Bồ Tát Đại Thánh Diệu Cát Tường Dạy Trừ Tai Giáo Linh Pháp Luân

Khuyết danh,

Bản Việt dịch của Thích Quảng Trí

*

Lúc bấy giờ ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ Thủ Lăng Nghiêm tam ma địa mà dậy. Xem khắp đại chúng mà bảo rằng:” Ta xem hết thảy hữu tình từ vô thỉ tới nay chìm đắm trong sanh tử, bị vác vọng tội nghiệp cột trói che lấp nên có thương ghét v.v.. hoặc bị các nghiệp báo mà chịu các thứ tai nạn. Nay ta do thần lực của tất cả Như Lai gia trì lược nói phương tiện tuỳ thế, diệt trừ tai chướng giáo lệnh chư Thiên, làm pháp đàn phiến để ca. Đức Như Lai đại từ bi nguyện vì các chúng sanh mà nói như vậy. Ta ở trong vô lượng kiếp nơi đời quá khứ chỗ Đức Phật Sa La Thọ Vương được nghe diệu pháp nầy, nay sẽ nói ra, các ông nên lắng nghe.

Pháp nầy lý thú sâu rộng, khó hiểu, nên theo truyền giáo A Xà Lê cầu thỉnh xin học, cũng cần chọn lựa sao hạn ngày giờ tốt, thọ học chân ngôn ấn khế và pháp hộ ma, an trí đồ tượng giáo lệnh, pháp luân, cần học giới phẩm thanh tịnh thân tâm, bốn trọng, mười trọng không được khuyết phạm. Nếu có khuyết phạm, không nên vì đó mà làm pháp niệm tụng, khiến bị các ương hoạ, không được hiệu nghiệm. Người trì pháp nầy phải luôn thanh tịnh, nếu vì quốc vương mà tạo lập mạn đà la hoặc dùng bột năm màu hoặc dây lụa năm màu, hoạ vẽ tượng Phật, Bồ Tát, chư Thiên các hình. Trong ngoài phân chia các Tôn vị theo thứ lớp, cần thanh tịnh bí mật mà làm, thân tâm chí thành cung kính tức được hiệu nghiệm. Các tai nạn tiêu trừ, phước đức tăng trưởng, như la có tiếng, không cầu không được. Lại không được cho các loại không tin nhơn quả, tà kiến ngoại đạo, ít trí không hiểu ngu si, các hạng đồ tể năm loại chiên đà la, huỳnh môn, nô tỳ, dâm nữ, các loại thấy mạn đà la hay sanh phỉ báng. Kẻ phỉ báng có 2 thứ hại. Các hình tượng chư Thiên không hạp với phàm phu ngu si nên không cho, nếu khinh mạn tỏ bày ra, các linh thần không vui, khó cầu các điều phước.. Nếu người hành pháp không bí mật cầu thỉnh hư uổng việc làm, kẻ ít trí không hiểu Như Lai đại bi phương tiện dùng sức oai thần của chơn ngôn. Phật dùng thiện xảo huệ giáo sắc gia trì. Nhật, Nguyệt, Tinh, Thù, Du không thiên chúng, khiến cho pháp tâm bi. Như Lai đã nói trong đại tập các kinh Nhật tạng, Nguyệt tạng cũng như trong các hội đều có hiển dương. Ta nay vì các ông mà nói rõ ràng mạn đà la trước sau an bố, niệm tụng tức tai. Nếu trong cõi nước Nhật, Nguyệt, bạc, thực hoặc ngũ tinh thất độ, hình sắc biến dị, hoặc quái tinh tuệ, bột, lấn áp vua, và các sao bổn mạng. Bấy giờ nên dùng pháp hộ ma tức tai hoặc bị các bệnh tật, do các quỉ thần gieo rắc, bị nước khác xâm lăng. Nếu như có người hiểu biết trước, nên phụng Thượng Mạn đà la Đế chủ ngày ngày phát tâm thành kính, phát nguyện cầu xin gia hộ, tức được thắng lợi, giặc ác tiêu trừ. Nếu là người đời bị gặp các ách nạn, vương nạn, tặc