CỘNG NGHIỆP – BIỆT NGHIỆP
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có cộng nghiệp và biệt nghiệp.
MIKE AUSTIN: Vâng.
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cộng nghiệp của thế giới này không chỉ là nghiệp của loài người, mà là của vạn loại chúng sinh, chẳng hạn như côn trùng và mọi sinh vật khác trên thế giới. Nếu có bốn người đặt tay lên cái bàn này, thì cái bàn trở thành một vật được dùng chung bởi bốn người. Như vậy, hành vi này khiến họ tạo ra một nghiệp chung, và trong tương lai họ sẽ cùng nhận lấy kết quả của việc ấy. Còn với những sự việc mà người ta sử dụng một cách riêng rẽ, chúng được dựa trên – cũng như tạo ra – biệt nghiệp của từng cá nhân.
MIKE AUSTIN: Nói cách khác, ngài cho rằng DNA chính là sản phẩm của cộng nghiệp lẫn biệt nghiệp của tất cả chúng sinh trong thế giới này, thông qua đó mà chúng sinh xuất hiện?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi không có cơ hội để quan sát chi tiết hoặc nghiên cứu về DNA. Nó là vật thể, là đối tượng nhận biết được bởi nhãn thức. Bạn có thể nhìn thấy được nó qua kính hiển vi không?
MIKE AUSTIN: Tất nhiên là được. Có 64 nhiễm sắc thể được cấu thành trong một con người. Trong mỗi nhiễm sắc thể, nó được dàn trải thành hàng ngàn hợp thể gọi là các gen.
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đó là vật chất. Một khi nó là vật chất thì nó có thể phân chia và chiếm chỗ trong không gian. Nó không thể là không phân chia được. Nếu nó không phân chia được, nếu có bất cứ vật thể nào không phân chia được, thì sẽ không có bất cứ dạng thức nào cả. Dạng thức không thể nào hiện hữu. DNA chắc hẳn là không có sự nhận thức, nhưng đóng vai trò như nền tảng của sự nhận thức.
MIKE AUSTIN: Nếu tự nó không có sự nhận thức thì cái gì là nguyên nhân tạo thành nó theo cách thích hợp để xuất hiện sự nhận thức? Nếu ngài đã nói rằng khởi nguyên tâm thức vốn không tạo thành vật thể, vậy thì chính xác là điều gì đã tạo ra chất DNA vô tri giác này, để rồi đến lượt nó lại tạo thành tâm thức?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều này cũng tương tự như thị lực của một con mắt. Đó là vật chất, không phải là sự nhận thức, nhưng nó đóng vai trò nền tảng của sự nhận thức, và qua vai trò đó, nó là tác nhân sinh khởi của sự nhận thức. Chẳng hạn như bộ não, nó không phải là sự nhận thức, nhưng nó đóng vai trò nền tảng của sự nhận thức. Một khi có cái gì đó là sự nhận thức, thì nhất thiết nó phải không có hình dáng và màu sắc. Tuy nhiên, như tôi đã đề cập trước đây, nhờ năng lực thiền định, hay tam-muội, mà bạn có thể đạt tới hoặc tạo ra được một trật tự cao hơn trong một tầm mức sắc thể. Có hai dạng thuộc loại này: một dạng có thể quan sát bằng các giác quan, và một dạng chỉ có thể nhận biết bằng tâm thức. Có những sắc thể vi tế chỉ có thể được biết bởi tâm thức. Vì thế mà có lửa và nước được tạo ra do năng lực thiền định, nhưng đó thực ra không phải là lửa và nước, vì chúng chỉ được tạo ra tùy thuộc vào định lực. Nhưng chúng có thể có tác dụng đốt cháy hay làm ướt vật chất.
MIKE AUSTIN: Lửa mà ngài đang nói đến ở đâu?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nó phát xuất từ người có khả năng tu tập về các thứ như lửa, nước, gió, v.v… Điều này tương tự như bức ảnh mà người ta chụp được bằng ấn tượng tinh thần mà hôm nay chúng ta đã được thấy. Giống như vậy đó.
