Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn
Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Nghi Quỹ Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Đại Mạn Đồ La Phẩm
Đường Bất Không dịch
Bản Việt dịch của Huyền Thanh
***
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Ma-Ha-Tát Quán Tự Tại bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con muốn xin ở trong Hội Giáng Tam Thế Pháp Vương nói Tự Tâm Chân Ngôn. Thế Tôn! Nếu vừa xưng tụng tất cả Như Lai, thì Tam Muội hiện tiền, tất cả sự sợ hãi, ách nạn, tai chướng và các bệnh não thảy đều tiêu diệt”.
Khi ấy, Đức Bạc Già Phạm bảo Bồ Tát Quán Tự Tại rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông nên khéo nói”
Thời Bồ Tát Ma-Ha-Tát Quán Tự Tại nương theo lời dạy của Phật liền nói Tự Tâm Chân Ngôn là:
– “A lỗ lực ca, sa-phạ ha”
(AROLIK SVÀHA).
Khi vừa mới nói Tâm Chân Ngôn này, thì tất cả Như Lai từ cõi nước của mình đều vân tập trong Đại Hội Tu Di Lô Đỉnh Tỳ Lô Giá Na, vây quanh Bồ Tát Ma-ha-Tát Quán Tự Tại. Xong, lại nói Tự Tâm Chân Ngôn Đại Man Noa La:
Tòa viện vừa mới dựng
Trong bốn cửa bốn góc
Khéo tính nơi chính giữa
Hình giếng xứng bốn lối
Hiện thành tám địa vị
Chia làm tám cánh hoa
Nên dùng sắc màu đõ
Quán Tự Tại giữa Đàn
Ở mỗi một cánh hoa
Tô vẽ Đấng Đại Giác
Giữa viện chẳng làm cửa
Trong ngoài tám lối đi
Vi diệu kiến lập xong
A Xà Lê nên vào
Đối trước Man Noa La
Kết Đại Liên Hoa Khế
Thẳng thân định chi tiết
Trụ ở Tam Ma Địa
Tiếp kết Ấn Câu Thí (Anõku’se)
Phụng thỉnh nơi Thánh Giả
Nếu tất cả Hữu tình
Vào Man Noa La này
Dù là kẻ phàm tục
Diệt tội cấu tham sân
Giống như đóa hoa sen
Chẳng bị nước nhiễm dính
Thắng Sanh cũng như thế
Chẳng bị Dục nhiễm ô.
Vị A Xà Lê liền dùng Ấn Đại Liên Hoa: Co Tấn Lực Độ (2 ngón trỏ) như móc câu, thỉnh Bồ Tát Quán Tự Tại. Chân Ngôn Liên Hoa Câu là:
– Án, ma ha bạt ná-ma , hồng, nhạ
(OM- MAHÀ PADMA HÙM JAH)
Ngay lúc bấy giờ, Bồ Tát Quán Tự Tại liền đến Đạo Trường hiện sắc thân vi diệu, phóng ra ánh hào quang. Tiếp đến, A Xà Lê nên như Pháp dẫn Đệ tử vào; các Đệ tử này nên mặc áo trắng, lại dùng lụa trắng che kín hai mắt và dùng lụa sạch buộc quanh cái đầu. Dẫn vào xong rồi, mới nói Kệ là:
Giống như đóa hoa sen
Chẳng bị nước nhiễm dính
Thắng Sanh cũng như thế
Chẳng bị nhiễm các dục
Liền trao hoa sen vào tay
Đệ tử, tay phải trao cho tràng hạt. Lại nói Kệ là:
Hoa sen lớn của Phật
Ở các Man Noa La
Thường nên phân biệt nhớ
Thân dâng Quán Tự Tại
Sau đó mới dạy Ấn và Môn Tam Ma Địa.
*
Phẩm Tâm Chân Ngôn Liên Hoa Man
Lại nữa, như trước xây dựng Man Noa La. Hành Giả nên ngồi trên Đài chánh giữa, nhập vào Nhất Thiết Như Lai Khai Phu Liên Hoa Tam Ma Địa, tụng một Lạc Xoa (10 vạn biến), liền được thân của Quán Tự Tại.
Phẩm Tâm Chân Ngôn Tam Muội Gia Man Noa La
Lại nữa, dùng Man Noa La đã xây dựng như trước. Lấy một ngàn hoa sen, một hoa tụng một lần, rồi đặt ở Đài chánh giữa dùng để phụng hiến. Sau đó, dẫn Đệ tử vào rồi đọc các lời của Tam Muội Gia (Samaya: Các lời Thề muốn thanh tịnh).