nạn, kiện cáo khẩu thiệt, hoặc oan gia lăng bức, các ác bịnh thuốc thang không hết, ngay lúc đó nếu có tai hoạ, hoặc túc thế oan quỉ khiến gần chết, y theo pháp này hoạ vẽ, tạo lập Tức tai mạn đà la, ẩn mật tụng trì chí thành cầu đảo, các Thánh Thiên Chủ nguyện trừ tai hoạ, khiến được các việc an lành. Cần nên sái vẫy phòng thất sạch sẽ, dùng phân trâu trắng, nước bạch đàn hương hoà các hương thơm, đem xoa nơi đất, dùng nước hương tán rãi nơi đất, nơi các bức tường khiến cho thật sạch sẽ. Ơ giữa vẽ Tức tai Luân, nếu làm địa đàn cần y giáo đào đất bỏ các ác vật như ngói đá, xương, cốt, lông, tóc, than, tro, các loại độc trùng v.v.. Sau đó lấy đất sạch tốt nơi bên bờ sông có chất ngọt hoà với nước thơm làm bùn dẻo, rồi như pháp mà tô đắp. Người hoạ sĩ không được uống rượu, ăn thịt, ngũ tân, xa lìa tham dục, cần nấu nước thơm tắm gội, mặc quần áo mới sạch. Mỗi sáng sớm thọ 8 trai giới nơi vải lụa trắng hoặc vải bố sạch vẽ một bánh xe 12 căm màu vàng. Nếu làm Địa mạn đà la, nên dùng bột năm màu, mỗi màu đều dùng chơn ngôn gia trì bảy biến, hoặc hai mốt biến, sau đó mới dùng, hoặc dùng các màu sắc hoạ vẽ ba ngày ba đêm, hoặc bảy ngày bảy đêm, cầu việc phước xong cần phải xả bỏ. Nếu là Địa đàn nên bỏ các hình tượng, không được để lâu. Nếu để cho các loài chim chuột, kẻ hạ tiện, tà kiến ngoại đạo, năm chiên đà la, huỳnh môn, nô tì v.v.. thấy, các Thánh chúng đều không vui, khiến phải bị chiêu tai hoạ. Nếu muốn đem theo nơi thân mà đi, thì ở trên vải lụa dùng màu sắc hoạ vẽ đo lường vuông một khuỷu, hoặc hai khuỷu, không được lớn quá ba hoặc bốn khuỷu, chia ra làm bảy mươi tôn vị Phật, Bồ Tát, Chư Thiên, hình tượng y pháp an bố. Nơi khoảng cách các căm vẽ chữ Phạn chơn ngôn, không được để tên. Nếu vì quốc vương thì cần phải làm Địa mạn đà la hoặc 16 khuỷu 24 khuỷu cho đến 28 khuỷu, số nầy không đồng ; nếu như quốc vương sanh nghi ngờ thì ở trên giấy viết tất cả tên của chư Thiên để dưới các chư Tôn khiến đoạn nghi, sanh chánh tín. Nếu dùng chữ Phạn mà đề tên là trên hết, như không biết chữ Phạn tuỳ văn tự nơi địa phương mà đề cũng được. Nơi trục bánh xe, phân nửa hoạ hoa sen trắng tám cánh, nơi giữa hoa dùng vàng hoặc bạc khắc Kim Luân Phật Đảnh Nhất tự đà la ni, “Bột rô hồng”, sau chữ, vẽ Xí Thạnh Quang Phật đảnh, quanh thân phóng ánh sáng lớn, trước Phật đối chơn ngôn vẽ Bồ Tát Phật Nhãn Bộ mẫu, hoa sen đỏ, đều cầm cờ xí ấn khế. Bên phải Phật vẽ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, sắc đỏ vàng, cầm bổn ấn khế. Phía trái Phật vẽ Bồ Tát Kim Cang Thủ, sắc trắng đỏ, cầm cờ xí, các vị đều ngồi bán già, bốn vị đối nhau,. Bên phải Ngài Văn Thù vẽ Bồ Tát Bất Tư Nghị Đồng Tử, bên trái vẽ Bồ Tát Cứu Hộ Huệ, bên phải Bồ Tát Kim Cang Thủ vẽ Bồ Tát Tỳ Cu Chi, bên trái vẽ Bồ Tát Quán Tự Tại. Như vậy, tám đại Bồ Tát tướng mạo, cờ xí, ấn khế đều dùng bổn pháp, dùng kệ tụng rằng:

