêm thân khẩu ý, gốc đại từ đại bi, gốc thành thục tất cả chúng sanh, gốc nhiếp thọ tất cả pháp, gốc thành thục tất cả Phật pháp, gốc chẳng dứt giống Tam bửu, gốc bỏ tất cả sở hữu chẳng cầu quả báo, gốc chứa họp các pháp lành chẳng cầu Thích Phạm, gốc phát đại tinh tấn chẳng thích Tiểu thừa, gốc tu tập thiền định chẳng ham say, gốc lấy không gì bỏ để hành trí huệ, gốc vào khắp các hành để tu phương tiện, gốc đủ thập lực tứ vô úy, gốc được đà la ni vô ngại biện, gốc được sức thần thông thanh tịnh Phật độ, gốc đến ngồi cội Bồ đề chuyển pháp luân”.
Lúc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói ba thứ nghĩa quyết định ấy, tất cả đại chúng đều khen thiện tai đem các thứ hoa đẹp rải lên đức Thế Tôn và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà nói rằng:
“Nếu trong cõi Phật không có Văn Thù Sư Lợi thì Phật chẳng xuất thế, chẳng phải Văn Thù Sư Lợi thì chẳng thành thục được căn rộng lớn cho tất cả chúng sanh. Nếu ai được nghe pháp môn của Văn Thù Sư Lợi nói mà chẳng kinh sợ thì xa rời tất cả ma nghiệp chướng ngại, được quang minh thanh tịnh nơi Đại thừa này”.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng khen Thương Chủ Thiên Tử: “Lành thay lành thay! Như lời ông nói. Nầy Thiên Tử! Ông nghe thần biến của Văn Thù Sư Lợi nói mà có thể biết rõ thì không còn kinh sợ các thần biến khác. Tại sao? Vì sự đại kinh bố của tất cả thế gian là trong ý tưởng thường mà nói vô thường, trong ý tưởng lạc mà nói khổ, trong ý tưởng ngã mà nói vô ngã, trong ý tưởng tịnh mà nói bất tịnh, trong ý tưởng có mà nói không có, trong các kiến chấp mà nói rỗng không, trong ý tưởng tịch tĩnh mà nói vô tướng, trong ba cõi mà nói vô nguyện, nơi ngã ngã sở mà nói không chấp trước. Nếu ở trong đây mà không kinh sợ thì gọi là an trụ chánh điều phục. Tại sao, vì nếu sanh kinh sợ thì ở nơi pháp ấy chẳng thọ trì được. Đó là chấp trước nơi ngã và ngã sở, nếu không chấp trước thì vô sở trụ,
nếu vô sở trụ thì vô sở động, nếu vô sở động thì vô lai khứ, nếu vô lai khứ thì vô sở thọ, nếu vô sở thọ thì vô sở thủ, nếu vô sở thủ thì vô điên đảo, nếu vô điên đảo thì vô tà kiến, nếu vô tà kiến thì vô chánh tín, nếu vô chánh tín thì vô chánh kiến, nếu vô chánh kiến thì vô chánh định, nếu vô chánh định thì vô loạn tâm, nếu vô loạn tâm thì vô trụ xứ, nếu vô trụ xứ thì vô kiến lập, nếu vô kiến lập thì vô thức tướng, nếu vô thức tướng thì vô tư duy, nếu vô tư duy thì vô sở đắc, nếu vô sở đắc thì vô phan duyên, nếu vô phan duyên thì vô phân biệt, nếu vô phân biệt thì chẳng thấy tự tha, vì chẳng thấy tự tha thì không tương tục, vì không tương tục thì không nhiệt não, vì không nhiệt não thì không phiền não nhơn, vì không phiền não nhơn thì được thấy quang minh, vì được thấy quang minh nên được trí huệ, vì được trí huệ nên được quảng đại tâm, vì được quảng đại tâm nên ma không được dịp, vì xô dẹp ma nên không chướng ngại, vì không chướng ngại thì là hiện tiền được tất cả Phật pháp.
Như vậy, nầy Thiên Tử! Nơi tất cả pháp vô sanh vô tác mà khai thị diễn thuyết thì gọi là tuyên nói đại thần biến”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Như chỗ tôi được hỏi, có phải Ngài đều dùng bí mật thuyết chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nầy Tôn giả! Tất cả các pháp văn tự nhóm họp giả danh an lập. Văn tự vô tận tùy theo chỗ ưa thích mà tuyên nói, các pháp vô tánh tùy theo chỗ đáng nên hiểu.