Phẩm Yết Ma Man Noa La
Như trước xây dựng Man Noa La, dùng bốn loại cúng dường. Lại nữa, có Pháp Thành Tựu là: Ở trên tơ lụa sạch sẽ, vẽ Đức Bồ Tát Quán Tự Tại ngồi trên đỉnh núi Tu Di, với tám Đức Phật vây quanh. Bắt đầu vào ngày thứ nhất của tháng Bạch Nguyệt, ở trước Tượng này, trong tất cả thời không cho gián đoạn, nhập vào Tam Ma Địa và niệm tụng cho đến khi Tượng phóng ra ánh hào quang. Ở trong ánh sáng này, tuôn ra Quán Tự Tại với các vị Như Lai nhập vào Tam Tinh của Hành Giả là nơi Quán Đỉnh. Cứ kiên nhẫn an trụ. Ngay lúc đó, Thể của Hành giả đồng với Quán Tự Tại. Trong khoảng sát na, liền thấy Thế Giới Cực Lạc, tất cả chúng sanh đều thọ mạng vô lượng.
* Nay Ta lại nói về Pháp Thành Tựu: Tụng một Lạc xoa (10 vạn biến), thì tất cả Cái, Chướng đều được thanh tịnh. Tụng hai Lạc xoa (20 vạn biến), thì tất cả các tội thuộc Ngũ Vô Gián đều diệt hết không còn sót. Tụng ba Lạc Xoa, thì tất cả Phước Đức đều đến nhóm tụ, sẽ chứng đắc Như Lai đẳng, tất cả Thánh Trí hiện tiền.
* Lại nữa, nếu kết Đại Ấn (Đó là 5 Tướng thành tựu), tụng xong số Lạc xoa, trải qua một đêm không có giới hạn số niệm tụng, cho đến sáng sớm thì tất cả Như Lai nhập vào trái tim của Hành giả, tức Thể đồng với Như Lai. Nếu nhập vào miệng, tức Thể đồng với Quán Tự Tại.
* Lại nữa, Thành Tựu Sự Nghiệp: Tụng một biến hộ thân. Hai biến thì hộ cho người khác với thành ấp, tụ lạc. Ba biến liền hay thành giải tất cả sự nghiệp. Nếu A Vĩ Xá (Avi’sa: Pháp biến nhập) thì nên đốt Đàn Hương (Gia trì 800 biến, thiêu đốt trong lò, xông ướp các chi phần) .
Nếu muốn trừ dứt các loài Quỷ Mỵ thì thêm chữ Hật-rị (HRÌH) để tụng, sẽ khiến cho tất cả hữu tình kính thuận. Gia trì vào hoa Kim Cang (thay bằng hoa màu đỏ), khiến cho tâm ác chẳng động, dùng đất màu trắng để chận đứng (Đầu, chân vẽ thêm màu đỏ. Vẽ đều, sau đó liền cuốn lại đặt vào trong cái bình, dùng đất màu trắng bít che rồi để lại vào trong cái bình, dùng đất lấp kín. Tưởng sự thay đổi ấy trong cái Thất, tức là an núi Tu Di, bên trên hay bên dưới cũng được), khiến cho Tất Đề Lợi kính yêu. Gia trì vào hoa Tô Mạt Na, khiến cho phục tùng.
Lại muốn khiến cho tất cả cầm thú tùy nơi nào chẳng động thì chuyển, gia trì vào hạt cải trắng hướng ra xa mà ném, khiến cho tất cả các cầm thú chẳng có thể động. Muốn có nơi thị hiện thì gia trì vào lông đuôi của con công rồi chuyển xa. Muốn trong mộng biết tất cả sự việc, thì ba thời tụng niệm ắt đêm đó sẽ thấy.
Lại muốn trừ các mộng ác, thì lấy hạt mè để Hộ ma. Lại muốn chận đứng miệng lưỡi thị phi, thì lấy lông cánh của con gà để Hộ ma. Nếu ở nơi Dâm Nữ Tử Bà Nga Nhụy, thì dùng lụa trắng như mặt trăng (Nguyệt Bạch Lụa) để Hộ ma, khiến thảy cột trói Thuỷ Ca La Noa. Nếu cầu tất cả việc, thì nên rộng cúng dường Quán Tự Tại. Vào ngày 8, ngày mồng một, ban đêm chẳng được ăn, chỉ niệm tụng, sẽ mãn tất cả nguyện.
