1
2
3
4
5

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 – DL 1999

 Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi

 Việt Dịch:  Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

TẬP 1

***

1. PHÁP HỘI TAM TỤ LUẬT NGHI THỨ NHẤT

(Hán bộ từ quyển thứ nhất đến hết quyển thứ ba)

Như vậy, tôi nghe: một thuở nọ đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật nơi thành Vương Xá. Núi đó cao đẹp, cỏ cây hoa quả đều xanh tốt xum xuê. Hàng Thiên, Long, Dạ Xoa, Tỳ Xá Xà, Khẩn Na La v.v… thường ở nơi đó.

 Trong núi lại có các loài muông thú: sư tử, cọp, sói, kỳ lân, voi, ngựa, gấu v.v…

 Núi này có đủ các loài chim: chim công, chim két, nhồng, sáo, le le, chim nhạn, chim uyên ương, chim cộng mạng v.v…

 Các loài chim muông trong núi nhờ oai thần của Phật nên tất cả đều hiền lành chẳng giết hại ăn thịt nhau, thương yêu nhau như tình mẫu tử.

 Những cây mộc hương, cây am la, cây chân thúc ca, cây ni câu đà, cây chiên đàn, cây trầm thủy mọc rậm thành rừng.

 Khắp núi đầy những hoa đẹp. Trên đất có những hoa: a đề, chiêm bà, ba tra, bà sư, tô mạng, do đề. Dưới nước có những hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hoa sen trắng, hoa ca la. Màu hoa hương hoa xen nhau làm cho núi Kỳ Xà Quật vừa đẹp vừa thơm.

 Trên núi này, nửa đêm thường có mây bao phủ, văng vẳng tiếng sấm, láy pháy mưa bay, nước bát công đức chảy thấm khắp núi. Khoảng thời gian vắt sữa, mây mưa đều tan. Kế đó gió mát thoang thoảng làm vui thích thân tâm mọi người.

 Trong núi này có loài cỏ dịu mềm đủ cả sắc lẫn hương, xanh mướt bóng láng như lông ức chim công, thơm như hoa bà sư ca, chạm đến mịn nhuyễn như bông đâu la. Do đây mặt đất mềm dịu, làm êm chân người đi không bao giờ đau rát.

 Trong núi có nhiều ao, hồ, suối chảy. Giữa nước trong mát đủ các loại hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía mọc lên. Hương sen ngào ngạt khắp núi.

 Đảnh núi có tòa sen báu lớn tốt đẹp: kim cương xanh làm cọng, lưu ly làm tua, vàng diêm phù đàn làm cánh rộng lớn, chiên đàn làm gương, ngọc mã não làm nhụy. Tòa sen báu này to rộng mênh mông.

 Mười ức A Tu La Vương thường cầm mười ức lưới báu ma ni giăng che phía trên bảo tòa. Mười ức Long Vương rưới mưa thơm. Mười ức Kim Xí Điểu Vương miệng ngậm giải lụa màu. Mười ức Khẩn Na La Vương chí thành chiêm ngưỡng. Mười ức Ma Hầu La Dà Vương cung kính cúi nhìn. Mười ức Càn Thát Bà Vương ca ngâm khen ngợi. Mười ức Thiên Đế bủa mây lành, rải các thứ hương, các thứ hoa, cùng tràng phan bảo cái. Mười ức Phạm Vương cúi mình kính ngưỡng. Mười ức trời Tịnh Cư chắp tay đảnh lễ. Mười ức Chuyển Luân Vương mang theo thất bảo. Mười ức Hải Thần đến kính lễ bảo tòa.

 Tòa sen báu này lại có vô số bảo châu như ý kết hợp trang nghiêm: Mười ức bảo châu Quang minh ma ni chiếu sáng, mười ức bảo châu Tịnh phước ma ni xinh đẹp, mười ức bảo châu Biến chiếu ma ni trong sạch, mười ức bảo châu Diệu quang ma ni chõi rỡ, mười ức bảo châu Tạp sắc ma ni chiếu khắp, mười ức bảo châu Diêm phù tràng ma ni vững vàng, mười ức bảo châu Kim cương sư tử ma ni trang nghiêm, mười ức bảo châu Nhựt tạng ma ni rộng lớn, mười ức bảo châu Bất tư nghị ma ni ánh đủ màu, mười ức bảo châu Như ý trang nghiêm vô tận.

 Bảo tòa liên hoa này có ra là từ nơi thiện căn vô thượng của đức Như Lai. Là chỗ mà chí ý của Bồ Tát ái mộ khắp hiện các nơi.

 Bảo tòa này cũng là từ pháp như huyễn mà có, cũng là từ thiện nghiệp, từ pháp tánh vô tránh, pháp tánh như mộng mà có. Pháp vô hành dùng để ấn. Thuận với lý vô trước, nên cùng khắp mười phương tất cả pháp giới. Do công đức thuận với cảnh giới Phật mà tạo nên.

 Giả sử trong vô lượng a tăng kỳ kiếp cũng không thể ca ngợi hết sắc tướng xinh đẹp và công đức trang nghiêm của tòa sen báu này được.

 Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ngự kiết già trên bảo tòa này.

 Bên bảo tòa có tám ngàn vị đại Tỳ Kheo câu hội: Tôn giả Kiều Trần Như, Tôn giả A Tháp Bà, Tôn giả Ma Sử Ba, và các Tôn giả: Ma Ha Nam, Ưu Đà Di, Gia Xá, Phú Na, Vô Cấu Thiện Tý, Kiều Phạm Ba Đề, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, A Na Luật, Tu Bồ Đề, Ly Bà Đa, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Ưu Ba Ly, La Hầu La, Nan Đà v.v… các vị Thượng thủ Tỳ Kheo này đều đã giác ngộ đế lý tự tánh, qua khỏi biển tam giới. Các Ngài đi trong hạnh hư không của Như Lai, đều dứt hẳn phiền não, đều trụ nơi vô trụ, dứt hết nghi hoặc đối với đức Như Lai. Các Ngài đã vào trong biển trí huệ của Phật, là bạn bất thỉnh cầu đem lợi ích cho thế gian. Các Ngài luôn vệ hộ tất cả chúng sanh mà làm bạn đi sát theo họ. Các Ngài đã thông đạt cảnh giới Phật pháp. Các Ngài thệ nguyện thủ hộ thọ trì chánh pháp của chư Phật, hiện tiền đặng sanh chủng tánh Như Lai có thể hướng đến nhất thiết chủng trí.

 Tám ngàn vị đại Bồ Tát câu hội. Thượng thủ là các Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Tối Thượng Trí Trí Bồ Tát, Tối Thượng Bửu Trí Bồ Tát, Nhứt Thiết Ngữ Ngôn Trí Bồ Tát, Vô Trước Trí Bồ Tát, Hoa Thượng Trí Bồ Tát, Nhựt Thượng Trí Bồ Tát, Nguyệt Thượng Trí Bồ Tát, Vô Cấu Thượng Trí Bồ Tát, Kim Cang Trí Bồ Tát, Viễn Trần Trí Bồ Tát, Quang Tràng Bồ Tát, Diệu Cao Tràng Bồ Tát, Bửu Tràng Bồ Tát, Vô Ngại Tràng Bồ Tát, Hoa Tràng Bồ Tát, Tịnh Tràng Bồ Tát, Nhựt Tràng Bồ Tát, Đoan Nghiêm Tràng Bồ Tát, Ly Cấu Tràng Bồ Tát, Biến Chiếu Tràng Bồ Tát, Đà La Ni Oai Đức Bồ Tát, Bửu Oai Đức Bồ Tát, Đại Oai Đức Bồ Tát, Kim Cang Trí Oai Đức Bồ Tát, Vô Cấu Oai Đức Bồ Tát, Nhựt Oai Đức Bồ Tát, Nguyệt Oai Đức Bồ Tát, Phước Sơn Oai Đức Bồ Tát, Trí Chiếu Oai Đức Bồ Tát, Phổ Thắng Oai Đức Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Bửu Tạng Bồ Tát, Nhựt Tạng Bồ Tát, Thanh Tịnh Công Đức Tạng Bồ Tát, Pháp Hải Tạng Bồ Tát, Biến Chiếu Tạng Bồ Tát, Tề Tạng Bồ Tát, Thắng Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Nhựt Nhãn Bồ Tát, Tịnh Nhãn Bồ Tát, Vô Cấu Nhãn Bồ Tát, Vô Ngại Nhãn Bồ Tát, Phổ Minh Nhãn Bồ Tát, Thiện Lợi Trí Nhãn Bồ Tát, Kim Cang Nhãn Bồ Tát, Bửu Nhãn Bồ Tát, Hư Không Nhãn Bồ Tát, Phổ Nhãn Bồ Tát, Thiên Quan Bồ Tát, Chiếu Pháp Giới Ma Ni Quan Bồ Tát, Diệu Bồ ề Ma Ni Quan Bồ Tát, Chiếu Thập Phương Quan Bồ Tát, Xuất Hiện Nhứt Thiết Phật Tạng Quan Bồ Tát, Siêu Nhứt Thiết Thế Gian Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Quan Bồ Tát, Vô Ánh Tể Quan Bồ Tát, Chấp Trì Như Lai Sư Tử Tòa Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan Bồ Tát, Phạm Vương Kế Bồ Tát, Long Vương Kế Bồ Tát, Phật Biến Hóa Ảnh Tượng Kế Bồ Tát, Diệu Bồ Đề Kế Bồ Tát, Nguyện Hải Âm Thanh Ma Ni Vương Kế Bồ Tát, Phóng Như Lai Viên Quang Ma Ni Bửu Lôi Thinh Kế Bồ Tát, Hư Không Biểu Thị Ma Ni Bửu Võng Phú Kế Bồ Tát, Như Lai Pháp Luân Thinh Kế Bồ Tát, Tam Thế Danh Luân Thinh Kế Bồ Tát, Đại Quang Bồ Tát, Vô Cấu Quang Bồ Tát, Bửu Quang Bồ Tát, Ly Trần Quang Bồ Tát, Chiếu Quang Bồ Tát, Pháp Quang Bồ Tát, Tịch Tịnh Quang Bồ Tát, Nhựt Quang Bồ Tát, Thần Biến Quang Bồ Tát, Thiên Quang Bồ Tát, Phước Quang Bồ Tát, Trí Quang Bồ Tát, Pháp Quang Minh Bồ Tát, Thần Thông Quang Bồ Tát, Quang Chiếu Bồ Tát, Hoa Quang Bồ Tát, Bửu Quang Bồ Tát, Giác Quang Minh Bồ Tát, Phạm Quang Bồ Tát, Phổ Chiếu Quang Bồ Tát, Phạm Âm Bồ Tát, Hải Âm Bồ Tát, Địa Hống Âm Bồ Tát, Thế Gian Vương Âm Bồ Tát, Sơn Vương Âm Bồ Tát, Sơn Vương Tướng Kích Âm Bồ Tát, Biến Pháp Giới Âm Bồ Tát, Pháp Hải Lôi Âm Bồ Tát, Tồi Phục Chư Ma Âm Bồ Tát, Đại Bi Lý Thú Vân Lôi Âm Bồ Tát, Biến Tức Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não Âm Bồ Tát, Pháp Thắng Dũng Bồ Tát, Thù Thắng Dũng Bồ Tát, Trí Thắng Dũng Bồ Tát, Phước Tu Di Thắng Dũng Bồ Tát, Công Đức Tối Thắng Dũng Bồ Tát, Danh Văn Thắng Dũng Bồ Tát, Phổ Quang Thắng Dũng Bồ Tát, Đại Từ Thắng Dũng Bồ Tát, Trí Chiếu Thắng Dũng Bồ Tát, Như Lai Chủng Tánh Thắng Dũng Bồ Tát, Quang Đức Bồ Tát, Thắng Đức Bồ Tát, Pháp Dũng Đức Bồ Tát, Biến Chiếu Đức Bồ Tát, Pháp Đức Bồ Tát, Nguyệt Đức Bồ Tát, Hư Không Đức Bồ Tát, Bửu Đức Bồ Tát, Thiệt Đức Bồ Tát, Quang Đức Bồ Tát, Trí Đức Bồ Tát, Bà La Đế Vương Bồ Tát, Pháp Đế Vương Bồ Tát, Tượng Đế Vương Bồ Tát, Phạm Đế Vương Bồ Tát, Sơn Đế Vương Bồ Tát, Chúng Đế Vương Bồ Tát, Thiên Đế Vương Bồ Tát, Tịch Tịnh Đế Vương Bồ Tát, Bất Động Đế Vương Bồ Tát, Tối Thắng Đế Vương Bồ Tát, Bồ Đề Tịch Tịnh Thinh Bồ Tát, Vô Trước Thinh Bồ Tát, Địa Thinh Bồ Tát, Đại Hải Thinh Bồ Tát, Âm Thinh Bồ Tát, Chiếu Pháp Thinh Bồ Tát, Hư Không Thinh Bồ Tát, Nhứt Thiết Thinh Bồ Tát, Thiện Căn Vân Lôi Thinh Bồ Tát, Phát Ngộ Bổn Nguyện Thinh Bồ Tát, Tồi Nhứt Thiết Ma Quân Thinh Bồ Tát, Trí Tu Di Giác Bồ Tát, Hư Không Giác Bồ Tát, Thanh Tịnh Giác Bồ Tát, Vô Ngại Giác Bồ Tát, Khai Mụ Giác Bồ Tát, Chiếu Tam Thế Giác Bồ Tát, Bửu Giác Bồ Tát, Quảng Đại Giác Bồ Tát, Phổ Quang Giác Bồ Tát, Pháp Giới Lý Thú Chiếu Giác Bồ Tát, v.v… Các vị đại Bồ Tát này đều an trụ nguyện hạnh Phổ Hiền, chỗ làm không trụ trước, vì khắp tất cả cõi Phật. Các Ngài biến hiện vô biên thân, vì gần gũi tất cả chư Phật. Các Ngài duyên cảnh thanh tịnh vô hạn, vì rõ biết tất cả thần biến của chư Phật. Các Ngài đến đi vô lượng, vì không ngớt qua đến chỗ chư Phật hiện thành Chánh đẳng giác. Các Ngài quang minh vô biên, vì trong biển thiệt tướng được trí quang vô biên. Các Ngài nói vô tận công đức trong vô biên kiếp, vì biện tài thanh tịnh. Các Ngài đồng hư không, vì trí thanh tịnh, Các Ngài không chỗ y ỷ, vì tùy ý lạc thế gian mà hiện sắc thân. Các Ngài lìa được sự che lòa, vì rõ biết không có chúng sanh giới. Các Ngài trí huệ như hư không, vì phóng lưới quang minh khắp pháp giới. Các Ngài rốt ráo tịch tịnh, vì tâm rất tịch tịnh. Các Ngài trụ cảnh giới tánh trí tất cả tổng trì. Các Ngài dũng mãnh vô úy nơi chánh định. Các Ngài mắt thấy suốt ngằn mé pháp giới. Các Ngài trụ vô sở đắc đối với tất cả pháp, đi nơi biển trí vô biên, đã qua đến bờ trí huệ Bát nhã ba la mật, đến ba la mật của tất cả thế gian, được tự tại nơi Chánh định ba la mật.

 Năm trăm vị Tỳ Kheo Ni đồng câu hội: Ma Ha Ba Xà Ba Đề Tỳ Kheo Ni, Cù Đàm Di Tỳ Kheo Ni, An Ổn Tỳ Kheo Ni, Ưu Bát La Hoa Tỳ Kheo Ni, Dũ Cù Đàm Di Tỳ Kheo Ni, Gia Du Đà La Tỳ Kheo Ni v.v…

 Năm trăm vị Ưu Bà Tắc câu hội, hàng thượng thủ là các Ưu Bà Tắc: Thiện Oai Đức, Huệ Quang, Thiên Oai Đức, Danh Xưng Oai Đức, Siêu Danh Xưng Oai Đức, Thiện Huệ, Nguyệt Đức, Nguyệt Hoan Hỷ, Đại Hoan Hỷ, La Hầu Hiền, Đại Hiền v.v…

 Năm trăm vị Ưu Bà Di câu hội, dẫn đầu là các vị Ưu Bà Di: Đại Quang, Thiện Quang, Thiện Thân, Khả Lạc Thân, HIền Đức, Nguyệt Quang, Quang Minh, Thắng Quang, Thiện Nhãn v.v…

 Và có vô lượng Thiên, Long, Bát bộ cung kính hầu quanh đức Phật.

 Đức Phật vì đại chúng mà nói ba luật nghi, luật tạng của tất cả Như Lai, hiện bày công hạnh của tất cả Bồ Tát, chiếu rõ pháp giới có thể trang nghiêm tất cả cõi Phật, dẹp các tà hạnh, hàng phục ma oán, làm cho chúng sanh vui mừng được tỏ ngộ.