Chỉ có chữ Đảnh Luân

Kỳ trì là trung tôn

Nghi Xí Thạnh Phật đảnh

Chân lông phóng ánh sáng

Đầu đội mão ngũ Phật

Hai tay như Thích Ca

Bên phải Đức Văn Thù

Đầu có năm búi tóc

Tay trái hoa sen xanh

Trên hoa có để chày

Tay phải cầm kiếm huệ,

Đài sen ngồi bán dà

Phía trước Phật Nhãn tôn

Thân màu hoa sen hồng

Tay trái ngũ nhãn ấn

Tay phải Như Lai quyền

Bên trái vẽ Kim cang

Thân màu sen trắng đỏ

Tay phải giữa cầm sen

Trên hoa chày năm chia

Tay trái cầm linh báu

Bán dà trên hoa sen

Lại vẽ Bất Tư Nghị

Mặt mày sắc đỏ vàng

Hai tay nội hợp quyền

Hai phong khuất đối nhau

Các móng đều dựa nhau

Hướng về Ngài Văn Thù

Lại vẽ Cứu Hộ Huệ

Thân tướng như sen trắng

Tay huệ để nơi tâm

Ngón không giơ thẳng lên

Bên phải Tỳ Cu Chi

Thân tướng đẹp như ngọc

Định huệ cả hai tay

Định cầm sen chưa nở

Tay huệ thí vô uý

Từ hai tay định huệ

Tay Định cầm xâu chuổi

Tay Huệ cầm quân trì

Lại vẽ Quán Tự Tại

Như là Như ý Luân

Tay trí châu ma ni

Tay phải ấn thí nguyện

Thân tướng màu trắng hồng

Ngồi trên hoa sen báu

Như vậy ngoài tám vị

Vẽ giới đạo vòng tròn

Ở trên giới đạo đó

Vẽ Tứ tôn chơn ngôn

Như là Xí thạnh quang

Bồ Tát Phật nhãn mẫu

Văn thù, Kim Cang Thủ

Thần chú vẽ phía sau

Bột trắng và vàng bạc

Đây là nghĩa đệ nhất.

Ở phía ngoài chơn ngôn nên vẽ chín Chấp Đại Thiên Vương là: Nhật Thiên, Nguyệt thiên, Ngũ tinh (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ), Thực thần, Tuệ Tinh, và Đại Phạm Thiên Chủ, Tịnh Cư Thiên, Na La Diên Thiên, Đổ Sử Đa Thiên, Đế Thích Thiên, phía sau vẽ Ma hê Thủ La cộng lại 12 Tôn vị. Các phương vị chia ra rõ ràng đầy đủ, cỡi các vật cầm các vật: (Người truyền thọ pháp nầy phải biết). Ngoài các vị Đại Thiên an bố giới đạo. Ngoài vẽ giới đạo vẽ 12 chày Kim cang một chia thẳng đứng, cho đến ngoài Kim Luân. Ơ nơi giữa các căm, phía trước Phật, tuỳ theo bên phải lần lượt an trí Sư tử cung, bán cung, yết cung, cung cung, ma yết cung, sáu cung nầy ở bên phải Phật. Từ sau Phật cho đến phía trước Phật, an Bảo bình cung, Ngư Cung, Dương cung, Ngưu cung, Nam nữ cung, Giải cung, sau cung này ở phía trái Phật. Sau lưng Phật an sao Hư, trước Phật an 7 tinh tú, ngoài 12 cung an 28 sao mỗi mỗi đều y bổn cung trước sau mà an. Chỉ trừ tai cho quốc vương mới hoạ vẽ thêm các chư Thiên. Ngoài ra các hạn khác chỉ cần vẽ Thiên danh Phạn tự (tên chư Thiên bằng chữ Phạn) và hình các sao.