Lại ở trước tượng Bồ Tát Quán Tự Tại, ba thời mỗi thời tụng ba biến. Mãn ba tháng, thì Bồ Tát sẽ làm cho mãn nguyện mong cầu. Lại ở trước Tượng Phật, ba thời mỗi thời tụng ba biến thì Đức Phật sẽ làm cho mãn nguyện ấy.
Phẩm Ấn
– Ấn Căn Bản: Chắp tay lại, đem 2 Thủy (2 ngón Vô Danh) 2 Phong (2 ngón trỏ) giao với nhau, Địa Không (2 ngón út, 2 ngón cái) đều mở cứng, 2 Hỏa (2 ngón giữa) hợp nhau.
– Ấn Đại Liên Hoa hay Phù Dung Hợp Chưởng: Chẳng đỗi Đại Liên Hoa, mở cứng Địa (ngón út) Không (ngón cái) là Ấn Nhương Đoạt chư Tội (Ấn cầu tế đoạt các tội).
– Ấn Tam Muội Gia: Lại cài chéo bên ngoài thành Kim Cang Phược, hợp 2 Phong (2 ngón trỏ) như cánh sen, 2 Không (2 ngón cái) dựng đứng cùng ép nhau.
– Ấn Yết Ma (Thỉnh Như Lai): Lại chia 2 bàn tay tác Liên Hoa Quyền. Liền đem Tuệ Quyền (Quyền phải) xoay quanh Định Quyền (Quyền trái) làm thế mở tám cánh hoa (Khai Bát Diệp thế).
– Ấn Pháp: Quán chữ Hật-Lị (HRÌH) ở hoa sen trong vành trăng nơi trái tim.
– Ấn Trí: Quán các Pháp như hoa sen chẳng bị nhiễm dính nước bùn, các Pháp cũng vậy, chẳng nhiễm Dục.
Liên Hoa A Xà Lê (Liên Hoa Đạo Sư) muốn truyền cho Đệ tử địa vị của A Xà Lê, thì đem hoa sen để vào trong 2 lòng bàn tay của Đệ tử. Lại gia trì Liên Hoa Man (Chuỗi hoa sen) 1008 biến, rồi cột buộc trên đầu Đệ tử. Chân Ngôn gia trì là:
– Án, bạt ná-ma ma la tỷ tiêu tả, lộ kế thấp-phạ la, số sách.
(OM- PADMA MÀLA ABHISIMCA LOKE’SVARA SA SAH).
Do đây, được làm A Xà Lê (Thầy Truyền Giáo) trong Bộ Liên Hoa.
Nay, Ta nói về nghi thức Cấm Giới tu hành trong Bộ Liên Hoa. Theo pháp, trước tiên cúng dường Bồ Tát Quán Tự Tại, nên uống một ngụm Ngộ Mâu Đát La, nếu có chút phần Ma Di, tất cả mọi sự liền thanh tịnh. Xong, quán thân mình là Bồ Tát Quán Tự Tại, mỗi ngày tụng một ngàn biến cho đến bảy ngày, thì Cấm Giới được thành tựu. Từ đây về sau, tất cả nơi ăn, tất cả chỗ làm đều chẳng bị ô nhiễm.
Nay, nói về tất cả Nghi Thức Cúng Dường Phổ Thông. Theo pháp, đem 2 tay nắm Kim Cang Quyền, đặt ở thắt lưng, hướng về bên trái hơi cúi đầu. Đây là Cung Kính Lễ.
Lại, đem 2 bàn tay từ vầng trán chia ra hướng về phía sau làm thế cột buộc tràng hoa, rồi buông rải ngón tay rũ xuống như dải áo. Đây là Hiến Hoa Man.
Lại, đem 2 bàn tay từ lỗ rốn đưa lần lên trên đến miệng rồi vẽ. Đây là Hiến Ca Vịnh.
Lại, đem 2 bàn tay từ miệng xoa dương Đàn Tuệ (2 ngón út) cùng xoay chuyển trong khoảng không trên đỉnh đầu, rồi chắp lại. Đây là Hiến Kim Cang Vũ.
Do sự cúng dường này, thì đạt được Địa vị Như Lai còn chẳng khó, huống chi các Tất Địa khác. Tại sao thế? Vì tất cả niềm vui đều chẳng bằng Kim Cang Tát Đỏa này.