 Lúc đó Tôn giả Đại Ca Diếp đứng dậy trịch y vai hữu, quỳ chắp tay bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu chúng sanh cầu được thập trí lực, vô sở úy của Phật, thời phải thọ trì và tu hành pháp gì? Thọ trì pháp gì để được thành tựu đạo hạnh của Như Lai? Thọ trì pháp gì để được viên mãn công đức chứng Vô thượng Chánh giác?”

 Phật bảo Đại Ca Diếp: “Lành thay! Lành thay! Này Ca Diếp! Lời ông hỏi sẽ đem lại nhiều sự an ổn lợi ích cho người, cho trời. Ông lắng nghe kỹ và khéo suy nghĩ ghi nhớ.

 Nầy Đại Ca Diếp! Nếu chúng sanh cầu được trí lực vô sở úy của Phật, những chúng sanh này, thật ra không có chút pháp gì để được, cũng không chỗ nương dựa để gieo căn lành.

 Nầy Đại Ca Diếp! Lúc Bồ Tát cầu Vô thượng Chánh giác, nếu có chỗ được thời là chấp trước. Nếu chấp trước thời là chấp lấy hữu vi ngoài Phật pháp, ngoài hữu vi chấp lấy vô vi. Như thế là đối với Phật pháp sanh sự chấp trước mà cho là giải thoát. Lúc chấp lấy giải thoát thời nắm cứng lấy Phật pháp chẳng bỏ rời. Nên biết người như vậy chẳng gọi là hướng đến đạo Vô thượng. Vì người này ở trong Phật pháp chấp có ngã chuyên cần tu tập, đó là luôn tương ưng với ngã chấp mà không lìa bỏ được, do đây có năng phân biệt cùng sở phân biệt, bị phân biệt này sai sử. Nếu theo phân biệt để duyên cảnh thời có lưu chuyển. Đã có lưu chuyển thời có quán xuyên. Đã có quán xuyên thời có vọng tưởng. Có vọng tưởng thời có phân biệt, do phân biệt càng thêm vọng tưởng. Đã thêm vọng tưởng thời nhiều chấp trước mà lìa xa tịch tịnh. Đã lìa tịch tịnh thời chạy theo cảnh duyên. Đã chạy theo cảnh duyên thời mất sự an ổn. Sự an ổn đây là vô phân biệt. Đã mất an ổn thời thường vào cảnh duyên. Đã thường vào thời thân cận. Đã thân cận thời có phiền ão. Đã có phiền não thời có tương tục, có thêm lớn tương tục, có cùng khắp tương tục. Do đây lời nói tất cuồng loạn, tất sai lầm, bèn có ưu não, có hối hận. Đã có hối hận thời nương tựa vô minh màbị ưu não làm tổn hại. Nhưng thực ra trong đây không có chút pháp gì có thể nương tựa được. Dầu vậy, từ trong vọng tưởng sanh lưu chú mà bị vọng tưởng ràng buộc. Do sự ràng buộc này mà vọng tưởng tương tục, do đây nên gọi là vọng tưởng ràng buộc không có chân thật. Tất cả chỗ tham, sân, si đều hư vọng, là thêm phân biệt, là khắp phân biệt, là thêm chấp trước, là khắp chấp trước. Do đây không thể sớm đặng Vô thượng Bồ đề.

 Nầy Ca Diếp! Như trên đó gọi là ái kiến. Dầu vậy, nhưng không có pháp nhứt định gọi đó là ái, chỉ do chấp trước quá bền chắc mà có ái. Nếu đã là chấp trước thời ái này vẫn trống rỗng. Nếu đã trống rỗng mà sanh chấp trước thời là nhơn ái chấp trước, là ngã ái chấp trước, là chúng sanh ái chấp trước, là thiện bất thiện ái chấp trước.

 Nầy Ca Diếp! Người như vậy, đối với tất cả pháp không, mà phân biệt là chẳng phải không, đối với chẳng phải vật mà tưởng là vật. Vật nói đây chính là Bồ đề. Nếu cho Bồ đề là vật, người đó do ngã chấp bèn chẳng phải Bồ Tát. Sự chấp trong đây nếu là bất khả đắc, thì sự chấp trong kia cũng là bất khả đắc, đây gọi là ngã chấp không chơn thật, chỉ có danh từ ngã mà thôi.

 Nếu có thể viên mãn hữu tình thì viên mãn Bồ đề. Thế nào gọi là viên mãn Bồ đề? Chính là như huyễn. Như huyễn đây là nói đại ngã, đại mạn. Nếu đem tưởng nương nơi tưởng, thời khác nào chẳng phải tưởng nương nơi chẳng phải tưởng. Nếu đem chẳng phải tưởng nương với chẳng phải tưởng thời như cuồng như say. Nếu cuồng say thì là đem khổ chạy theo khổ. Nếu đem khổ chạy theo khổ thì chư Phật đều nói là kẻ ở trong vòng cuồng ngôn rảo chạy, vì kẻ này nhiều tác ý. Đã nhiều tác ý thì có cống cao. Đã có cống cao thì có ngôn thuyết. Đã có ngôn thuyết thì càng thêm ngôn thuyết. Vì thêm nhiều ngôn thuyết, nên Phật gọi là kẻ ngôn thuyết, kẻ giáo thọ, kẻ thọ trì. Do đây nên các pháp đều từ tác ý mà được sanh trưởng.

 Nầy Đại Ca Diếp! Như trong hư không có mây nhóm giăng, mây này chẳng từ mười phương đến. Biết rõ mây nhóm như vậy chẳng phải từ mười phương. Đức Như Lai nói đúng sự thật, nói đúng nghĩa, nói đúng lý. Vì nói đúng lý chân thật, nên đức Như Lai gọi là đấng thật ngữ.

 Nầy Đại Ca Diếp! Nói rằng mây nhóm, chính là chẳng phải nhóm mà gọi là mây nhóm. Do đâu gọi là mây nhóm? Vì mây kia kết thành tướng trạng riêng biệt. Tướng trạng này do sự mê lầm thấy là rộng lớn, thật ra trong đó không có tướng nhỏ tướng lớn thật. Ông nhìn xem mây nhóm thành tướng rộng lớn kia, chính là chẳng phải tướng. Đã chẳng phải tướng thì chẳng thiệt có mây nhóm.

 Nầy Đại Ca Diếp! Như có kẻ bảo người khác rằng: nên cùng nhau qua chỗ râm mát mà ngồi. Người trí bảo tôi chẳng qua ngồi. Kẻ kia nói nay tôi chẳng nói như vậy, tôi chỉ nói là bóng râm mát. Người trí lại bảo: Anh nói râm mát chính nơi đó chẳng phải râm mát!

 Nầy Đại Ca Diếp! Ông xem người trí kia thuận theo thế tục mà còn có thể tỏ ngộ như vậy như vậy.

 Nầy Đại Ca Diếp! Đức Như Lai đúng như thật biết rõ lý tánh chân thật của các pháp, rồi ở trong đại chúng tự tại tuyên thuyết.

 Nầy Đại Ca Diếp! Đức Như Lai thích ở trong pháp tùy thuận mà trụ nơi chẳng tùy thuận. Nơi ngã chấp của chúng sanh, ở Như Lai là đệ nhất nghĩa. Vì nay đức Như Lai đã biết rõ ngã chấp kia: biết rõ sự chấp của chúng sanh là chẳng phải chấp. Đây là lời bí mật tối thắng của Phật.

 Hoặc có kẻ ngu sanh lòng ngang trái tranh cãi với Như Lai, do đây Phật nói thế gian tranh cãi với Phật, Phật chẳng bao giờ tranh cãi với thế gian. Thế nào là thế gian? Chính là chúng sanh. Tại sao chúng sanh gọi là thế gian? Đức Như Lai biết rõ thế gian như vậy nên gọi chúng sanh là thế gian. Như kẻ ngu kia chỗ hiểu biết sai lầm, bị sự biết sai này làm tổn hại. Những kẻ này thường tin và ở mãi trong thế gian, theo mãi nơi thế tục, đây gọi là vô minh, vì họ ở trong sự tối tăm lớn nên gọi là ở thế gian. Nếu ở thế gian thì có tham. Nếu đã có tham thì có sân. Nếu đã có sân thì có si. Nếu đã có si thì là bất tịnh. Đã bất tịnh thì trái ngược. Trái ngược với ai? Trái với Như Lai và hàng Thanh Văn. Đã trái ngược thời chống trả. Đã chống trả thì thêm trái ngược. Thêm trái ngược thì thích hữu lậu. Đã thích hữu lậu thì tâm mong cầu. Đã mong cầu hữu lậu bèn khắp mong cầu. Đã khắp mong cầu thì chẳng biết đủ. Đã chẳng biết đủ thì nhiều gây tạo. Đã nhiều gây tạo thì nhiều tham dục. Đã nhiều tham dục thì kẻ đó chìm ngập trong ba cõi. Đã tự chìm ngập trong ba cõi thì làm cho người khác cũng chìm ngập. Đã làm người khác chìm ngập thì họ theo dòng và cũng trôi theo dòng. Nếu theo dòng và trôi theo dòng thì thẳng đến chỗ chết. Nếu thẳng đến chỗ chết thì chẳng đến được Niết Bàn. Đã chẳng đến Niết Bàn thì đến chỗ lỗi quấy. Đã đến chỗ lỗi quấy thì thẳng đến địa ngục.

 Nầy Ca Diếp! Do tương ưng với pháp chẳng lành như vậy nên tâm trở thành giận hờn độc hại và chẳng biết đậy che. Chẳng đậy che đây là nói chẳng quán ngã chấp. Vì chẳng quán sát nên chấp làm một hiệp tướng, do đây không thể tiêu diệt được ngã và ngã sở.

 Thế nào gọi là ngã? Vì chấp trước chẳng đúng thật, ở nơi các thú vọng tưởng tạo những nghiệp thế gian. Nơi đây họ chấp ngã tướng cho là ngã.

 Thế nào là ngã sở? Chính do tham dục gọi là ngã sở. Do các cảnh dục hòa hiệp với thân mà có tâm tham. Đã có tâm tham thì hư hoại giới tụ. Do đây sanh tâm chẳng lành đối với sở hữu của người khác. Do giận hờn mà khinh khi hủy báng lẫn nhau. Thâu lấy tài vật làm sở hữu của mình rồi ôm ấp giữ gìn, chính đây gọi là ngã sở.

 Người có ngã sở thì có lưu chuyển. Đã có lưu chuyển thì có mê lầm. Đã có mê làm thì có phỉ báng. Đã có phỉ báng thì có giận hờn. Đã có giận hờn thì có giết hại. Đã có hại nhau thì bị sự hại này đốt cháy. Đã bị đốt cháy thì có khắp đốt cháy. Những lỗi trên đây đều do lòng tham dục nơi sở hữu, nên gọi là ngã sở.

 Do những nghĩa trên đây nên nói ngã sở thì đã là mắng nhiếc thân mình. Kẻ ngu si vì chấp ngã mà thành ngu phu, cho nên gọi đó là ngã sở.

 Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có chúng sanh chẳng nghe pháp này mà nói Bồ đề và Bồ Tát hạnh, thời là phi hạnh. Nên biết Bồ Tát hạnh thật không có chỗ thật hành mới chính là Bồ Tát hạnh.

 Nầy Đại Ca Diếp! Nếu Bồ Tát công hạnh viên mãn không kém, không thiếu, thanh tịnh, rất thanh tịnh, khắp thanh tịnh, thời có thể gọi là tuyên thuyết đại pháp này, gọi là bực có thế lực, bực dũng mãnh tinh tấn. Chỗ thuyết pháp của Bồ Tát này đồng với hư không, chẳng chứa đọng, chẳng trệ ngại.

 Người làm đúng lý, người có công đức, người khéo tu hành, trọn chẳng bao giờ làm điều phi lý, không công đức, chẳng tu hành.

 Các ông phải thọ trì pháp này. Ở trong pháp này chớ sanh lòng chấp trước. Vì pháp của Như Lai nói rất là đệ nhứt. Vì là bực căn tánh tối thượng thưa hỏi, nên ta đem thắng pháp mà giải thuyết. Thế nào là thắng pháp? Chính là không pháp chấp.

 Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát như vậy hộ trì đầy đủ tịnh giới ban đầu, tâm chẳng cống cao, chẳng tạo nghiệp vô gián, chẳng phạm Tỳ Kheo Ni, chẳng gần gũi nhà người tục, không sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, và lìa bỏ tham dục, sân hận, tà kiến. Bồ Tát này chẳng tự não hại cũng chẳng não hại người khác, chẳng chung cùng với cảnh dục, cũng chẳng thọ dục, chẳng bài bạc cũng chẳng bảo người. Bồ Tát này trọn chẳng gần gũi kẻ lai căn, chẳng đến nhà dâm nữ, đàn bà góa, xử nữ, chẳng gẫn gũi vợ người, cũng chẳng gẫn gũi kẻ lưới chim bắt cá, kẻ săn bắn và và Chiên Đàn La, chẳng đấu tránh và chẳng nắm tay người uống rượu. Bồ Tát lìa xa những việc trên đây như tránh chó điên cùng kẻ sát nhân. Do có lòng từ nên đối với tất cả chỗ xa lìa trên, Bồ Tát không bao giờ sanh một niệm ác.

 Có hai mươi chỗ Bồ Tát phải xa lìa. Bồ Tát xa lìa người nữ, cũng chẳng cùng họ đùa cợt nói thô nói tục, chẳng cùng họ luận bàn cãi cọ. Đối với cha mẹ và Tam Bảo, Bồ Tát tránh lỗi chẳng cung kính. Chẳng thuyết pháp cho nhóm người nữ dưới số hai mươi, trừ khi có người nam. Trọn chẳng đến hội thuyết pháp của chúng Tỳ Kheo Ni, cũng chẳng nên thăm hỏi các Tỳ Kheo Ni. Chẳng viết thơ từ cho người nữ. Nếu vì người khác đem thơ cho người nữ thì phải giao cho người chồng chớ trao cho vợ.

 Thân tộc thỉnh mời riêng trọn chẳng nhận không luận lúc nào. Chẳng bao giờ có dục tâm ở trước người nữ dầu trong giây lát. Lại cũng chẳng nên rời chỗ ở của mình đến chỗ khuất chuyện vãn với người nữ. Chẳng cùng Tỳ Kheo Ni đi chung đường. Chẳng lãnh y phục của Tỳ Kheo Ni bố thí, trừ lúc vì tứ chúng thuyết pháp, lúc được thí y, nên có quan niệm như mặt đất hứng chịu đồ vật rồi sau sẽ lãnh lấy y phục, chẳng nên nhìn riêng mặt của người bố thí. Nếu nghe có Tỳ Kheo Ni khuyên người thí y phục thì chẳng nên thọ. Nếu Tỳ Kheo Ni mời thỉnh ăn uống; dầu có bịnh cũng chẳng thọ huống là lúc không bịnh. Nếu có đàn bà góa đến mời ăn, Tăng số chẳng đủ thì cũng chẳng thọ. Cũng chẳng nên vào trong chúng Tỳ Kheo Ni. Chẳng nên kêu Tỳ Kheo Ni đến. Nếu Tỳ Kheo Ni đến kêu Bồ Tát, thì phải vòng tay ngước đầu xây lưng lại bỏ đi. Lúc Bồ Tát thuyết pháp nếu có Tỳ Kheo Ni đến đảnh lễ dưới chân, thì chớ động chân, mắt nên nhìn ngay hai bàn tay.

 Bồ Tát chẳng nên chỉ nơi thân tu tập tinh tấn, mà tâm cũng phải siêng cần chánh niệm. Đối với tất cả cảnh duyên chớ sanh lòng tham sân. Nên phát thệ nguyện vững chắc để cầu nhứt thiết chủng trí. Khi được nghe pháp này rồi phải có lòng tin và nên siêng tu học.

 Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có thiện nam hay thiện nữ muốn hướng đến Bồ Tát thừa, vừa nghe được pháp này nếu không có lòng tin thiết thiệt sâu chắc, thì trọn chẳng thể được Vô thượng Chánh giác. Vì do tu học mới chứng được quả Bồ đề, chẳng phải không tu học mà có thể chứng được. Nếu không tu tập mà chứng được Bồ đề, thì những loại mèo, thỏ v.v… lẽ ra cũng được chứng. Phải có chánh hạnh mới chứng được Bồ đề. Nếu không chánh hạnh mà vẫn được Bồ đề, thì ngôn thuyết tiếng tăm lẽ ra cũng chứng được Bồ đề. Giả sử tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đồng vì một chúng sanh trải qua trăm ngàn kiếp mà bảo rằng: Ngươi nên làm Phật! Ngươi phải làm Phật! Rồi đồng vây quanh liền tiếng xướng rằng: Sẽ được thành Phật! Sẽ được thành Phật! Bảo và xướng luôn như vậy không xen hở vẫn không thể nên được tâm Bồ đề ban đầu, huống là có thể chứng quả Phật vô thượng.