Phía ngoài 28 sao, vẽ xung quanh luân lực như xa võng hình , màu vàng rộng lớn, tuỳ nơi trên võng (vành bánh xe) vẽ tám phương Thiên Vương. Trước Phật an Diễm ma Thiên, sau lưng Kim Cang Thủ an Trì Quốc Thiên, Càn thát Bà vương. Bốn góc Đông Nam Hoả Thiên, góc Tây Nam La sát chủ, góc Tây Bắc Phong Thiên, trên võng chỗ hư không dùng vàng bạc vẽ Xí Thạnh Quang Phật đảnh chơn ngôn, Duyên sanh tứ cú kệ và duyên hành cho đến lão, tử, ưu, bi, khổ, não. Lại vẽ 12 diệt câu vô minh diết tức hành diệt, cho đến lão, tử, ưu, bi, khổ, não diệt, chia ra đều trên vành bánh xe. Phía ngoài bánh xe vẽ 108 cái hoa sen xanh, ngọn cánh lá sen như cúi xuống. Trên các cánh sen vẽ chữ “A”, dùng phấn trắng hoặc vàng mà vẽ, vàng bạc là trên hết. Ngoài bốn góc cánh sen, vẽ giới đạo, trên giới đạo vẽ Chày Kim cang một chia xoay theo vòng tròn thành kết giới. Ở trong giới nội, ngoài bánh xe, chỗ hư không bốn góc vẽ bốn Đại Minh Vương làm ngoại hộ. Trước Phật bên phải góc vẽ trong vẽ Tứ Tý Hàng Tam Thế Minh Vương màu xanh, trước Phật bên góc trái góc trong vẽ Vô Động Minh Vương màu xanh. Phía sau Phật, bên phải góc trong vẽ Tứ Tý Vô Năng Thắng Minh Vương màu tím đen. Phía sau Phật, bên trái góc trong vẽ TứTý Đại Lực Ô Sô Sác Ma Kim Cang màu đỏ, bốn vị Đại Minh Vương đều ngồi trên đá báu, trên có lứa cháy rực rỡ, như vậy y theo mà an bố. Đây gọi là Nhất Thiết Như Lai Bí mật trừ tai Giáo lịnh Pháp luân.