Nầy Tôn giả! Tất cả pháp tự tánh ly không tích tập không sở kiến, chỉ tùy theo chỗ ưa thích rồi như chỗ đáng nên mà tuyên thuyết, nhưng tất cả pháp không từ đâu đến cũng không chỗ đi, chẳng tại phương chẳng rời phương, không hợp không tan. Nếu dùng văn tự tuyên nói, tất cả Phật pháp tất cả chúng sanh pháp chẳng từ thân phát xuất chẳng từ tâm phát xuất, từ nhơn duyên sanh. Như văn tự ấy không có tích tập, tâm và tâm sở pháp cũng không tích tập. Như tâm tâm sở không tích tập, tất cả phiền não chướng ngại cũng không tích tập. Nếu phiền não chướng ngại không tích tập, trí huệ cũng không tích tập. Bởi thế nên phiền não và trí huệ đều xả ly cả hai, vì phiền não và trí huệ đều vô sở trụ vậy. Đây gọi là tuyên nói đại thần biến.
Thương Chủ Thiên Tử bạch Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Những gì là Bồ Tát trí?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nầy Thiên Tử! Khổ trí là Bồ Tát trí vì chẳng chán các uẩn. Tập trí là Bồ Tát trí vì chứa họp căn lành. Diệt trí là Bồ Tát trí vì thị hiện có sanh. Đạo trí là Bồ Tát trí vì rời lìa ác đạo. Nhơn trí là Bồ Tát trí vì chỗ làm chẳng hư hoại. Duyên trí là Bồ Tát trí vì dứt sanh tử. Phật trí là Bồ Tát trí vì khiến chứng nhập. Duyên sanh trí là Bồ Tát trí vì không chấp trước. Uẩn trí là Bồ Tát trí vì trừ uẩn ma. Giới trí là Bồ Tát trí vì pháp giới bình đẳng. Xứ trí là Bồ Tát trí vì khéo quán không tụ. Thí trí là Bồ Tát trí vì không phi thời. Giới trí là Bồ Tát trí vì nhiếp các kẻ phá giới. Nhẫn trí là Bồ Tát trí vì thủ hộ chúng sanh. Tinh tấn trí là Bồ Tát trí vì làm nghiệp lành. Thiền định trí là Bồ Tát trí vì chẳng rời định tâm. Trí tuệ trí là Bồ Tát trí vì biết rõ các pháp. Phương tiện trí là Bồ Tát trí vì thành thục chúng sanh. Từ trí là Bồ Tát trí vì cứu vớt các cõi. Bi trí là Bồ Tát trí vì không mỏi mệt. Hỉ trí là Bồ Tát trí vì vui ưa chánh pháp. Xả trí là Bồ Tát trí vì thành tựu Phật pháp. Quán sát trí là Bồ Tát trí vì an trụ niệm xứ. Chánh cần trí là Bồ Tát trí vì thuận bình đẳng. Thần túc trí là Bồ Tát trí vì không tác dụng. Tín căn lực trí là Bồ Tát trí vì rời tất cả chấp trước. Tinh tấn căn lực trí là Bồ Tát trí vì xô phá tất cả phiền não. Niệm căn lực trí là Bồ Tát trí vì chẳng mất chánh niệm. Định căn lực trí là Bồ Tát trí vì tất cả pháp bình đẳng. Huệ căn lực trí là Bồ Tát trí vì biết các căn tánh. Bồ đề phần trí là Bồ Tát trí vì tự nhiên giác ngộ. Thánh đạo trí là Bồ Tát trí vì cứu vớt các ác đạo. Tận trí là Bồ Tát trí vì thiện căn vô tận. Vô sanh trí là Bồ Tát trí vì được vô sanh nhẫn. Niệm Phật trí là Bồ Tát trí vì thành tựu nhân Phật. Niệm Pháp trí là Bồ Tát trí vì chuyển pháp luân. Niệm Tăng trí là Bồ Tát trí vì vào chúng bình đẳng. Niệm xả trí là Bồ Tát trí vì chẳng bỏ tất cả chúng sanh. Niệm giới trí là Bồ Tát trí vì viên mãn tất cả nguyện. Niệm thiên trí là Bồ Tát trí vì lìa tất cả. Chúng sanh căn trí là Bồ Tát trí vì rõ biết vô lượng. Viên mãn trí là Bồ Tát trí vì giới không khuyết. Chúng sanh nghiệp trí là Bồ Tát trí vì như thiệt tương ưng. Xứ phi xứ trí là Bồ Tát trí vì chẳng thấy có xứ. Thập lực trí là Bồ Tát trí vì nhiếp các Thanh Văn Duyên Giác. Tứ vô úy trí là Bồ Tát trí vì biết rõ chướng chẳng chướng. Quá khứ thế vô ngại trí là Bồ Tát trí vì không chỗ chấp trước. Vị lai thế vô ngại trí là Bồ Tát trí vì tất cả pháp không chỗ đến. Hiện tại thế vô ngại trí là Bồ Tát trí vì tất cả pháp vô sở trụ. Tất cả chúng sanh thọ vô lượng thân trí là Bồ Tát trí vì từ ngữ ngôn sanh. Tất cả chúng sanh ngôn âm sai biệt trí là Bồ Tát trí vì từ tâm sanh. Tất cả chúng sanh tâm sở động trí là Bồ Tát trí vì hay biết rõ. Vô quá thất trí là Bồ Tát trí vì biết rõ lỗi lầm của tất cả chúng sanh. Vô sốt bạo trí là Bồ Tát trí vì hay dứt tất cả đấu tranh. Bất thất niệm trí là Bồ Tát trí vì an trụ chúng sanh loạn tâm. Nhiếp chúng sanh trí là Bồ Tát trí vì nhiếp các kẻ giải đãi. Phật bất cộng trí là Bồ Tát trí vì biết ứng hóa. Đại phương tiện trí là Bồ Tát trí vì y Bát nhã vậy.