 Nầy Đại Ca Diếp! Chúng sanh nào tu học được hạnh này thì đáng gọi là hi hữu. Đức Như Lai xuất hiện ra đời là việc rất khó. Trong thời kỳ mạt pháp sau khi ta diệt độ, các ông cũng đã nhập Niết Bàn, chư Thiên lại chẳng tin, chẳng hộ trợ, lúc đó có nhiều chúng sanh nghe công đức của Phật mà phát tâm Bồ đề. Hoặc có hàng Tỳ Kheo dầu đã phát tâm Bồ đề nhưng vẫn phạm hai mươi lỗi trên.

 Nầy Đại Ca Diếp! Như hiện nay hàng đa văn Tỳ Kheo ở chỗ tịch tịnh, hoặc ở xóm làng, siêng tu chánh pháp, thì đời mạt pháp sau này các Tỳ Kheo ở chỗ tịch tịnh, hoặc ở xóm làng trái lại phạm lỗi: họ cùng các Tỳ Kheo Ni hội họp luận bàn vấn đáp pháp nghĩa. Các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni này phần nhiều sanh nhiễm tâm, ít có người sanh pháp tâm.

 Nầy Đại Ca Diếp! Ông quan sát hạng người đó được tên Bồ Tát mà sa vào chỗ rất nguy hiểm thẳng đến ác thú.

 Trong thời kỳ mạt pháp đó, ban đầu họ vì pháp duyên mà gần gũi nhau, do thường thấy nhau nên lửa dục nhen nhúm trong lòng, động nơi môi miệng để nêu bày niệm dục. Ban đầu họ gần nhau lấy lễ đệ tử cung kính A Xà Lê. Từ đó về sau họ sai người hỏi han thăm viếng rồi lần lần hẹn gặp nhau ngoài đường ngoài ngõ, kế đến trong chùa đứng xa liếc ngó nhau. Trong lúc ra vào họ hỏi thăm nhau, kết làm anh em, chị em. Vì họ thường gặp nhau bèn sanh nhiễm tâm, đã có nhiễm tâm bèn cùng nhau làm sự ô uế. Đã làm sự ô uế bèn dùng danh từ chẳng phải phạm hạnh để kêu gọi nhau. Do đây họ thối thất tâm Bồ đề, mất quả lành, xa Niết Bàn, bỏ Phật, trái Pháp, nhàm Tăng. Những người này ở chỗ khuất sanh những tưởng niệm tham dục, sân hận, não hại. Những người này không có thắng nghiệp của Bồ Tát và bốn hạnh thanh tịnh.

 Như hiện nay, các Bồ Tát chuyên cần tu phạm hạnh, trái lại, đời mạt pháp sau này phần nhiều sinh lòng tham dục, sân khuể, não hại, trụ trong chủng loại ác hạnh, tặc hạnh, kiểu hạnh.

 Nầy Đại Ca Diếp! Ông quan sát đời vị lai những người phá hủy cấm giới nghe kinh này liền sanh lòng phỉ báng. Nếu có người đã trụ nơi giới thật hành bố thí, phát Bồ đề tâm, lúc sau nghe kinh này trở lại sanh lòng hủy báng.

 Nầy Đại Ca Diếp! Đời vị lai sau này, nếu có người trí tu hành tịnh giới thọ trì chánh pháp, biết Tỳ Kheo chẳng thật hành đúng pháp như trong kinh này đã nói, phải liền lánh xa. Vì hạng Tỳ Kheo này không có lòng mến ưa và kính trọng chánh pháp.

 Nầy Đại Ca Diếp! Đời mạt pháp sau này có người dối hiện tu hạnh Bồ Tát, tự khoe khoang rằng hơn bực Độc Giác và A La Hán. Những người này phi pháp, phi lý, không thể sửa trị được, họ sẽ đọa ác thú.

 Nầy Đại Ca Diếp! Đời mạt pháp sau này có người thật hành tà nghiệp, vì thuyết pháp mà đi khắp nơi. Họ chỉ thật hành những hạnh tương tợ với sáu môn ba la mật. Nếu có người đúng như thật giảng nói kinh này thì bị họ ganh ghét bỏ rơi. Đối với kinh này, họ sanh tà kiến hủy báng. Những người ngu si này chẳng rõ biết trong kinh đây quở trách sự phá giới.

 Nầy Đại Ca Diếp! Đời mạt pháp sau này đều bị tặc hạnh làm ô uế, nên những người ngu si đây chẳng suy nghĩ lỗi quấy của mình, có thể phá hoại Vô thượng Bồ đề. Do ôm ấp tội lỗi nên họ thẹn mà hủy báng Phật quả Vô thượng.

 Nầy Đại Ca Diếp! Đời vị lai sau này nhiều Tỳ Kheo chẳng tùy thuận Tăng chúng, chẳng biết báo ân, thường dùng lời khôn khéo dối lầm mọi người để được cúng dường. Họ chẳng gìn lời nói, chê trách giới biệt giải thoát của Như Lai. Họ chẳng nhiếp oai nghi, ở chỗ bất tịnh, rồi vì những người ở chỗ bất tịnh mà giảng nói những pháp môn.

 Nầy Đại Ca Diếp! Ta quan sát vào thời kỳ đó những pháp môn sai quấy có đến số năm trăm. Những người chẳng tu hành sẽ thường tùy thuận theo. Do đây, năm trăm phiền não của họ không một mảy giảm bớt. Những việc làm của họ không khác nhà người tục. Lần lần hàng phụ nữ có nhiều người bỏ chồng vào chùa để nghe pháp. Các Tỳ Kheo vì họ mà giảng nói tương tợ Niết Bàn. Thời kỳ đó có những sự rất đáng sợ như vậy, mà họ lại ở trong đó mong cầu được lợi ích.

 Vì những cớ trên đây, nên người cầu đạo Bồ đề chẳng nên gần gũi các Tỳ Kheo Ni, cũng chẳng nên làm những hạnh như vậy. Phải tránh tất cả sự giao du. Bỏ các lợi dưỡng mà đi khất thực. Bỏ y phục ưa thích mà mặc y phấn tảo. Bỏ lầu đài phòng nhà giường nệm chăn gối, mà ở bên khe suối, trong hang hóc, dưới bóng cây. Xa y sĩ thuốc men, mà dùng thuốc cũ thuốc thối nát.

 Rõ biết tất cả chúng sanh là thân thuộc đời trước của mình nên thật hành tâm đại từ bi. Thường phải cam chịu sự đánh đập mắng nhiếc, không bao giờ đánh đập mắng nhiếc người khác.

 Tránh xa nhà quyến thuộc, nhà thí chủ thân hữu. Phải tùy thuận trí hạnh xuất gia, chẳng nên đồng với người tục tại gia.

 Thường phải tùy thuận phụng trì giáo pháp ba la đề mộc xoa.

 Nầy Đại Ca Diếp! Trong thế gian nếu có người sanh quan niệm trái với giới biệt giải thoát, thời chính là móng lòng trái với trí lực vô sở úy của Phật. Đã sanh lòng trái với trí lực vô sở úy thời là sanh lòng trái với tam thế chư Phật. Do đây đời vị lai họ sẽ mang lấy quả báo khổ sở vô lượng. Khổ báo của họ trăm ngàn muôn ức lần nhẫn đến ưu ba ni sa đà lần hơn sự đau khổ của chúng sanh địa ngục.

 Nếu muốn khỏi sự khổ não như vậy, thì phải tránh xa những hạng ác hạnh Tỳ Kheo ấy. Giả sử đã cách xa họ ngàn do tuần cũng còn phải tránh xa thêm, huống là gần họ. Nếu nghe tên của họ còn phải quên bỏ, huống là thấy mặt nghe tiếng mà chẳng tránh xa.

 Phải nên quen gần một pháp, chính là tất cả pháp đều không chỗ có. Nếu được trí nhẫn các pháp không chỗ có, tất chẳng gần gũi, tôn thờ cúng dường những Tỳ Kheo ác như vậy.

 Lại phải đi sát hai pháp: một là cầu ngộ chứng các pháp vốn không chỗ có, hai là cầu ngộ chứng pháp tánh nhưng cũng chẳng nên sanh tâm mong cầu. Phải cầu thế nào? Như chỗ mong cầu đều bất khả đắc. Trong bất khả đắc chẳng nên sanh tâm bất khả đắc, như là chẳng sanh tà kiến. Được như vậy thì lìa được tất cả tâm trong tam giới mà thuận Bồ đề hạnh, thời lìa được tất cả tâm hữu tướng mà thuận Bồ tát hạnh.

 Chính những điều đã nói trước kia là Bồ Tát hạnh. Do đây nên khi được nghe pháp nầy rồi cần phải xa lìa tà hạnh. Được như vậy thì sẽ được gần gũi phụng thờ đức Phật Di Lặc vị lai. Người nầy tâm chẳng cống cao, cũng chẳng ty liệt, tự thấy sung sướng an vui được ra khỏi lưới ma và ác đạo.

 Nầy Đai Ca Diếp! Đời sau nếu có người nghe kinh điển nầy mà chẳng sợ hãi, và thấy thân mình tùy thuận theo những điều đã dạy trong đó, lại có thể phát tâm thọ trì, Phật thấy rõ người này quyết định sẽ hộ trì chánh pháp.

 Nầy Đại Ca Diếp! Như ông trưởng giả giàu có lớn, con trai ông thấy những đồ vật trong nhà nhẫn đến chậu đựng nước đều nghĩ là của cha mình. Lúc sau trưởng giả chết, tài sản hư hao, con trai ông tình cờ thấy chậu đựng nước, liền nhớ là vật của cha mình, bèn lấy cất hoặc đem theo.

 Nầy Đại Ca Diếp! Đời sau nầy các Tỳ Kheo cũng như vậy. Họ được nghe kinh này, liền nghĩ rằng đây là những lời từ phạm âm nhu nhuyến vi diệu của đức Như Lai nói ra. Họ sẽ đính chánh với hàng Tỳ Kheo hủy báng rằng: Kinh này chính thật là của Đức Như Lai nói: Tỳ Kheo trì pháp nầy, chúng ít yếu thế, đem kinh điển nầy cất giữ ngày đêm, bị nhiều người bài bác!

 Nầy Đại Ca Diếp! Hạng Tỳ Kheo trì pháp đời sau này, ta thấy và biết rõ họ, ta đem họ giao phó cho Phật Di Lặc, họ sẽ là những người bảo vệ chánh pháp của Như Lai trong thời kỳ cuối cùng, sau đó họ sẽ là bực đại thí chủ vô ngại.

 Nầy Đại Ca Diếp! Nếu người nào được nghe pháp này, tùy theo trí huệ của mình mà tu hành, làm cho chúng sanh có chánh kiến và chánh tín, thời đời vị lai sẽ được gặp Phật Di Lặc, trong pháp hội ban đầu đầy đủ phạm hạnh và cũng sẽ bảo vệ chánh pháp trong thời kỳ cuối cùng.

 Nầy Đại Ca Diếp! Ta quan sát khắp tất cả không có người nào chẳng được gần gũi ta mà có thể chẳng hủy báng, sau khi được nghe kinh điển này và có thể thọ trì đọc tụng trong thời kỳ năm mươi năm ơ đời sau này. Nếu hiện nay người nào được gặp ta và kính thờ cúng dường, trong năm mươi năm ở đời sau này, sẽ thọ trì đọc được kinh điển đây. Những người này chẳng đợi ta tán thán công đức, họ sẽ tự thành nhứt thiết chủng trí. Lúc đó những người này sẽ nhớ đến ta, lòng họ vui mừng tự nói rằng rầt kỳ đặc, rất hy hữu! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khéo nhiếp thọ hộ niệm chúng tôi.

 Nầy Đại Ca Diếp! Vì lẽ trên đây, các ông và mọi người phải học pháp này. Người học pháp này thời sự chứng được tất cả công đức theo chỗ nguyện cầu đều không khó đối với họ”.

 Đại Ca Diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Việc làm của tôi đã trọn đã xong, không còn cầu mong gì khác. Đối với pháp này tôi thối thất đạo Vô thượng Bồ đề. Tôi rất biết đủ, trọn không thể thành nhứt thiết chủng trí.

 Bạch Thế Tôn! Vô thượng Bồ đề là sự quá hi hữu, hàng Thinh Văn chúng tôi khó chứng được”.

 Phật bảo Đại Ca Diếp: “Ta chẳng phải vì ông mà nói pháp này nhưng nay do ông hỏi nên ta vì người khác và giảng nói. Đối với pháp này ông chớ sanh lòng nghi. Các ông cũng sẽ sớm chứng được vô thượng Bồ đề.

 Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có chúng sanh khao khát pháp này, mong cầu pháp này, lần lần đều sẽ chứng Vô thượng Bồ đề. Khi đã chứng được bèn vì dứt tất cả tâm mong cầu nên tuyên nói chánh pháp cho chúng sanh.

 Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát phải trọn nên bốn pháp và phát tâm tinh tấn.

 Những gì là bốn pháp? Tinh tấn như thế nào? Nghĩa là chẳng cầu sắc thọ, tưởng, hành, thức mà cầu pháp vô lậu, chính là không địa, thủy, hỏa, phong, chẳng nói địa, thủy, hỏa, phong. Bao nhiêu ngôn thuyết đều gọi là phương tiện biểu thị. Những pháp biểu thị này đều chẳng phải có thiệt. Bồ Tát chẳng nên cho pháp biểu thị là chơn thật”.

 Đại Ca Diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Đối với Như Lai chúng tôi thiệt không nghi ngờ.

 Nếu có người hỏi rằng pháp biểu thị đây nếu chẳng phải chân thật, thời âm thanh ngôn thuyết biểu thị của Phật cũng là hư vọng ư?

 Bạch Thế Tôn! Nếu có người hỏi như vậy, thời phải đáp thế nào?”.

 Đức Phật dạy: “Này Đại Ca Diếp! Đời vị lai có hàng Tỳ Kheo chẳng tu thân, giới, tâm và huệ, nhiều sân hận, lời nói thô xẵng, không thể thọ trì đọc tụng kinh điển này. Vì họ ở nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà sanh tâm.

 Lại có một hạng Tỳ Kheo trụ nơi pháp tại gia, không cầu mong thắng nghĩa.

 Như người sanh manh lấy tràng hoa bằng vàng đội lên đầu để trang sức, mà họ chẳng tự thấy được. Đời sau đây, hàng Tỳ Kheo này cũng như vậy. Họ nghe kinh điển đây còn chẳng thọ trì được văn tự ngôn thuyết, huống là có thể tu và chứng nhập thắng nghĩa!

 Như bọn trẻ thơ bị người lớn quở rầy, lúc sau nghe đến tên người lớn, bọn trẻ thơ này đều sợ hãi. Hàng Tỳ Kheo sau này cũng như vậy, nghe trong kinh này cứ theo sự thật mà nói những điều lỗi lầm, họ đã chẳng ăn năn mà trở lại sợ hãi đối với kinh này.

 Như cột con ễnh ương nơi tay khỉ, mà con khỉ này chẳng xây mặt ngó đến. Hàng Tỳ Kheo đời sau này cũng như vậy. Họ nghe kinh điển đây bèn chống trái chẳng đoái đến, cũng chẳng chịu đứng ở trước.

 Như chồn cáo bị chó rượt bèn chạy đến gò mả, trong hang, xuống hầm sâu. Hàng Tỳ Kheo đời sau này cũng như vậy, họ nghe kinh điển đây bèn trốn lánh.

 Trên đây nói chồn cáo chạy là nói phạm giới cấm rồi hủy báng kinh này. Họ đã nghe kinh này bèn bỏ đạo về nhà chạy theo cảnh dục, theo phụ nữ, theo đấu tranh, theo y thuật, theo xử đoán, rồi ở trong đó phạm nhiều cấm giới.

 Ta nói những người này như chồn chạy vào gò mả. Những người sau khi chết đọa ác đạo, như chồn chui xuống hang. Những người này sẽ sa địa ngục, như chồn rớt xuống hầm sâu. Những người này trọn nên pháp tắc của chồn cáo, không thể ngộ nhập kinh điển này, chỉ có thể hủy báng và ca ngợi những lỗi lầm. Sau khi chết họ sẽ đọa đại địa ngục.

 Nầy Đại Ca Diếp! Như có người hỏi: Nếu phương pháp biểu thị không phải chân thật, thời ngôn thuyết của Như Lai cũng chẳng chân thật. Còn nếu pháp biểu thị của Phật là chân thật, thời các pháp biểu thị cũng phải đều chân thật?

 Người trí nên gạn lại hỏi rằng: Nay Đại Đức chấp lấy sự gì? Là chấp lấy không, hay chấp lấy pháp biểu thị?

 Nếu họ nói là họ chấp lấy pháp biểu thị, thời nên bảo họ rằng: Đại Đức là Phật. Vì Đại Đức có ngôn thuyết biểu thị pháp.