Nếu khi có nạn, trên từ vua cho đến trăm quan thể nữ, dưới trăm ngàn phàm phu, các sao Bổn mạng lăng bức, hoặc nhật nguyệt thực tuệ, bột ác tinh, các sao xấu chiếu đến, ngay lúc đó dùng pháp nầy trang hoàng một phòng chỗ bí mật tạo mạn đà la, không cho người khác biét. Nếu có người biết cầu nguyện không thành, tai hoạ không diệt. Nếu như Quốc vương muốn tiêu tai, cần đào sâu đất lập mạn đà la y giáo nghiêm sức, hộ tịnh như kinh đã nói, không cho nữ nhơn nô tỳ, hạ tiện, huỳnh môn thấy khiến đạo tràng bị chạm xúc dơ uế, hoặc là các loại súc sanh các giống không tốt như heo, chó, mèo chuột cũng không được thấy đàn tràng. Nếu hay y theo như vậy vào trong đạo tràng chí thành cầu đảo, các thiên thần niệm tụng Xí Thạnh Quang Phật Đảnh chơn ngôn ngày đêm không gián đoạn và tụng chư tôn chơn ngôn, ít thời ba ngày ba đêm, nhiều thời bảy ngày bảy đêm hoặc 14 ngày đêm, chí tâm trì niệm và làm hộ pháp ma cho đến khi cảm ứng được kiết tường, đây là tối thắng nên biết tội chứơng quyết định tiêu diệt. Nếu được ứng nghiệm rồi, cần phải dẹp bỏ mạn đà la không nên để lâu. Pháp nầy như vậy. Nếu là Địa bàn, nên đem các vật bỏ xuống sông suối sạch. Nếu như tự mình không thể vào đạo tràng, vì chuyện công, chuyện tư, hoặc lo việc quan, hoặc phải lo thù tiếp, hoặc phải ở nơi thanh tịnh cấm chế hoặc thân mình hoặc trong nhà có người đau ốm, hoặc vì làm thân tôi tớ không được tự do, hoặc lưu lạc xứ người không có nhà cửa, hoặc gần tà kiến, ác nhơn oan gia các nạn không lập đạo tràng. Tức nên tìm cầu người hiểu biết pháp nầy, chỉ dẫn rõ ràng hoặc đạo hoặc tục (người đời) ân cần cầu thỉnh cúng dường, cung cấp các món cần dùng, nhờ họ tụng niệm cầu đảo, cẩn thận lo mật tạo lập đạo tràng. Sau đó chuyên tâm trì niệm khiến được vui vẻ. Như có việc không thể lập đạo tràng được, có thể ở nơi sạch sẽ thanh tịnh, trong phòng kín, hoặc nơi già lam, dùng một cái giường sạch sẽ để tạo luân đàn. Phía Bắc treo tượng Xí Thạnh Quang Phật Đảnh Luân Vương, hoặc một tượng Phẫn Nộ Vương cũng được. Tràng phan, bảo cái trang sức nơi đàn trước Tôn tượng như là mạn đà la, bốn phía như pháp dâng bày các món ăn uống, hoa, quả, cháo, cơm, sữa, bơ, đường, mật, mía, đèn, hồ đào v.v.. đốt hương tán hoa cúng dường chí tâm tụng niệm. Người làm pháp này mặc toàn đồ trắng, ngày đêm như trên, tai nạn tức diệt. Các thứ đựng đồ cúng dường đều bằng bạc, nếu như không có thì dùng bạch đồng hoặc đồ bằng sứ trắng mới không được dùng đồ đã xài rồi. Ngày đêm không ngừng nghĩ thường tụng Xí Thạnh Quang Phật Đảnh đà la ni. Các hương thiêu đốt thì dùng trầm thuỷ, bạch đàn, bạch giao, huân lục, bạch mao hoà lẫn, cho đến một ngàn một vạn, cho đến một lạc xoa hoặc ba lạc xoa số, tức được các nguyện, hoặc không cần định số, nên tụng Phật Nhãn chơn ngôn, Văn Thù Sư Lợi, Kim Cang Thủ. Tám đại Bồ Tát chơn ngôn, mỗi khi vào đạo tràng mỗi vị đều tụng 108 biến thỉnh triệu các Ngài vào đạo tràng, chư Thiên và các tú diệu mỗi chú tụng bảy biến. Khi tụng niệm cần phát lòng từ, nên dùng Phật nhãn nhìn ngó trên bánh xe, các hình tượng chư Thiên, thiêu hương phát nguyện, cầu xin ban phước, không nên làm pháp Phẫn nộ hàng phục sai khác cảnh Thánh, không được tương ưng vì các Ngài đều là các Đại Phước Đức Thiên, tiên hành đạo Bồ Tát dùng sức thệ nguyện thọ thân Trời, vì muốn lợi ích hữu tình khiến chúng sanh cang cường hung ác sợ sệt mà tu thiện, không phải là thân phàm phu uế trược. Nếu muốn hàng phục các vị thì không bao giờ được, cần phải suy nghĩ hành đạo cung kính sợ sệt, phải khởi lòng từ bi thương xót tất cả các hữu tình bị các ách nạn, nguyện cho giải thoát, một lòng trì tụng Xí Thạnh Quang Phật Đảnh chơn ngôn, càng nhiều càng tốt. Nay ta nói đà la ni rằng:

– chỗ sa phấn tra dưới nên gọi phiến để ca thất rị duệ.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm a bát ra để hạ đa xá sa nẵng nẫm. Um khư khư khư hê khư hê hồng hồng nhập phạ ra nhập phạ ra bát ra nhập phạ ra bát ra nhập phạ ra để sắc sá để sắc sá sắc trí rị ta phấn tra sa phấn tra sa phạ ha.

Bồ Tát Phật Nhãn chơn ngôn:

– Nẵng mồ tát phạ đát tha nghiệt đế tuỳ dữu ra yết đế tì dược tam miệu tam một đệ tì dược. Um rô rô sa phổ rô, nhập phạ ra để sắc sá tất đà lô tả nễ tát phạ lặc tha sa đà nĩnh duệ sa phạ ha.

Tâm chơn ngôn:

– Um một đà lô tả nĩnh sa phạ ha.