MIKE AUSTIN: Như vậy là ở một mức độ đào luyện tâm linh nào đó, thì vật chất có thể được biểu hiện ra?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy.
MIKE AUSTIN: Nhằm mục đích gì?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều đó tùy theo động cơ của mỗi người.
MIKE AUSTIN: Tôi hiểu rồi. Tôi muốn hỏi ngài vài vấn đề có liên quan đến chuyện này. Từ khi ngài còn nhỏ, ngài đã rất thích khoa học. Vì sao vậy?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vì sao ư? Đó là mơ ước của tôi. Đúng vậy. Để xem nào, tôi đã quan sát nhiều tranh ảnh, và từ đó tôi đâm ra thích thú. Từ khi còn nhỏ tôi đã rất tò mò. Và khi bạn phát triển dần những câu hỏi “vì sao”, đó là lý do bạn quan tâm đến khoa học.
MIKE AUSTIN: Kể cả khi tìm kiếm một nguyên nhân khởi đầu hay một điều gì đó tương tự như thế?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu bạn tìm kiếm một nguyên nhân khởi đầu thì đó không phải là khoa học. Khoa học đến sau nguyên nhân khởi đầu.
MIKE AUSTIN: Cho đến nửa đời ngài mới rời khỏi một thế giới không có khoa học kỹ thuật để bước vào giữa thế kỷ 20 này. Những sự phát triển, những khám phá nào khiến ngài có ấn tượng hay quan tâm nhiều nhất?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Hôm nay tôi đã có nói đến, đó là cái máy quét này. Thật là đặc biệt. Khi thân thể được quét qua, nó ghi nhận từng cen-ti-mét của cơ thể bạn theo lớp cắt ngang. Thật là kì diệu.
MIKE AUSTIN: Tại sao điều ấy khiến ngài quan tâm?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: À, vì nó rất có ích.
MIKE AUSTIN: Vì lí do gì phát minh này lại đáng quan tâm nhất?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vì không cần phải giải phẫu thân người để có được ảnh chụp.
MIKE AUSTIN: Một số máy móc này đã gây nhiều rắc rối cũng như giúp ích cho con người. Ngài nghĩ cách tốt nhất để vận dụng khoa học kĩ thuật là gì?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều đó còn tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy. Cần có sự vừa phải và lòng tốt. Như thế mọi thứ sẽ tiến triển tốt đẹp. Thế thôi.
MIKE AUSTIN: Ngài cảm thấy thế nào về năng lượng hạt nhân?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tốt. Tôi nghĩ đó là điều tốt.
MIKE AUSTIN: Tại sao?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vì nó có ích. Nếu bạn sử dụng nó một cách thích hợp, tôi cho là vậy.
MIKE AUSTIN: Ngài cảm thấy rằng tiềm năng lợi ích của nó vượt hơn sự nguy hiểm?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Mọi thứ đều là duyên khởi. Bạn thấy đó, năng lượng hạt nhân có phải là hoàn toàn có lợi không? Tất nhiên là không. Nhưng chúng ta đang đề cập một vấn đề nan giải. Chỉ xét riêng bản thân nó, bạn không thể quả quyết rằng năng lượng hạt nhân là xấu, bởi vì nếu bạn quả quyết như vậy thì chính bạn sẽ là người cực đoan. Nếu bạn đi đến bất cứ sự cực đoan nào, điều ấy cũng tai hại.
MIKE AUSTIN: Ngài nghĩ gì về những ảnh hưởng tinh thần rộng hơn của năng lượng hạt nhân? Chúng ta đã sử dụng được năng lượng từ nguyên tử, và với nguồn lực tự nhiên mạnh nhất này – quả thật như thế – chúng ta rất có thể sẽ huỷ diệt cả thế giới. Ngài có thấy gì là nghịch lý trong việc này chăng?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Một lần nữa, điều này hoàn toàn tùy thuộc vào kĩ năng của bạn trong việc sử dụng năng lượng hạt nhân như thế nào. Chẳng hạn như việc ăn kiêng, nếu bạn không biết cách ăn như thế nào cho thích hợp, bạn cũng có thể tự giết mình.
MIKE AUSTIN: Trở lại vấn đề chúng ta đang thảo luận từ trước; sự tồn tại và tiến hóa của vũ trụ. Khoa học phương Tây đã chỉ ra rằng đời sống trên hành tinh này được phát triển từ những dạng thể đơn giản đến những dạng thể tinh vi phức tạp cao hơn. Ngài có thể nào cho rằng dòng tiến hóa này là tương tự với quan niệm của đạo Phật về luân hồi, trong đó các loài hữu tình chuyển sinh trong một vòng luân chuyển đã xác định trước với những hình thức đời sống căn bản?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Theo những kinh điển mà tôi đã đề cập trước đây, chúng tôi tin vào cả dạng đời sống bậc cao dần dần thoái hóa và dạng đời sống nguyên thủy được tiến hóa. Ngoài ra, tôi không biết. Điều này thật khó nói. Chúng ta phải khảo sát thêm nữa vấn đề này. Tôi cho rằng những điều khác biệt vẫn có thể đồng thời tồn tại. Những gì khoa học đã tìm ra về bản chất hiện nay của sự tiến hóa có thể là đúng; nhưng đồng thời một kiểu tiến hóa khác cũng có thể đang tồn tại. Điều ấy thật khó nói.
MIKE AUSTIN: Trong kinh điển có nói đến hay chăng một thời điểm cụ thể, một mốc cố định hoặc thời kỳ mà trong vòng luân hồi, không gian và thời gian sẽ trống rỗng không còn chúng sinh nào?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều này được giải thích như sau trong một quyển kinh của đạo Phật. Nếu bạn đào sâu xuống lòng đất 1000 thước, rồi đào rộng ra chung quanh vuông vức 1000 thước, sau đó lấp đầy hố trống này bằng tóc, mỗi sợi dài nửa thước. Rồi nếu như cứ 100 năm lại lấy đi một sợi tóc, cho đến khi lấy hết số tóc ấy sẽ là khoảng thời gian của một trung kiếp, và (một đại kiếp) có 80 trung kiếp. Đại thể là như thế.
MIKE AUSTIN: Trong kinh có nói là sẽ có bao nhiêu đại kiếp không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ồ, vô số. Không có giới hạn đối với đại kiếp. Sự tồn tại theo kiểu như trái đất này tan rã, rồi bắt đầu hình thành, rồi lại tan rã, diễn ra ở khắp nơi trong vũ trụ.
MIKE AUSTIN: Vậy không có một thời điểm xác định khi vòng luân hồi sẽ dừng lại hay sao? Chẳng phải ngài đã nói rằng vòng luân hồi sinh tử không có điểm khởi đầu, nhưng có điểm chấm dứt đó sao?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đối với từng cá nhân thì nó có thể chấm dứt. Với toàn thể thì nó chẳng có khởi đầu và chẳng có kết thúc. Nếu bạn khảo sát riêng về một con người, có hiện hữu một khả tính có thể đem lại sự chấm dứt nguyên nhân khiến cho người ấy chịu luân hồi sinh tử. Do vậy, nó có điểm kết thúc. Nhưng bây giờ, khi chúng ta đề cập về luân hồi nói chung, thì rất khó nói vì nó không có giới hạn. Đối với cái gì không có giới hạn, làm sao bạn có thể đặt một thời điểm xác định vào đó? Vấn đề là ở điểm này.
MIKE AUSTIN: Một câu hỏi cuối – các dạng sinh vật ở quanh ta chủ yếu được phân làm hai loại. Một là thực vật, hai là động vật. Thực vật tự sinh tồn bằng chính cơ thể của chúng và những gì lấy được từ ánh nắng, đất và không khí. Nhưng động vật phải ăn thức ăn từ bên ngoài và thường là bằng cách giết hại những loài khác. Ngài thấy có ý nghĩa gì, hay ý nghĩa về mặt tâm linh nào đối với thực tế sự sống đang tồn tại theo hai cách như thế?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: (cười lớn). Điều ấy thật khó. Theo đạo Phật, còn có sự khác nhau dựa trên nền tảng đó có phải là một loài hữu tình hay không.
MIKE AUSTIN: Thực vật có phải là loài hữu tình hay không? Chúng có tình thức hay không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Thực vật nói chung thì không phải. Nhưng nay lại có một điều phức tạp hơn. Loài nào là thực vật thực sự và loài nào là động vật? Điều ấy rất khó. Những cây cối quanh ta có lẽ là thực vật thực sự. Trong trường hợp đó, chúng ta sẽ xem chúng như là loài không có tình thức. Tuy nhiên còn có những loài thực vật khác mà rất khó nói là chúng có tình thức hay không. Ngay cả với cơ thể con người, khi phân tích những tế bào ra thì tôi không biết chắc là tế bào nào có tình thức và tế bào nào không. Theo kinh điển đạo Phật, có 80.000 tế bào có tình thức, tức 80.000 chúng sinh hữu tình trong cơ thể con người, bao gồm cả giun lãi. Tôi nghĩ là thân thể con người khó có thể chứa đựng được đến 80.000 con lãi nhìn thấy được bằng mắt thường! Nhưng như tôi đã đề cập, Không nhất thiết là mọi vật có sự chuyển động đều phải có tình thức!
LUÂN HỒI VÀ CHÚNG SINH
MIKE AUSTIN: Ngài nghĩ thế nào về việc đạo Phật được truyền đến Hoa Kỳ và các nước phương Tây?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôn giáo không có biên giới. Có một số người Mỹ quan tâm đến đạo Phật, và nếu đạo Phật có ích cho họ, thì như vậy là đủ rồi.
MIKE AUSTIN: Nói chung, không chỉ là sự quan tâm đến đạo Phật, mà còn có sự kiện phục hưng đời sống tâm linh ở quốc gia này trong 15 năm qua. Ngài cho rằng điều gì đã gây ra sự kiện này?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có thể là nhờ vào sự phát triển vật chất, và văn hóa Hoa Kỳ là một sự pha trộn nhiều nền văn hóa. Vì thế, người Mỹ rất cởi mở đối với bất cứ điều gì. Hẳn phải có nhiều yếu tố, như cạnh tranh nhiều trong công việc và những điều tương tự như vậy… khiến cho người ta phải đối mặt với những khó khăn, và ngoài ra họ còn trở nên quan tâm đến điều gì đó nghiêm túc hơn. Bạn thấy đó, họ trở nên sâu sắc hơn.
MIKE AUSTIN: Từ trong khó khăn nảy sinh mối quan tâm đến sự phát triển tâm linh?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu tâm loạn động, chỉ cần quán tưởng về một điểm hay một đề tài trong một thời gian ngắn thì sẽ có được sự an tĩnh. Từ ban sơ, con người đã trở nên bị thu hút vào loại hình sinh hoạt này vì nó giống như một bữa tiệc tinh thần hay một kỳ nghỉ. Và không chỉ là đạo Phật, mà là tất cả những tôn giáo của phương Đông.
MIKE AUSTIN: Ngài nghĩ gì về những lễ nghi tôn giáo? Con người từ bỏ tư cách cá nhân của mình trước một vị giáo chủ hay đấng quyền năng?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Để trả lời điều này, tôi sẽ nói về cách đánh giá một bậc thầy trong đạo Phật. Giáo lý mà đức Phật truyền dạy không phải là để phô bày kiến thức với người khác, mà là để giúp họ. Vì thế, bất luận tư tưởng hay nhận thức riêng của mình là như thế nào, một bậc thầy luôn giảng dạy giáo lý phù hợp theo với cá tính, sự quan tâm… của người nghe. Những người học Phật, nếu muốn xác định được ý nghĩa rốt ráo thì phải phân biệt giữa những gì có thể diễn giải – như khi được nói ra vì một mục đích cụ thể – và những gì là rốt ráo, hay chân lý tuyệt đối. Nếu trong sự phân định những gì là có thể diễn giải và những gì là sự thật tuyệt đối trong một kinh điển, người ta phải dựa vào một kinh điển khác, thì lại phải cần đến một kinh điển khác nữa để xác tín kinh điển trước đó, và thêm một kinh điển nữa để xác tín kinh điển sau này. Sự việc sẽ có thể kéo dài đến vô cùng. Do vậy, một khi người ta đã khẳng định rằng có sự phân biệt hai ý nghĩa này, thì cần thiết phải dựa trên sự suy luận để thực thi. Những gì không bị phá vỡ bởi sự suy luận, đó là chân lý tuyệt đối. Do có thực tế này, đức Phật đã chỉ ra bốn chỗ y cứ (tứ y):
– Không y cứ vào con người, mà y cứ vào giáo pháp (Y pháp bất y nhân).
– Về giáo pháp, không y cứ vào từ ngữ, mà y cứ vào ý nghĩa (y nghĩa bất y ngữ).
– Về ý nghĩa, không y cứ vào ý nghĩa diễn giải, mà y cứ vào chân lý tuyệt đối (y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh).
– Về chân lý tuyệt đối, không y cứ vào sự nhận hiểu của ý thức thông thường, mà y cứ vào sự hiểu biết của trí tuệ siêu việt (y trí bất y thức)
Do đây, độ tin cậy của giáo pháp không thể xác định qua việc đánh giá người giảng dạy, mà phải qua sự thẩm định chính giáo pháp ấy.
Trong kinh, đức Phật dạy rằng: “Các tỳ-kheo và thiện tri thức nên tin nhận lời dạy của Như Lai không phải do lòng kính trọng mà là qua sự phân tích giáo lý ấy, như người thợ kim hoàn phân tích chất vàng bằng cách cắt đứt, nung chảy, mài giũa và đánh bóng nó.”
Người ta không chỉ xác định rằng đức Phật là cội nguồn nương tựa đáng tin cậy bởi sự kiện là thân tướng đức Phật được trang nghiêm bằng những tướng tốt chính và phụ, mà bởi vì giáo pháp của ngài để thành tựu các cảnh giới cao và sự chí thiện là đáng nương cậy. Vì giáo lý dành cho các cảnh giới cao đề cập đến vật thể, có liên quan đến những hiện tượng rất ẩn mật và vượt ngoài những tiến trình suy luận thông thường, nên cần thiết phải tham cứu đạo Phật để thành tựu sự chí thiện.
Một cách cụ thể, đây là những giáo lý về nhận thức trí tuệ tánh không. Thông qua sự xác định rằng giáo lý ấy là đúng đắn và hiển nhiên, người ta sẽ đi đến kết luận rằng giáo lý về các cảnh giới cao là chân xác. Như ngài Pháp Xứng đã nói, bậc đạo sư phải là người khéo léo trong cách tiếp xử, cái gì thừa nhận và cái gì loại trừ. Người ta không thể nào chấp nhận một bậc thầy chỉ vì người ấy thi thố phép lạ, có khả năng thấu thị, nhìn thấy những vật từ xa hoặc có khả năng thể hiện những năng lực vật lý nào đó. Dù người ta có thể nhìn thấy được từ xa hay không cũng chẳng quan trọng. Điều quan trọng là người ta biết cách để đạt được sự an lạc – như ngài Pháp Xứng nói. Nếu chỉ cần thấy được vật thể từ xa, thì người ta nên quy y con chim kên kên! (Đây là ý trong bài kệ căn bản của Lượng thích luận.)
Tất cả những điều này là để cho thấy rằng một bậc thầy phải có đầy đủ phẩm chất khi giải thích những gì được thừa nhận và những gì phải loại trừ. Do vậy, trong tạng Kinh, Luật và trong nhiều phần khác nhau của các tan-tra, đức Phật đề ra một cách chi tiết những phẩm hạnh của các bậc thầy ở từng cấp độ khác nhau.
Sự phân tích về một bậc thầy để xem vị ấy có đủ các phẩm hạnh hay không là điều rất quan trọng trước khi chấp nhận. Điều này càng đặc biệt quan trọng trong việc tu tập tan-tra. Trong một tan-tra có nói rằng vì sự nguy hiểm rất lớn cho cả thầy lẫn trò, nên nhất thiết phải tìm hiểu kĩ lưỡng trước đó, cho dù có phải mất đến 12 năm để đi đến một kết luận.
Trong đạo Phật, nếu chỉ có niềm tin là đủ thì đức Phật hẳn không cần phải đề ra những chi tiết quan trọng đến thế liên quan đến việc chọn lựa một bậc thầy. Trong sự tu tập Tan-tra, pháp tu Du-già Tan-tra là rất quan trọng. Nhưng cho dù là quan trọng, nó cũng không được thực hiện trên nền tảng của niềm tin mù quáng. Trong Giới kinh có nói rằng nếu một vị Lạt-ma giảng dạy trái ngược với giáo lý thì người ta nên phản đối điều đó.
Một bản kinh được trích dẫn trong tác phẩm Bồ-đề đạo thứ đệ của Tông-khách-ba nói rằng người ta nên nương tựa vào vị Lạt-ma bằng cách tán thành những gì phù hợp với giáo lý và phản đối những gì không phù hợp. Đây là một bản kinh trong Bồ Tát tạng.
Còn về Man-tra thừa, trong tác phẩm Sự sư pháp ngũ thập tụng của Bồ Tát Mã Minh nói rằng nếu một vị Lạt-ma dạy điều gì mà người ta không chấp nhận, thì nên dùng lời nói để giải thích cho vị Lạt-ma ấy biết lý do tại sao. Điều này giải thích cách mà người ta nương tựa vào một vị Lạt-ma trong cả ba thừa của đạo Phật. Hành giả không nên rơi vào một trong hai phía cực đoan. Vì trong tất cả mọi công phu tu tập, sau khi xác định được chân lí bằng lý luận, hành giả nên có một niềm tin, nhưng đó chẳng phải là niềm tin mù quáng dẫn bạn đến hố sâu. Bạn nên quán sát kỹ những gì bậc thầy nói, chấp nhận những gì phù hợp và khước từ những gì không phù hợp. Đây là một tiến trình chung trong đạo Phật, và tôi tán thành điều này. Tôi làm theo điều ấy.
MIKE AUSTIN: Làm sao để quy y với một bậc thầy hoặc với đức Phật trừ phi chính ta đã thân chứng được giá trị đích thực trong giáo lý của họ?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu nói về sự quy y với nhận thức đúng đắn, thì nhất thiết phải xác định được niết-bàn là gì trước khi quy y. Để hiểu chân xác rằng niết-bàn là thực có và có thể chứng nhập, thì điều thiết yếu là phải nhận biết được tánh không. Đây thường là mô thức dành cho người duy thực, những người luôn phải khởi đầu từ những sự kiện thực tiễn. Tuy nhiên, đối với những dạng người khác, chủ yếu dựa theo niềm tin, thì có nhiều cách khác nhau để họ tạo ra niềm tin. Thế nên, dù người ta không có được nhận thức đúng đắn về niết-bàn và khả năng thực chứng niết-bàn, thì ít nhất họ cũng phải có được một giả định chính xác về niết-bàn.
MIKE AUSTIN: Có mâu thuẫn chăng khi nói rằng các hành giả duy thực phải đi trọn con đường trước khi quy y cũng chính trong con đường mà họ đã đi qua?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Hiện thực hóa niết-bàn và sự khẳng định rằng niết-bàn có thực là hai việc hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, thực sự đến nơi này và biết chắc nơi này có thực là khác nhau.
MIKE AUSTIN: Phần lớn người thế gian đều không nhiệt thành trong việc đào luyện tâm linh. Những khía cạnh quan trọng và sâu thẳm nhất trong đời sống của họ là những mối quan hệ với người khác – đặc biệt là với các thành viên trong gia đình. Ngài cho rằng đến mức độ nào thì những mối liên hệ căn bản này được xem như là một phương tiện cho sự phát triển của nhân loại? Tự thân những mối quan hệ ấy có chút tác dụng nào giúp cho con người tiến hóa chăng?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi không rõ. Có một dạng tình thương của chúng ta là chân thực. Tình thương này có thể trải rộng hướng đến sự phát triển tâm linh. Nó có thể được dùng như là nền tảng cho sự phát triển thành Từ vô lượng tâm. Thế nên, từ quan điểm đó thì đời sống gia đình hay những quan hệ gia đình có thể là có lợi. Trong bản chất con người đã sẵn có lòng tốt theo cách nào đó. Phần nào trong đó là hợp lí. Nhưng đồng thời lòng tốt thông thường sẵn có trong bản chất con người lại chịu ảnh hưởng rất mạnh của ái luyến. Điều này lại chẳng có liên quan gì đến phương diện tinh thần, và trong thực tế còn có tác động như một trở ngại.
MIKE AUSTIN: Ngài nói đến tình thương dựa trên sự ái luyến?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy.
MIKE AUSTIN: Vậy xin ngài có thể nói về tình thương chân thực?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có nhiều nguyên do để có tình thương chân thực. Khi bạn có lòng trắc ẩn hoặc thương xót một người rất nghèo, lúc ấy bạn tỏ ra cảm thông bởi vì người ấy nghèo. Tình thương ấy đặt nền tảng trên nguyên nhân đúng đắn. Còn tình thương dành cho vợ, con hoặc một người bạn thân là tình thương dựa trên một đối tượng ái luyến. Một khi sự ái luyến của bạn thay đổi, tình thương loại này sẽ không tồn tại nữa. Dạng tình thương đã nói trước không dựa trên sự ái luyến của bạn, mà là tình thương – như trong trường hợp này – phát khởi do có một người đang chịu đựng sự nghèo khổ. Như vậy, khi nào ông ta còn nghèo khổ thì tình thương của bạn vẫn còn tồn tại.
MIKE AUSTIN: Có phải ngài cho rằng tình thương chân thực chỉ có được trong sự cảm thông.
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng! Tương tự như vậy. Tình thương chân thực sẽ không thay đổi theo cảm xúc của bạn đối với đối tượng. Tình thương gắn liền với sự ái luyến sẽ thay đổi rất nhiều tùy theo cách nhìn của bạn với đối tượng.
MIKE AUSTIN: Tín đồ Phật giáo cho rằng xúc cảm là chướng ngại – tâm sở phiền não – là điều nên trừ bỏ. Dù vậy, ở phương Tây thì một trong các tiêu chuẩn chính của cuộc sống trọn vẹn chính là việc những cảm xúc sâu kín nhất đã được trải nghiệm như thế nào. Nếu một người né tránh sự đam mê sẽ bị người khác cho là sống giả tạo. Mặt khác, người ta thường ngưỡng mộ những người có nhiều kinh nghiệm sống. Hai quan niệm này có phải phủ định lẫn nhau không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều này hơi phức tạp. Có những cảm xúc mạnh mẽ nào đó đến với bạn do ái luyến. Tương tự, những tình cảm mạnh thậm chí có thể có mặt trong công phu thực hành giáo pháp hoặc trong sự kính ngưỡng của bạn đối với bậc thầy của mình. Cho dù tình cảm này có vẻ như là tốt, nhưng nếu hành giả tu tập đúng đắn thì đến giai đoạn sau đó anh ta sẽ phải loại trừ cả những tình cảm này.
MIKE AUSTIN: Vậy là thực sự không có cách nào để tương đồng hai quan niệm này? Điều gì sẽ xảy ra khi bạn hữu hay cha mẹ của một người qua đời, ngài không thấy rằng việc họ đau buồn là điều đúng đắn hay sao?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đối với cái chết của cha mẹ hay của người khác, đúng là có lý do để đau buồn. Tôi chẳng thấy có gì sai trái trong điều này. Nếu có điều gì bất hạnh xảy đến cho cha mẹ mình hoặc xảy đến cho người mà mình yêu quý nhất, thì đó là một lý do hợp lý để đau buồn. Nhưng ở đây, nếu có người bị mất cha mẹ và đau buồn, tôi nghĩ là sự đau buồn của họ nên dựa trên sự hợp lý, vừa phải. Tôi nghĩ như vậy là đúng đắn. Đừng quá vô tình, nghĩa là anh ta phải cảm thấy rất tiếc nuối. Đừng quá đau đớn, có nghĩa là anh ta biết chấp nhận điều ấy. Như vậy đó, sự đau buồn dựa trên ái luyến mạnh mẽ là không tốt. Do sự đau buồn đó, người ta thậm chí có thể tự vẫn! Đi đến mức độ đó là đã vượt quá sự hợp lý.
MIKE AUSTIN: Vì thế nên đó là điều nên từ bỏ?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy.
GIẤC MƠ
MIKE AUSTIN: Ngài có thể mô tả giấc mơ thuộc loại hiện tượng tinh thần nào?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có những phương thức để làm cho các giấc mơ trở nên không bị nhận lầm về mặt bản chất tuyệt đối của thực tại. Ngoài ra thì những giấc mơ – cho dù là có những giấc mơ khác thường – chẳng có mấy giá trị trong việc phát triển tinh thần.
MIKE AUSTIN: Có phải đó chỉ là do tâm thức quá loạn động đến nỗi ngay cả khi thân đã ngủ yên mà nó vẫn tiếp tục hoạt động?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Khi một người đang ngủ không có những giấc mơ – trong trạng thái không mơ thì ít ý tưởng hơn. Khi những giấc mơ xuất hiện, người ta sinh khởi lòng ham muốn, sân hận, v.v… và sau đó dĩ nhiên là có rất nhiều ý tưởng. Tâm thức trong mơ dễ dàng thay đổi hay chuyển hóa hơn. Sự trải nghiệm niềm vui, nỗi buồn trong giấc mơ có thể ảnh hưởng đến cùng một kinh nghiệm đó của tâm thức thô trọng hơn khi thức giấc. Vì tâm thức trong mơ nhạy cảm hơn so với tâm thức khi tỉnh, nên nó cũng hoạt động có hiệu quả hơn.
Bây giờ nói đến một loại thân thể đặc biệt trong mơ, là trường hợp của thân thô trọng thực sự được lìa bỏ. Có những trường hợp như thế này là do hành vi hay nghiệp từ đời trước của người đó, như một năng khiếu bẩm sinh, một tài năng. Những người này có thể trải nghiệm được những điều thực sự đang xảy ra bên ngoài vào lúc ngủ – bên ngoài cơ thể của họ.
Cũng có những trường hợp người ta rèn luyện để có thể sử dụng thân đặc biệt trong mơ. Để không mất thời gian trong việc tu tập tín ngưỡng, họ thường mở sẵn những trang sách trước khi đi ngủ. Trong giấc ngủ, họ xuất thần ra khỏi thân thể họ ra và dành thời gian ấy để đọc sách. Những trang sách thường phải được dàn trải ra trước đó, vì thân trong mơ không có khả năng chuyển dịch những vật thể thô trọng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 & Mike Austin
Thích Nhuận Châu dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
(Còn tiếp)