 Nếu họ nói là họ chấp lấy không, thời nên bảo họ chỉ rõ chấp lấy những không gì? Vì không thể lời nói gọi là không.

 Nếu họ chấp lấy biểu thị cho là không, hoặc nơi ngã, ngã sở, chúng sanh, thọ giả, chẳng phải không mà chấp là không, thời hỏi họ có thích tất cả pháp không chăng? Nếu họ nói là chẳng thích, thì nên bảo họ rằng từ lâu ông đã quên mất bổn phận Sa Môn Thích tử, vì đức Phật dạy tất cả không vô ngã. Đức Phật chẳng nói có ngã, chúng sanh, thọ giả, hữu tình.

 Nếu họ nói rằng họ thích tất cả pháp không, thời nên bảo họ rằng lòng ông còn thích tất cả pháp không, huống là đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác.

 Lại nầy Đại Đức! Nhãn là Như Lai hay nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Như Lai? Nếu họ nói rằng nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý là Như Lai, thời nên bảo họ rằng nay Đại Đức cũng là Như Lai.

 Nếu họ nói nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý chẳng phải Như Lai, thời nên bảo họ rằng: Đại Đức nói nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý biểu thị chẳng phải Như Lai, thế thì chẳng phải biểu thị chính là Như Lai vậy.

 Nếu họ nói nhãn, nhĩ v.v… chẳng phải Như Lai, cũng chẳng phải rời nhãn, nhĩ v.v… có Như Lai. Thời nên bảo họ rằng: Đức Như Lai nói thập nhị xứ: nhãn, nhĩ v.v… sắc, thinh, v.v… đây chính là chúng sanh, và là danh tự chúng sanh. Nay Đại Đức cho nhãn là Như Lai hay chẳng phải là Như Lai? Nhẫn đến pháp là Như Lai hay chẳng phải là Như Lai?

 Nếu họ nói nhãn là Như Lai, nhẫn đến pháp là Như Lai. Thời nên bảo họ rằng cứ như lời Đại Đức nói thời tất cả chúng sanh và núi, rừng, cây, đất lẽ ra là Như Lai cả!

 Nếu họ nói nhãn chẳng phải là Như Lai, nhẫn đến ý chẳng phải là Như Lai. Thời nên bảo họ rằng cứ như lời Đại Đức thời Như Lai chính là pháp và phi pháp?

 Nếu họ lại nói sắc chẳng phải là Như Lai, nhẫn đến pháp chẳng là Như Lai. Thời nên bảo họ rằng nếu như vậy có lẽ cho phi pháp là Như Lai chăng?

 Nếu họ nói cho phi pháp là Như Lai. Thời nên bảo họ rằng nếu như vậy thời những chúng sanh chẳng hiếu thảo với cha mẹ, chẳng kính trọng bực Sa Môn, Bà La Môn và Sư Trưởng, những kẻ sát sanh, trộm cướp đến tà kiến v.v… lẽ ra là Như Lai cả.

 Nếu họ nói phi phi pháp là Như Lai, thời nên bảo họ rằng: Nếu phi phi pháp là Như Lai thời không có biểu thị. Đại Đức cho không biểu thị là Như Lai ư?

 Nầy Đại Ca Diếp! Nên vấn đáp như vậy để chiết phục kẻ ngu si.

 Ta không thấy trong loài người hay trên trời có ai đối luận được với người nói đúng pháp như vậy. Chỉ trừ hạng ngu si, sân hận không nhận lấy pháp đúng thật. Dầu có vì họ mà khai thị, họ vẫn không có lòng tin, họ chê bai pháp không mà bỏ đi.

 Các ông phải thọ trì kinh nầy.

 Đời vị lai sau nầy, có các Tỳ Kheo thọ trì kinh điển đây sẽ có ba danh từ để biểu thị chính là nói đoạn diệt: không vật, không uẩn và không cung kính. Kinh điển này sẽ bị họ hủy báng.

 Các ông xem vào thời kỳ đó, họ chẳng kính Phật, chẳng kính Pháp. Họ chỉ theo danh tự biểu thị. Họ luống mang danh từ là Tăng mà không có thật đức. Dầu họ xưng niệm danh hiệu của Phật, có người khai thị, họ cũng chẳng hiểu được. Như thế thời làm sao phụng trì Như Lai được! Dầu họ thuyết pháp, mà họ cũng chẳng biết được ý thú của Như Lai. Như thế thời làm sao được gọi là thuyết pháp giỏi.

 Cả bốn đôi tám chúng Thanh Văn đệ tử Phật chỉ biết danh từ kia, mà chẳng biết thật nghĩa đối với công đức kia. Họ vì tứ sự cúng dường mà hủy báng chánh pháp.

 Chư Bồ Tát phải tinh tấn thọ trì đọc tụng kinh điển này, hết lòng mến ưa tôn trọng, để làm người bảo hộ thành trì chánh pháp sau này.

 Nầy Đại Ca Diếp! Ta nhớ thuở quá khứ cả chín mươi mốt kiếp, thời kỳ không có chánh pháp, kinh điển nầy không có lưu hành.

 Ta lại nhớ thuở quá khứ có đức Phật Hưu Tức Nhiệt Não trụ thế tám muôn bốn ngàn kiếp giáo hóa Bồ Tát, lợi ích chúng sanh.

 Ta lại nhớ thuở quá khứ có Vô Biên Lực Như Lai trụ thế hai mươi ức kiếp, thật hành Bồ Tát đạo hai mươi ức kiếp, rồi sau mới chứng Vô thượng Bồ đề!

 Nầy Đại Ca Diếp! Ông xem chư Phật tu tập biết bao nhiêu là công hạnh khó làm để lợi ích cho chúng sanh!

 Nầy Đại Ca Diếp! Đời trược ác mạt thế nầy, chúng ta không nên khinh tiện thân mình. Vì trong đời trược ác, nhẫn đến có một người nhân nơi ta mà tin hiểu pháp này thời là rất hi hữu. Tất cả chúng sanh không làm tổn hại ta cũng là hi hữu.

 3Vì pháp nầy là pháp lành của bực trượng phu. Nghĩa là đối với các hành pháp mà không chấp lấy lành pháp, đây là khó hiểu khó biết.

 Nếu có ngã kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, hữu tình kiến, nếu thấy là có: có giới, có đa văn, có Phật, có Pháp, có Niết Bàn, nếu chấp có Niết Bàn, thời Phật gọi đó là tà kiến. Vì chính đức Phật đối với Niết Bàn vẫn vô phân biệt và vô sở đắc. Do đây nên nếu có phân biệt cùng có sở đắc đối với Niết Bàn, đức Phật đều gọi là tà kiến.

 Đã là tà kiến thời gọi là vô trí. Đã là vô trí thời tổn hại. Đã là tổn hại thời gọi là ngu phu. Đã là ngu phu thời không ưa thích đại Bồ đề và cũng xa lìa thắng đạo nhẫn đến xa lìa quả báo cõi trời.

 Nầy Đại Ca Diếp! Đời vị lai, sẽ có các Tỳ Kheo vì già yếu mà trang nghiêm y phục. Dầu họ cạo bỏ râu tóc, mà hủy hoại oai nghi, không có oai quang, xu hướng tà pháp. Do ý tội che chướng nên hoặc dối hiện oai nghi, hoặc dối hiện tu trì phạm hạnh, hoặc tự xưng không ai bằng ta. Họ dùng ba điều trên để tỏ rằng họ đã có chứng đắc. Họ sa vào lỗi tăng thượng mạn. Lúc lâm chung họ nghĩ gẫm những lỗi mà họ đã phạm, tự biết giải đãi không siêng tu hành, lòng họ ăn năn đau khổ. Sau khi chết họ phải đọa địa ngục.

 Nầy Đại Ca Diếp! Nay Phật tuyên bố rõ ràng với các ông: Phật là chơn thiện tri thức của các ông, luôn thương mến muốn làm lợi ích cho các ông, không để các ông sau nầy phải chịu khổ nơi ba ác đạo.

 Nầy Đại Ca Diếp! Phật không bao giờ cho những kẻ chấp lấy ngã kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, hữu tình kiến được xuất gia trong chánh pháp của Phật. Phật đã không cho mà vẫn cố xuất gia thời đều là kẻ giặc ăn nhờ tín thí, và cũng không thành được Tỳ Kheo chơn thật.

 Nầy Đại Ca Diếp! Thà tuyệt thực, chớ không nên đã được xuất gia trong chánh pháp ăn nhờ tín thí mà chấp lấy ngã, chúng sanh, thọ mạng, hữu tình nhẫn đến chấp lấy Niết Bàn.

 Do đây nên chư Bồ Tát phải phát tâm tinh tấn, chẳng nên có kiến chấp ngã, chúng sanh, thọ giả, hữu tình cùng chấp lấy Niết Bàn. Phải thuyết pháp để dứt trừ tất cả kiến chấp.

 Nầy Đại Ca Diếp! Kinh điển nầy, nay Phật giao phó cho chư Bồ Tát. Vì ý chí của chư Bồ Tát đồng với Phật, là bạn lữ của Phật, có thể lãnh được sự giao phó của Phật”.

 Lúc đó đức Phật nói kệ rằng:

 “Sự đau khổ quần sanh bị bức

 Không có ai cứu hộ vẹn toàn

 Chỉ có nhờ bực Đại Đạo Sư

 Chính là đấng không còn hí luận.

 Những chúng sanh chìm trôi khổ não

 Tu học theo tà đạo kém hèn

 Lần lần thêm dục nhiễm tham sân

 Do đây phải vào ba ác đạo

 Không ai dắt cũng không người cứu

 Ở mãi nơi nguy hiểm xa xuôi

 Thẳng đến trong mê chấp đạo tà

 Trọn không chỗ an vui yên ổn.

 Ví như người đi buôn cầm vốn

 Muốn lợi nhiều dong ruổi đường xa

 Nơi giữa đường gặp giặc xông ra

 Cướp tiền hết hóa hàng cũng hết

 Mất của cải tay không trở lại

 Tiếc của tiền đau xót nơi lòng

 Mất hết luôn cả vốn mượn vay

 Bị đòi nợ càng thêm sầu khổ.

 Những chúng sanh đời sau cũng vậy

 Vì pháp nên dốc chí xuất gia

 Bao nhiêu pháp đã thọ đã trì

 Cùng thiện nghiệp đều tiêu tan sạch.

 Chỉ cạo được sạch râu cùng tóc

 Mà ngu si vào giữa đạo tà

 Chấp lấy ngã, thọ giả, chúng sanh

 Cũng chấp lấy hữu tình là thật.

 Với Tỳ Kheo đúng theo chánh pháp

 Giảng pháp không chẳng chấp ngã nhơn

 Họ không tin hủy báng chê bai

 Do tà kiến sa vào địa ngục

 Lại thêm vì giận hờn ganh ghét

 Nên kiếm điều bài bác lẫn nhau

 Tự phạm lỗi vì sợ người hay

 Nên họ vọng vu người phạm tội

 Thân đã ác miệng càng thêm ác

 Ý nghiệp nhiều tưởng niệm chẳng lành

 Mãi đảo điên theo kiến chấp tà

 Hạng người này tất vào ác đạo.

 Đã gây tạo rất nhiều nghiệp ác

 Tất mau qua đến cửa tam đồ

 Biết bao nhiêu đau đớn đốt thiêu

 Rất khổ sở không ai cứu được.

 Đời vị lai có Tỳ Kheo chúng

 Lòng vội vàng nhiều giận nhiều hờn

 Bức não người chơn chánh xuất gia

 Đã phát tâm Bồ đề Vô thượng.

 Đây là hạng đáng kinh đáng sợ

 Đã bác bài kinh điển đại thừa

 Lại không lòng lãnh thọ kính tin

 Giáo pháp của Thích Ca Văn Phật

 Họ giận hờn lẫn nhau ganh ghét

 Nên lẫn nahu làm khổ làm nàn

 Lại rêu rao bày lỗi lẫn nhau

 Tiếng xấu xa truyền lan khắp chỗ.

 Đem việc xấu vu khống người khác

 Lỗi của mình thời thẹn dấu che,

 Người nhu hòa yếu thế ít người

 Kẻ tà ác chúng đông thế mạnh,

 Thấy như thế biết chánh pháp suy

 Nên người ác thêm nhiều thế lực.

 Những đệ tử đáng thương của Phật

 Chính chỉ cho các thiện Tỳ Kheo

 Phải dắt nhau tìm chỗ tìm nơi

 Lánh kẻ ác ở nơi an ổn

 Khỏi tai nạn sanh lòng bi mẫn

 Người nhu hòa khó được chung cùng

 Phải gẫm suy giáo nghĩa trong kinh

 Cố thật hành theo lời Phật dạy.

 Nếu người bảo đây là xứ ác

 Chớ nên ở phải gấp lìa xa

 Nên mau qua đến thánh đạo tràng

 Là nơi Phật thành Vô thượng giác.

 Hoặc có người hảo tâm chỉ bảo

 Chính các Ngài khéo nói lời lành

 Kinh hành quanh tháp để cầu chơn

 Đúng thật là Thế Tôn giáo pháp

 Thiện Tỳ Kheo phải cùng nhau đến

 Chốn đạo tràng an ổn tu hành

 Chớ chẳng nên thường ở nơi đây

 Phải mang lấy ác tà bứt ngặt.

 Đến đạo tràng thấy di tích Phật

 Nhớ xưa kia đức Phật kinh hành

 Chính chỗ này Phật ngự tu hành

 Thành đạo chuyển pháp luân Vô thượng

 Pháp hữu vi vô thường biến hoại

 Giờ đâu còn thấy được cảnh xưa

 Thiên, Long, Bát bộ, Nhơn, phi Nhơn

 Bồ Tát, Thanh Văn đồng nghe pháp

 Thiện Tỳ Kheo đã đồng vân tập

 Phải nhiếp tâm đúng lý nghĩ suy

 Chính chỗ này đức Phật đạo thành

 Bố ma quân dẹp trừ tà ngoại

 Sau khi quán Bồ đề giác thọ

 Vì năm người A Nhã Trần Như

 Chuyển pháp luân tứ đế ba vòng

 Nên Phật ngự đến vườn Lộc Uyển

 Và kia là Ta La Song Thọ

 Nơi cuối cùng Phật nhập Niết Bàn

 Kim thân thành Xá lợi Kim cương

 Để lợi ích quần sanh mãi mãi.

 Kính mến thay! Thế Tôn Đại Thánh

 Đau lòng thay! Phật nhập Niết Bàn

 Nay chỉ còn nghe được Phật danh

 Chẳng gặp Phật thật là đáng tiếc.

 Vì trí Phật đã thấy xa biết rộng

 Giờ cuối cùng lại độ Thiện Hiền

 Đây là lần giáo hóa rốt sau

 Duyên đã mãn hiện bày tịch diệt.

 Đời còn Phật người tu chơn chánh

 Đương tu chết hoặc lúc phát tâm

 Hoặc tu rồi thân chết mạng vong

 Đều được sanh cõi lành tất cả.

 Đời mạt pháp còn đâu chánh pháp

 Được cúng dường không luận phạm trì

 Của thí kia thọ dụng quá nhiều

 Sau khi chết tất vào ác đạo

 Này Ca Diếp! Ông nên quan sát

 Hàng Tỳ Kheo thiện ác phân hai

 Người chơn tu dầu ở đời sau

 Vẫn được hưởng quả lành phước huệ.

 Chư Bồ Tát những người đại trí

 Có lòng từ lợi ích chúng sanh

 Phải chuyên cần tu học kinh nầy

 Tâm an ổn vui mừng hớn hở.

 Được như thế sau đây thành Phật

 Ngày gần đây gặp đức Từ Tôn

 Nghe pháp lành cung kính cúng dường

 Được Di Lặc xoa đầu thọ ký.

 Này Ca Diếp! Nay ta thành thật

 Thốt ra lời an ủi người lành.

 Đời sau này dầu chẳng thấy ta.

 Nhưng không khác hiện tiền gặp Phật.

 Ta cũng nhắc đời sau phụ nữ

 Nếu phát tâm Vô thượng Bồ đề

 Ta sẽ cùng chư Phật mười phương

 Hộ niệm họ ban lời an ủi.

 Họ sẽ sớm rời thân phụ nữ

 Được thân nam gặp đức Từ Tôn

 Hầu Di Lặc cung kính cúng dường

 Lòng sở nguyện thảy đều như ý.

 Ta nhắn nhủ đời sau đệ tử

 Phải học đòi người trí xuất gia

 Tín tâm sâu chí nguyện vững bền

 Thông chánh pháp kiên trì giới luật.

 Để sau này dự hội Long Hoa

 Được Di Lặc xoa đầu thọ ký.

 Hàng đệ tử đã nghe lợi ích

 Sanh tín tâm tu hạnh thiện hiền

 Tâm vững bền chí nguyện cao xa

 Tận vị lai nhiếp quần sanh loại.