Hai tay chấp trống lòng

Mở phong vịn lưng hoả

Hai không đều đứng thẳng

Như là ngũ nhãn mình

Niệm chơn ngôn bảy biến

Ấn nhãn và hai vai

Mi gian làm Phật nhãn

Thành Phật mắt từ bi

Sau lại Diệu Cát Tường

Dùng kế Hoa sen xanh

Bảy biến ba lần triệu

Chiêu hai ngón huệ phong

Lai giáng nơi đạo tràng

Ban cho nguyện đầy đủ.

Tụng chơn ngôn kia rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm hệ hệ cu ma ra ca vi mục khất để bát tha tất thể đa, sa ma ra sa ma ra, bát ra để chỉ nhiên sa phạ ha.

Tâm chơn ngôn:

– Um phạ kế da nẳng mạc.

Sau là Kim Cang Thủ,

Ấn tướng và chơn ngôn,

Hai thuỷ xoa bên trong,

Địa hoả hợp thẳng đứng,

Hai không cũng như địa,

Nữ phong hình năm chia,

Đây là ấn bí mật.

Kim Cang Thủ chú rằng:

-Nẵng mồ tam mãn đa phạ nhựt ra hắc chiến noã ma ha rô sái noã hồng.

Tâm chơn ngôn:

– Nẵng mồ tam mãn đà phạ nhựt ra hác úm phạ nhựt ra bá ni phạ nhựt ra tát đát phạ hồng

Tâm chơn ngôn:

– Nẵng mồ tam mãn đà phạ nhựt ra hác úm phạ nhựt ra bá ni phạ nhựt ra tát đát phạ hồng

Sau lại Cứu Hộ Huệ

Tay định Kim Cang quyền

Ngồi ngay để nơi hông

Tay huệ duỗi năm ngón

Đem để ở nơi tâm

Chận mạnh nơi không luân.

Niệm chơn ngôn kia rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm hệ ma ha ma ha sa ma ra tát ra để chỉ nhiên sa phạ ha.

Lại Bất tư Nghị huệ

Ấn tướng như sau đây

Định huệ xoa bên trong

Tức thành ra quyền ấn

Hai phong duổi hơi co

Ở nơi tiết thứ ba

Khiến lưng móng dựa nhau

Hai không đều đứng thẳng.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm hệ hệ khẩn chỉ ra duệ tỉ a vĩ sa ma dã ninh duệ sa phạ ha.

Sau lại làm phụng giáo

Ấn tướng như nói trên

Cứu Hộ Huệ Bồ Tát

Kỳ khế như chú trước

Lại Tỳ cu chi tôn

Ấn khế như sau đây

Định huệ xoa bên trong

Ngón phong giao tiết trên

Hay tiêu các tai nạn

Diệt trừ các khổ ác

Vì lợi ích hữu tình.

Tức nói chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm tát phạ rị dả đát ra tán nể hồng sa phạt

tra dã sa phạ ha.

Lại đến Quán Tự Tại

Giống y Như ý Luân

Định Huệ Kim Cang phược

Nhẫn nguyện như cánh sen

Hai phong như hình bảo

Không luân như cái phan

Ngón địa giao tiết trên

Đây là tiểu tâm ấn.

-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Um bát na ma tấn đa ma ni nhập phạ ra hồng.

Tâm trung tâm:

-Um phạ ra nẵng bát na minh hổ hồng.

Ma Hê Thủ La Thiên Vương chơn ngôn:

-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Um hế hệ duệ hê ma hê thấp phạ ra dã sa phạ ha.

Dục giới Tự Tại Y xá na chơn ngôn:

-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm rô nại ra dã sa phạ ha.

Đại Phạm Thiên Vương chơn ngôn:

-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm ma ha một ra hàu ma duệ ế hê duệ hê sa phạ ha.

Thỉnh Triệu Thập nhị cung Thiên Thần chơn ngôn:

-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Um khất ra hê thấp phạ rị dã bát ra bát đa nho thất lị ma dã thương kê hồng phát sa phạ ha.

Thỉnh triệu Nhị thập bát tú chơn ngôn:

-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm a sắc tra vĩ dựng thiết để nẫm thiết khất sát đát lệ tì dược nễ nẵng nại ninh duệ thương kế hồng tát sa phạ ha.

Thỉnh triệu chư Thiên và thất tú thập nhị cung thần, nhị thập bát tú như Chấp Địa thiên v.v..

-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm tát phạ nị phạ đa nẫm ế hê duệ tam a ninh để dã tát ma bán tả nhược khất sát đát ra ra hộ kế đô na phạ nại nại vĩ ma nẵng a sắt tra vĩ dựng thiết để bát rị tha phệ duệ thương chỉ hồng tát phạ ha.

Sau đó minh các thiên

Đại tự Tại Thiên ấn

Tay huệ duỗi năm ngón

Duỗi xuống ngón lại qua

Tam muội duỗi năm ngón

Không dựa phong tiết trên

àa Đại Phạm Thiên ấn

Thẳng ấn niệm bổn chú

Tay định nắm thành quyền

Hoả duỗi phong co tiết

Giống như chống cây giáo

Ấn Y Xá na Thiên

Hai tay chắp nhau lại

Đứng thẳng hai ngón không

Giống như là cái phan

Hết thảy chấp diệu ấn

Không đổi ấn tướng trên

Ngón không, hoả xoa nhau

Các ngón dựa lưng tay

Đây là ấn các tú

Lại các Thiên ngoài giới

Các ấn tướng bí mật

Y xá và chủ trước

Lần lượt các chư Thiên

Hướng Đông là Trì Quốc

Tay phải dơ thành quyền

Tay trái chống nơi hông

Gọi là Bổn Hộ ấn

Định huệ trong thành quyền

Thuỷ luân duỗi đứng thẳng

Như là tấu âm nhạc

Là Ấn Càn thát bà

Tay Định ngữa nơi tâm

Hoả, không lại dựa nhau

Như là hình tam giác

Đây là ấn Hoả thiêu

Tay Huệ thẳng bốn ngón

Không để ngang trong tay

Phong co ba lần mời

Là mời thỉnh Hoả Thiên

Cửa Nam Diêm Ma Vương

Ấn nầy như sau đây

Chắp tay như hoa sen

Địa phong co trong lòng

Tướng như là đát noã

Gọi là Tử Vương hiệu

Lại nói Tây Nam phương

La Sát bà vương ấn

Chắp tay như hoa sen

Hai thuỷ xoa bên trong

Lại nữa Tây Long phương

Hai tay chắp xoa trong

Hai phong như cái vòng

Là ấn của các rồng

Tay định nắm thành quyền

Địa thuỷ như cái phướn

Tưởng cành phướn lay động

Thành giữ gìn các góc

Lại nói ở phương Bắc

Đa Văn Thiên Vương ấn

Tam muội tay trí tuệ

Xoa trong thành nắm quyền

Hai hoả thẳng như núi

Giống như là hình báu

Là ấn của Chư Thiên

Kết ấn mà mời thỉnh

Khiến hộ tại đạo tràng

Tất cả được đầy đủ

Thỉnh triệu chư Thiên xong

Lại niệm các duyên khởi

Câu kệ đọc rõ ràng

Ba biến hoặc bảy biến

Các pháp do duyên sanh

Như Lai nói nhơn vậy

Pháp nầy nhân duyên hết

Là Đại sa môn nói

Kệ mười hai duyên sanh

Trước sau tụng niệm đủ

Họa đàn và tụng niệm

Nên nhớ lấy đừng quên

Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên luc nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên danh, sanh duyên lão, tử, ưu, bi, khổ, não.

Lại viết diệt câu tức là 12 duyên diệt. Vô minh diệt tức hành diệt, hành diệt tức thức diệt, thức diệt tức danh sắc diệt, danh sắc diệt tức lục nhập diệt, lục nhập diệt tức xúc diệt, xúc diệt tức ái diệt, ái diệt tức thủ diệt, thủ diệt tức hữu diệt, hữu diệt tức sanh diệt, sanh diệt tức lão diệt, tử, ưu, bi, khổ, não diệt.

Bên phải ngoài luân (bánh xe) trên 108 cánh sen mỗi mỗi đều vẽ chữ “A”. Mỗi khi trì tụng phát nguyện tác bạch Thánh chúng, tay bưng lư hương chí thành cung kính quì lạy Phật mà nói rằng: “Đệ tử tên là… nay xin qui mạng Phật, pháp, Tăng, Tam Bảo, Hải hội Thánh chúng, ngưỡng bạch Pháp thân Thanh tịnh Biến chiếu Như Lai, phổ cáo thập phương chư Phật Đại Bồ tát chúng, nhất thiết Hiền Thánh, Thanh văn, Duyên giác, Ngũ thông Thần Tiên, Cửu chấp Đại thiên, thập nhị cung chủ, nhị thập bát tú, chúng thánh linh kỳ Tứ Đại minh vương, Hộ thế Bát thiên tịnh chư quyến thuộc Thổ địa, Sơn, Xuyên, Hộ pháp thiện thần, nghiệp đạo minh quan, Bổn mạng tinh chủ. Con nay gặp phải tai nạn ( Cầu gì nói cho đầy đủ) lăng bức. Du Không Đại Thiên nguyện thuận Phật giáo sắc . Thọ ngã cung thỉnh tất lai tập hội , thọ thủ đàn na phá. Cúi xin Đại Thánh nhiếp thọ bi lực được giáo pháp nầy cứu độ chúng con và hết thảy hũu tình bị khổ luân hồi. Nguyện xin Cửu chấp Thiên Thần, y Phật giáo luân biến tai thành phước, cho con được vô úy, được an ổn khoái lạc. Đời sau được làm quyến thuộc nơi đạo Bồ đề, vĩnh viễn xa lìa thương, ghét, làm nhiêu ích lẫn nhau, xin ban cho vô úy, được mọi an lành.” Mỗi ngày ba thời hoặc bốn thời, hoặc giờ thìn phát nguyện cầu thỉnh, các nguyện đều được, trừ không chí tâm.

Người gặp tai ách, chí thành phát nguyện, y chơn ngôn giáo pháp dùng bơ, mật, lạc, sữa, cây hộ ma và thí bát phương Thiên cùng các quỉ thần, các món ăn uống và trong chậu nước bỏ các thứ ăn uống ngon ngọt trái cây, tụng thí thực chơn ngôn, khởi tâm từ bi gia trì 7 biến hoặc 49 biến hoặc 108 biến đem bỏ ra ngoài nơi đất sạch cho các quỉ thần vô danh vô vị ăn, hoặc đổ xuống sông suối, nước chảy sạch sẽ, như vậy các tai nạn đều tiêu diệt.

Văn Thù Sư Lợi bảo đại chúng rằng: “Ta từ nghe được Giáo pháp tới nay luôn vì chúng sanh mà nói, tất cả Như Lai đều biết cho ta.” Nói Giáo Lịnh Pháp Luân xong, chư Thiên lễ Phật phụng hành.

Chư Thiên nghe nói xong, đều hoan hỉ đồng cùng một lời mà nói rằng: “Y theo thánh chỉ, không dám sai khác.” Tin chịu vâng làm, đảnh lễ mà lui ra.

    Xem thêm:

  • Pháp Nghi Quỹ Tôn Thắng Phật Đỉnh Tu Du Già - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lộ Quân Nã Lợi Diệm Man Sí Thạnh Phật Đỉnh - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Quảng Tụ - Kinh Tạng
  • Đại luân Kim Cang Tổng Trì đà-ra-ni kinh - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp Tu Dược Sư - Kinh Tạng
  • Nghi quỹ Đà-la-ni Tùy Cầu Tức Đắc Thần biến gia trì thành tựu Kim cang đảnh Du-già tối thắng Bí mật thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Quan Trung Sáng Lập Giới Đàn Đồ - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Tô Tất Địa Yết La - Kinh Tạng
  • Kinh Bát Nhã Lý Thú Phân Thuật Tán - Kinh Tạng
  • Kinh Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội - Kinh Tạng
  • Pháp Mật Yếu Trị Bệnh Thiền - Kinh Tạng
  • Kinh Đồng Tử Tô Bà Hô Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Tâm Phật - Kinh Tạng
  • Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh Pháp Nghi Quĩ Niệm Tụng - Kinh Tạng
  • Đại Đường Tây Vực Ký - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Diệt Tội Và Thần Chú Bảo Hộ Các Em Bé - Kinh Tạng