Nầy Thiên Tử! Trên đây gọi là trí của chư Bồ Tát. Do trí nầy sẽ được vô ngại đại trí của Như Lai”.
Thương Chủ Thiên Tử bạch: “Bạch Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát! Thật hi hữu các Bồ Tát trí ấy tối thù thắng trong ba cõi, chẳng thể dùng ít trang nghiêm mà thành tựu được. Nếu hay phát sanh trí huệ ấy là đại thần biến.
Bồ Tát thế nào ở nơi pháp này có thể trang nghiêm đầy đủ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nầy Thiên Tử! Nếu nghe nói tất cả chúng sanh bổn lai tịch diệt mà chẳng kinh sợ thì gọi là Bồ Tát trang nghiêm đầy đủ”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là Bồ Tát?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu hành Bồ đề mà vô sở trụ thì gọi là Bồ Tát”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là Ma Ha Tát?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Bồ Tát nói: “Đã qua khỏi các hành viên mãn đại trí là Ma Ha Tát”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào nói là thù thắng chúng sanh?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Do trí huệ nên chẳng chấp trước các pháp. Dùng sức phương tiện nhiếp thọ tất cả, nên gọi là thù thắng chúng sanh”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là thanh tịnh chúng sanh?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Vì chẳng cùng ở với phiền não. Vì trừ bịnh phiền não cho chúng sanh mà phát đại tinh tấn nên gọi là thanh tịnh chúng sanh”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là cực thanh tịnh chúng sanh?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu vì độ thoát tất cả chúng sanh mà tịnh tu đạo phẩm thì gọi là cực thanh tịnh chúng sanh”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thế nào làm Thế Đạo Sư?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu hay an trụ đạo sở hành mà thành thục vô lượng vô biên chúng sanh thì gọi là Thế Đạo Sư”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thế nào an trụ điều phục?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu ỏ nơi chúng sanh đáng được điều phục mà có thể làm cho họ an trụ cứu cánh điều phục thì gọi là điều phục”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thế nào được dũng mãnh?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu hay thành thục tất cả chúng sanh dẹp phá ma oán khiến ra khỏi sanh tử thì gọi là dũng mãnh”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thế nào là khó ngăn phá được?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu hay thành mãn sở nguyện thuở xưa chẳng cầu đạo chứng của Thanh Văn Duyên Giác thì gọi là Bồ Tát khó ngăn phá được”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào thắng hơn tất cả?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Dùng trí phương tiện hộ trì chánh pháp thành thục chúng sanh được sự chiêm ngưỡng của tất cả Trời Người thì gọi là thắng hơn”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thuyết pháp?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Y lời Phật nói xô phá tất cả tà luận dị luận thì gọi là thuyết pháp”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thuyết luật?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tự an trụ nơi giới luật có thể dứt phiền não ác nghiệp cho chúng sanh thì gọi là thuyết luật”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là đầy đủ lợi ích chúng sanh?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Bao nhiêu căn lành được chứa họp đều hồi hướng tất cả thì gọi là đầy đủ lợi ích chúng sanh”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là trực tâm?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đối với chúng sanh tham sân si siểm khúc mà chẳng ghét giận thì gọi là trực tâm”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là chẳng siểm khúc?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đó là lời nói thành thiệt”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là rời lìa dối phỉnh?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Sau khi suy gẫm kỹ rồi mới nói”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là rời lìa kiêu mạn?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đối với tất cả chúng sanh chẳng cống cao”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là đại thí?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Vô thượng Bồ đề khó được đã chứa họp còn đem bố thí cho chúng sanh huống là những vật thế gian, đây gọi là đại thí”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là đủ giới?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nhẫn đến dầu phải mất mạng cũng chẳng bỏ tâm Bồ đề, đây gọi là đủ giới”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là nhẫn?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Hay nhẫn được sự bức bách mà chẳng bức bách người đây gọi là nhẫn”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là tinh tấn?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Giản trạch các pháp không có chút pháp khả đắc đây gọi là tinh tấn”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thiền định?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chẳng thấy Dục giới, đây gọi là thiền định”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là trí huệ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Không có phân biệt, đây gọi là trí huệ”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là an trụ nơi từ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Quan sát chúng sanh giới rỗng không không có, đây gọi là an trụ nơi từ”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là an trụ nơi bi?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Biết tất cả pháp không mà chẳng bỏ tinh tấn, đây gọi là an trụ nơi bi”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là là an trụ nơi hỉ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “An trụ đại tịch lạc cầu pháp không chán, đây gọi là an trụ nơi hỉ”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là an trụ nơi xả?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chẳng nhiễm thế pháp hay cứu thế gian, đây gọi là an trụ nơi xả”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thân thanh tịnh?”.
442
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tùy ý sanh thân ở nơi tất cả chúng sanh bình đẳng thị hiện đây là thân thanh tịnh”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là ngữ thanh tịnh?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Phàm chỗ thuyết pháp đều trọn chẳng luống uổng đều có thể làm mãn túc tất cả chúng sanh”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là ý thanh tịnh?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tất cả chúng sanh có bao nhiêu tâm niệm, Bồ Tát trong một tâm đều có thể biết rõ cả”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thiên nhãn?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Hay thấy tất cả sắc tướng quang minh mà không chấp trước”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thiên nhĩ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Hay nghe tất cả âm thanh mà rời lìa tướng âm thanh”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là tha tâm?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Biết rõ các tâm sanh diệt lưu chú”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là túc mạng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chẳng động thiệt tế mà biết rõ tiền tế”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thần thông?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chẳng động ma nghiệp mà dẹp phá các ma”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là điều phục?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Hay điều phục tất cả kẻ khó điều phục”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thủ hộ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chẳng bị các căn làm nhiễu loạn”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là điều thuận?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tất cả các pháp chẳng dao động được”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là tịch tịnh?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Ở trong lửa phiền não mà chẳng bị cháy, độ người phiền não vì họ thuyết pháp”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là tịnh tín?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu nghe nói thân Phật là pháp sắc tướng thì trọn chẳng tin nhận chẳng bị nhiễu hoại”.
Thiên Tử nói: “Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là Bồ Tát thiện xảo phương tiện?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu thấy chúng sanh có phiền não lỗi lầm thì đồng như thấy Vô thượng Bồ đề, đây gọi là Bồ Tát thiện xảo phương tiện”.
Lúc nói pháp trên đây có vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Đức Thế Tôn khen rằng: “Lành thay lành thay! Văn Thù Sư Lợi khéo có thể diễn thuyết Bồ Tát hạnh, đây là đã nhiếp vô lượng công đức của tất cả Bồ Tát”.
Thương Chủ Thiên Tử lại bạch Văn Thù Sư Lợi: “Thuở trước Ngài cung kính cúng dường bao nhiêu Phật Thế Tôn mà được biệt tài ấy?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Ví như ảo nhơn tâm số đã dứt”.
Thiên Tử nói: “Tâm tướng của chúng sanh còn bất khả đắc huống là ảo nhơn mà có tâm dứt”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chư Phật Như Lai tánh tướng như vậy, tôi y pháp ấy mà cúng dường Như Lai”.
Thiên Tử nói: “Ngài thật hành Đàn Ba la mật đã bao lâu rồi?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Như hóa nhơn do Phật hóa ra, nếu ai có hỏi thật hành Đàn Ba la mật được bao lâu, thì hóa nhơn sẽ đáp thế nào?”.
Thiên Tử nói: “Không thể đáp vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tôi cũng như vậy, sao lại hỏi thật hành bao lâu?”.
Thiên Tử nói: “Ngài an trụ xan lẫn chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng vậy”.
Thiên Tử nói: “Ý Ngài thế nào?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tôi chẳng bỏ Phật pháp chẳng rời chúng sanh nên là xan lẫn”.
Thiên Tử nói: “Cứ như ý nghĩa mà ngài đã nói thì Ngài cũng là phá giới chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng vậy. Luận về người phá giới thì bị đọa ác đạo. Tôi vì độ chúng sanh khổ mà vào trong ác đạo nên gọi là phá giới”.
Thiên Tử nói: “Ngài phát khởi tâm tổn hại chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng vậy. Luận về tâm tổn hại thì gọi là chẳng yêu mến. Đối với phiền não và Nhị thừa tôi đều chẳng yêu mến nên gọi là tâm tổn hại”.
Thiên Tử nói: “Có phải ngài giải đãi chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng vậy. Tôi chẳng phát khởi ba nghiệp thân khẩu ý, không chỗ tiến cầu chẳng lấy chẳng bỏ nên gọi là giải đãi”.
Thiên Tử nói: “Có phải Ngài tán loạn chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng vậy. Luận về người tán loạn là chẳng an trụ tâm giải thoát. Vì thành thục tất cả chúng sanh mà tôi chẳng an trụ giải thoát nên gọi là loạn tâm”.
Thiên Tử nói: “Có phải Ngài vô trí chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng vậy. Luận về kẻ vô trí đồng với những người ngu lầm chẳng sợ sanh tử. Đối với sanh tử tôi chẳng kinh sợ, vì muốn thành thục các chúng sanh ngu lầm mà đồng sự nghiệp với họ nên gọi là vô trí”.
Thiên Tử nói: “Ngài là bực đáng nhận sự cúng dường của thế gian”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tôi đối với tất cả sanh lòng sát hại, tôi sát hại tham sân si cho họ nên là người đáng được thế gian cúng dường”.
Thiên Tử nói: “Như lời Ngài đã nói sẽ làm cho thế gian đều phải kinh sợ”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nầy Thiên Tử! Nếu thiệt tế kinh sợ thì thế gian kinh sợ, tại sao, vì tất cả thế gian tức thiệt tế vậy”.
Thiên Tử nói: “Nếu có người hủy báng thuyết này thì sẽ đến chỗ nào?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Sẽ đến Niết bàn. Tại sao, vì trong thánh giải thoát không có văn tự nên phá hủy ngôn thuyết thì được đến Niết bàn. Do nghĩa ấy nên tất cả pháp bổn lai giải thoát chẳng còn lại giải thoát. Vì đã giải thoát thì chẳng giải thoát lại”.
Thiên Tử nói: “Người hủy báng chánh pháp há chẳng đọa địa ngục ư?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu đã giải thoát thì rời lìa các hoặc nghiệp sao lại đọa địa ngục!”.
Thiên Tử nói: “Như lời Ngài nói, không người tán trợ”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Trong không vô tướng vô nguyện tán trợ chỗ nào”.
Thiên Tử nói: “Người tu không hành nên an trụ chỗ nào?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nên an trụ nơi từ, vì chúng sanh như ảo hóa tự tánh vốn không”.
Thiên Tử nói: “Thế nào biết rõ chúng sanh giới?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Thấy tất cả chúng sanh từ nhơn duyên khởi chẳng đoạn chẳng thường nên biết khắp chúng sanh giới”.
Thiên Tử nói: “Chúng sanh giới có nghĩa là gì?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chúng sanh giới tức là pháp giới”.
Thiên Tử nói: “Thế nào là pháp giới?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tự tánh không giới gọi là pháp giới”.
Thiên Tử nói: “Sao gọi là không giới?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Siêu quá tất cả cảnh giới là hư không giới”.
Thiên Tử nói: “Những gì là siêu quá giới?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Là Phật cảnh giới”.
Thiên Tử nói: “Sao gọi là Phật cảnh giới?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nhãn giới là Phật cảnh giới, nhưng Phật cảnh giới chẳng phải nhãn, vì nhãn sắc là cảnh giới của nhãn thức vậy.
Nhĩ giới là Phật cảnh giới, nhưng Phật cảnh giới chẳng phải nhĩ, vì nhĩ thanh là cảnh giới của nhĩ thức vậy.
Cho đến ý giới là Phật cảnh giới, nhưng Phật cảnh giới chẳng phải ý, vì ý pháp là cảnh giới của ý thức vậy.
Sắc giới là Phật cảnh giới, nhưng Phật cảnh giới chẳng phải sắc cảnh giới.
Cho đến thức giới là Phật cảnh giới, nhưng Phật cảnh giới chẳng phải thức cảnh giới.
Vô minh giới là Phật cảnh giới, nhưng Phật cảnh giới chẳng phải vô minh cảnh giới.
Cho đến lão bịnh tử giới là Phật cảnh giới, nhưng Phật cảnh giới chẳng phải lão bịnh tử cảnh giới.
Dục giới là Phật cảnh giới vì không tướng tham vậy.
Sắc giới là Phật cảnh giới vì chẳng phải đối trừ tham vậy.
Vô sắc giới là Phật cảnh giới vì chẳng phải không thấy rõ vậy.
Vô vi giới là Phật cảnh giới vì không hai tướng vậy.
Hữu vi giới là Phật cảnh giới vì không ba tướng vậy.
Nầy Thiên Tử! Đây gọi là Phật cảnh giới. Cảnh giới như vậy vào tất cả giới hoặc hữu biên hay vô biên đều nhiếp thọ cả.
Vì khéo vào cảnh giới ấy nên Bồ Tát thường đi trong tất cả cảnh giới thế gian siêu quá ma giới. Nơi Phật giới cùng ma giới Bồ Tát biết rõ như thiệt tịch tĩnh bình đẳng nên gọi là đại thần biến.
Lại nữa, Bồ Tát chẳng an trụ bình đẳng, dùng pháp bình đẳng thành thục chúng sanh.
Thế nào là bình đẳng và phi bình đẳng? Tất cả các pháp tự tánh không tịch, biết rõ như vậy gọi là an trụ bình đẳng. Chẳng vào được pháp tánh không tịch thì gọi là phi bình đẳng.
Bồ Tát thành thục chúng sanh phi bình đẳng như vậy mà cũng chẳng an trụ không bình đẳng.
Tất cả các pháp vô tướng bình đẳng, vô nguyện bình đẳng, vô tác bình đẳng, vô sanh bình đẳng, vô diệt bình đẳng, ly nhiễm bình đẳng, tịch tĩnh bình đẳng, vô tánh bình đẳng, diệt bình đẳng, Niết bàn bình đẳng, chúng sanh ấy chẳng biết pháp bình đẳng như vậy. Bồ Tát thành thục các chúng sanh như vậy mà cũng chẳng an trụ nơi bình đẳng.
Vì thế nên chẳng trụ bình đẳng chẳng ly bình đẳng gọi là Bồ Tát hạnh”
.
Thương Chủ Thiên Tử bạch Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Xin Ngài vì tôi mà nói những Bồ Tát hạnh”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Bồ Tát hạnh chẳng thể nghĩ bàn được”.
Thiên Tử nói: “Thế nào là Bồ Tát hạnh chẳng thể nghĩ bàn?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tham hành là Bồ Tát hạnh vì tham chẳng thể nghĩ bàn. Sân hành là Bồ Tát hạnh vì sân chẳng thể nghĩ bàn. Si hành là Bồ Tát hạnh vì si chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng xan lẫn là Bồ Tát hạnh vì không ý tưởng bố thí. Chẳng phá giới là Bồ Tát hạnh vì chẳng lấy giới tướng. Chẳng giận hại là Bồ Tát hạnh vì không tướng nhẫn. Chẳng giải đãi là Bồ Tát hạnh vì rời niệm tinh tấn. Chẳng tán loạn là Bồ Tát hạnh vì chẳng trụ nơi định. Rời ngu si là Bồ Tát hạnh vì chẳng sanh ý tưởng là trí. Không phiền não là Bồ Tát hạnh vì không sở đoạn. Không tham ái là Bồ Tát hạnh vì rời thân tướng. Lòng xót thương là Bồ Tát hạnh vì bỏ lòng thương của nữ nhơn. Không ô nhiễm là Bồ Tát hạnh vì quở trách ngũ dục. Rời phi pháp là Bồ Tát hạnh vì chứa họp căn lành. Không tiếc lẫn là Bồ Tát hạnh vì xả bỏ thân mạng. Dứt các ác là Bồ Tát hạnh vì không nhiệt não. Không sở trước là Bồ Tát hạnh vì rời ái phi ái. Không sở hoại là Bồ Tát hạnh vì chánh quán phiền não. Không bố úy là Bồ Tát hạnh vì vào vô biên sanh tử. Đại tinh tấn là Bồ Tát hạnh vì mang gánh tất cả chúng sanh. Chẳng thối chuyển là Bồ Tát hạnh vì thành mãn nguyện xưa. Các bửu hành là Bồ Tát hạnh vì nhiếp Tam bửu. Tất cả hạnh là Bồ Tát hạnh vì siêng tu pháp trợ đạo. Không chướng ngại là Bồ Tát hạnh vì rời nhị biên. Không lỗi lầm là Bồ Tát hạnh vì được người trí khen. An trụ tâm là Bồ Tát hạnh vì nhớ tất cả chúng sanh. Vô phân biệt là Bồ Tát hạnh vì bình đẳng xem tất cả. Thiện trượng phu là Bồ Tát hạnh vì gánh vác không mỏi. Dũng mãnh là Bồ Tát hạnh vì xô phá tất cả phiền não. Vững chắc là Bồ Tát hạnh vì việc làm chẳng bỏ giữa chừng. Thắng xuất là Bồ Tát hạnh vì tinh tấn chẳng thối lui. Tùy thuận là Bồ Tát hạnh vì đối với đồng lữ chẳng trái nghịch. Hoan hỉ là Bồ Tát hạnh vì làm cho kẻ làm ác hoan hỉ. Tín lạc là Bồ Tát hạnh vì thấy Phật nghe pháp thờ thầy vui mừng. Mão giáp kim cương là Bồ Tát hạnh vì chẳng phá luật nghi. Trang nghiêm Phật độ là Bồ Tát hạnh vì thanh tịnh tâm mình. Siêu quá tất cả là Bồ Tát hạnh vì nhập tối thượng thừa. Biết ơn báo ơn là Bồ Tát hạnh vì chẳng dứt giống Phật.
Trí huệ phương tiện là Bồ Tát hạnh vì nhiếp thọ không dứt vậy”.
Lúc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói các Bồ Tát hạnh ấy có năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Thương Chủ Thiên Tử nói: “Lành thay! Ngài Văn Thù Sư Lợi khéo nói Bồ Tát hạnh ấy, nếu chư Bồ Tát làm được như vậy tức là đã được đức Như Lai thọ ký”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Thiên Tử! Thuở xưa lúc ta được Bồ Tát hạnh ấy, đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta, lúc ấy ta được vô sanh pháp nhẫn. Đây gọi là Như Lai tối đại thần biến. Người đã lâu thành tựu nghiệp thanh tịnh mới có thể tu tập Bồ Tát hạnh ấy”.
Thương Chủ Thiên Tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào gọi là vô sanh? Thế nào sẽ được vô sanh ấy?”.
Đức Phật nói: “Nầy Thiên Tử! Vô sanh ấy chẳng phải trước có sanh rồi sau nói vô sanh, chính là bổn tự chẳng sanh nên gọi là vô sanh. Chẳng phải trước có khởi rồi sau nói vô khởi, chính là bổn lai chẳng khởi nên gọi là vô khởi. Chẳng phải trước có tướng rồi sau nói vô tướng, chính là bổn lai không có tướng nên gọi là vô tướng. Chẳng phải trước có tạo tác rồi sau nói vô tác, chính là bổn lai chẳng tạo tác nên gọi là vô tác. Chẳng phải trước có chúng sanh rồi sau nói không, chính là chúng sanh tánh không nên nói là không. Biết rõ vô sanh vô diệt vốn không chỗ nhiễm trước như vậy thì gọi là vô sanh.
Nhẫn khả tất cả chúng sanh tất cả quốc độ bổn lai bất sanh như vậy thì gọi là vô sanh nhẫn.
Nhẫn khả tất cả Thanh Văn và Bích Chi Phật bổn lai chẳng sanh như vậy thì gọi là vô sanh nhẫn.
Nhẫn khả tất cả Bồ Tát tất cả chư Phật bổn lai chẳng sanh như vậy thì gọi là vô sanh nhẫn.
Nhẫn khả tất cả các pháp bổn lai chẳng sanh như vậy thì gọi là vô sanh nhẫn.
Nầy Thiên Tử! Vì các pháp chẳng sanh nên sát na sát na không. Vì sát na không nên gọi là vô tướng. Vì sát na vô tướng nên sắc sát na không. Vì sắc sát na không nên thọ tưởng hành thức sát na không. Vì thức sát na không nên giới sát na không. Vì giới sát na không nên xứ sát na không. Nếu sát na không thì vô sở hữu. Vì vô sở hữu nên vô sở nhiễm. Vì vô sở nhiễm nên tự tánh ly. Vì tự tánh ly nên gọi các pháp bổn lai tịch tĩnh. Có thể nhẫn khả nhập vào bình đẳng như vậy thì gọi là được vô sanh nhẫn thọ ký Bồ đề. Người được vô sanh nhẫn nầy là vô sở đắc.
Thế nào gọi là hữu sở đắc?
Thấy hai tướng ngã ngã sở khả đắc thì gọi là hữu sở đắc. Thấy hai tướng chúng sanh thọ giả dưỡng dục ngã nhơn khả đắc thì gọi là hữu sở đắc.
Thế nào gọi là vô sở đắc?
Thấy tự tánh của ngã và ngã sở biết rõ không có hai thì gọi là vô sở đắc là thành tựu vô sanh nhẫn.
Nầy Thiên Tử! Trong vô số kiếp Bồ Tát tu hành nhẫn ấy thì gọi là Như Lai tối đại thần biến”.
Lúc đức Phật nói nhẫn ấy, cả Tam thiên Đại thiên thế giới chấn động sáu cách, quang minh lớn chiếu khắp tất cả thế giới, trăm ngàn âm nhạc chẳng trổi tự kêu, giữa hư không mưa hoa đẹp, có bốn vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, chín vạn Bồ Tát được tùy thuận pháp nhẫn. Do thần lực của Phật làm cho Ta Bà thế giới nầy đồng như lúc đức Phật Nhiên Đăng vào thành Liên Hoa.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền mỉm cười, có vô lượng trăm ngàn tia sáng mầu từ miệng Phật phóng ra chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới lên đến trời Phạm Thế che khuất cả ánh sáng nhựt nguyệt. Ánh sáng ấy trở về nhiễu Phật ba vòng rồi nhập vào đảnh Phật.
Tôn giả A Nan đứng dạy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính nói kệ bạch Phật:
“Tôi hỏi đấng trang nghiêm
Quang minh không ai bằng
Phá các tối phiền não
Do cớ gì mỉm cười
Tôi hỏi đấng thập lực
Xô phá các ma oán
Hàng phục các ngoại đạo
Do cớ gì mỉm cười
Như Lai sắc thù diệu
Đủ ba mươi hai tướng
Được mười phương tôn kính
Do cớ gì mỉm cườI
Biển trí cây trí huệ
Khai đạo các quần sanh
Công đức lớn vô biên
Do cớ gì mỉm cười
Tiếng tốt khắp ba thuở
Rời cấu được tam minh
Đã độ ba giải thoát
Do cớ gì mỉm cười
Y Vương phá sanh tử
Dưới chưn đủ luân tướng
Thân kim cương bất hoại
Do cớ gì mỉm cười
Ai hay đủ nhẫn ấy
Ai tu tịnh hạnh ấy
Chí cầu Phật công đức
Nên Thế Tôn mỉm cười
Đạo Sư hiện mỉm cười
Tất là có nhơn duyên
Lành thay diễn phạm âm
Khiến đại chúng hoan hỉ”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Lúc ta nói pháp môn ấy có ba vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, ba vạn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn.
Nầy A Nan! Ông có thấy Thương Chủ Thiên Tử chăng?”.
-Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thấy.
-Nầy A Nan! Thương Chủ Thiên Tử ấy đã từng cúng dường vô số chư Phật, khuyến phát vô lượng chúng sanh an trụ Vô thượng Bồ đề.
Thương Chủ Thiên Tử ấy quá ba trăm a tăng kỳ kiếp sẽ được Vô thượng Bồ đề hiệu Công Đức Vương Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, quốc độ tên Thanh Tịnh, kiếp tên Vô Cấu. Cõi ấy đều bằng bảy báu, đất bằng phẳng có tám thềm đường, giăng những màn lưới báu nhiều thứ trang nghiêm. Cõi ấy không có tên Thanh Văn Bích Chi Phật và các ngoại đạo, không có ma sự phá chánh pháp, cũng không có tám nạn và các phi pháp cùng tiếng khổ não. Chúng sanh cõi ấy tùy tâm sở nguyện ẩm thực tự nhiên, y phục trân ngoạn đồng như trời Tha Hóa Tự Tại, thân hình kim sắc đủ ba mươi hai tướng đều an trụ Vô thượng Bồ đề, nên gọi là thế giới Thanh Tịnh.
Phật Công Đức Vương Quang Minh thọ bốn mươi tiểu kiếp. Trong Phật pháp ấy có sáu mươi hai câu chi Bồ Tát do nguyện lực nên Niết bàn theo Phật ấy.
Nầy A Nan! Nếu có Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề được vô sanh nhẫn ấy tất cả đều sẽ sanh thế giới Thanh Tịnh được đức Công Đức Vương Quang Minh Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ đề”.
Bấy giờ trong pháp hội có Thiên Tử tên Quan Sát lấy hoa thiên mạn đà la rải trên Phật mà nói rằng: “Lúc Công Đức Vương Quang Minh Như Lai thành đạo Vô thượng, tôi sẽ sanh thế giới Thanh Tịnh làm Chuyển Luân Vương cúng thờ Phật ấy và chúng Bồ Tát, được kế bổ làm Phật chứng Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Quan Sát Thiên Tử sẽ ở trong pháp của Công Đức Vương Quang Minh Như Lai làm Chuyển Luân Vương tên Thiện Kiến dùng vô lượng đồ cúng dường cung kính dâng lên Phật ấy, đầy đủ viên mãn pháp trợ Bồ đề sẽ thành Phật tại thế giới ấy hiệu Phổ Quang Minh Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác.
Nầy A Nan! Vua Thiện Kiến lập trưởng tử nối ngôi rồi theo Phật ấy xuất gia tu hành. Lúc sắp Niết bàn, đức Phật ấy thọ ký cho Bồ Tát Thiện Kiến kế sẽ thành Vô thượng Bồ đề”.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Thương Chủ Thiên Tử: “Đức Như Lai đã thọ ký Bồ đề cho ngài”.
Thiên Tử nói: “Nầy Tôn giả! Như Đức Phật biến hóa nhơn rồi thọ ký cho, tôi cũng như vậy. Như tánh chơn như chẳng tăng chẳng giảm Thế Tôn thọ ký cũng chẳng tăng giảm”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Nầy A Nan! Pháp môn như vậy ông phải thọ trì rộng giảng thuyết cho mọi người khiến lợi ích an lạc cho vô lượng chúng sanh để nhiếp thọ các Bồ Tát vị lai”.
Tôn giả A Nan bạch Phật: “Tôi đã đảnh thọ, sẽ đặt tên gì và thọ trì thế nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy A Nan! Kinh nầy tên là kinh Nói Đại Thần Biến, cũng tên là Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Mật Ngữ, cũng tên là kinh Thương Chủ Sở Vấn, nên thọ trì như vậy.
Nầy A Nan! Nếu thiện nam thiện nữ có thể tín thọ đọc tụng rộng nói kinh này thì là đã nhiếp tất cả công đức”.
Đức Phật nói kinh này xong, huệ mạng A Nan và chúng Tỳ Kheo, Thương Chủ Thiên Tử và vô lượng vô biên a tăng kỳ na do tha chư Thiên Tử, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và vô lượng vô số chúng đại Bồ Tát từ mười phương thế giới đến tập họp cùng tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La v.v… nghe lời Phật dạy đều hoan hỉ phụng hành.