 Này Ca Diếp! Nơi đây ai được?

 Ông lắng nghe ta sẽ nói đây

 Người tinh cần có huệ siêng tu

 Quả Vô thượng chứng liền không khó.

 Siêng tu tập từ bi rộng lớn

 Xa hẳn lòng dua bợ vạy vò

 Nên thích ưa vắng vẻ rảnh rang

 Chính đó là Bồ đề đạo cả.

 Chánh pháp đây nếu không tin thọ

 Luống nói suông không thể thật hành

 Được mọi người lễ kính cúng dường

 Đây là kẻ giặc loàn đáng sợ.

 Nếu lại có người vì ăn mặc

 Cầu mong nhiều lợi lộc cúng dường

 Mà thọ trì chánh pháp kinh đây

 Truyền lẫn nhau luận bàn giảng thuyết

 Đây là kẻ ác tà hoạt mạng

 Cũng gọi là luống sống qua ngày

 Sau khi rời bỏ mất thân người

 Tất phải đọa tam đồ thọ khổ

 Hoặc có kẻ vào trong Phật pháp

 Giả danh làm Đại Đức Tỳ Kheo

 Họ không tin hủy báng khế kinh

 Khéo rành rẽ giảng bày giới cấm

 Rằng ta đây hoằng tuyên đầy đủ

 Ba la đề giới pháp mộc xoa

 Hạng này dầu có tướng Tỳ Kheo

 Trọn sa đọa mất thân thiện đạo

 Nếu có kẻ chê bai thiện đạo

 Hủy báng luôn nhứt thiết trí lành

 Đây là người báng chánh pháp luân

 Tội nầy lại nặng hơn tội trước

 Nếu người nào khéo gìn thân ý

 Cũng gìn lời không lỗi không lầm

 Ác nghiệp xa thêm lớn hạnh lành

 Tất sẽ được Niết Bàn quả tốt”.

Đức Phật bảo Đại Ca Diếp: “Sau khi Như Lai diệt độ, các Tỳ Kheo ở nơi Phật trồng căn lành sâu cũng đã nhập Niết Bàn, những chúng sanh đủ thắng ý lạc cũng qua đời cả. Lúc thời kỳ chánh pháp dứt, năm trăm năm sau, sẽ có hàng Tỳ Kheo lòng đầy tham dục mê chấp, thích lời ly gián não hại người khác, nói năng cộc cằn hung ác, thường ở trong ba điều: nghề nghiệp thuốc men, buôn bán và gần phụ nữ. Do ở trong ba điều trên nên thối thất bốn điều: mất giới hạnh, mất thiện đạo, mất quả chứng và mất như thật thấy Phật.

Vì thối thất bốn điều trên nên sanh ra bốn điều hừng thạnh: tật đố hiềm ghét hừng thạnh, giận dữ ác tâm hừng thạnh, tham đắm giòng họ hừng thạnh, và tham đắm uống ăn chứa cất các thực phẩm, ưa thích y phục cất để đầy rương. Vì bốn điều hừng thạnh trên đây nên họ không được pháp Sa Môn, cũng chẳng phát sanh quả chứng của Sa Môn. Họ nghe kinh này sẽ sa vào bốn điều: một là hủy báng chánh pháp, hai là những điều Phật không cho phép họ lại đem giảng nói, ba là riêng vì hàng phụ nữ mà nói pháp yếu, bốn là hủy báng giới biệt giải thoát của Như Lai. Hàng Tỳ Kheo này nghe kinh điển đây càng thêm sanh lòng phá hoại chánh pháp, thêm lớn nghiệp ác.

Nầy Đại Ca Diếp! Như lấy mật đắng nhỏ vào mũi chó dữ, con chó đó sẽ thế nào, nó có hung dữ thêm chăng?

– Bạch Thế Tôn! Chó dữ nó càng thêm hung dữ.

– Nầy Đại Ca Diếp! Những người ác đã nói trên kia cũng như chó dữ cùng quỉ Tỳ Xá Xà. Họ thấy có Tỳ Kheo chơn tu giới hạnh thanh tịnh, thọ trì kinh pháp nầy, giảng thuyết kinh pháp nầy, thiểu dục tri túc và ca ngợi thiểu dục tri túc, họ liền ganh ghét hờn giận cho là bị khinh hủy. Do đây nên khi nghe nói kinh pháp nầy, họ liền hủy báng cho là không phải của Phật nói.

Nầy Đại Ca Diếp! Phật dùng nhiều từ ngữ đề tán thán người thiểu dục tri túc, là người dễ nuôi, người dễ đầy, người sạch sẽ, người có hạnh đầu đà, người rất đoan nghiêm. Phật cũng tán thán người ở a lan nhã, người phát tâm tinh tấn, người sanh hoạt thanh tịnh.

Các ông chớ nên chứa để nhiều rương nhiều tủ, mà phải tu tập hạnh thiểu dục.

Các ông chớ nên như chụp chã đồng, chỉ luống có tiếng kêu, mà phải tùy thuận tu tập pháp của Như Lai dạy đây, cũng chẳng nên thêm lớn lòng sân hận cùng tham chấp sự vật, phải trụ nơi vô sự vô vật.

Các ông chớ trụ trước nơi chỗ ở, mà phải vô sở trụ.

Các ông chớ tự khoe, chớ nuôi loài bò, lừa v.v…

Các ông chớ sanh lòng biếng nhác trễ lười, mà phải phát tâm tinh tấn xa lìa pháp ác, tu tập pháp lành.

Nầy Đại Ca Diếp! Phật thường khen ngợi sự tịch tịnh ở a lan nhã xa lìa ồn ào. Nay Phật nói rõ hạnh dứt trừ rất thanh tịnh.

Những kẻ không thật hành hạnh dứt trừ rất thanh tịnh, kẻ nhiều tham dục, kẻ tạo tội ác, tất sẽ hủy báng người có hạnh dứt trừ rất thanh tịnh.

Nầy Đại Ca Diếp! Như kẻ ngu kia, giữa tháng tư uống chất tô sanh khát bèn đến người xin nước uống. Người bảo: Anh vừa uống chất tô chớ uống nước, vì sẽ có thể nguy đến tánh mạng. Kẻ ngu giận dữ mắng nhiếc, không nghe lời khuyên của người, nó uống nước rồi chết.

Nầy Đại Ca Diếp! Cũng thế, đời vị lai, các Tỳ Kheo ưa chấp có, thích việc ác. Nếu có người thọ trì chánh pháp bảo họ: Đây là việc nên làm, đây là việc chẳng nên làm. Họ sẽ giận dữ trách mắng, và hủy báng kinh điển nầy.

Hiện tại đây còn có nhiều người cạnh tranh với Như Lai, huống là đời vị lai! Như Hiền Hộ Tỳ Kheo chẳng hạn. Phật chế giới khiến các Tỳ Kheo thọ pháp một lần ngồi ăn, Hiền Hộ giận hờn trọn ba tháng hạ không chịu đến chỗ Phật.

Nầy Đại Ca Diếp! Hiện nay ở trước Phật còn có người khinh hủy phạm hạnh, huống là sau khi Phật diệt độ, những kẻ tham ăn, tham mặc, thuốc men ngủ nghỉ, thêm nhiều giận hờn! Những kẻ này nghe kinh pháp đây còn chẳng kính trọng đức Như Lai Đại Sư, huống là đối với Tỳ Kheo trì giới!

Nầy Đại Ca Diếp! Những người ấy gọi là bất thiện, cũng gọi là rất ác. Pháp bảo này sẽ ẩn mất.

Trong đời ác trược sau này, thời kỳ mà người lành rất khó có, nếu thiện nam hay thiện nữ nào muốn được sự lợi ích lớn, tin giáo pháp của Phật, nghe kinh pháp rất sâu nầy rồi, nên vì người đúng lý, người có lòng tin mà giảng nói, chớ chẳng nói với người không đúng lý, không tin. Hiện nay, Phật cũng chỉ giảng nói với những người đúng lý, với những người có lòng tin mà thôi.

Nầy Đại Ca Diếp! Như ngựa ác dở chẳng chịu mặc giáp, nếu bắt nó mặc giáp như ngựa hay, thời tất nó sẽ kinh sợ, huống là nghe tiếng loa, tiếng trống mà có thể chịu được.

Nầy Đại Ca Diếp! Tỳ Kheo phá giới không có lúc nào ưa thích pháp lành. Nhẫn đến họ nghe nói các pháp không ngã chấp không ngã tưởng, họ liền sợ hãi bài bác, huống là nghe đến pháp lành! Nếu thật hành pháp lành thời có thể hàng phục trăm ức quân ma và trọn không có sự đấu tránh.

Các thiện Tỳ Kheo nên mặc giáp tinh tấn, chẳng hư công đức đầu đà, dứt sạch căn bản tham sân si, không tật đố, ly dục, thích nhàn tịnh, thường thức tỉnh, nơi vật dụng không mong cầu, phát tâm Bồ đề Vô thượng, không chấp pháp, không chấp ngã, chúng sanh, thọ giả, hữu tình, không kiến chấp nam, nữ, địa, thủy, hỏa, phong, dục giới, sắc giới, vô sắc giới, trì giới, phá giới, tánh không v.v… Tóm lại, không nên có tất cả chấp tất cả tưởng. Vì tất cả tưởng đều vô sở đắc.

Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có tham, Tỳ Kheo phải biết rõ và liền dứt trừ tâm tham ái, chẳng phải cứ trụ một chỗ mà được vô trụ! Chỉ trừ kẻ vọng ngữ.

Do đây nên Như Lai hiệu là đấng thật ngữ.

Như Lai nói bao nhiêu tham ái đều là chẳng phải ngã. Các pháp như vậy là Sa Môn pháp. Các Sa Môn pháp đều vô sở đắc.

Nếu người nào còn có tưởng chấp lấy pháp, thời là chấp ngã, chúng sanh v.v.. như núi Tu Di, mà thối thất thánh giáo. Nơi người này pháp Sa Môn không có được, cũng không thể trụ nơi Sa Môn pháp.

Pháp quảng đại tối thắng này chẳng nên giảng nói với những kẻ ngu si kia, dầu chỉ một ít. Vì nếu họ chấp trước thời tất sẽ phải chịu khổ ở địa ngục trọn một kiếp.

Nầy Đại Ca Diếp! Ông xem các Tỳ Kheo: Câu Ca Lợi, Đề Bà Đạt Đa, Khiên Đồ Đạt La, Ca Lô Để Luân, Mẫu Đạt Đa La, A Thấp Phiền, Bố Na Bà Tô, Tô Khí Đát La, các Tỳ Kheo trên đây là những người thường ở gần bên Phật, nghe Phật thuyết pháp, thấy Phật kinh hành, thấy Phật đoan tọa, thấy Phật hiện thần thông đi đứng trên không gian, thấy Phật hàng phục hàng ngàn ngoại đạo, giữa đại chúng thấy Phật trừ dẹp tà pháp, mà họ còn chẳng có lòng tin mến đối với Phật. Vì họ luôn muốn hủy báng Phật nên càng ngày họ thêm lớn ác nghiệp.

Nếu có người nghe danh hiệu Phật có lòng tin chắc là thật, thời mọi người nên đem hoa hương như núi Tu Di, phan lọng trùm cả Đại Thiên để cúng dường, vì người nầy tin Phật vậy. Huống là người đã tin Phật rồi bỏ dục lạc xuất gia, không kiến chấp, tu các môn tịnh lự!

Nầy Đại Ca Diếp! Người nào tin ưa kinh pháp nầy thời đáng gọi là hi hữu. Người nầy có thể khéo hộ trì giới cấm của Phật chế, có thể rõ biết pháp cam lồ nầy.

Ví như trong đại chúng dùng da thúi cùng những vật hôi nhơ cùng nhau chế làm hình người, hoặc làm các thứ mặt nạ, rồi sơn vẽ trau tria rất mực xinh đẹp. Có người lấy những thứ ấy mang lên mặt, hoặc gói lại xách đi. Như thế há lại vì tướng mạo mà gọi là tốt ư! Biết rõ là vật hôi nhơ thời sẽ nhàm bỏ.

Cũng vậy, với các ác Tỳ Kheo, phải dùng oai đức dung nghi của Như Lai để thẩm xét mới biết họ là cực ác. Do họ chấp ngã nhơn mà sanh lòng tham ái.

Nếu người rõ biết ngã chấp không thật, thời khi nghe kinh nầy tất ưa thích vui mừng.

Nếu kẻ nào chấp trước thời là tà kiến. Đã có tà kiến thời không tin ưa lời dạy chơn chánh nơi kinh này. Vì người chấp ngã thời có giận hờn.

Nếu hàng tứ chúng nghe kinh pháp này mà giận ghét hủy báng thời không phải là Sa Môn. Dầu họ có danh hiệu Sa Môn, nhưng không phải đệ tử Phật. Ta cũng không phải thầy của họ. Vì đệ tử Phật thời không vọng ngữ. Phật không phải thầy của kẻ vọng ngữ.

Nên biết rằng Phật là đấng thật ngữ, có thể nói đúng thật tất cả pháp không.

Nầy Đại Ca Diếp! Nếu kẻ nào tranh cãi Như Lai thời gọi là ác ma. Như Lai không cho ma chúng xuất gia thọ giới cụ túc.

Ý ông nghĩ thế nào? Như có người nói chim thanh tước đẻ rồng lớn. Lời này có đáng tin và có đồng loại chăng?

– Bạch Thế Tôn! Lời đó không đáng tin, cũng không phải đồng loại.

– Như có người nói kim xí điểu đẻ loài phi điểu. Ông nghĩ thế nào?

– Bạch Thế Tôn! Lời đó không đáng tin, cũng không phải đồng loại.

– Như có người nói con đom đóm mang núi Tu Di bay lên không gian. Ông nghĩ thế nào?

– Bạch Thế Tôn! Lời đó không đáng tin, cũng không phải đồng loại.

– Nầy Đại Ca Diếp! Những kẻ ác trên kia chấp ngã nhẫn đến chấp Niết Bàn kêu Phật bằng thầy lại càng chẳng phải đồng loại.

Nầy Đại Ca Diếp! Như có Đế Vương ở nước mình lãnh đạo nhơn dân an lạc vô cực. Cạnh vua có các thị thần tuân hành chánh hóa của vua.

Lúc đó có người không ai quen biết, người này vì danh lợi mà học cách làm quan, không lãnh lịnh vua, tự ý ở giữa bá quan dối tuyên lịnh vua, bảo mọi người rằng các Ngài phải ở nơi đây, làm như vầy.

Cũng vậy, đức Như Lai Pháp Vương quản trị cả Đại Thiên thế giới, nhiếp hóa tất cả tam thừa chúng sanh, đầy đủ mười trí lực, viên mãn tất cả công đức, thật hành Phật sự vô biên an lạc.

Có một hạng người đại chúng chưa từng quen biết, vì sanh sống mà nói tướng ngã, chúng sanh v.v… nhẫn đến Niết Bàn, chẳng tuân theo thánh giáo vô ngã của Như Lai, vọng nói rằng Phật bảo việc này nên làm, việc này chẳng nên làm.

Trong đại chúng có những người tin thuận Phật pháp, nghe lời nói trên đây nhận là bực phước điền thanh tịnh, bèn đem của cải cung kính dâng cúng mãi trong thời gian chưa rõ họ là sái quấy!

Kẻ ác này đồng với kẻ dối lịnh vua trong ví dụ kia. Sau khi ăn uống xong, họ ở chỗ đông người thường luận bàn việc vua, việc giặc, việc ăn mặc, việc dâm dật, việc phụ nữ, việc thuốc men, việc rượu trà, việc nhựt thực nguyệt thực, việc nhà vua đi về, việc dòng họ, việc ngày tốt xấu v.v… Ngày đêm họ luôn suy tính luận bàn những việc như vậy, không có chánh niệm chánh huệ, hư mất oai nghi, ngủ mê lăn lộn miệng chảy nhớt dãi. Lúc thức tưởng nghĩ gì, lúc ngủ họ mơ thấy việc ấy. Đến lúc thức dậy, họ tụ nhau luận bàn chiêm bao tốt xấu. Họ đi đứng hành động không khác người thế tục. Họ nói không nhằm lúc, tâm niệm buông lung, thích đến xóm đông, đến nhà giàu sang. Họ không giữ được giới cấm của Phật. Họ riêng nói pháp cho phụ nữ. Lúc nói pháp họ sanh nhiễm tâm, được cúng dường nhiều, tham trước luyến ái, chẳng biết hối hận.

Họ được cúng thí tốt thời ca ngợi, trái lại thời chê trách.

Lúc họ gặp nhau bèn xem đồ được cúng của nhau. Họ hỏi nhau hôm nay thí chủ cúng món chi? Cho ai? Tiền bạc đồ dùng nhiều hay ít?

Đây gọi là hạng chẳng tu hành, cũng gồm cả lỗi hủy báng chánh pháp.

Nầy Đại Ca Diếp! Với hạng người ngu ác trên đây, các ông phải có lòng xót thương họ. Vì họ sẽ phải bị quả báo rất khổ não”.

-Tôn giả Đại Ca Diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Rất lạ thay, những người ấy được nghe kinh pháp nầy, mà họ không có lòng yểm ly!”

– Nầy Đại Ca Diếp! Nếu là kẻ có bốn điều sau đây, thời dầu được nghe kinh pháp nầy, nhưng họ vẫn không yểm ly. Đây là bốn điều: nhiều phóng dật, không tin chắc nghiệp quả, không tin chắc đại địa ngục, không tin chắc mình sẽ chết.

Lại có kẻ vì có bốn điều dưới đây nên không yểm ly: lúc tráng niên khỏe mạnh tự cậy sức mạnh, mê say dục lạc, ham uống rượu, không suy gẫm quan sát để hiểu biết.

Nếu Tỳ Kheo có bốn điều dưới đây thời hủy báng Vô thượng Bồ đề: ác nghiệp thành thục chẳng biết phát lồ chẳng rành nghiệp quả ác, làm uế dục với Tỳ Kheo Ni, cậy có Hòa Thượng A Xà Lê được nhiều người kính mến, theo thầy học tập vì tật đố mà khinh chê thầy là ít học.

Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có người được một pháp sau đây thời trọn nên bực Sa Môn, Bà La Môn: đối với tất cả pháp, tâm vô sở trụ.

Nầy Đại Ca Diếp! Ví như có người rơi trên chót núi, bèn cho rằng không có mặt đất cây cối rừng rậm, chỉ tưởng trống không mà dứt hơi thở.

Những kẻ chấp pháp cũng như vậy. Nếu chấp có nhãn, nhĩ v.v… cùng chấp có tướng nhãn, nhĩ v.v… hoặc chấp sắc, thọ v.v… hoặc chấp trì giới, đa văn, tàm quý, tu hành, được Bồ đề v.v… Đây đều là không phải pháp của Sa Môn, Bà La Môn. Nếu có tưởng chấp thời bị làm hại. Những gì làm hại? Chính là tham, sân, si vậy.

Nếu chấp tướng nhãn, nhĩ v.v… thời thấy có sắc, thanh v.v… khả ái hay không khả ái, tất bị nhãn, nhĩ v.v… làm hại. Đã bị hại thời rất bị hại nơi trong vòng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhơn và thiên.

Do đâu mà bị hại? Do tưởng chấp.

Sao gọi là tưởng chấp? Chính là chấp ngã và ngã sở, chấp nam, nữ, địa, thủy, hỏa, phong, chấp thây chết xanh bầm, tan rã, xương trắng, chấp thắng giải thoát, chấp kia có phần ít giải thoát, đây không phần ít giải thoát, chấp hiện chứng, ta tùy niệm khác với quá khứ, khác với hiện tại, ta là quá khứ, ta là hiện tại, nhẫn đến chấp Niết Bàn, thấy ta được Niết Bàn, với các pháp sanh tưởng chấp.

Nầy Đại Ca Diếp! Tóm lại, kẻ chấp trước thời với chỗ nào cũng sanh niệm tưởng, nhẫn đến trong tánh không, họ vẫn có tất cả tưởng niệm. Đây đều chẳng phải pháp Sa Môn, Bà La Môn, đều chẳng phải hạnh Sa Môn, hạnh Bà La Môn.

Nầy Đại Ca Diếp! Như Lai nói pháp Sa Môn, Bà La Môn như hư không cùng với mặt đất. Vì hư không trọn không nghĩ rằng ta là hư không. Cũng vậy, bực Sa Môn, Bà La Môn trọn không tự nói ta là Sa môn, Bà La Môn. Các pháp cũng chẳng tự nói là pháp Sa Môn, Bà La Môn. Chẳng tạo tác chẳng trừ bỏ, đây gọi là Sa Môn, là Bà La Môn.

Nầy Đại Ca Diếp! Như có kẻ giữa đêm tối múa tay chơn, động đầu mặt, rồi nói rằng ta đùa cợt thế gian! Ta đùa cợt thế gian!

Ý ông thế nào, họ đùa cợt ai?

– Bạch Thế Tôn! Kẻ đó tự đùa cợt lấy họ, vì giữa đêm tối không có ai để họ đùa cợt cả.

– Nầy Đại Ca Diếp! Cũng vậy, nếu có Tỳ Kheo đến a lan nhã, hoặc đến dưới tàng cây, nhà vắng, đất trống, quán tưởng rằng nhãn, nhĩ v.v… đều là vô thường, sắc, thinh v.v… cũng đều vô thường. Ta thẳng đến Niết Bàn.

Các Tỳ Kheo ấy tự luống khổ nhọc không phải thật hạnh của Sa Môn. Vì họ có rất nhiều tà chấp.

Họ biết tướng nhãn, nhĩ v.v… rồi vì muốn diệt nhãn, nhĩ v.v… mà tu tập nhọc nhằn. Nếu ở nơi căn, trần, thức, ba chỗ đó mà biết rành thời sanh niệm phân biệt đối với ba chỗ ấy. Nếu đã ở nơi chỗ thấy biết mà sanh niệm phân biệt thời làm thế nào được tâm nhứt tánh cảnh.

Nầy Đại Ca Diếp! Thậm thâm Bồ đề rất khó đến khó vào, khó có đủ tư lương.

Thế nào gọi là tâm nhứt tánh cảnh? Suy tìm cùng khắp nhẫn đến một pháp cũng là bất khả đắc. Nghĩa là nhãn, nhĩ v.v… đều chẳng thể có thật. Tất cả pháp đều chẳng có thật. Vì bổn tánh như vậy. Tâm tánh vốn bất sanh, tất cả các pháp đều không có thật nên tâm đó bất khả đắc.

Vì nếu quá khứ, hiện, tại, vị lai là vô sở đắc thời là vô sở tác.

Thế nào gọi là vô sở tác? Hoặc cũ hoặc mới đều chẳng thể tạo tác nên gọi là vô sở tác.

Trong đây, quá khứ tâm không giải thoát, hiện tại tâm không giải thoát, vị lai tâm không giải thoát, tùy chỗ có tâm đều vô sở đắc, đây là tâm nhứt tánh cảnh, chính đây gọi là nhập vào số của tâm vậy.

Nầy Đại Ca Diếp! Sẽ có hàng tứ chúng chấp cho rằng nhãn, nhĩ v.v… là diệt hoại. Đối với các uẩn chấp là vật có thật.

Như Lai nói các uẩn dường như cảnh chiêm bao. Nhưng họ lại bảo chiêm bao là thật có, vì thế gian nói có chiêm bao; nếu không chiêm bao, lẽ ra mọi người không có sự mộng tưởng để biểu thị. Do đây chúng ta trong lúc ngủ mơ sanh mộng tưởng. Thật vậy, vì các uẩn có sở nhơn nên gọi là như chiêm bao. Nếu uẩn đã không, thời chẳng nên nói các uẩn dường như cảnh chiêm bao!

Những kẻ ngu si kia cho chiêm bao là thật có. Họ nghe kinh pháp này bèn hủy báng. Trong hạng này lại có Tỳ Kheo Ni đối với các nhà thí chủ, vọng xưng rằng ta là bậc A La Hán. Hoặc vì y cứ nơi trí thô cạn, họ nói hiện chứng được. Hoặc có Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nghe kệ tụng trong kinh luật rồi nói tôi hiện chứng.

Nầy Đại Ca Diếp! Lúc đó, hoặc có Tỳ Kheo đã thường ở a lan nhã trải qua hai ba mươi năm tinh tấn tu tập, vì Phật pháp mà họ đến nơi Ưu Bà Tắc mới có lòng tin vừa được một ngày, rồi chỉ dùng lời không mà xướng thuyết lẫn nhau. Họ bảo rằng vì không không nên ta biết khắp tất cả, ta biết khắp tất cả!

Hoặc có Tỳ Kheo nghe kinh pháp này rồi luận nói với nhau. Có người nghe sanh lòng hãi sợ, lại nói những người tại gia cùng xuất gia chẳng nên gần gũi các vị ấy, phải xa lìa, vì chẳng phải giáo sư.

Hoặc có người giảng nói pháp lý thậm thâm lại bị hàng tại gia xuất gia khinh tiện bỏ rơi.

Hiện nay đây Phật nói phạm hạnh thắng diệu còn ít người biết, huống là đời vị lai đến cả người biết chút ít cũng đã qua đời. Lúc đó, một ngàn, hai ngàn vị Tỳ Kheo thuyết pháp khó có được một người hiểu biết đúng thật tin nhập diệu pháp. Trong hàng đó, hoặc có Tỳ Kheo hoặc đến đỗi không nói được suông câu huống là hiểu rõ.

Nầy Đại Ca Diếp! Lúc đó, hàng tại gia, xuất gia chung nhau khinh hủy giáo pháp nầy.

Nếu có Tỳ Kheo tinh tấn vì thêm lành dứt ác, nên bớt ngủ nghỉ, đầu hôm cuối đêm tinh tấn tu học. Các vị này tất bị kẻ khác ganh ghét chê bai hoặc giết chết. Những kinh pháp như đây sẽ diệt mất. Hàng Tỳ Kheo đúng pháp cũng đều tiêu diệt. Trong lúc đó, người có trí thanh tịnh vô nhiễm hiểu rõ diệu pháp, phải tôn trọng kinh pháp này, tin sâu cung kính, cùng nhau họp ở nơi a lan nhã.”

Bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Pháp lành của Phật dạy

Hiệp với đệ nhất nghĩa

Rằng uẩn không chắc thật.

Nên xem nó như mộng.

Đời sau, các Tỳ Kheo

Lòng ganh đua lăng xăng

Không phân biệt tôn ti

Chỉ luống có danh tự.

Lời Tỳ Kheo nói ra

Tại gia cũng nói vậy

Giáo pháp lúc bây giờ

Đạo tục đồng cùng nói.

Tỳ Kheo bảo kẻ tục

Ông hiểu pháp hi hữu

Chính là Phật Bồ đề

Đã phát quả Sơ địa!

Lòng tự cho thấy pháp

Gần gũi người tại gia

Đây dâng cúng Tỳ Kheo

Đồ cúng dường tối thượng.

Các Tỳ Kheo này nói

Tất cả lời đều thật

Cùng tại gia thân nhau

Rằng ta đã thấy pháp.

Người ở đời vị lai

Vì lợi dưỡng xuất gia

Chẳng tuân theo chánh pháp

Hủy hoại Bồ đề đạo.

Ta đem đạo dạy cho

Gần ta chớ theo ai

Ít lâu ngươi sẽ được.

Như chỗ ta đã được.

Đây là ngôi tịch tịnh

Ta nói rõ cho ngươi

Trong đại chúng đông người

Làm hư giáo pháp Phật.

Ví như bọn giặc cướp

Lòng hung dữ hiểm độc

Đánh phá thành xóm làng

Cũng cướp tụ lạc lớn.

Tỳ Kheo nầy cũng vậy

Vô trí, nhiều ngu si

Huệ ít hay phạm lỗi

Chấp ngã chấp thọ mạng.

Rời xa giáo pháp Phật

An trụ trong kiến chấp

Tự xưng A La Hán

Đầy lòng tăng thượng mạn.

Họ ở giữa đại hội

Đối trước chúng Tỳ Kheo

Khoe mình nhiều trí huệ

Danh tiếng ít người có.

Lúc đó có Tỳ Kheo

Hoặc thật hành đúng pháp

Bị họ ghét chê bai

Bác không phải Phật tử.

Chư Phật đại Bồ đề

Lúc đó bị hủy báng

Chư Thiên lòng buồn lo

Thường hướng nhau than thở.

Chư Thiên tin chánh pháp

Thấy mất chánh pháp luân

Của Thích Ca Văn Phật

Đau lòng lăn trên đất.

Chư Thiên ca ngợi Phật

Cùng tán thán pháp môn

Khen ngợi phước điền Tăng

Con yêu của chư Phật.

Chúng ta chẳng còn nghe

Pháp nhiệm mầu của Phật

Thích Ca đã diệt độ

Không hiểu ôm lòng mê.

Tứ Thiên, Đao Lợi Thiên

Vang lên tiếng tăm lớn

Phổ cáo cùng chư Thiên

Đuốc pháp nay sắp tắt.

Các Ngài được nghe Phật

Nếu chẳng gần Như Lai

Hàng Thiên, Long sau này

Sẽ ôm lòng hối hận.

Trải qua vô số kiếp

Vì mình cũng vì người

Chịu đủ điều khốn khổ

Rồi sau mới thành Phật.

Đây là lời chư Phật

Vì giáo hóa chúng sanh

Giảng nói thiện pháp môn

Nay đây sẽ ẩn mất.

Kẻ giả dối ra đời

Gây nhiều tội đáng sợ

Là ma sứ, ác ma

Tha hồ nói lời ác.

Dua dối nhiều ngu si

Phỉnh gạt người khờ dại

Hoặc giận hoặc chẳng hờn

Chê Thầy, chê chánh pháp.

Nghe tiếng Trời truyền xướng

Các cõi trên đều buồn

Tứ Vương Thiên, loài người

Cũng đều cưu sầu khổ.

Thần Dạ Xoa nhóm họp

A Tra Phiệt Để thành

Kêu lên tiếng hãi hùng

Đôi mắt đồng rơi lệ.

Đền đài châu báu đẹp

Nghiêm lệ của chư Thiên

Thảy đều mất quang huy

Đen tối như đống đất.

Cung điện xưa xinh đẹp

Rất đáng mến đáng ưa

Nay mất cả oai quang

Nhìn xem không còn thích

Chư Thiên cùng nhau đến

Xưa kia chỗ Phật sanh

Lăn trên đất kêu gào

Càng thêm sầu thêm khổ.

Ta từ trời xuống đất

Đi qua các quốc thành

Phật pháp đều trầm luân

Nhìn khắp chẳng còn thấy.

Khắp cả Diêm Phù Đề

Chánh pháp đã suy tàn

Bức não người xuất gia

Nên chư Thiên than khóc.

Cung trời bảy ngày trọn

Nơi nơi mất oai quang

Chư Thiên cũng bảy ngày

Thường buồn rầu than khóc:

Than ôi đấng Đại Hùng!

Xưa tôi từng gặp Ngài

Nào ngờ nay chẳng thấy

Lời Ngài cũng thành không.

Phật thường ở Xá Vệ

Chúng tôi đến kính lễ

Nay thấy chỗ nhớ Người

Càng thêm buồn than khóc.

Và đây là rừng Lộc

Phật xưa ở nơi đây

Chuyển Tứ đế pháp luân

Chúng tôi thân nghe thấy!

Nay thế gian tăm tối

Chẳng kính mến lẫn nhau

Đã gây tạo tội nhơn

Tất sanh ba ác đạo.

Trên trời nhiều cung điện

Nay đều trống vắng người

Chúng sanh Diêm Phù Đề

Không chủ, không ai cứu.

Chỗ kinh hành của Phật

Nay hủy hoại hoang vu

Pháp Vương đã Niết Bàn

Thế gian mất an lạc

Giữa chúng trời Đao Lợi

Thiên Chúa Thích Đề Hoàn

Lòng khổ não ưu sầu

To tiếng than thở khóc.

Như vậy hàng Thiên chúng

Thường tán thán Như Lai

Tự hận xa Thế Tôn

Từng là Thầy thuyết pháp.

Không ăn cam lồ được

Cũng tuyệt tiếng đờn ca

Hàng chư Thiên như đây

Lòng sầu cả sáu tháng.

A Tu La nghe nói

Chánh pháp đã trống hư

Bèn kêu gọi lẫn nhau

Đem binh đánh Đao Lợi.

Diêm Phù các vua chúa

Hủy hoại Phật luật nghi

Chính trong thời kỳ nầy

Trời cùng Tu La chiến.

Sanh vào trong ác đạo

Có rất đông Tỳ Kheo

Cũng nhiều Tỳ Kheo Ni

Chịu đủ mọi sự khổ.

Tại gia phạm các tội

Cư sĩ phá thi la

Tranh bài bác lẫn nhau

Do đây đọa ác đạo.

Phụ nữ làm việc ác

Đều cũng vào tam đồ

Lúc hưng thạnh việc này

Thế gian chẳng an tịnh.

Có lúc qua tụ lạc

Hoặc trốn vào núi rừng

Vì lo sợ nhọc nhằn

Mọi người thọ ngắn yểu.

Khắp nơi nhiều trộm cướp

Sự đói khát lan tràn

Lúa má lại mất mùa

Thêm sâu keo phá hại.

Đời nhiều nghèo đói khổ

Loài người lúc chết rồi

Ngạ quỉ nhiều sanh vào

Chịu biết bao khổ sở.

Những đồ cúng chùa tháp

Vật dâng tứ phương Tăng

Lúc đó các Tỳ Kheo

Cùng nhau chia lấy hết.

Sau khi Phật diệt độ

Khổ như thế dẫy đầy

Phải sớm cố siêng năng

Chớ nhìn lui trở lại.

Bao nhiêu kẻ ngu dại

Người không huệ không căn

Do nghiệp ngu đã thành

Sớm đọa vào ác đạo.

Phải thích giảng đọc tụng

Trí huệ do đây sanh

Người tu huệ tu tâm

Mau sanh cõi lành tốt.

Thường dùng trí quán sát

Học đúng theo lời Phật

Lìa hẳn những buộc ràng

Sớm được Niết Bàn đạo.

Chánh pháp chẳng còn lâu

Phải gắng tinh tấn tu

Phật nói đã cạn lời

Gấp gẫm suy chơn chánh.

Khi kiếp này đã qua

Cả sáu mươi đại kiếp

Hiệu Phật chẳng được nghe

Làm sao có ưa thích.

Đến thời kỳ cơ cẩn

Sự đói khổ không cùng

Dầu cho đến mẹ con

Cũng giết nhau ăn thịt.

Lúc đó đến con đẻ

Kinh hãi đi chẳng yên

Dầu ở trong nhà mình

Vẫn lòng lo sợ sệt.

Thấy nghe những việc này

Rõ kia sanh tử khổ

Ai là người có trí

Mà lại thích lại ưa.

Vô minh là gốc sanh

Phụ nữ là gốc dục

Thân là cội gốc khổ

Do đây phải xa lìa.

Trong đời chúng sanh ngu

Say đắm nơi nữ dục

Người lìa được ngu si

Sẽ được Niết Bàn đạo.

Lúc giảng nói pháp nầy

Chẳng bị quả báo ác

Vì bác không nhơn quả

Nên phải sa ác đạo.

Pháp công đức vô lậu

Không không vô sở đắc

Tịch tịnh vốn không bền

Nên phải mau hiểu rõ”.

Phật bảo Đại Ca Diếp: “Nếu có Tỳ Kheo hoặc người nào có thể trọn nên pháp đệ nhứt nầy mà cầu pháp vô lậu, thời nên bảo rằng: đối với tất cả pháp, tâm không chỗ trụ.

Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát phải kiên cố tu tập.

Thế nào là kiên cố? Thế nào là tu tập?

Kiên cố là tâm kiên cố và tinh tấn kiên cố.

Thế nào gọi là tâm kiên cố? Bồ Tát nghĩ rằng: cúng dường một đức Phật nhẫn đến cúng dường cả hằng hà sa số chư Phật rồi sau mới phát một niệm cầu Phật đạo, sau đó lại trải qua hằng hà sa số kiếp có một đức Phật hiện ra đời, vì phát hằng hà sa số tâm nguyện nên một lần được thọ thân người, nhẫn đến thọ hằng hà sa số thân người nghe pháp một câu phát trí huệ sáng suốt, được lợi ích lớn nơi đạo Vô thượng Bồ đề.

Bồ Tát nên phát tâm kiên cố như vậy.

Bồ Tát lại dùng nhiều phương tiện để nhiếp lấy trí huệ của Phật, dùng nhiều khổ hạnh để trông cầu, nhiều khổ hạnh để nhiếp thọ Phật trí. Bồ Tát phải có tâm kiên cố như vậy.

Nầy Đại Ca Diếp! Nay Phật vì ông mà nói ví dụ. Những người trí do ví dụ mà được hiểu nghĩa trên đây nói về sự nhờ nhiều khổ hạnh mà có thể được Vô thượng Bồ đề, trải qua hằng hà sa số kiếp không nên thôi nghỉ. Nếu hằng hà sa số kiếp học tập mãi không thôi nghỉ, thời có thể hiện chứng Vô thượng Bồ đề. Bồ Tát nên phát tâm kiên cố như vậy để thêm thế lực sách tấn, vĩnh viễn không rời bỏ đạo Vô thượng Bồ đề.

Bồ Tát đã phát tâm như vậy, đối với phải chỗ không phải chỗ chẳng nên chấp lấy. Vì chấp lấy thời trở ngại đạo Vô thượng. Nếu Bồ Tát không chấp lấy phải chỗ không phải chỗ thời sớm được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Đại Ca Diếp! Ví như có người đem của báu đầy cả Đại Thiên thế giới dùng bố thí. Nếu có người tin và thọ trì kinh điển thuận Bồ đề của Phật nói, thời phước của người này hơn người bố thí kia.

Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát lại có tâm kiên cố, nhẫn đến tâm kiên cố này cũng bất khả đắc. Do đây sự tu hành của Bồ Tát chẳng nên thôi nghỉ.

Bồ Tát phải tu tập nhiều đến bao nhiêu? Tùy có bao nhiêu pháp tu tập. Nếu còn có một niệm không thể thấu rõ thời đều phải tu tập. Vì những pháp tu tập đó không biểu thị được, dầu vậy nhưng là pháp tu tập tối thắng, nghĩa là tâm tánh kiên cố vậy”.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Vô tâm, khởi tâm tưởng

Sẽ có bố úy lớn,

Ta sẽ thành, chẳng thành?

Việc này sẽ thế nào?

Do thường suy thường nghĩ

Kẹt ở nơi một bên

Hủy báng đạo chánh pháp

Nên chẳng được Bồ đề.

Đây là tâm giải đãi

Chẳng phải tướng Bồ đề

Người nầy nghi tất cả

Nghi Phật đến Thanh Văn.

Chẳng tu mà mong cầu

Thánh Hiền các Phật pháp,

Chẳng phải do ngôn thuyết

Thành được quả an lạc.

Cần phải có tin ưa

Mới thành được đại pháp,

Chẳng phải chỉ tâm lường

Mà được pháp thắng diệu.

Do một pháp thành được

Tất cả hạnh đã tu,

Biết thắng pháp kia rồi

Vì Phật nên siêng tu.

Nầy Đại Ca Diếp! Do có thể thành tựu pháp này, Bồ Tát không gần gũi cúng dường chư Phật, tự biết chắc rằng tôi sẽ thành Vô thượng Chánh giác.

Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia có ba pháp tu tập có thể lợi ích đạo Bồ đề: vì nhứt thiết trí nên tin sâu phát nguyện, chẳng đắm trước nghiệp tại gia và giữ chắc năm giới.

Bồ Tát tại gia có đủ ba điều trên thời có thể thành sáu pháp: được báo hiền thánh, chẳng câm, chẳng ngọng, chẳng điếc, nghe pháp mau hiểu, đi đứng đoan nghiêm, lòng tin sâu chắc, nơi pháp thậm thâm chẳng kinh sợ, khi nghe pháp dễ hiểu dễ ngộ và mau được bực bất thối.

Đối với sáu pháp trên đây, phải khéo biết có năm điều chướng: lời ly gián, vọng ngữ, không có chí nguyện, tật đố và đắm trước ngũ dục.

Bồ Tát tại gia lại có ba pháp cần tu hành: thường có lòng muốn xuất gia, nên phải cung kính tôn trọng các bực Sa Môn, Bà La Môn, nếu người thuyết pháp chẳng phải đồng loại thời nên lánh xa, vì chẳng nên học tập theo những pháp tà ngoại chẳng phải Phật đạo.

Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát lại phải tu học ba pháp: thường tùy thuận chư Phật, vì giảng dạy người khác nên tự mình siêng tu hành, tập rèn lòng từ đối với chúng sanh.

Bồ Tát lại phải gần gũi ba pháp: lìa hẳn sự đánh đập, chẳng mắng nhiếc người và ban sự vô úy cho người đương kinh sợ”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Chẳng gần người hạ liệt

Thấy người chẳng chánh trực

Liền phải gấp lánh xa

Như lánh xa rắn độc.

Chẳng theo học đạo khác

Phi lễ phải xa lìa

Dường như thấy chó điên

Vì phải đọa ác đạo.

Nếu chấp trước theo người

Đồng họ đi đường ác

Nghe pháp “không” thắng diệu

Phải có lòng thích ưa.

Với Tỳ Kheo không tịch

Nên cung kính tôn thờ

Thêm lớn sự đa văn

Mà được sanh trí huệ.

Bực gần gũi Bồ đề

Mọi người phải kính lễ

Gặp qua để học hỏi

Sớm sanh những căn lành.

Muốn trí huệ thêm lên

Như hoa sen trong nước

Phải nghe nhiều chánh pháp

Căn lành lớn càng thêm.

Do trí huệ thêm nhiều

Có thể dứt hữu lậu

Thành oai đức vô úy

Đại trí rất tinh cần

Vì lợi ích mọi người

Tự mình thành lợi ích,

Người tại gia phải bỏ

Đừøng đánh đập chúng sanh.

Phát tâm cầu Bồ đề

Nơi pháp không thối chuyển,

Thân không bịnh, xinh đẹp

Mọi người điều kính ưa.

Nếu tu tập lòng từ

Thoát khỏi ba ác đạo,

Cõi trời Đao Lợi kia

Hưởng quả vui sung sướng.

Thân trời nếu đã chết

Chẳng sa đọa tam đồ

Sẽ sanh trong loài người

Nơi nhà sang tôn quí,

Thân đoan nghiêm xinh đẹp

Chẳng bị người khinh chê,

Thiên, Long theo hộ trì

Tu hành đúng chánh pháp,

Thọ hưởng nơi thắng diệu

Người kính trọng mến thương,

Giấc ngủ được an lành

Lúc thức lòng an ổn,

Vì chư Thiên ủng hộ

Nên chẳng sợ chẳng kinh,

Pháp rộng lớn trên đây

Nhiều lợi ích như vậy.

Hàng tại gia xuất gia

Lại có lợi ích lớn

Làm nẩy nở trí huệ

Căn lành cho mọi người,

Người sợ làm cho an

Đưa đến Vô thượng quả.

Chỉ cầu nhứt thiết trí

Chẳng mong mỏi cõi trời,

Người này được tương ưng

Chánh đạo cùng chánh huệ,

Vì có căn lành này

Chẳng còn sa ác đạo.

Được trí được tam minh

Khéo học ba vô lậu

Trọn nên những công đức

Như chư Phật đã thành.

Đấng tôn quí trong đời

Mọi người cung kính lễ

Người lễ kính Như Lai

Là bực nhứt trong chúng.

Nếu người còn tại gia

Phát được tâm Vô thượng

Vì họ nói pháp yếu

Ông nên lắng nghe đây.

Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia phải có ba điều: xa lìa những sự buông lung chơi bời theo thế gian, cho tặng lẫn nhau cùng lựa chọn ngày lành giờ tốt, nên thanh khiết tránh nhận lãnh nhiều và phải nên tinh tấn siêng học chánh pháp.

Hàng tại gia lại phải ba điều: chẳng trở ngại người thuyết pháp, phải khuyến thỉnh người thuyết pháp và thường thắp đèn đuốc.

Và trọn chẳng được làm ba điều này, nếu làm thời sẽ mang thân phụ nữ: chẳng được ngăn trở mẹ đến nghe chánh pháp và ra mắt Tỳ Kheo, chẳng được ngăn trở vợ ra mắt Tỳ Kheo và đi nghe chánh pháp; chẳng được phạm chỗ phi đạo của vợ”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Nên thường có lòng tin

5Thắp sáng đèn với đuốc

Bèn được đôi mắt Phật

Thanh tịnh không cấu nhơ.

Do nơi mắt thanh tịnh

Rõ các pháp sở tri

Vì rõ được sở tri

Nên biết pháp quá khứ

Biết hiện tại cũng vậy

Chẳng phân biệt vị lai

Không có ba thứ tướng.

Có ba thứ tướng này

Bỏ lìa tướng thứ ba.

Tướng gọi là vô tướng

Đều đồng là một nghĩa.

Phật dầu nói chư căn

Nhưng pháp không căn bản

Nơi đây sanh phân biệt

Thời mất đạo Bồ đề.

Tịnh tu Phật nhãõn rồi

Hiện chứng tất cả pháp

Câu đây là Bồ đề

như vừa rồi khai thị.

Pháp không khai thị được

Cũng không hủy hoại được

Các pháp như hư không

Nên nói là khai thị.

Phật tuyên nói nghĩa này

Để dạy chúng tại gia

Thường thắp sáng đèn đuốc

Được Phật nhãn rõ ràng.

Chẳng chướng người thuyết pháp

Giáo pháp của Thích Ca

Trọn chẳng vào tam đồ

Chẳng mắc sanh manh báo.

Thường hay cầu thỉnh người

Tuyên dương pháp tối thắng

Do sức căn lành này

Chuyển pháp luân Vô thượng.

Nếu có người với mẹ

Ngăn trở nghe pháp lành

Thọ thân nữ xấu xa

Đui gù nhiều tội lỗi,

Chẳng thấy được màu sắc

Cũng chẳng nghe tiếng tăm

Ở nơi chỗ tối tăm

Không khác loài dơi chuột.

Với vợ sanh đố kî

Ngăn trở việc tu hành

Mãn thọ sau khi chết

Sẽ mang thân gái xấu:

Tóc vàng, tròng mắt xanh

Đen điu mắt mù lòa

Chưn què, lòng độc ác

Tai điếc, miệng nhiều lời,

Nhiều tội lỗi như đây

Sớm có thân xấu ác

Do dục nhiễm nhân duyên

Mà bị chồng ghen ghét.

Này Đại Ca Diếp! Tại gia Bồ Tát không nên làm ba điều này: những đồ vật bố thí của người khác không luận nhiều ít tốt xấu, nếu người chủ chẳng mời thỉnh thời chẳng nên đem bố thí, người khác muốn xuất gia chẳng được làm trở ngại, còn người chưa xuất gia nên khuyên bảo xuất gia, thấy người xây dựng chùa tháp nên trợ giúp, chẳng được nhơn việc xây cất mà lạm lấy tiền của hay đồ vật”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Của cải người bố thí

Không phải chỗ chẳng cho

Chỗ thí chẳng được ngăn

Lạm dụng thời mắc tội

Nên ở trước thí chủ

Vòng tay đứng thẳng ngay,

Trong đây nếu thiếu người

Cung cấp cho tăng chúng,

Phải theo lời thí chủ

Đem công giúp cho người,

Đồ uống cùng món ăn

Nhẫn đến thứ rẻ mọn

Đúng theo lòng thí chủ

Chớ để họ oán hờn.

Nếu ai muốn xuất gia

Hoặc con hoặc quyến thuộc

Bồ Tát nên thuận theo

Chẳng nên làm trở ngại.

Nguyện chúng sanh an lạc

Nguyện đặng chứng Niết Bàn

Bổn nguyện tôi được tròn

Nguyện thuyết pháp vô thượng.

Lúc biết mình có lỗi

Chớ để thân tâm nhơ

Chớ mãi mãi lo rầu

Mà bị phiền não nhiễm.

Này Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia lại chẳng nên làm ba điều này: chẳng nên buôn bán người nam người nữ, chẳng nên đem thuốc độc cho người, chẳng nên gần gũi những người làm các việc trên”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Chớ buôn bán người nam

Chẳng buôn bán người nữ

Thuốc độc chớ cho người

Người làm phải tránh xa.

Vì làm khổ chúng sanh

Chư Thiên thừng quở trách,

Không luận đến xứ nào

Lòng lo sợ bị hại.

Hằng ngày thêm buồn lo

Nạn khổ bức thân thể

Chết yểu tự diệt vong

Do đây chẳng nên phạm.

Lỗi nầy và tội khác

Phật biết rõ nguyên nhơn

Lược nói một ít phần

Dạy răn chư Bồ Tát.

Này Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia lại chẳng nên làm ba điều dưới đây: chẳng nên đến nhà dâm nữ, chẳng nên gần gũi những người mai mối, chẳng ở chỗ hàng thịt sát sanh”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Chẳng đến nhà dâm nữ

Nơi nhơ uế buông lung

Người đời sẽ chê bai

Vì gần gũi tệ dục

Đế đó, người trí biết

Ắt quở tách rầy la

Chiêu họa hại thân mình

Do đây thườn chết sớm.

Lại chẳng nên gần gũi

Kẻ mai mối gái trai

Người cưới vợ lấy chồng

Gần họ bị khi dễ.

Nhà sát sanh hàng thịt

Cũng phải chánh chớ qua

Nơi đó người khôn ngoan

Không bao giờ ca ngợi.

Những tội lỗi sâu nặng

Như Lai biết rõ ràng

Vì những người lỗi lầm

Nay Phật nói như thật.

Giáo pháp của Phật dạy

Để tử Phật phải rành

Đúng theo pháp thọ trì

Chỗ tu hành kết quả.

Chúng sanh tu thánh đạo

Mau đến quả Niết Bàn

Phật giảng cho hạng này

Chẳng phải vì người ác.

Này Đại Ca Diếp! Có ba điều Bồ Tát tại gia phải thật hành: ở nhà nên quan sát thân mạng của mình giả tạm như khách; với của cải đã bố thí có quan niệm như được chứa cất, với của cải chưa bố thí xem như xa lìa ta cả trăm do tuần, chẳng có quan niệm chứa của để cho vợ con”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Thường quan sát sự chết

Mạng tôi chẳng còn lâu

Sản nghiệp cùng của tiền

Nên thí gieo phước đức.

Của chẳng để vợ con

Cũng chẳng vì thân mình

Đem bố thí cho người

Được phước đức bền chắc.

Ân cần cầu Phật đạo

Chẳng sanh lòng cống cao

Nếu rời các pháp lành

Thường mang lấy tổn hại.

Như trẻ thơ đùa giỡn

Ăn chút ít chẳng no

Pháp vị còn mỏng manh

Dầu tin nhưng khó vững.

Nếu tu chẳng dõng mãnh

Cách đạo thiệt xa vời,

Hoằng pháp nếu chẳng thôi

Gọi là pháp rốt ráo.

Nay Phật vì đại chúng

Nói những pháp môn này

Nếu ai hiểu rõ ràng

Là bực nhứt thiết trí.

Dùng trí khéo quan sát

Lòng nhàm lìa nơi thân

Thường chánh niệm tư duy

Thời như đối trước Phật.

Này Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia thành tựu được ba pháp dưới đây thời chẳng thối chuyển đạo Vô thượng Bồ đề: Cha mẹ chẳng tin Tam Bảo thời làm cho cha mẹ có lng tin, cha mẹ hủy phạm giới pháp thời khuyên cha mẹ giũ giới, cha mẹ tham lam bỏn sẻn thời khuyên cha mẹ bố thí, khen ngợi đạo Vô thượng Bồ đề mà vì người khác thuyết pháp, đây là pháp thứ nhứt được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

Bồ Tát tại gia biết rõ đáng cúng dường cùng chẳng đáng cúng dường, cúng dường cho người đáng cúùng, chẳng cúng dường cho người không đáng cúng, dầu chẳng cúng nhưng vẫn có lòng từ đối với họ, đây là pháp thứ hai được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

Bồ Tát tại gia nhọc nhằn làm ra của cải, chẳng phung phí, chẳng để thất phát, chẳng đem cho bừa bãi, phải nên cất giữ kỹ lưỡng. dầu vậy, nhưng đối với các bực Sa Môn, Bà La Môn thanh tịnh cùng các chúng sanh, vẫn bình đẳng bố thí cúng dường, và không làm chướng ngại những người đồng bố thí. Đây là pháp thứ ba được chẳng thối chuyển Đạo vô thượng Bồ đề”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Hàng tại gia Bồ Tát

Cầu Vô thượng Bồ đề

Trọn nên ba căn lành

Thẳng lên Vô thượng giác.

Cha mẹ đối Tam Bảo

Tà kiến không lòng tin

Khuyên cho phát tín tâm

Khiến trụ nơi thắng pháp

Cha mẹ tham bỏn sẻn

Khuyên bố thí làm lành

Phạm giới khuyên giữ gìn

Cũng khuyên tu trí huệ.

Bốn phương nên đi khắp

Thỉnh cầu các pháp sư

Thuyết pháp để độ người

Do đây thêm trí huệ.

Phạm giới khiến giữ giới

Chưa tin khiến được tin

Không huệ khiến chuyên tu

Do đây được bất thối.

Gặp Tỳ Kheo trí huệ

Giữ giới học rộng nhiều

Nên cung kính theo gần

Để thường thường học hỏi,

Do đây hàng cư sĩ

Được bất thối Bồ đề.

Gặp người đức sâu dầy

Hiểu đạo nhiều trí huệ,

Bực này đáng tôn trọng

Thân của đem cúng dường.

Tiêu biểu lònn kính tin

Trước kia Phật từng nói:

Không tin thời không được

Phát đại Bồ đề tâm,

Trí huệ thấy pháp mầu

Mau nên lợi ích lớn,

Ở nơi các pháp diệu

Chứng nhập chẳng khó khăn.

Biết mình cũng biết người

Nơi đây được lợi lớn,

Tương ưng pháp xuất thế

Nên trí huệ càng thêm.

Bao nhiêu những của tiền

Xưa nay thường chứa nhóm

Không phải gìn giữ mãi

Đem bố thí người tu.

Tiền của được sau này

Cũng mang ra bố thí

Bố thí thường tinh tấn

Phật quả ắt mau thành.

Trì giới cùng chúng sanh

Từ tâm đồng bố thí

Bố thí lòng trong sạch

Trọn không chút mong cầu,

Bạc tiền đến ngọc vàng

Đều vui lòng thí cả

Dõng mãnh thí tất cả

Những công hạnh đã làm

Hồi hướng Vô thượng thừa

Bồ đề đại giác đạo.

Cúng dường nếu phi pháp

Dầu bố thí Nhơn, Thiên

Chẳng bằng thuận pháp lành

Cho một người hèn khó.

Tinh tấn vì cầu pháp

Nhờ pháp được tỏ thông

Thắng đạo sanh trí mầu

Chứng Bồ đề vô thượng.

Này Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia sau khi phát Bồ đề tâm nếu có ba điều dưới đây thời sẽ qua Thanh Văn thừa mà nhập Niết Bàn: có một hạng người sợ ba ác đạo, xem đạo Vô thượng quá nặng quá khó, không chuyên tu tập những thiện căn đã từng tu tập, chẳng thích cầu pháp lành, nản lòng cho là khổ, đây là điều thứ nhứt. Nếu có điều này thời thối thất Bồ đề tâm mà qua Thanh Văn thừa nhập Niết Bàn.

Có một hạng người lúc làm việc bố thí lòng không hoan hỉ, đã bố thí rồi lại hối hận, cũng chẳng hồi hướng cầu trí huệ Phật. Nếu người có điều thứ hai đây thời thối thất tâm Bồ đề, mau qua Thanh Văn thừa mà nhập Niết Bàn.

Lại có hạng người chẳng chuyên cần tinh tấn thật hành hạnh Đại thừa, chỉ thích cầu học rộng, do thiện căn hạ liệt mau nhập Niết Bàn. Đây là hạng thứ ba thối thất Bồ đề tâm, qua Thanh Văn mà nhập Niết Bàn”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Đã phát Bồ đề tâm

Chẳng tùy thuận chánh hạnh

Thối thất nơi Phật thừa

Vào nơi Thanh Văn đạo.

Vẫn tin đai Bồ đề

Cũng không lòng giải đãi

Do vô trí xan tham

Nên phải bị trở ngại.

Cảm ơn Phật trì giới

Bố thí lòng siêng năng

Ba la mật được thành

Chứng Bồ đề không khó.

Do tâm tạo những ác

Tâm củng thích cúng dường

Tâm chúng sanh nếu bền

Sẽ là thế gian quả.

Nếu lìa được ba lỗi

Hồi hướng đại Bồ đề

Sẽ là bực Thế Tôn

Chứng Bồ đề vô thượng

Này Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia nếu có ba điều dưới đây, thời thối thất đạo Bồ đề, mà bát Niết Bàn nơi Độc Giác thừa: có hạng người dầu đã phát tâm Bồ đề nhưng bỏn sẻn chánh pháp. Có hạng người ham coi hạn coi sao và đoán việc cát hung thế gian. Lại co hạng người vì giải đãi mà không thể tu học khắp các pháp trợ Bồ đề. Những hàng tại gia đã phát tâm đại Bồ đề, nếu có ba lỗi trên thời sẽ thoiá thất Đại thừa mà vào Độc Giác thừa bát Niết Bàn.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Người bỏn sẻn chánh pháp

Chẳng chịu dạy bảo người

Sẽ qua Độc Giác thừa.

Thối thất đạo vô thượng.

Đã tu Đại thừa pháp

Lại xu cát tî hung

Chẳng phải chánh tín tâm

Tất phải xa Phật đạo.

Có thể chuyên tín nhạo

Kiên cố đạo Bồ đề

Trọn không lễ trời thần

Chỉ phụng thờ đức Phật.

Nếu có lòng tịnh tín

Chẳng cầu muốn quả trời

Có thể được Phật thừa

Hiệu là đấùng vô thượng

Nếu lòng thích Bồ đề

Chẳng thờ cúng trời thần

Không luận sanh chốn nào

Thân đẹp xinh tráng kiện.

Này Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia vì có ba điều mà thọ lấy thân thể đen xấu: lấy đèn sáng nơi tháp của Như Lai, đối với người tranh cãi kiện tụng mà tỏ vẻ giận dữ, với người đen xấu không can dự đến mình mà lại chê mắng”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Lấy đèn sáng nơi tháp

Hoặc làm tắt đèn thờ

Thọ lấy thân đen điu

Như lông đen chim quạ

Khinh chê người đen xấu

Tôi trắng trẻo anh đen

Do khinh chê nơi người

Thọ lấy thân đen xấu

Phải khéo gìn lỗ miệng

Lỗi họa tự miệng ra

Tùy theo nghiệp đã làm

Sẽ thọ lấy nghiệp báo.

Này Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia vì có ba điều sau đây mà phải sanh vào nhà thợ thuyền: tự đã giữ được năm giới, hoặc bị tân khách ép mời mà uống rượi, hoặc tự mời người khác uống, thời sẽ thọ sanh vào nhà thợ thuyền, đây là điều thứ nhứt.

Tự đã giữ được phạm hạnh, lại hòa hiệp người khác khiến họ làm việc uế dục, nên sẽ thọ sanh vào nhà thợ thuyền. Đây là điều thứ hai.

Thấy người siêng năng đọc tụng kinh pháp mà nhà mình lại hưng công rồi bảo kia rằng: Anh nên nghỉ đọc tụng để làm tiếp công việc cho tôi, do đây nên sẽ thọ sanh vào nhà thợ thuyền. Đây là điều thứ ba”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Đem rượi mời người uống

Uống rượu với bà con

Vì uống rượu say sưa

Bèn sanh vào nhà thợ.

Làm kim dao chẳng biết

Nghề khéo khác chẳng rành

Chỉ được ngồi động tay

Trước lò thụt ống bễ.

Tự mình tu phạm hạnh

Bảo người làm việc dâm

Mãn báo đã chết rồi

Sẽ sanh vào nhà thợ.

Làm kim dao chẳng biết

Ống bễ chẳng được làm

Chỉ biết quơ búa to

Đập xuống đe rèn sắt.

Bảo người bỏ đọc tụng

Sau khi đã chết rồi

Thọ sanh nhà thợ thuyền

Đâu óc thường nhu tối.

Chẳng biếtt thụt ống bễ

Cũng chẳng biết đập rèn

Do nghiệp báo khiến nên

Làm hư hại đồ đạc.

Phật có lời khuyên dạy

Nói năng phải gìn lời

Vĩnh viễn chớ dạy người

Làm tất cả việc ác.

Luân hồi sanh tử khổ,

Do tham ái mà ra

Pháp lành phải siêng tu

Lánh xa nhử pháp ác.

Này Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia nếu có ba điều dưới đây thời sẽ thọ sanh vào nhà vua chúa sang giàu, thanâ thể đoan nghiêm xinh đẹp, được mọi người kính yêu, thông minh khéo léo siêng năng chẳng biếng trễ: người tại gia vừa mới gặp bực Sa Môn, Bà La Môn lần đầu, liền kính tin cúng dường những vật thực y phục thuốc men đồ nằm cùng những vật cần dùng khác. Đây là điều thứ nhứt.

Người tại gia giữ vững bổn nguyện tu hành đúng như lời nói trọn chẳng vọng ngữ. Đây là điều thứ hai.

Người tại gia đối với bực Sa Môn, Bà La Môn đầy đủ giới hạnh, kính tin cúng dường các bực ấy mà lại có thể thọ học chánh pháp. Đây là điều thứ ba”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Những người có trí huệ

Thấy bực giới học cao

Phải sanh lòng vui mừng

Thường đi theo học hỏi.

Đã được lời dạy dỗ

Nên đúng pháp cúng dường

Bố thí đồ cần dùng

Trọn không lòng hối hận.

Đây là pháp bền chắc

Cần phải tùy thuận làm

Phật trí được tương ưng

Khó được mà mau được.

Do lòng tin sâu chắc

Thẳng đến đại Bồ đề

Đường trí huệ tu hành

Phật đạo chứng chẳng khó.

Sống trong pháp Vô thượng

Mong được pháp diệu mầu

Phải thọ thất thánh tài

Quả Niết Bàn được chứng.

Sẽ sanh nhà tôn quí

Thân xinh đẹp đoan nghiêm

Ăn mặc đều cao sang

Chứng Niếtt bàn Vô thượng.

Như chỗ Phật khen ngợi

Tu hành tối thượng thừa

Thanh tịnnh diệu Niết Bàn

Đây là quả tối thắng.

Đã tạo nên công hạnh

Quả đẳng lưu chẳng dừng

Trăm ức kiếp trải qua

Nghiệp này cũng chẳng mất.

Này Đại Ca Diếp! Bồ Tát tại gia trọn nên ba điều vun trồng các căn lành nhẫn đến chứng được Vô thượng Bồ đề trọn chẳng thọ vui ngũ dục thế gian:

Người tại gia thọ trì năm giới, không ca ngợi vui ngũ dục với người khác, siêng năng tu tập nghiệp hạnh của mình. Lại phát nguyện rằng: tôi thôi gần gũi tất cả phụ nữ. Từ nay đến khi chứng Vô thượng Bồ đề, nguyện tôi chẳng gặp sự vui ngũ dục thế gian. Đây là điều thứ nhứt.

Người tại gia nghe kinh điển này, sanh lòng tin cầu quả đại Niết Bàn dầu thọ trì giáo pháp này nhưng yêm ẩn chẳng thật hành. Được người khác giảng giải và phát khởi, liền phải xa bỏ việc yêm ẩn mà cố gắng thật hành. Do căn lành này đặng biện tài vô ngại, vô trước. Người này đời hiện tại hoặc lúc lâm chung sẽ được thấy Phật. Sau khi chết sanh lên cõi trời, không bao lâu sẽ chứng được Vô thượng Bồ đề. Đây là điều thứ hai.

Bồ Tát tại gia đem những căn lành mà mình đã có đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề, chẳng ưa thích cảnh lục trần, của cải, chức tước, chẳng trìu mến quyến thuộc. Do Tâm vô vi và quả vô vi nên mau chứng Vô thượng Bồ đề. Đây là điều thứ ba.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Tại gia tu năm giới

Khéo giữ khéo hộ trì

Chẳng gần gũi nữ nhơn

Trong đây sanh nhàm chán.

Những pháp môn Vô thượng

Siêng tu chẳng mỏi nhàm

Nếu có lỗi chẳng lành

Mau ăn năn chừa bỏ.

Những căn lành tu tập

Đều hồi hướng Bồ đề

Do công đức lành này

Sớm lìa vui ngũ dục.

Thường được học biết rộng

Đem chánh pháp dạy người

Sanh lòng đại từ bi

Cầu Bồ đề Vô thượng

Đã nghe những lợi ích

Phải sanh niệm hiền lành

Các dục nhiễm nên xa

Sớm được thành Phật đạo”.

Đại Ca Diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Kinh pháp này tên là gì? Nay chúng tôi phải phụng trì thế nào?”.

Phật bảo Đại Ca Diếp: “Kinh này tên là “Thuyết Tam Luật Nghi”. Cũng tên là “Tuyên Thuyết Bồ Tát Cấm Giới”. Cũng tên là “Đồng Nhập Nhứt Thiết Pháp”.

Phật nói kinh này rồi, Tôn giả Đại Ca Diếp, tất cả đại chúng, Thiên, Long, Bát bộ v.v…nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lộ Quân Nã Lợi Diệm Man Sí Thạnh Phật Đỉnh - Kinh Tạng
  • Kinh Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng - Kinh Tạng
  • Kinh Bí Mật Bát Danh Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh – Thích Huyền Tôn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Danh – Thích Thiện Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh – Nguyên Thuận dịch (1) - Kinh Tạng
  • Đại luân Kim Cang Tổng Trì đà-ra-ni kinh - Kinh Tạng
  • Kinh Công Đức Chư Phật Hộ Niệm Không Thể Nghĩ Bàn - Kinh Tạng
  • Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh – Nguyên Thuận dịch (2) - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Tạng Văn Thù Sư Lợi - Kinh Tạng
  • Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh Pháp Nghi Quĩ Niệm Tụng - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Danh – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Quảng Tụ - Kinh Tạng
  • Bồ Tát Đại Thánh Diệu Cát Tường Dạy Trừ Tai Giáo Linh Pháp Luân - Kinh Tạng
  • Kinh Tâm Phật - Kinh Tạng
  • Pháp Nghi Quỹ Tôn Thắng Phật Đỉnh Tu Du Già - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng