1
2
3
4
5
6
7
8
9

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 – DL 1999

 Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi

 Việt Dịch:  Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

TẬP 5

***

17. PHÁP HỘI  PHÚ LÂU NA THỨ MƯỜI BẢY

PHẨM BỒ TÁT HẠNH THỨ NHỨT

 Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật trong Trúc Viên thành Vương Xá cùng câu hội với chư đại Tỳ Kheo và chư đại Bồ Tát số ấy đông vô lượng.

 Bấy giờ Huệ Mạng Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Tôi muốn hỏi ít lời mong Như Lai sót thương hứa cho”.

 Đức Phật phán: “Tuỳ ý ông hỏi, ta sẽ giải đáp cho ông vui mừng”.

 Tôn giả Phú Lâu Na bạch đức Phật: “Nay tôi vì chư đại Bồ Tát là những nguời thật hành công đức cao thượng danh tiếng cao xa thường vì chúng sanh cầu sự an vui mà có lời thỉnh hỏi “.

 Huệ mạng Phú Lâu Na nói kệ rằng:

 “Làm công đức tối thượng

 Danh tiếng rất cao xa

 Người giới tịnh ưa pháp

 Tôi hỏi sở hành ấy

 Sửa trị tâm thế nào

 Rộng bố thí thế nào

 Độ chúng sanh thế nào

 Hỉ tâm thường hành đạo.

 Bạch Thế Tôn! Nay tôi vì chư Đại Sĩ mà hỏi sự như vậy. Bồ Tát tu tập đa văn như biển cả chẳng cạn hết thế nào? Hay chứa họp đa văn bửu tạng hay ở các pháp được nghĩa quyết định ở các ngữ ngôn giỏi rõ chương cú thế nào?

 Bồ Tát thế nào cầu

 Đa văn như biển cả

 Nơi pháp được định nghĩa

 Hay giỏi biết Phật đạo

 Thế nào ở một lời

 Mà hiểu vô lượng nghĩa

 Hay dùng sức trí huệ

 Thông đạt tất cả pháp

 Đa văn vô cùng tận

 Gạn hỏi lòng chẳng động

 Xót thương mà thuyết pháp

 Để dứt chúng sanh nghi.

 Bạch Thế Tôn! Nay tôi tùy theo trí lực của tự địa mà thỉnh hỏi đức Như Lai và chư đại Bồ Tát thế nào được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề?

 Thế nào rời lìa mạn

 Được gặp gỡ chư Phật

 Mau được tin thanh tịnh

 Được tin vô thượng rồi

 Bỏ được sự khó bỏ

 Vứt bỏ tất cả rồi

 Gắng tu đạo vô ngại

 Thế nào ưa xuất gia

 Nhàn tĩnh tu không trí

 Thế nào chẳng nghịch pháp

 Mong đáp đủ sự ấy.

 Bạch Thế Tôn! Chúng tôi đều biết đức Phật đã đủ cả trí huệ dã trọn tất cả Thần thông Ba la mật, ở trong tam giới là cao tôn đệ nhứt không ai sánh được, đại trí vi diệu đi không chướng ngại nơi trong các pháp, vì thế nên nay tôi thỉnh hỏi sự ấy.

 Phật đủ thượng công đức

 Đã vượt bờ thần thông

 Được trí không chướng ngại

 Tôi vì Bồ Tát hỏi

 Giỏi học tất cả pháp

 Công đức rất cao thắng

 Phá tối sanh huệ sáng

 Khiến chúng đều hoan hỉ

 Oán thân không ghét thương

 Không lo không khi dối

 Đại chiến thắng vua chết

 Dẹp phá chúng quân ma

 Chẳng cầm nơi dao gậy

 Hàng phục các oán địch

 Thường có lòng từ bi

 Bền giữ giới thanh tịnh

 Thế Tôn không siểm khúc

 Không mạn không cợt đùa

 Chứng được trí giải thoát

 Công đức rất tối thắng

 Như xưa chỗ hành đạo

 Thắng trí huệ đã được

 Mong nay vì tôi nói

 Tu thế nào được Phật”.

 Bấy giờ đức Phật bảo ngài Phú Lâu Na rằng: “Lành thay tốt thay, ông có thể hỏi Phật sự như vậy. Lắng nghe suy nghĩ kỹ, sẽ vì ông mà nói chư Bồ Tát phát tâm tu hành chứa họp vô lượng Phật pháp”.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

 “Nay ta nói Bồ Tát

 Sơ phát tâm Bồ đề

 Thường dùng sức dũng mãnh

 Ưa làm đạo Bồ Tát

 Sở hành của Bồ Tát

 Các công hạnh thâm tâm

 Nơi Phật được thọ ký

 Sự ấy sẽ lược nói

 Thâm tâm lòng ưa pháp

 Vô lượng và vô biên

 Các thứ công hạnh tu

 Chẳng do một sự thành

 Hỉ tâm đã sung mãn

 Mà thật hành bố thí

 Thí xong lòng không hối

 Trong tâm càng vui mừng

 Bồ Tát suy nghĩ rằng

 Chúng sanh thường nghèo cùng

 Không có của đa văn

 Tôi sẽ cầu cho họ

 Chúng sanh thường nghèo cùng

 Đều do nơi giải đãi

 Tôi sẽ siêng tinh tiến

 Từ đó được Bồ đề

 Tôi sẽ vì chúng sanh

 Gia tâm tu nhẫn nhục

 Mắng nhiếc chửi đánh chém

 Nín nhận chẳng hề báo

 Sẽ nghĩ ai mắng tôi

 Kẻ mắng bất khả đắc

 Người mạ lị sân hận

 Thảy đều là không sự

 Suy nghĩ như vậy rồi

 Lòng không có giận hờn

 Thường tu hành nhẫn nhục

 Do đây thành Phật đạo

 Chúng sanh không tâm lành

 Vì họ tôi làm đèn

 Cho họ có chỗ về

 Không của cho họ của

 Chúng sanh đáng xót thương

 Đều cùng đi đường tà

 Tôi sẽ độ thoát họ

 Khiến an trụ Niết bàn

 Chúng sanh đều nghèo cùng

 Không có của trí huệ

 Tôi được Nhứt thiết trí

 Khiến họ được sung túc

 Chư Bồ Tát như vậy

 Vì độ chúng sanh nên

 Phát tâm cầu Bồ đề

 Hành các nguyện như vậy.

 Này Phú Lâu Na! Chư đại Bồ Tát nhiều thứ nhơn duyên thị hiện tâm mình chẳng trụ một pháp nào cả. Tại sao vậy? Vì chư đại Bồ Tát học tất cả pháp rồi sau đắc đạo. Bồ Tát có bốn sự hi hữu, chẳng thấy có pháp khác hơn sự ấỵ Những gì là bốn?

 Bồ Tát có thể ở nơi chúng sanh giải đãi mà siêng tu hành tinh tấn, đây gọi là sự hi hữu thứ nhứt.

 Bồ Tát có thể ở giữa chúng sanh ngang ngược giận thù mà siêng tu hành nhẫn nhục, đây gọi là sự hi hữu thứ haị

 Bồ Tát thấy các chúng sanh đi đường tà mà tự mình siêng tu hành chánh đạo, đây gọi là sự hi hữu thứ ba.

 Bồ Tát vì độ chúng sanh chuyển khỏi sanh tử mà dùng thâm tâm phát Vô thượng Bồ đề, đây gọi là sự hi hữu thứ tư.

 Bốn sự trên đây gọi là bốn sự hi hữu tối đại của Bồ Tát”.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

 Thấy chúng sanh giải đãi

 Lòng siêng tu tinh tấn

 Tôi chẳng nên theo họ

 Mà làm sự phi pháp

 Chẳng bắt chước giận thù

 Phật đạo chẳng giận thù

 Thường tu tâm từ bi

 Bồ đề từ đó sanh

 Chúng sanh ưa đường tà

 Y chỉ nơi tà đạo

 Bồ Tát cầu chánh đạo

 Khiến người tu nẻo chánh

 Thấy lỗi họa sanh tử

 Nhứt tâm cầu Phật trí

 Tôi được pháp vô thượng

 Sẽ độ các chúng sanh

 Bốn sự hi hữu ấy

 Sự khác không hơn được

 Do đây nên phải biết

 Được rời pháp chướng ngại

 Giả như áo mặc cháy

 Đầu cháy còn chẳng chữa

 Lòng giải đãi nếu khởi

 Liền phải mau trừ diệt.

 Này Phú Lâu Na! Bồ Tát có bốn sự hay sanh tâm hỉ. Những gì là bốn?

 Một là thấy các chúng sanh ở trong sanh tử chẳng tinh tấn được. Bồ Tát tự thấy mình ở trong Phật đạo tu hành tinh tấn bèn sanh hỉ tâm.

 Hai là thấy các chúng sanh lòng họ thường giải đãi, Bồ Tát tự thấy mình ở trong Phật pháp tu tinh tấn nên sanh hỉ tâm.

 Ba là thấy các chúng sanh sân hận tật đố, Bồ Tát tự thấy mình không sân không đố thường có lòng từ bi nên sanh hỉ tâm.

 Bốn là Bồ Tát chẳng thấy người khác siêng tu Phật pháp bằng mình nên sanh hỉ tâm”.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

 Thấy chúng sanh giải đãi

 Tự mình tu tinh tấn

 Vì thế Bồ Tát này

 Tự sanh lòng vui sướng

 Thấy sanh tử lỗi họa

 Mà sanh lòng chán lìa

 Kinh sợ ngục tam giới

 Lòng siêng cầu bỏ lìa

 Chúng sanh ưa giận thù

 Tự mình thường từ bi

 Vì thế Bồ Tát này

 Lòng luôn khởi vui vẻ

 Các việc chúng sanh làm

 Thường là việc chẳng nên

 Vì thế Bồ Tát cầu

 Phật đạo tối vô thượng

 Đây gọi là thiệt trí

 Được chư Phật khen ngợi

 Bồ Tát học trí này

 Làm chỗ về cho chúng

 Vì thế Bồ Tát này

 Thường được lòng vui mừng

 Từ hữu vi hư ngụy

 Thường sanh pháp chơn thiệt.

 Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát có bốn pháp xa lìa được các nạn mà gặp chỗ không nạn, được gặp rồi không mất có thể tu hành Phật pháp. Những gì là bốn?

 Một là Bồ Tát khiêm tốn dịu hòa, hễ thấy người thì chào hỏi trước, hòa nhan vui vẻ cùng họ nói chuyện, lúc nói luôn mỉm cười.

 Hai là Bồ Tát nhứt tâm cầu pháp thường ưa thưa hỏi siêng cầu học hiểu không hề nhàm đủ.

 Ba là Bồ Tát thường thích rảnh rang vắng vẻ một mình.

 Bốn là tự mình an trụ đạo Vô thượng Bồ đề cũng giáo hóa chúng sanh an trụ Phật đạo.

 Bồ Tát có bốn pháp trên đây nên được khỏi các nạn gặp được chỗ không nạn, gặp rồi chẳng mất có thể tu hành Phật pháp”.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

 Trong lòng luôn hòa dịu

 Thường ưa làm từ bi

 Lúc cùng người nói chuyện

 Khiêm tốn vui mỉm cười

 Thường cầu pháp thâm diệu

 Được chư Phật khen ngợi

 Luôn giữ giới thanh tịnh

 Ưa tu hạnh đầu đà

 Dầu tu hạnh đầu đà

 Cũng tu trí thâm diệu

 Vì thế Bồ Tát này

 Lìa nạn không gặp nạn

 Thường ở trước chư Phật

 Thỉnh hỏi những pháp sâu

 Do đó trí huệ tăng

 Chẳng sanh vào chỗ nạn

 Thường thích ở vắng rảnh

 Thanh tịnh tu đầu đà

 Vì thế Bồ Tát này

 Lìa nạn không gặp nạn

 Những người có trí huệ

 Thân cận bốn pháp này

 Lìa được tất cả nạn

 Thường được gặp chư Phật

 Được gặp chư Phật rồi

 Có đủ bất hoại tín

 Hay phát thượng tinh tấn

 Để cầu Phật trí huệ

 Vì thế người cầu trí

 Phải nên học chánh pháp

 Nếu hay học chánh pháp

 Được thành Phật chẳng khó”.

PHẨM ĐA VĂN THỨ HAI

 Đức Thế Tôn bảo Ngài Phú Lâu Na: “Bồ Tát có bốn pháp thì hay tu tập đa văn bửu tạng, hay ở nơi các pháp được nghĩa quyết định, hay ở nơi các ngữ ngôn giỏi biết chương cú, dường như đại hải chẳng cạn hết được. Những gì là bốn?

 Một là Bồ Tát cầu học mười hai bộ kinh, cầu học rồi đọc tụng, đọc tụng rồi ghi nhớ, ghi nhớ đúng rồi thật hành theo.

 Hai là Bồ Tát ở trong tất cả pháp không y chỉ, dầu nhập thiền định mà không sở y chỉ, vì không sở y nên ở trong các pháp được trí bất trụ, được trí bất trụ rồi ở trong các pháp được tri kiến vô ngại, tại sao vậy, vì không có pháp bị tham làm chướng ngại vậy.

 Ba là Bồ Tát do pháp nhơn duyên mà niệm Phật và niệm Phật pháp. Lúc niệm Phật và niệm Pháp, Bồ Tát chẳng thấy có pháp được tham ưa. Vi` chẳng tham ưa nên ở nơi tất cả pháp lòng không nắm lấy. Vì không chấp trước tất cả pháp nên Bồ Tát ở nơi sự vấn đáp đều không chướng ngại.

 Bốn là Bồ Tát thành tựu vô sở đắc từ ở nơi việc làm đều vô ngại. Vô sở đắc từ là chẳng nhận thọ các sự tướng, tại sao vậy, vì nếu trụ tướng này hay trụ tướng kia thì hoặc sanh tham dục hoặc sanh sân khuể hoặc sanh ngu si, trụ tướng, sự tướng, vật tướng, ấm tướng, nhập tướng, giới tướng, pháp tướng phi pháp đều hoặc sanh tham dục sân khuể ngu si. Phàm có nhận thọ sự tướng đều gọi là tà kiến. Bồ Tát đều diệt tất cả tướng mà tu tập từ tâm vậy.

 Vì chúng sanh bại hoại nên tướng cũng bại hoại, vì tướng bại hoại nên sự cũng bại hoại, vì sự bại hoại nên kiến cũng bại hoại. Bấy giờ Bồ Tát hoại tất cả pháp mà tu tập tâm từ. Từ như đây gọi là vô sở đắc từ, cũng gọi là Pháp từ và Phật từ.

 Tại sao gọi là Phật từ, vì vô tác vô hoại vậy, vì như thiệt thông đạt tất cả pháp vậy”.

 Ngài Phú Lâu Na bạch: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là như thiệt thông đạt tất cả pháp?”.

 Đức Phật dạy: “Này Phú Lâu Na! Chỗ được thông đạt đó chẳng nói là thị pháp, chẳng nói là phi pháp. Tại sao vậy, vì nếu nói có pháp thì tức là phi pháp. Nếu ở nơi pháp hữu pháp vô mà không có phi pháp thì ở trong ấy không có hí luận, nếu không hí luận thì gọi là Niết bàn. Ông quan sát kỹ coi là cực viễn hay cực cận?

 -Bạch Thế Tôn! Chẳng xa chẳng gần. Tại sao, vì nghĩa như vậy không phương không xứ không nội không ngoại.

 -Này Phú Lâu Na! Đúng như vậy, đức Như Lai ở nơi pháp tác số.

 -Bạch Thế Tôn! Ở nơi pháp nào mà đức Như Lai vì nó tác số?

 -Này Phú Lâu Na! Như các phàm phu chấp trước các pháp, đức Như Lai chẳng được chẳng tu chẳng chứng chẳng thông đạt, pháp như vậy Như Lai vì nó tác số.

 Này Phú Lâu Na! Các pháp số ấy chẳng để phân biệt pháp vậy. Nay vì ông mà nói pháp tịch diệt đệ nhứt có thể nhiếp được Phật đạo.

 Này Phú Lâu Na! Đời sau có người ưa theo thế lợi, nếu nghe kinh này họ chẳng thích nghe nhận.

 Này Phú Lâu Na! Bồ đề này của Phật, các ông chỉ do âm thanh chương cú mà biết chút ít thôi, còn nghĩa thú trong ấy các ông chẳng biết. Nghĩa thú ấy sâu xa chẳng thể lấy lời mà tuyên bày được, chỉ có người trí mới có thể khế hội được thôi”.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

 “Người chẳng biết được nghĩa

 Nghe Phật pháp thì khổ

 Nếu người biết được nghĩa

 Phật làm thầy cho họ

 Người được Phật làm thầy

 Thì ưa cầu Niết bàn

 Không có lòng tránh tụng

 Hay suy gẫm chánh pháp

 Trong ấy không pháp sanh

 Cũng không có pháp diệt

 Không sanh cũng không diệt

 Là thiệt tướng các pháp

 Nếu pháp đã không sanh

 Thì không có tác khởi

 Thị phi cùng nhứt dị

 Trong pháp ấy đều không

 Đây gọi là Niết bàn

 Trong ấy không có diệt

 Nếu nói cực viễn cận

 Hai thứ ấy đều không

 Nếu người biết được không

 Thì gọi biết Niết bàn

 Nếu người biết Niết bàn

 Thì gọi đệ tử Phật.

 Này Phú Lâu Na! Bồ Tát có bốn pháp này thì có thể tu tập đa văn bửu tạng, có thể ở nơi các pháp được quyết định nghĩa, ở nơi ngữ ngôn giỏi biết chương cú, dường như đại hải chẳng cạn hết được”.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

 “Thường muốn cầu đa văn

 Được chư Phật khen ngợi

 Được thiệt nghĩa quyết định

 Vì thế như đại hải

 Có thể trong một chữ

 Và với nghĩa một câu

 Suốt ngàn vạn ức kiếp

 Diễn nói mãi không hết

 Thế nên cầu chánh pháp

 Cầu được rồi suy gẫm

 Chớ tham lấy pháp tướng

 Chẳng tham được Phật khen

 Tưởng nhớ chư Như Lai

 Và nhớ nơi chánh pháp

 Chẳng dùng lòng tham tranh

 Mà cầu nơi Đạo Sư

 Thường nơi các chúng sanh

 Tu hành lòng từ mẫn

 Mà chẳng chấp chúng sanh

 Tan diệt tất cả pháp

 Bồ Tát danh tiếng lớn

 Tu tập pháp như vậy

 Mau được đà la ni

 Đa văn từ đây sanh

 Dường như tánh hư không

 Không tăng cũng không giảm

 Pháp tánh cũng như vậy

 Không tăng và không giảm

 Phật dùng sức trí huệ

 Thuyết pháp vô lượng kiếp

 Thuyết pháp vô lượng số

 Còn chẳng gọi là thuyết

 Hết các tánh chúng sanh

 Đều khiến được thân người

 Đều cùng tu xuất gia

 Đa văn như A Nan

 Đà la ni Bồ Tát

 Vì tất cả người ấy

 Thuyết pháp ngàn ức kiếp

 Trí huệ vẫn chẳng hết

 Phật trí huệ vô đẳng

 Đồng hư không vô lượng

 Hư không không sanh khởi

 Trí huệ cũng như vậy

 Như rồng chẳng lấy nước

 Mà hay mưa nhiều nước

 Nước ấy không chỗ trụ

 Mưa xuống không cùng tận

 Bồ Tát cũng như vậy

 Được đà la ni này

 Các pháp không chỗ trụ

 Thuyết pháp không cùng tận

 Thế nên cầu đa văn

 Cầu rồi chánh tư duy

 Dùng pháp duyên niệm Phật

 Đa văn từ đây sanh

 Lòng từ khắp chúng sanh

 Tan diệt tướng chúng sanh

 Cũng diệt các pháp tướng

 Đa văn từ đây sanh”.

PHẨM BẤT THỐI THỨ BA

 Đức Phật bảo Ngài Phú Lâu Na: “Bồ Tát thành tựu bốn pháp có thể chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề. Những gì là bốn?

 Một là Bồ Tát nghe pháp chưa nghe suy nghĩ nghĩa lý chẳng vội liền nói là sai, do đây chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

 Nghe pháp chưa được nghe

 Lòng Bồ Tát chẳng nghịch

 Suy lường nghĩa lý ấy

 Chẳng vội nói phi pháp

 Nếu nghe nói pháp không

 Thường tìm nghĩa lý ấy

 Vì thế trí huệ tăng

 Phật pháp từ đây sanh

 Nghe pháp chưa từng nghe

 Phải tìm cầu nghĩa lý

 Chẳng thối chuyển Bồ đề

 Trí huệ được tăng trưởng

 Nghe pháp chưa từng nghe

 Chẳng sanh lòng ghét khinh

 Chẳng sanh lòng siểm khúc

 Sanh thì trái Bồ đề

 Nghe pháp chưa từng nghe

 Phải tìm hiểu nghĩa ấy

 Trước dầu chưa từng nghe

 Phải nhứt tâm suy gẫm

 Lúc người này cầu pháp

 Thì được nghe chánh pháp

 Thường được gặp chư Phật

 Chẳng thối thất Bồ đề

 Đã được thấy Phật rồi

 Thì có thể thỉnh hỏi

 Người Thanh Văn được nghe

 Đều lấy làm vui mừng

 Người này rất hi hữu

 Có thể hỏi như vậy

 Chúng tôi còn vô tâm

 Huống được nghe sự ấy

 Thanh Văn khen hi hữu

 Thiên thần đều vui mừng

 Chư Phật khen tên hiệu

 Đây là quả đa văn

 Nếu có lúc thưa hỏi

 Phật đáp được lời hỏi

 Vô lượng các đại chúng

 Đều được lợi ích lớn

 Được nghe nơi Bồ Tát

 Đa văn này hỏi đáp

 Vô lượng chúng đều được

 Pháp nhãn tối vô thượng.

 Này Phú Lâu Na! Do nhơn duyên ấy phải biết Bồ Tát nghe pháp chưa nghe tin nhận chẳng trái, chánh tâm suy gẫm chẳng vội nói sai thì có thể lợi ích vô lượng chúng sanh.

 Này Phú Lâu Na! Quá khứ xưa vô lượng vô biên bất tư nghị a tăng kỳ kiếp, bấy giờ có Phập hiệu là Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên

 Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, thọ tám mươi ức tuổi, hội thứ nhứt độ chúng Thanh Văn đệ tử chẳng thọ một pháp lậu tận giải thoát số đông như số cát sông Hằng chẳng tính đếm được, chúng Bồ Tát cũng đông nhiều như vậy. Sau khi Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ thế sáu vạn năm, vì lúc ấy Phật sắp nhập Niết bàn có trăm ức Bồ Tát đồng hưng khởi thần lực để hộ pháp đều khắp trăm ức Diêm Phù Đề, trong mỗi Diêm Phù Đề đều có một Bồ Tát.

 Này Phú Lâu Na! Sau khi Phật Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Vương nhập diệt, chúng đệ tử lần lần giải đãi, chẳng còn tụng trì kinh sâu diệu như vậy. Kinh Chư Pháp Không kinh Tịnh Giới Đầu Đà đều lần lượt diệt mất, vì chúng chẳng có thể đọc tụng diễn nói vậy. Pháp ấy rộng lớn có tám trăm bốn vạn pháp tạng. Mỗi pháp tạng có sáu mươi tám trăm vạn ức na do tha tu đa la. Mỗi tu đa la có ba vạn sáu ngàn ưu đà na. Mỗi ưu đà na có bảy trăm sáu vạn ức kệ. Lúc tối hậu pháp sắp diệt ở trong ngần ấy pháp tạng còn dư lại chỉ có một tu đa la ưu đà na, bấy giờ có một Tì Kheo Pháp Sư tên Na La Diên ở trong Diêm Phù Đề này được Phật ban thần lực để hộ pháp. Pháp Sư Na La Diên ấy đa văn rộng rãi giỏi thuyết pháp nghiêm sức văn từ nghĩa lý rõ ràng, thường ưa nói pháp chưa từng nghe. Lúc thuyết pháp có đa số thính chúng trái nghịch huỷ báng. Pháp Sư Na La Diên liền nghĩ rằng, nơi pháp chưa từng nghe này thính chúng đây nghe chẳng tin được, chẳng thích nghe nhận, nếu nghe mà chẳng hiểu thì lòng họ chẳng tuỳ thuận trái nghịch phá hoại mà cho là chẳng phải Phật nói, chẳng phải Đại Sư dạy, tại sao, vì chúng nó chưa từng được nghe Sư Trưởng Hòa Thượng nói kinh như vậy, lại các hàng Trưởng Lão Tỳ Kheo cũng lại chẳng nói là được xoay vần nghe nơi Sư Trưởng Hòa Thượng, nay chư Tỳ Kheo chỉ còn dư một tu đa la ưu đà na, tại sao tôi chẳng ở riêng mình nơi rảnh rang vắng vẻ.

 Pháp Sư Na La Diên suy nghĩ như vậy rồi, một mình vào thâm sơn.

 Bấy giờ trong Diêm Phù Đề từ kiếp sơ đến nay có sáu vạn tám ngàn thành lớn, thành dài mười hai do tuần, rộng bảy do tuần trang nghiêm đẹp, đường sá tương đương nhân dân đông đúc an ổn giàu vui. Sau đó nối tiếp tạo tám mươi bốn ức thành nhỏ, có thành rộng bảy do tuần, hoặc rộng sáu năm bốn ba hoặc hai do tuần, thành nhỏ nhứt rộng một do tuần.

 Lúc ấy trong Diêm Phù Đề có một thành lớn tên là An Lạc, trong thành ấy có một Trưởng Giả tên là Xà Nặc, ông này có một con trai tên là Ma Ha Nựu Ma Đà. Có một thiên thần đến nói với Trưởng Giả tử Ma Ha Nựu Ma Đà rằng:

 Ngài phải siêng cầu pháp

 Cầu rồi chánh tư duy

 Công Đức Vương Như Lai

 Đã ký ngài làm Phật.

 Thiên thần nói kệ xong liền ẩn mất. Trưởng Giả tử đến thưa với cha rằng: Tôi muốn xuất gia ở trong pháp của Phật Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Vương tu phạm hạnh.

 Xà Nặc Trưởng Giả nói kệ đáp rằng:

 Nhà ta nhiều của báu

 Bạc vàng vô số lượng

 Diêm Phù Đề không có

 Mà nhà ta có đủ

 Ta tìm cầu của báu

 Cho con hưởng dục lạc

 Sao con đi xuất gia

 Bị đời họ khinh miệt.

 Ma Ha Nựu Ma Đà nói kệ đáp cha:

 Tôi ưa thích cầu pháp

 Cầu rồi chánh tư duy

 Chẳng thích thọ giàu sang

 Sẽ làm Phật trong đời

 Chẳng cần gia nghiệp giàu

 Tôi muốn tìm thiểu dục

 Sản xuất những pháp tài

 Nay phải đi xuất gia

 Chư Phật xuất thế khó

 Phật thuyết pháp cũng khó

 Nay tôi gặp Phật pháp

 Sao lại rời bỏ pháp.

 Trưởng Giả tử đầu mặt lạy chưn cha, rồi đi ra mà nói kệ rằng:

 Dầu có một ức cha

 Và có trăm ức mẹ

 Còn chẳng ngăn được tôi

 Lòng tôi quyết xuất gia

 Tôi bỏ thân thọ mạng

 Cha me, thân tộc, của

 Chỉ chẳng bỏ Phật pháp

 Sẽ xuất gia cầu đạo.

 Nói kệ xong Trưởng Giả tử xuất gia hành đạo, đến Pháp Sư Na La Diên cầu muốn nghe pháp. Pháp Sư liền giảng nói kinh chưa từng nghe.

 Tỳ Kheo Ma Ha Nựu Ma Đà nghe kinh chưa từng nghe rồi thưa hỏi Pháp Sư Na La Diên rằng kinh này từ trước chưa từng nghe, ai đọc, ai tụng, ai thọ trì, từ đâu Ngài được nghe?

 Pháp Sư Na La Diên nói: Ta do túc mạng thiện căn và cũng nhờ thần lực của Phật Công Đức Vương nên kinh thâm diệu ấy tự nhiên tại tâm.

 Nghe Pháp Sư nói như vậy, Tỳ Kheo Ma Đà chuyên lòng suy gẫm liền sanh trí huệ, dùng sức phương tiện đại trí huệ gạn hỏi Pháp Sư Na La Diên. Pháp Sư ấy theo nghĩa giải đáp xong bảo Tỳ Kheo Ma Đà rằng thời kỳ Phật Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Vương có một Tỳ Kheo hỏi Phật về sự ấy như lời ông vừa hỏi và Phật cũng giải đáp như vậy. Tỳ Kheo Ma Đà nghe nói vui mừng lại thưa hỏi pháp sư, giải đáp xong Pháp Sư cũng bảo là xưa kia thuở Phật Công Đức Vương có một Tỳ Kheo hỏi như vậy và Phật cũng giải đáp như vậy. Nghe xong Tỳ Kheo Ma Đà vui mừng rồi lại bạch hỏi Pháp Sư, giải đáp xong Pháp Sư lại cũng bảo là thuở Phật Công Đức Vương cũng có một Tỳ Kheo hỏi như vậy và Phật cũng giải đáp như vậy. Nghe Pháp Sư nói Ma Đà vui mừng bạch rằng thuở trước ngài theo Phật nghe được bao nhiêu sự vấn đáp như vậy.

 Pháp Sư Na La Diên nói thôi chớ hỏi, sự ấy khó tin, những người chưa thiệt chứng pháp tăng thượng cũng khó tin.

 Tỳ Kheo Ma Đà lại hỏi như vậy lần thứ hai thứ ba. Pháp Sư Na La Diên bảo thôi chớ hỏi, sự ấy khó tin. Nay bất đắc dĩ dùng thí dụ nói cho ông. Các người có trí do thí dụ mà được hiểu.

 Này Tỳ Kheo! Ở chỗ Phật Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Vương, ta được nghe tánh chúng sanh nhiều hơn địa chủng. Giả sử tất cả chúng sanh trong cõi tam thiên Đại Thiên, hoặc loài có sắc không sắc, loài có tưởng không tưởng, loài chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng, đều làm cho tất cả đều được thân người đều có sức trí huệ, mỗi mỗi chúng sanh ấy trong khoảng khảy ngón tay có thể khởi hằng hà sa lời hỏi khác nhau. Này Tỳ Kheo! Cứ như vậy lần lượt đến vô dư thế giới mười phương, tất cả chúng sanh hoặc một kiếp hoặc hơn một kiếp phát khởi lời hỏi khác nhau. Lại có một người, có khả năng trong thời gian khảy ngón tay phát khởi ngần ấy lời hỏi của tất cả mọi người trước. Một người như vậy lần lượt lại hết tất cả vô dư chúng sanh hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp phát khởi các lời hỏi sai khác.

 Này Tỳ Kheo! Ý ông thế nào, những lời hỏi trên ấy có nhiều chăng?

 -Bạch Pháp Sư! Rất nhiều, chẳng phải thí dụ mà có thể thí dụ được.

 -Này Tỳ Kheo! Nay ta nói rõ với ông, chớ có nghi hối. Như tất cả vô dư chúng sanh ấy phát khởi lời hỏi sai khác hoặc trong một kiếp hoặc dưới một kiếp, ta theo Phật nghe lời hỏi đáp trong một pháp môn còn nhiều hơn. Như vậy hai môn ba môn đến muôn ngàn trăm ức môn. Này Tỳ Kheo! Ta sẽ lược nói tất cả bao nhiêu toán số danh tự vô lượng vô tận chẳng thể nghĩ bàn còn hơn các số này, ta đều tụng trì cả. Này Tỳ Kheo! Các lời đáp ấy đều ở trong một pháp môn, ta đều biết rõ. Đó là đức Phật Công Đức Quang Minh Vương nói những câu đạo, câu môn, câu ấn, câu bổn sự, câu kim cương, câu trọng, câu bất khả động, câu khó thấu đáo.

 Này Tỳ Kheo! Trong một môn nhiếp tất cả pháp, đó là môn vô tác. Môn này là gốc của tất cả pháp tất cả câu, tất cả đều vào môn này. Tất cả tu đa la ưu đà na đều vào môn câu, phân biệt một chữ hay vào nhiều chữ. Này Tỳ Kheo! Như vậy, hay vào bảy vạn tám ngàn môn đà la ni, trong ấy có chín vạn hai ngàn các căn sai biệt. Trong môn chúng sanh hành ấy có tám vạn ức hình sắc nơi các loài sai khác. Các hình sắc ấy, ta biết tên nó. Trong mỗi mỗi sắc ta biết trăm tên hai trăm tên ba trăm tên nhẫn đến biết ngàn tên đều ở tại Diêm Phù Đề, và lại khắp đến mười phương Phật quốc, trong ấy có những duyên những danh tự ta đều biết được cả.

 Tóm lại, bao nhiêu trí lực của Phật ở trong các pháp có những sai biệt hỏi đáp khác nhau ta đều biết được cả, đó là sức oai thần của Phật Công Đức Quang Minh Vương gia bị cho ta vậy.

 Bấy giờ Tỳ Kheo Ma Đà thưa Pháp Sư Na La Diên rằng: “Ngưỡng mong Chánh Sĩ trở lại thành ấp tụ lạc để chuyển pháp luân của Phật Công Đức Quang Minh Vương, tôi sẽ hộ vệ để được lãnh thọ giáo pháp.

 Pháp Sư Na La Diên bảo: Thôi chớ có thỉnh ta. Đời nay Tỳ Kheo phần nhiều giải đãi, không có ai quyết muốn chứa họp pháp lành.

 Tỳ Kheo Ma Đà thưa từ này tôi ở nơi pháp lành quyết mong muốn chẳng dám giải đãi, mong Pháp Sư trở vào tụ lạc thuyết pháp, tôi sẽ theo hộ vệ thưa hỏi để được nghe kinh chưa từng nghe.

 Này Phú Lâu Na! Ma Đà Tỳ Kheo thuở ấy được phần đông đại chúng cúng dường cung kính. Thời nhơn gọi ông là người trì giới đa văn tối thượng công đức vô lượng.

 Bấy giờ Tỳ Kheo Ma Đà vào thành ấp tụ lạc khen ngợi Pháp Sư Na La Diên để khiến chúng sanh vào chánh pháp, và cũng khiến Phật pháp được lưu bố khắp mọi nơi. Ma Đà dắt dẫn nhiều người cúng dường cung kính hộ vệ Pháp Sư Na La Diên để được nghe pháp. Sau đó, Pháp Sư Na La Diên được Ma Đà thủ hộ rồi vào thành ấp tụ lạc nói rộng đạo Bồ đề của Phật Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Vương đã tu tập trong a tăng kỳ kiếp khiến lưu bố khắp nơi. Tỳ Kheo Ma Đà suốt trong một trăm năm thường theo Pháp Sư Na La Diên thưa hỏi chánh pháp thường là mới lạ chưa bao giờ nói lập lại. Nhờ Tỳ Kheo Ma Đà hộ trợ, Pháp Sư Na La Diên khiến vô lượng chúng sanh an trụ trong chánh pháp, vô lượng chúng sanh an trụ Phật Bồ đề.

 Này Phú Lâu Na! Pháp Sư Na La Diên khéo giữ gìn chánh pháp khéo thuyết pháp thuở quá khứ ấy chính là Di Lặc Bồ Tát hiện nay vậy. Còn Tỳ Kheo Ma Đà hộ vệ Pháp Sư tá trợ thưa hỏi, do năng lực phước đức ấy sau khi mạng chung liền sanh nước Phật Thượng Chúng tại thế giới thứ mười ở Hạ phương. Ở trước Phật Thượng Chúng ấy, ông hỏi kinh Đoạn Nhứt Thiết Chúng Sanh Nghi. Phật ấy nhiều lời khen lành thay tốt thay rồi vì ông ấy mà nói kinh Đoạn Nhứt Thiết Chúng Sanh Nghi, lúc thuyết kinh ấy khiến vô lượng chúng sanh sơ phát tâm Bồ đề liền nhập vào chánh định tụ. Sau đó ông ấy lại gặp Phật Tu Di Sơn thưa hỏi kinh Nhiếp Xuất Nhứt Thiết Pháp Môn khiến vô lượng chúng sanh chánh định tụ đều được Vô thượng Bồ đề. Sau đó ông ấy lại gặp Phật Sơn Vương thỉnh hỏi kinh Chư Pháp Môn khiến vô lượng chúng sanh quyết định nơi Vô thượng Bồ đề. Sau đó ông ấy lại gặp Phật Phạm Âm Thanh thỉnh hỏi kinh Nhiếp Nhứt Thiết Pháp khiến vô lượng chúng sanh quyết định Vô thượng Bồ đề. Lần lượt như vậy, Tỳ Kheo Ma Đà gặp chư Phật thỉnh hỏi kinh pháp làm cho vô lượng vô số chúng sanh an trụ Vô thượng Bồ đề, nếu ta có dùng một kiếp hay hơn một kiếp để thuật nói danh hiệu chư Phật ấy và những chúng sanh được an trụ Vô thượng Bồ đề cũng chẳng thể hết được.

 Này Phú Lâu Na! Vì thế nên biết rằng đại Bồ Tát nghe kinh pháp chưa từng nghe mà suy gẫm nghĩa lý thì được công đức lợi ích lớn như vậy.

 Này Phú Lâu Na! Tỳ Kheo Ma Ha Nựu Ma Đà theo Pháp Sư Na La Diên nghe kinh pháp chưa từng nghe tùy thuận nghĩa thú ấy nay chính là Kiều Việt Đâu Bồ Tát vậy.

 Thuở ấy Tỳ Kheo Ma Ha Nựu Ma Đà thủ hộ chánh pháp nghe kinh chưa từng nghe tùy thuận nghĩa thú chẳng chấp ngôn từ, do đó mà gặp vô lượng Phật được nghe vô lượng kinh thâm diệu. Do nơi thiện căn thuở xưa ấy nên nay ở trước ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng thỉnh hỏi kinh Nhiếp Nhứt Thiết PháP Đại Hải Pháp Môn. Lúc ta thuyết kinh ấy có vô lượng chúng sanh được lợi ích lớn”.

 Đức Thế Tôn muốn utyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Bồ Tát nghe chưa nghe

 Phải suy nghĩa lý kinh

 Chẳng nên vội nói rằng

 Từ truước tôi chưa nghe

 Nghe pháp chưa từng nghe

 Chánh niệm suy nghĩa lý

 Do đó trí huệ tăng

 Như biển nhận các dòng

 Đa văn càng tăng thượng

 Trí huệ tăng cũng vậy

 Được nghe các Phật sự

 Rộng lợi ích chúng sanh

 Họp đa văn như biển

 Trí huệ không cùng tận

 Giỏi biết được chương cú

 Hạng nhứt trong sai biệt

 Thế nên phải nên nghe

 Pháp chưa từng được nghe

 Cầu pháp chưa từng nghe

 Được quả báo vô thượng.

 Lại này Phú Lâu Na! Hai là Bồ Tát chơn thiệt tinh tấn, Bồ Tát thành tựu pháp này thì chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Đại Bồ Tát ở nơi sự cầu đa văn sanh lòng rất mong muốn, ở nơi sự rảnh rang vắng vẻ sanh lòng rất ưa thích, nhứt tâm siêng cầu Vô thượng Bồ đề, cầu rồi vì dứt sân khuể mà tu tập từ quán, vì dứt tham dục mà tu tập bất tịnh quán, vì dứt ngu si mà tu tập nhơn duyên quán.

 Này Phú Lâu Na! Những gì là Bồ Tát tinh tấn, Bồ Tát tu tập tinh tấn thế nào?

 Này Phú Lâu Na! Bồ Tát hoặc trong một kiếp hoặc dưới một kiếp, hoặc đi hoặc ngồi thường phát tinh tấn. Đây chẳng gọi là chơn thiệt tinh tấn.

 Có Bồ Tát hoặc trong một kiếp hoặc dưới một kiếp tu hành tịnh giới khổ hạnh khó làm, đầy đủ đầu đà, tùy sở duyên sự sanh lòng nguyện cầu sâu mà rời lìa thiệt tướng các pháp, đây chẳng gọi là chơn thiệt tinh tấn.

 -Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát chơn thiệt tinh tấn được chư Phật khen, người trí thế tục chẳng chê ghét?

 -Này Phú Lâu Na! Ở nơi kinh chưa từng nghe đúng pháp không sâu diệu không có chút tướng dạng hiệp đệ nhứt nghĩa, Bồ Tát chẳng trái chẳng nghịch biết rõ nghĩa ấy siêng phát tinh tấn lòng chẳng lui mất nghe nhận đọc tụng giải thuyết cho người. Đây gọi là Bồ Tát chơn thiệt tinh tấn. Vì nghe kinh thâm diệu thông đạt nghĩa lý chẳng trái chẳng nghịch, tinh tấn như vậy được chư Phật khen ngợi người trí thế gian chẳng chê trách được.

 Thế nên Bồ Tát phát trang nghiêm như vầy: Chỗ mà chúng sanh thế gian chẳng thể thấu đáo được thì tôi ở trong ấy sẽ thấu đáo hết, chỗ mà chúng sanh thế gian có thể bị chìm mất tôi ở trong ấy chẳng nên để bị chìm, chỗ mà chúng sanh thế gian phải kinh sợ tôi ở trong ấy chẳng nên kinh sợ. Tại saỏ Vì tôi phát trang nghiêm chẳng hiệp với thế gian, vì rời lìa thế pháp mà tôi phát trang nghiêm chớ chẳng phải đi trong thế pháp mà tôi phát trang nghiêm, vì chẳng đi trong thế pháp mà tôi phát trang nghiêm chớ chẳng phải vì tùy theo thế pháp mà tôi phát trang nghiêm, vì chuyển thế pháp mà tôi phát trang nghiêm.

 Này Phú Lâu Na! Đây gọi là Bồ Tát chơn thiệt tinh tấn. Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề vậy”.

 Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Bồ Tát cầu thâm pháp

 Thường siêng phát tinh tấn

 Suy gẫm nghĩa lý ấy

 Chẳng theo nơi âm thanh

 Bồ Tát chẳng theo lời

 Biết nói điều hư dối

 Vì biết các pháp không

 Chỉ cầu nơi lời lành

 Nếu trong ngàn vạn ức

 Vô lượng các kiếp số

 Ngày đêm luôn đi ngồi

 Chuyên tâm tu khổ hạnh

 Mà chẳng tin thâm kinh

 Thì chẳng phải tinh tấn

 Thấu đáo nghĩa lý sâu

 Chẳng gọi là giải đãi

 Tinh tấn được như vậy

 Là chỗ khen của Phật

 Thế gian chẳng thấu đáo

 Bồ Tát thấu đáo được

 Thế gian bị sợ mất

 Bồ Tát chẳng sợ mất

 Chuyên tâm thường mong cầu

 Pháp không tịch chơn diệu

 Trong pháp không vô uý

 Cũng không có lui mất

 Vì trụ tướng ngã pháp

 Nên sanh lòng sợ mất

 Tán hoại tất cả pháp

 Đây gọi đạo Bồ đề

 Chuyên tâm phát tinh tấn

 Mau thành biển đa văn.

 Lại này Phú Lâu Na! Ba là Bồ Tát khéo biết ngũ ấm, khéo biết mười hai nhập, khéo biết thập bát giới, khéo biết mười hai nhơn duyên, vì khéo biết các pháp nên thành tựu trí vô y chỉ, vì được trí vô y chỉ nên ở nơi tất cả pháp chẳng niệm chẳng phân biệt, vì chẳng niệm chẳng phân biệt nên thuyết pháp cho chúng sanh phá tất cả kiến chấp khiến trừ thân kiến.

 Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Bồ Tát biết ngũ ấm

 Mười hai nhập đều không

 Biết rõ thập bát giới

 Thông đạt mười hai duyên

 Chẳng tùy theo năm ấm

 Biết thân này hư dối

 Nơi các nội ngoại nhập

 Đều biết nó tánh không

 Biết các pháp như vậy

 Biết rồi nói với người

 Vì thế nên Bồ Tát

 Trí huệ càng cao lớn.

 Lại này Phú Lâu Na! Bốn là đại Bồ Tát như sở kiết giới như sở thuyết giới đều khéo theo học không có khuyết phạm. Những gì là Bồ Tát học giới?

 Học tất cả pháp là Bồ Tát học giới. Tại sao, vì Bồ Tát học tất cả pháp nên được trí tất cả pháp, do pháp trí ấy mà được vô phân biệt huệ, do huệ vô phân biệt ấy mà biết được tất cả sự. Biết tất cả sự thế nào? Bồ Tát biết hết tất cả nội sự, tất cả ngoại sự tất cả nội ngoại sự.

 Cớ chi gọi là nội tên nội? Phàm bao nhiêu chỗ thọ có thể tham trước thì gọi là nội thân, từ mười hai nhơn duyên sanh, trong ấy chỉ có thế tục giả danh, đó là mắt này, tai này, mũi này, lưỡi này, thân này, ý này. Đây gọi là nội. Vì pháp này được phàm phu tham trước nên gọi là nội, họ bảo rằng tôi sẽ được mắt như vậy, được tai mũi lưỡi thân và ý như vậy chẳng làm tai mũi lưỡi thân và ý như vậy. Trong ấy chỉ do nghiệp duyên đã khởi mà có quả báo sanh nên gọi là nội, trong ấy sai biệt mà phàm phu tham trước gọi là mắt là tai mũi lưỡi thân ý đều gọi là nội cả.

 Này Phú Lâu Na! Nội gọi là hai. Sự ấy hư dối. Những người phàm phu tham trước nhận lấy nó mà sanh tranh cãi. Nơi ấy, đức Như Lai từ trước đến nay biết nó đúng thiệt nên chẳng tham trước. Thế nào biết rằng đức Như Lai biết nó đúng thiệt mà chẳng tham trước? Đức Như Lai ở trong pháp ấy chẳng làm về nương. Ai chẳng làm về nương? Đó là ái kiết. Mắt chẳng làm về nương, rời mắt chẳng làm về nương. Tai mũi lưỡi thân ý chẳng làm về nương, rời tai mũi lưỡi thân ý chẳng làm về nương. Tại sao, vì nơi các pháp, đức Như Lai chẳng được nội chẳng được ngoại, thế nên trong pháp ấy đức Như Lai chẳng làm về nương.

 Đức Như Lai là đấng nói lời chơn thiệt, bảo các Tỳ Kheo rằng mắt chẳng phải là các ông cũng chẳng phải người khác. Tại sao, vì bổn thể nó bất khả đắc nên pháp nào là mắt, mắt ấy thuộc ai, pháp nào là tai mùi lưỡi thân ý, thuộc về ai. Tại sao, vì bổn thể nó bất khả đắc vậy.

 Này Phú Lâu Na! Mắt ấy, nay nên suy kiểm, tai mũi lưỡi thân và ý ấy, nay nên suy kiểm. Nơi pháp không chỗ tham thọ được. Tại sao, nếu có pháp nhận thọ thì sanh khổ não, vì sanh khổ não nên không có vui. Vì thế nên nơi pháp mà có nhận thọ thì đều thọ khổ não, nếu thọ khổ não thì chẳng rời lìa khổ. Đây gọi là suy kiểm mắt suy kiểm tai mũi lưỡi thân và ý, không có nhập xứ, tại sao, vì nếu có chỗ nhập thì có chỗ xuất. Thế nên đức Như Lai nói mắt là không vô ngã vô ngã sở bổn tánh nó tự như vậy, tai mũi lưỡi thân ý không vô ngã vô ngã sở bổn tánh nó tự như vậy. Tánh ấy không có tánh, không có tánh như vậy thì không tác không hoại. Pháp tánh như vậy, hoặc chư Phật xuất thế hay chẳng xuất thế, tánh ấy luôn thường trụ. Ở nơi các pháp sanh, đức Như Lai biết là chẳng sanh, nên Như Lai là đấng nói lời chơn thiệt mà nói rằng hoặc có Phật hay không có Phật tánh ấy thường trụ.

 Này Phú Lâu Na! Thế nào gọi là vô sanh, thế nào gọi là trí vô sanh? Này Phú Lâu Na! Các pháp bình đẳng gọi là vô sanh, đạo gọi là trí vô sanh. Khổ hêt gọi là vô sanh, đạo gọi là trí vô sanh. Đây là Như Lai nói có hai đế: thế đế và đệ nhứt nghĩa đế.

 Này Phú Lâu Na! Như Lai nói tướng khổ tức là nói vô tướng. Thế nào gọi là tướng khổ, đó là tướng vô vi, vô vi tức là vô tướng, người trí biết vô vi là vô tướng.

 Này Phú Lâu Na! Người trí thế nào biết vô vi là vô tướng? Đó là biết vô vi pháp không, biết là tịch diệt, biết là chỗ về, biết là lợi ích đệ nhứt, biết là không có nhiệt não. Người trí biết vô vi là như vậy, trong trí biết ấy cũng chẳng sanh tướng.

 Này Phú Lâu Na! Nếu người có tác thì có hoại, nếu không tác thì không hoại. Tướng không hoại là không, tướng không hoại là vô tướng, tướng không hoại là không nguyện.

 Này Phú Lâu Na! Không pháp không có người tác không có người hoại. Vô tướng và vô nguyện cũng không có người tác người hoại.

 Đây gọi là tướng bất hoại là Vô thượng Bồ đề của chư Phật. Những gì là Vô thượng Bồ đề của chư Phật, đó là chư Phật sở bất đắc vậy.

 -Bạch Thế Tôn! Những pháp gì là chư Phật sở bất đắc?

 -Này Phú Lâu Na! Tất cả pháp là chư Phật sở bất đắc.

 -Bạch Thế Tôn! Vì lẽ ấy mà tất cả pháp là Vô thượng Bồ đề của chư Phật chăng?

 -Này Phú Lâu Na! Đúng như vậy, tất cả pháp là Vô thượng Bồ đề của chư Phật đó chỉ là thế tục giả danh ngôn để nói thôi. Người chẳng tinh tấn khó hiểu khó biết. Tại sao, vì người chẳng tinh tấn chẳng tu tập được các pháp bình đẳng. Nếu bất bình đẳng thì trái chống với chư Phật.

 Này Phú Lâu Na! Người nào chẳng tu tập bình đẳng được?

 Này Phú Lâu Na! Tất cả thế gian hành bất bình đẳng. Trong Bồ đề của chư Phật không có đẳng cũng không có bất đẳng. Ta do đạo ấy mà được Vô thượng Bồ đề. Do nhơn duyên ấy mà trong kinh Phật nói tất cả pháp ở trong chánh vị đều nhập tất định, đây gọi là môn tất định nhập Bồ đề. Vì thế nên, này Phú Lâu Na, tất cả pháp đều là Bồ đề vậy”.

 Bấy giờ Huệ Mạng Phú Lâu Na bạch rằng: “Hi hữu Thế Tôn! Vô thượng Bồ đề của chư Phật cũng định cũng bất định, cũng vào văn tự cũng chẳng vào văn tự, cùng vào ngữ ngôn cũng chẳng vào ngữ ngôn. Tại sao, bạch Thế Tôn, nay tôi theo Phật nghe nói kinh này, ở nơi các pháp tôi được quyết định quang minh. Tôi ở trong các pháp được quyết định quang minh như vậy, tôi ở trong một sự biết tất cả sự, ở trong tất cả sự biết một sự”.

 Đức Phật khen Ngài Phú Lâu Na rằng: “Lành thay, tốt thay, này Phú Lâu Na, ông có thể mau nhập được tất cả pháp lợi của chư Phật như vậy, phải biết thuở đời quá khứ ông đã từng cúng dường chư Phật gieo trồng các căn lành, hầu gần thỉnh hỏi. Này Phú Lâu Na!

 Ta nhớ thuở quá khứ ở trong phần hư không của cõi đất này, ông đã từng ở chỗ sáu vạn tám ngàn đức Phật được nghe nói kinh này, do vì thiện căn công đức ấy nên nay ông ở nơi các pháp được khắp quyết định quang minh.

 -Bạch Thế Tôn! Nếu tôi đã ở nơi chư Phật ấy được nghe kinh này, tại sao tôi lại chẳng dùng một niệm phát Vô thượng Bồ đề?

 Này Phú Lâu Na! Ta nhớ thuở quá khứ ông đã có một kiếp phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chẳng rời lìa các tâm khác nên lại thối thất. Do vì phước đức ấy, nay ta nói ông ở trong các Pháp Sư là tối đệ nhứt.

 Bạch Thế Tôn! Tôi khi trước làm tội chướng gì nên trong một kiếp phát tâm Bồ đề lại thối thất?

 Này Phú Lâu Na! Do vì theo y chỉ ác tri thức, lại vì chẳng có thể lưu bố rộng chánh pháp nên ông thối thất tâm Bồ đề.

 Này Phú Lâu Na! Có bốn pháp thối thất tâm Vô thượng Bồ đề mà thành Thanh Văn thừa. Những gì là bốn?

 Một là vì Bồ Tát thân cận ác tri thức nên có thể ở nơi thiện căn tăng thêm ác niệm viễn ly mà nói rằng: Cần gì phát tâm Bồ đề như vậy, sanh tử dài lâu vô lượng khổ não qua lại trong năm loài được không nạn rất khó, gặp Phật càng khó mà sanh lòng tịnh tín lại khó hơn, dầu được gặp Phật nhưng xuất gia lại khó, đời nay ngươi được gặp không nạn chớ để mất, nơi chư Phật người chưa được thọ ký thiện căn chưa nhứt định, nếu chẳng được Niết bàn thì phải luân chuyển năm loài. Người ấy nghe lời của ác tri thức nói trên đây rồi sanh lòng thối thất đạo Bồ đề giải đài chẳng an vui. Đây là pháp ban đầu mà do đó Bồ Tát thối thất Bồ đề thành Thanh Văn thừa.

 Hai là Bồ Tát chẳng nghe các kinh đúng với Bồ Tát, đó là các kinh Bồ Tát Tạng, kinh Phát Bồ Đề Tâm,,kinh Nhiếp Bồ Tát Sự, kinh đúng sáu Ba la mật, do vì chẳng nghe nên chẳng hành Bồ Tát hạnh chẳng học Bồ Tát đạo. Người này chẳng biết Bồ Tát nên thân cận pháp gì nên xa rời pháp gì, pháp nào nên thọ pháp nào chẳng nên thọ, pháp gì là Bồ Tát pháp, pháp gì là Thanh Văn pháp. Vì chẳng biết rõ ràng nên với pháp nên thân cận mà chẳng thân cận trở lại thân cận pháp chẳng nên thân cận, do đó nên thối thất đạo Vô thượng Bồ đề tâm giải đãi nhàm yếu bỏ phế bổn nguyện. Có pháp thứ hai này thì Bồ Tát thối thất Bồ đề thành Thanh Văn thừa.

 Ba là Bồ Tát chấp được các tham trước ngô ngã hành tà kiến sa vào biên kiến chìm trong ác kiến khó cứu khỏi. Người này được nghe kinh sâu diệu đúng đệ nhứt nghĩa không có mảy tướng dạng thì trái nghịch chẳng tin chẳng thông đạt được gây tội phá pháp, do đó mà sanh tại chỗ nạn chẳng gặp được Phật chẳng được nghe pháp, vì chẳng nghe pháp nên chẳng gặp giáo pháp chư Phật nên chẳng được gặp thiện tri thức, vì chẳng gặp thiện tri thức nên mất chỗ vô nạn mà sanh tại chỗ nạn, vì sanh chỗ nạn nên rời lìa thiện tri thức gặp ác tri thức, vì cùng tùng sự với ác tri thức nên quên mất bổn niệm, vì mất bổn niệm nên bỏ tâm Bồ Tát bỏ Bồ Tát thừa mà thối chuyển mất tâm Bồ đề chỉ làm pháp sanh tử chẳng tu tập được hành pháp Đại thừa. Có pháp thứ ba này thì Bồ Tát thối thất Bồ đề thành Thanh Văn thừa.

 Bốn là Bồ Tát được nghe các kinh thâm diệu mà chẳng thâm tâm giáo hóa người khác, tâm niệm thối thất chỉ thích tu một mình lòng tham tiếc chẳng muốn tuyên nói, chẳng có thể dùng Chánh pháp nhiếp nhiều người, do căn bất thiện này mà mất trí niệm huệ, đã mất trí huệ niệm chẳng cùng người đọc tụng Đại thừa kinh chẳng đem pháp Đại thừa cùng người cộng đồng, người này chuyển thân đời khác, mất tâm Bồ Tát quên niệm Bồ Tát. Có pháp thứ tư này thì Bồ Tát thối thất Bồ đề thành Thanh Văn thừa”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên rõ lại sự ấy mà nói kệ rằng:

 “Thân cận ác tri thức

 Giải đãi nơi Bồ đề

 Do vì duyên cớ ấy

 Mất tâm thượng Bồ đề

 Sâu sanh ác ngã kiến

 Sa vào biên tà kiến

 Mà gây tội phá pháp

 Sanh tại nơi nạn xứ

 Sanh nơi nạn xứ rồi

 Thì dứt tâm Bồ đề

 Quên mất bổn niệm trước

 Do đó mất Bồ đề

 Người này chẳng nghe được

 Pháp sanh Bồ đề tâm

 Tâm ấy nếu tăng trưởng

 Thì thành được Bồ đề

 Được pháp diệu quảng đại

 Tham lẫn chẳng muốn nói

 Do vì duyên cớ ấy

 Mà thối thất Bồ đề

 Bồ Tát cầu Đại thừa

 Phải biết bốn pháp ấy

 Nếu biết bốn pháp ấy

 Bồ đề sẽ được sanh

 Vì thế nên xa rời

 Bốn pháp ác như vậy

 Siêng tu hành pháp không

 Được gần thiện tri thức

 Được kinh thâm diệu rồi

 Chẳng nên tham bỏn xẻn

 Lòng siêng nói dạy người

 Do đây sanh Bồ đề.

 Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát thành tựu bốn pháp tùy hồi hướng Bồ đề tâm chẳng mất, tùy hồi hướng các thiện căn cũng chẳng mất. Những gì là bốn?

 Bồ Tát trì giới thanh tịnh, ức niệm thành tựu có niệm an huệ, tâm siêng tinh tấn mà chẳng lười bỏ, thành tựu đa văn sanh huệ.

 Bồ Tát có bốn pháp ấy thì tùy hồi hướng tâm Bồ đề chẳng mất, tùy hồi hướng các thiện căn cũng chẳng mất”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên rõ lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Bồ Tát đủ trì giới

 Chỗ ghi nhớ sâu xa

 Tâm siêng thường tinh tấn

 Đa văn trang nghiêm huệ

 Bồ Tát thường thân cận

 Bốn pháp như trên ấy

 Tùy ý muốn khởi sự

 Đều có thể thành tựu

 Vì thế phải thường trì

 Tịnh giới siêng tinh tấn

 Chẳng dứt pháp ức niệm

 Thường siêng cầu đa văn

 Trì giới tịnh chỗ sanh

 Ức niệm tịnh đại trí

 Tinh tấn tịnh Phật pháp

 Đa văn sanh đại huệ

 Vì thế các Bồ Tát

 Phải học bốn pháp trên

 Học bốn pháp trên rồi

 Sẽ chuyển vô thương luân.

 Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát có bốn pháp thì có thể lợi ích Bồ đề: Trì giới là pháp lợi ích Bồ đề, nhẫn nhục là pháp lợi ích Bồ đề, tinh tấn là pháp lợi ích Bồ đề, đa văn là pháp lợi ích Bồ đề”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên rõ nghĩa mà nói kệ rằng:

 “Bồ Tát tịnh trì giới

 Lợi ích cho Bồ đề

 Nhẫn nhục và tinh tấn

 Đa văn cũng như vậy

 Người trì giới thanh tịnh

 Sở nguyện đều được thành

 Giới tịnh nhiều lợi ích

 Bồ đề được chẳng khó

 Bồ Tát tu nhẫn nhục

 Thân tướng trí huệ thành

 Nên tu hành nhẫn nhục

 Cầu Phật tướng trí huệ

 Tinh tấn cũng có thể

 Lợi ích nhiều Bồ đề

 Người luôn tu tinh tấn

 Được Bồ đề chẳng khó

 Đa văn cũng lợi ích

 Nghe rồi được gần pháp

 Xa rời các phi pháp

 Được Bồ đề chẳng khó

 Bốn pháp là chủng tử

 Từ đó sanh Bồ đề

 Thế nên chư Bồ Tát

 Phải gần bốn pháp ấy.

 Lại này Phú Lâu Na! Đại Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thân sắc đầy đủ, tài vật đầy đủ, quyến thuộc đầy đủ, mạng chung thường chẳng sanh xứ ác nạn, thường gặp chư Phật, được chư Phật khen. Những gì là bốn:

 Một là Bồ Tát hành từ chẳng sân chẳng não tất cả chúng sanh. Thế nào là Bồ Tát hành từ chẳng sân chẳng não tất cả chúng sanh? Này Phú Lâu Na! Bồ Tát hành từ đối với chúng sanh phát khởi ý tưởng tôi thương mến cứu độ họ. Thấy chúng sanh thân khổ tâm khổ thì nghĩ rằng tôi phải siêng tu tinh tấn độ các chúng sanh ấy khỏi khổ sanh tử ban cho họ an vui. Bồ Tát phát tâm ấy rồi siêng tu tinh tấn, tu sáu Ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ.

 Này Phú Lâu Na! Bồ Tát nhơn Bát Nhã Ba la mật mà tròn đủ sáu Ba la mật. Những gì là Bồ Tát Bát Nhã Ba la mật, tại sao Bồ Tát do Bát Nhã Ba la mật mà siêng phát tinh tấn?

 Bồ Tát suy gẫm: Pháp gì là ngã, pháp gì là ngã sở. Lúc suy như vậy, Bồ Tát chẳng thấy pháp là ngã, chẳng thấy pháp là ngã sở. Ở trong pháp ấy không ngã pháp không ngã sở pháp. Vì rời lìa ngã, ngã sở nên Bồ Tát biết thân không, vì thân không nên chúng sanh không. Tại sao, vì trong các pháp ngã và ngã sở còn không huống là chúng sanh. Bồ Tát vì lìa rời ngã ngã sở như vậy nên biết chúng sanh không. Vì chúng sanh không nên biết sắc ấm không. Vì sắc ấm không nên thọ tưởng hành thức bốn ấm cũng đều không. Vì biết các ấm không nên biết đại chủng không, đó là địa thủy hỏa phong hư không và thức đại chủng đều không. Đại chủng ấy không có tác giả không có ai sai tạo tác. Nếu không tác giả thì pháp ấy là không. Vì biết các đại chủng tướng các đại chủng không nên Bồ Tát biết các nhập không, vì các nhập không nên tướng các nhập không. Các nhập không tác giả không ai sai tạo tác, nếu không tác giả thì pháp ấy là không.

 Này Phú Lâu Na! Bồ Tát quán tất cả pháp không như vậy. Lúc quán tất cả pháp không chẳng thấy bổn thể các pháp chỗ có thể sanh được sân.

 Đây gọi là Bồ Tát đại từ, là từ biết thân không, là từ chúng sanh không, là từ ấm nhập đại chủng không. Bồ Tát có thể hành đức từ như vậy thì gọi là hành tất cả pháp không từ. Đây là Bồ Tát hành nơi đại từ. Bồ Tát nầy rời lìa tâm ngã ngã sở rất sanh lòng cầu muốn Vô thượng Bồ đề, sanh lòng đại từ đối với chúng sanh. Nếu có chúng sanh chẳng biết được thiệt tướng như vậy nên Bồ Tát phát đại trang nghiêm. Tôi cứu họ nên gọi là từ, tôi làm nên gọi là bi. Bồ Tát thành tựu đại từ như vậy thì có thể ở nơi các chúng sanh có thể làm cứu độ làm chỗ về làm nhà làm chỗ ở có thể làm cứu cánh. Thế nên Bồ Tát phải tu hành đại từ như vậy chẳng tham trước nơi chúng sanh cũng chẳng sân hận. Đây gọi là Bồ Tát chúng sanh không từ chẳng có sân hận.

 Này Phú Lâu Na! Nếu Bồ Tát nhơn nơi đức từ nhơn nơi lợi ích nhơn nơi pháp không có thể vào tất cả pháp bất sanh bất diệt thì gọi là Bồ Tát thường hành đại từ.

 Bồ Tát thông đạt các pháp như vậy thì các ma, ma dân và ma sở sử đều chẳng phá hoại được.

 Bồ Tát thành tựu pháp ban đầu này thì có thể dứt được triền phược trong tất cả công đức, do đây được Bình đẳng Ba la mật”.

 Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ sự ấy mà nói kệ rằng:

 “Bồ Tát thường tu từ

 Mà quán không như vậy

 Biết ấm nhập giới ly

 Trong đây không có ngã

 Hai pháp ngã ngã sở

 Cũng quyết định chẳng có

 Vì chẳng được các pháp

 Mà tu hành từ tâm

 Chẳng y chỉ các pháp

 Cũng chẳng phải chẳng y

 Đây gọi các Phật đạo

 Các pháp chẳng y chỉ

 Hay được vô thượng nhẫn

 Nhẫn thiệt tướng các pháp

 Các pháp không sanh diệt

 Hay thông đạt lý ấy

 Những người có trí lớn

 Thân cận nơi pháp ấy

 Thường được thân sắc đẹp

 Cũng được lạc thuyết biện

 Thường được gặp chư Phật

 Biết nghĩa lợi các pháp

 Vì thế Bồ Tát này

 Được đạo thượng vô vi.

 Lại này Phú Lâu Na! Hai là đại Bồ Tát chuyên cần cúng dường cung kính chùa tháp chư Phật, dùng hương quí hoa đẹp thơm các chuỗi ngọc phan lọng kỹ nhạc các loại đồ cúng để cúng dường. Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì có thể đầy đủ tất cả công đức”.

 Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:

 “Bồ Tát dùng hoa hương

 Và phan lọng thượng diệu

 Cúng dường chùa tháp Phật

 Để cầu thượng trí huệ

 Do duyên công đức này

 Báo thân thường đoan chánh

 Của nhiều châu báu đủ

 Quyến thuộc đều thành tựu

 Quyết định nơi Bồ đề

 Thường an trụ nơi pháp

 Nơi nơi chỗ thọ sanh

 Công đức càng cao thêm

 Các vua chúa đều kính

 Trời Rồng Thần thường mến

 Tất cả các chúng sanh

 Cũng đều chung cung kính

 Nếu người cúng dường Phật

 Hiện tại hoặc nhập diệt

 Sanh ra được cúng dường

 Thường ở chỗ không nạn.

 Lại này Phú Lâu Na! Ba là đại Bồ Tát thường phải chuyên cần cúng dường chánh pháp. Sao gọi là chánh pháp? Thế nào gọi là cúng dường chánh pháp?

 Đó là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Tứ thiền, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác ý, Bát chánh đạo, Chỉ quán, Minh giải thoát, Ba giải thoát môn, Tận trí vô sanh trí, đây gọi là chánh pháp.

 Ở trong các pháp ấy đúng như lời mà thật hành tùy thuận chẳng trái nghịch sanh dục nguyện tinh tấn đầy đủ tu tập, đây gọi là cúng dường chánh pháp.

 Lại chánh pháp là các kinh như vậy. Cúng dường pháp là tin hiểu suy tư phân biệt tùy thuận tâm chẳng trái nghịch.

 Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể được thành tựu đầy đủ tất cả công đức”.

 Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:

 “Thường siêng cúng dường pháp

 An trụ đúng như lời

 Nghe pháp không thâm diệu

 Tâm thuận không trái nghịch

 Do đó thân đoan chánh

 Được lạc thuyết biện tài

 Như pháp được Phật khen

 Do đây càng cao thêm.

 Lại này Phú Lâu Na! Bốn là đại Bồ Tát chuyên cần cúng dường Thánh chúng đệ tử Như Lai. Dùng hương hoa chuỗi ngọc phan lọng y phục thức ăn uống đồ nằm y dược các vật cần dùng hoặc xây Tăng phòng, hoặc lập vườn rừng, hoặc dọn chỗ kinh hành, hoặc sắm ao tắm, hoặc là giếng suối, hoặc người giúp việc, đem các thứ như vậy cúng dường Thánh chúng.

 Bồ Tát thành tựu pháp thứ tư này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức”.

 Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:

 “Đồ cúng dường vô thượng

 Đem cúng dường thánh chúng

 Do duyên công đức này

 Sanh ra được giàu có

 Thân sắc thường đoan chánh

 Cũng được lạc thuyết biện

 Đầy đủ các công đức

 Trí huệ càng cao thêm

 Tâm cúng dường chánh trực

 Không có ngã ngã sở

 Do nhơn duyên trí này

 Sanh ra được cúng dường

 Được chư Phật khen ngợi

 Thường thân cận bốn pháp

 Sanh ra thường tôn quí

 Công đức càng cao thêm”.

PHẨM CỤ THIỆN CĂN THỨ TƯ

 Đức Phật bảo Huệ Mạng Phú Lâu Na: “Đại Bồ Tát phát tâm Đại thừa thường phải tu tập thân cận bốn pháp thì có thể nhiếp hết tất cả pháp lành cũng có thể đầy đủ cả căn lành. Những gì là bốn pháp?

 Này Phú Lâu Na! Thiện nam thiện nữ phát tâm Đại thừa gần gũi tu tập thật hành pháp nhẫn nhục. Lúc tu hành pháp nhẫn nhục như vậy, do vì như tâm bình đẳng thì được Bình đẳng Ba la mật, cũng được tất cả chúng sanh Bình đẳng Ba la mật. Bồ Tát ấy được tâm Bình đẳng Ba la mật, trí Bình đẳng Ba la mật, hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi hoặc nằm hoặc thức hoặc ngủ, bấy giờ có người mang bình phẩn hoặc bình độc, bình nước sôi, hoặc các thứ rác rưởi, hoặc than lửa tro nóng, hoặc cứt đái đến đổ trút lên đầu lên thân, đối với sự gia hại này, Bồ Tát chẳng nên sân hận mà tâm phải tán loạn, chẳng nên tự nói tôi có tội gì, cũng chẳng dùng ác tâm nhìn họ, chỉ nên nhứt tâm cầu pháp tự lợi, ở nên sự đang tu tập chuyên tâm chẳng bỏ rời. Phải điều phục tâm mình thế này: Người đó cớ chi mang các thứ ấy đổ trút lên đầu lên thân ta, thân ta chẳng vì các vật ấy mà phải đau khổ. Phải quan sát các pháp nhơn duyên như vầy: Ai mang vật đến, vật ấy đổ cho ai, vật gì đổ cho người nào. Suy gẫm như thiệt như vậy chẳng thấy có pháp nào là người mang cho, là người lãnh thọ, cái gì là vật. Chánh niệm quan sát suy gẫm như vậy vì nhận thấy đây kia đều bất khả đắc nên tất cả pháp cũng đều bất khả đắc đều chẳng thấy có được. Vì Bồ Tát chẳng được và chẳng thấy tất cả pháp nên chẳng sanh lòng sân hận.

 Nếu lúc suy xét như trên mà vẫn còn có niệm sân hận khởi lên thì Bồ Tát lại phải chánh niệm suy xét thế này: Do chạm xúc gì khiến thân ta đau, các thứ chạm xúc ấy nó chạm xúc chỗ nào, chạm xúc nơi thân hay chạm xúc nơi tâm. Nếu nó chạm xúc nơi thân, thì thân như cỏ cây ngói đá bóng tượng không hay không biết chẳng phải đây chẳng phải kia. Nếu nó chạm xúc nơi tâm, thì tâm không hình sắc niệm niệm sanh diệt chẳng tạm dừng chẳng phải đây chẳng phải kia, chỉ do hư vọng ghi nhớ phân biệt mà nói là khổ là vui là chẳng khổ vui, nay ta chẳng nên sanh khởi ghi nhớ phân biệt hư vọng ấy, nay ta phải quán bình đẳng thiệt tướng, ta phải tu tập việc làm của hiền thánh, chẳng nên theo việc làm của phàm phu. Những gì là việc làm của hiền thánh, đó là xa rời giải thoát đối với các pháp, ta vì xa rời mà học chớ chẳng phải vì hòa hiệp mà học. Lòng ghi nhớ phân biệt hư vọng ấy đều là hòa hiệp. Là ai hòa hiệp, là tham dục sân hận ngu si hòa hiệp. Sao gọi là tham dục sân hận ngu si hòa hiệp, do vì thân si, thân kiến si, vì tham thân kiến nên lúc thân bị khổ thì giận thù người kia đây gọi là sân hận hòa hiệp, có người vì thân kiến si vì tham thân kiến, vì chẳng vừa ý mà sân hận người kia đây gọi là ngu si hòa hiệp. Nếu người bị ba độc trói buộc mà hoặc phát khởi những tội nghiệp như vậy thì chư Phật chẳng cứu được huống là người khác, ta phải khéo quán các pháp nhơn duyên, quán các pháp không.

 Bồ Tát tuỳ thuận quán các pháp nhơn duyên như vậy chẳng thấy pháp có, ai hại ai chịu dùng vật gì để hại.

 Bấy giờ Bồ Tát nên suy nghĩ rằng: Tất cả các pháp từ nhiều duyên mà sanh vốn không tự tánh quyết định bất khả đắc, tại sao ta lại ở trong pháp hư vọng vô sở đắc mà có được pháp tác nghiệp để sanh sân hận phát khởi hành nghiệp. Nay ta phải sanh lòng không sân hận mà tu hành pháp vô tác vô khởi vô sanh, ta phải quán pháp không, chẳng chìu theo tâm ý chấp kiến. Nay ta phải quán pháp bất tác bất khởi vô sanh, chẳng nên y chỉ pháp tác khởi. Ta phải suy gẫm các pháp đúng như thiệt. Nay ta chẳng nên ở trong hư vọng vô sở hữu này mà cưỡng khởi tác, gì là cưỡng khởi tác, đó là sân hận. Tại sao, vì y chỉ nơi pháp thì có sân hận, nay ở trong các pháp thiệt tướng cứu cánh không, không có pháp bổn thể để có y chỉ được.

 Bồ Tát suy gẫm các pháp như vậy thì tâm vắng bặt chẳng khởi sân hận.

 Lại nữa, lúc Bồ Tát đi đứng nằm ngồi, hoặc lúc thức lúc ngủ, bấy giờ có người đến mang hương hoa thơm đẹp rải lên thân, hoặc đem những vòng hoa chuỗi ngọc phủ lên thân, hoặc đem y phục mịn đẹp trùm lên thân, hoặc đem phan lọng che lên trên, hoặc đem hương hoa châu báu cõi trời đắp lên thân, hoặc đem dưng các đồ uống ăn ngon ngọt, Bồ Tát đối với các sự cúng dường ấy chẳng nên ưa thích mà sanh lòng tham trước, chẳng vì sự việc ấy mà thân phụ người kia tùy thuận ý họ qua lại thăm viếng, chẳng nên thiên vị mà sanh ái trước. Bồ Tát đối với sự việc ấy nên dùng tâm bình đẳng thông đạt các pháp bình đẳng. Phải suy nghĩ rằng: Đối với các chúng sanh ta chẳng nên sân hận, chẳng nên thương nhớ, tại sao, vì ghét thương hai thứ đều là phiền não. Nay ở đây ta chẳng nên sanh lòng thương yêu, ta phải khéo thông đạt các pháp đúng thiệt. Ở trong các phiền não, chỗ hòa hiệp của ái duyên là tối trọng, phiền não này sâu đến xương tủy, nghĩa là ở trong pháp hay sanh kiết sử tâm ái nhiễm trước, đối với sự ái trước nếu chẳng vừa ý thì sanh sân hận. Mọi người đều tự có lòng dục nhiễm ái trước thân mình, có ai đến xâm não thì sanh sân hận. Do đây mà biết sân hận là quả của ái nhiễm, còn tham ái là quả của người si. Nay ta phải xa rời tâm ác ái nhiễm, đối với các pháp không hề tham trước.

 Ta chẳng vì tham dục mà học, chẳng vì sân hận mà học, chẳng vì ngu si mà học. Ta phải rộng học các pháp chơn thiệt. Đối với các pháp tướng thì quan sát đúng như thiệt, theo đúng như lời mà tu hành như thiệt. Chỉ nên y chỉ nghiệp báo, đối với các sự bị hại và cúng dường đều phải biết đó là duyên lành của nghiệp nhơn thuở trước, vì thế nên ở trong sự tùy thuận chẳng sanh mừng thích, trong sự trái nghịch chẳng sanh sân hận, chỉ giữ lòng thanh tịnh không hề thương ghét chẳng để tâm mình theo các pháp ác tham sân si.

 Bồ Tát thành tựu các pháp ban đầu này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức”.

 Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Phật thường khen trí huệ

 Cũng khen người trì giới

 Đề cao tu nhẫn nhục

 Cũng luôn ngợi đa văn

 Phật khen làm pháp lành

 Người từ tâm ái ngữ

 Vì lợi ích chúng sanh

 Tùy nghi khen công đức

 Phật thường quở ngũ dục

 Người sân hận ngu si

 Ganh ghét kiêu dua vạy

 Trược loạn hại chúng sanh

 Lòng lười nhác giải đãi

 Ngang ngỗ khó cùng nói

 Bội ơn không đền đáp

 Việc nhỏ giận hờn to

 Kẻ tham cầu lợi dưỡng

 Muốn mình được tài lợi

 Chẳng muốn người khác được

 Hạng này Phật chẳng khen

 Nơi lợi dưỡng ít trí

 Tự muốn ganh người được

 Khổ sầu thấy người được

 Hạng này Phật chẳng khen

 Vì cầu được lợi dưỡng

 Chuyển đổi các oai nghi

 Cách sống ấy chẳng sạch

 Rời rất xa Phật pháp

 Người chẳng chuyên hành đạo

 Có các lỗi lầm ấy

 Những ác nghiệp đạo ấy

 Không một việc đáng khen

 Chẳng dứt ác ngã kiến

 Tâm tham ái thì nhiều

 Vì tâm nhiều tham ái

 Nên siêng cầu lợi dưỡng

 Bồ Tát tự nghĩ rằng

 Nhẫn nhục lợi chúng sanh

 Xô dẹp tâm cương cường

 Mau được thành Phật đạo

 Tôi phải tu tâm từ

 Nhẫn nhục thương chúng sanh

 Mà biết các pháp không

 Do duyên sanh vô ngã

 Cớ sao có các pháp

 Pháp ấy khởi nơi tâm

 Vọng tưởng sanh sân hận

 Chẳng nhớ nó liền không

 Vọng tưởng sanh tam giới

 Thân nối nhau chẳng tuyệt

 Chẳng vọng tưởng phân biệt

 Thì không có lỗi ấy

 Thường suy xét các pháp

 Biết nó từ duyên sanh

 Thường quán các pháp không

 Mà hay độ mọi loài

 Chúng sanh phá giới khổ

 Bị kiêu mạn làm hại

 Dạy họ pháp diệt khổ

 Có nhiều lợi ích lớn

 Nếu có kẻ phương Đông

 Nam Tây Bắc bốn hướng

 Tay cầm bình cứt đái

 Đổ trút lên đầu tôi

 Tôi chẳng sanh lòng giận

 Ai hại ai chịu lấy

 Cái gì gọi là ta

 Siêng tinh tấn quan sát

 Chẳng giận hờn nhìn họ

 Tội gì mà hại tôi

 Chỉ sanh lòng chánh niệm

 Biết là nghiệp thuở trước

 Từ tâm thương xót họ

 Biết là nghiệp thuở trước

 Nay nhận quả báo này

 Trả xong chẳng gây nữa

 An trụ trong Phật đạo

 Người khác không có sự

 Khinh hủy làm khổ não

 Đây tất là ác nghiệp

 Dầu lâu mà chẳng mất

 Chúng sanh tại thế gian

 Luôn tạo nghiệp thiện ác

 Nay tôi chịu khổ này

 Nên biết do nghiệp trước

 Nếu giận mắng hại họ

 Sau lại thọ quả khổ

 Đâu nên đem khổ hại

 Mà hại lại người kia

 Phải cầu pháp vô thượng

 Cầu rồi dạy lại người

 Độ thoát tất cả loài

 Ra khỏi tất cả khổ

 Nếu người đem hương hoa

 Châu báu cúng dường tôi

 Chẳng nên sanh lòng tham

 Phải tập quán bình đẳng

 Ghét thương thì trái đạo

 Phải thường tu tâm xả

 Nên chánh quán các pháp

 Ai làm ai chịu lấy

 Tất cả pháp đều không

 Nội không ngoại cũng không

 Không chẳng có làm chịu

 Tất cả đều vô ngã

 Không chẳng có tham sân

 Không chẳng có phiền não

 Cũng không có thanh tịnh

 Rời cấu tịnh là không

 Trong không chẳng phân biệt

 Không chẳng có các tánh

 Không thường không vô tướng

 Đây là đạo thanh tịnh

 Giả sử có người đến

 Chặt đứt rời thân tôi

 Trọn chẳng sanh lòng giận

 Biết do nghiệp thuở trước

 Chúng sanh gây thiện ác

 Theo nghiệp tự thọ quả

 Chắc đời trước tôi ác

 Nay phải chịu báo khổ

 Nay chịu lấy khổ báo

 Quán thân như bóng tượng

 Bọt nước ảo hóa mộng

 Là không tất cánh không

 Nếu có người thành tâm

 Giúp đỡ nuôi dưỡng tôi

 Phải nhớ báo ơn họ

 Mà chẳng sanh lòng mừng

 Cúng dường chẳng vui mừng

 Mắng hại chẳng giận hờn

 Mừng giận đều chướng ngại

 Chẳng phải đạo chơn chánh

 Phải xa rời tất cả

 Lòng tham ái sân hận

 Thường phải tu không tịch

 Dứt hết các chướng ngại

 Nhẫn nhục gốc thập lực

 Chư Phật thần thông nguyện

 Trí vô ngại đại bi

 Đều do nhẫn làm gốc

 Tứ đế niệm chánh cần

 Căn lực giác đạo phần

 Đều dùng nhẫn làm gốc

 Người trí nên tu nhẫn

 Phật tại Ba La Nại

 Chuyển pháp luân vô thượng

 Cũng lấy nhẫn làm gốc

 Chư Phật thường khen nhẫn

 Các ông cũng phải tu

 Không nhẫn vô sanh diệt

 Các pháp tướng thường không

 Thì được Phật công đức.

 Lại này Phú Lâu Na! Đại Bồ Tát có thể rời lìa ngũ dục, thường thích xuất gia tâm thuận xuất gia xu hướng xuất gia chẳng ham ngũ dục. Được xuất gia rồi rời chốn ồn ào náo ở xa nơi núi rừng chẳng mất pháp lành. Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì hay đầy đủ tất cả công đức”.

 Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:

 Lòng thường thích xuất gia

 Mà hay thường xuất gia

 Thường thích ở núi rừng

 Chỗ tăng ích công đức

 Ở tại chỗ rảnh vắng

 Thì lìa năm dục lạc

 Nơi ấy không ồn náo

 Không mất duyên pháp lành

 Không phải bận chuyện trò

 Đến lui thăm viếng nhau

 Ưa rảnh rang vắng vẻ

 Được chư Phật khen ngợi

 Vì thế chư Bồ Tát

 Phải thường ở rảnh vắng

 Chớ tham ưa thành thị

 Chỗ sanh tâm lợi dưỡng

 Nếu được lợi thì mừng

 Nếu mất sanh lo buồn

 Người này dầu cúng Phật

 Chẳng gọi là cúng dường

 Muốn trừ các lỗi này

 Phải thường lìa lợi dưỡng

 Xa lìa ở rảnh vắng

 Tu tập các pháp không.

 Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát thường học cầu pháp. Cầu được rồi đọc tụng. Đó là cầu tịnh giới các pháp đầu đà tế hạnh, chẳng cầu những pháp đa dục không chán đủ. Cầu pháp diệt tham dục, chẳng cầu thêm tham dục. Cầu pháp phá sân chẳng thêm sân. Cầu dứt ngu si chẳng thêm ngu si. Cầu trừ kiêu mạn chẳng thêm kiêu mạn. Cầu phá ngã mạn chẳng thêm ngã mạn. Cầu hết ngã ngã sở chẳng thêm ngã ngã sở. Cầu pháp vô ngã chẳng y chỉ ngã nhơn chúng sanh thọ mạng. Thường cầu pháp hay được trí huệ lớn chẳng cầu pháp thối thất đại trí huệ. Thường cầu pháp để được trí huệ vô thượng chẳng cầu pháp để được trí huệ nhỏ. Cầu pháp được tất cả công đức chẳng cầu pháp chẳng đủ công đức.

 Cầu các pháp như vậy, được rồi tư duy cháng quán làm đúng theo lời đem dạy lại người, chẳng cầu thế lợi danh tiếng khen ngợi, siêng dạy các chúng sanh cho họ an trụ trong pháp ấy.

 Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức”.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

 “Bồ Tát thích xuất gia

 Trì giới hạnh đầu đà

 Do đó sanh trí huệ

 Mưa trí thêm các dòng

 Được pháp thâm tịnh rồi

 Chánh niệm suy ý nghĩa

 Ở trong các pháp ấy

 Làm được đúng như lời

 Thường dùng tâm thanh tịnh

 Giảng rộng lại cho người

 Lợi ích các chúng sanh

 Lòng không chút hy vọng

 Được mùi vị công đức

 Tụ ở trong pháp ấy

 Cũng khiến người được ở

 Do đây tăng Phật pháp

 Nếu trong vô lượng kiếp

 Tập họp các công đức

 Đều khiến hiện ra trước

 Nhiếp vào Bồ Tát đạo

 Nên phải cầu thâm pháp

 Được chư Phật khen ngợi

 Thường nói cho chúng sanh

 Do đây sanh công đức.

 Này Phú Lâu Na! Đại Bồ Tát an trụ trong pháp trì giới đầu đà thì có thể đầy đủ thiện căn công đức.

 Này Phú Lâu Na! Quá khứ lâu xa vô lượng vô biên số kiếp, có Phật hiệu Di Lâu Kiện Đà Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thọ sáu ngàn tuổi, một hội thuyết pháp có tám mươi ức Tỳ Kheo đắc quả A La Hán, sau khi Phật nhập diệt, pháp trụ năm trăm năm. Phật ấy nhập niết bàn rồi, trong bảy ngày, các đại đệ tử cũng đều nhập diệt theo Phật.

 Này Phú Lâu Na! Đức Phật Di Lâu Kiện Đà xuất thế cũng đủ năm thứ trược như ta hiện nay vậy. Sau khi chư đại A La Hán đệ tử Phật diệt độ, có nhiều chúng sanh nghĩ rằng: Trong pháp Sa Môn an ổn khoái lạc sao ta chẳng cùng xuất gia. Họ nghĩ như vậy rồi đều cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục xuất gia. Sau khi xuất gia họ chỉ làm ba việc: Một là thường qua lại nhà bạch y, hai chỉ tham cầu lợi dưỡng để sinh sống, ba là chuyên lo mập béo mà không tu phước huệ. Họ chỉ làm ba việc ấy mà chẳng tu hạnh gì khác. Sau đó trăm năm, chư đại đệ tử đã diệt độ cả, các Tỳ Kheo ấy phần đông cùng hòa hiệp với người bạch y, đa số phế bỏ các kinh thâm diệu trì giới đầu đà các tế hạnh của Phật dạy, họ chẳng còn đọc tụng nữa. Lúc bấy giờ chúng Tỳ Kheo thích ngũ dục ham ăn uống.

 Quốc Vương thuở ấy chỉ có một Thái Tử tên Đà Ma Thi Lợi rất được vua quí trọng. Lúc ở thanh vắng, Thái Tử nghĩ rằng: Đức Phật Di Lâu Kiện Đà đắc pháp gì thành Phật, sao nay các đệ tử đều phóng dật làm giống các bạch y. Lúc suy tư và nghĩ vậy, có Thiên Thần đến ẩn thân mà bảo Thái Tử rằng: Đức Phật Di Lâu Kiện Đà đắc pháp thâm diệu thanh tịnh quyết định.

 Nghe Thiên Thần nói, Thái Tử liền hỏi: Đức Phật Di Lâu Kiện Đà đắc pháp thâm diệu thanh tịnh quyết định, pháp ấy thế nào?

 Thiên Thần đáp: Pháp ấy không sắc, không thọ tưởng hành thức, không ấm giới nhật, không có ngũ dục cũng không có dục tâm. Phật đắc pháp ấy và dạy chúng sanh pháp ấy.

 Thái Tử lại hỏi: Tôi có được nghe pháp ấy để được hiểu biết thật hành chăng?

 Thiên Thần bảo: Ngài siêng tu tinh tấn thì được đó không khó.

 Này Phú Lâu Na! Thái Tử tự nghĩ nay Thiên Thần khai ngộ cho ta, ta nên xuất gia để cầu pháp thâm diệu ấy. Thái tử đến trước cha mẹ cúi lạy thưa xin được xuất gia tu hành trong pháp của đức Phật Di Lâu Kiện Đà.

 Cha mẹ bảo: Nay con cần gì bỏ chúng ta mà xuất gia, vì hiện tại các người xuất gia đều không khác gì hàng bạch y cả.

 Cha mẹ nói kệ bảo Thái Tử:

 Nay các chúng Tỳ Kheo

 Phóng dật thọ ngũ dục

 Canh tác đi buôn bán

 Chẳng khác hàng bạch y

 Hạng nghèo cùng khổ não

 Chẳng lấy gì để sống

 Các hạng người như vậy

 Cầu sống nên xuất gia

 Nay con sanh nhà vua

 Giàu sang đủ ngũ dục

 Châu báu có rất nhiều

 Cần xuất gia làm gì.

 Thái Tử Đà Ma Thi Lợi nói kệ thưa cha mẹ:

 Con chẳng cầu ngôi sang

 Nếu được cũng lìa bỏ

 Nay con chỉ muốn cầu

 Phật pháp giới thanh tịnh

 Có Thiên Thần khai ngộ

 Khuyên con đi xuất gia

 Thâm pháp của Phật dạy

 Con mong được nghe biết

 Con nghe Thiên Thần dạy

 Lòng con rất vui mừng

 Phật pháp nay muốn diệt

 Con muốn giúp hộ trì.

 Cha mẹ nói kệ bảo Thái Tử:

 Thâm kinh đã diệt hết

 Không có người tụng trì

 Nay con sẽ từ đâu

 Được nghe kinh thâm diệu

 Nếu ở trong tứ chúng

 Có người tụng thâm kinh

 Con trước theo họ học

 Rồi sau hãy xuất gia.

 Thái Tử nói kệ thưa cha mẹ:

 Nay con siêng tinh tấn

 Trì giới hạnh đầu đà

 Ở xa trong núi rừng

 Cầu Phật pháp thâm tịnh.

 Này Phú Lâu Na! Nói kệ xong, Thái Tử Đà Ma Thi Lợi cúi lạy cha mẹ từ biệt đi xuất gia, cha mẹ lăng yên chẳng ngăn cản được.

 Thái Tử đến chỗ chư Tỳ Kheo cạo bỏ râu tóc mặc cà sa thọ giới rồi hết lòng cung kính bạch chư Tỳ Kheo cầu được nghe pháp của Phật Di Lâu Kiện Đà đã truyền dạy để tu hành theo.

 Chư Tỳ Kheo bảo rằng: Chúng tôi chẳng nghe pháp của Phật dạy mà chỉ làm theo các ông Hòa Thượng và chư Sư thôi. Nay ông cũng nên làm theo như vậy.

 Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi bảo chư Tỳ Kheo rằng: Các Thầy tất từ nghèo hèn mà xuất gia nên chỉ biết quý trọng cơm áo, những việc của các Thầy làm chẳng khác hàng bạch y. Các Thầy nên cùng tôi cầu tìm pháp thâm diệu của Phật.

 Chư Tỳ Kheo nói kệ đáp rằng:

 Việc làm của chúng tôi

 Đều đã được lợi tốt

 Cơm áo rất đầy đủ

 Khỏi phải việc vua quan

 An ổn rất khoái lạc

 Không ai dám khinh mạn

 Nay đều không còn có

 Khổ não như bạch y

 Chính đây là Niết bàn

 Khoái an lạc đệ nhứt

 Ngoài công việc này ra

 Chúng ta không còn cần

 Chúng ta có nhiều y bát

 Thuốc men vật dụng nhiều

 Thí chủ thường cung cấp

 Nhà đàn việt cũng đông.

 Nghe lời đáp của chư Tỳ Kheo, Đà Ma Thi Lợi buồn rầu rơi lệ đến xin các tinh xá khác bạch thưa cũng đều được chư Tăng đáp như trên, liền bỏ chư Tỳ Kheo một mình vào núi sâu, chỗ rừng rậm xa vắng, nhứt tâm chí thành cầu pháp thâm diệu của Phật.

 Trước đó, trong hàng đại đệ tử của Phật có một đại A La Hán đủ tam minh lục thông bát giải thoát tên là Kiên Lao, như Ma Ha Ca Diếp hiện nay. Kiên Lao A La Hán ấy ở thâm sơn khắc lời kệ lên vách đá:

 Sanh tử chẳng dứt được

 Là do nơi tham dục

 Nuôi thù vào gò mả

 Luống phải chịu đau khổ

 Thân thúi như tử thi

 Chín lỗ chảy bất tịnh

 Ngu si tham luyến thân

 Chẳng khác giòi tham phẩn

 Nhớ tưởng vọng phân biệt

 Là gốc sanh ngũ dục

 Người trí chẳng phân biệt

 Thì ngũ dục đoạn diệt

 Tà niệm sanh tham trước

 Tham trước sanh phiền não

 Chánh niệm không tham trước

 Phiền não khác cũng hết.

 Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi vào hang núi thấy bốn bài kệ khắc trên vách đá liền đọc tụng và suy gẫm ý nghĩa, không bao lâu được ngũ thần thông. Sau đó Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi đến chỗ trước kia trà tì Phật Di Lâu Kiện Đà đảnh lễ hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi kiết già phát thệ rằng: Nếu tôi không thấy Phật và chẳng nghe các pháp khác thì chẳng dậy rời khỏi chỗ ngồi này.

 Này Phú Lâu Na! Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn tụng trì kinh Bát Bá Thiên Môn Của Phật Di Lâu Kiện Đà truyền. Thiên Đế biết Đà Ma Thi Lợi rất mến chánh pháp, liền từ trời Đao Lợi xuống trước Đà Ma Thi Lợi tuyên đọc kinh Bát Bá Thiên Môn, lại truyền cho các kinh Tứ Đa Văn Bổn Cú, Thất Chủng Trọng Cú, Thập Tứ Môn Cú. Nghe xong, Đà Ma Thi Lợi tụng trì, ở trong các pháp được trí huệ sáng suốt, tự nhiên thông thuộc các kinh thâm diệu thanh tịnh nghĩa không nghĩa ly của Phật Di Lâu Kiện Đà. Đức Phật ấy cũng hiện thân cho Đà Ma Thi Lợi thấy và hiện chúng Tỳ Kheo cả tinh xá phóng giường đại hội tứ chúng Thiên Long Bát Bộ đều khiến được thấy cả.

 Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi ở trong các pháp được trí huệ nhãn, rời chỗ ngồi đi du hành lần về đến bổn quốc, vì cha mẹ và quyến thuộc giảng nói các kinh thâm diệu thanh tịnh nghĩa không nghĩa ly, ca ngợi công đức Tam bảo Phật Pháp Tăng.

 Nghe pháp ấy xong, Vương phụ Vương mẫu các cung nhơn các quan thuộc sanh lòng tin cung kính thưa với Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi xin được xuất gia trong pháp Phật Di Lâu Kiện Đà.

 Bấy giờ có đến tám vạn bốn ngàn người đồng xuất gia theo Quốc Vương và Phu Nhơn và đồng lấy hiệu là Đà Ma Thi Lợi.

 Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi làm cho pháp của Phật Di Lâu Kiện Đà trở lại thạnh hành, rất nhiều chúng sanh được an trụ trong ấy. Đó là do tâm đại từ bi nguyện hộ Phật pháp từ đời trước của Tỳ Kheo ấy. Đà Ma Thi Lợi đi khắp nơi, từ tụ lạc này đến tụ lạc khác, từ thành này đến thành khác, từ nước này đến nước khác, tuyên nói giảng giải các kinh pháp thâm diệu thanh tịnh nghĩa không nghĩa ly của Phật Di Lâu Kiện Đà và xưng dương ca ngợi công đức của Tam bảo Phật Pháp Tăng. Tỳ Kheo ấy rất được mọi người cung kính tôn trọng cúng dường danh tiếng khắp nơi.

 Làm lợi ích cho rất nhiều người rồi, Đà Ma Thi Lợi mạng chung theo bổn nguyện sanh trở lại nhà vương gia cõi này tên là Đắc Niệm xuất gia trong pháp của Phật Di Lâu Kiện Đà, bấy giờ cách đức Phật ấy diệt độ ba trăm năm. Do bổn nguyện túc mạng trí nên Tỳ Kheo Đắc Niệm tự nhiên lại được các môn cú các đà la ni cũ. Do sức của đà la ni nên các kinh chưa từng nghe mà có thể tuyên nói giảng rộng cho chúng sanh, chẳng giảng nói các kinh pháp đã được nói nơi tiền thân lúc còn là Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi.

 Này Phú Lâu Na! Lúc ấy trong chúng Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi, những người thiện căn sâu dầy trí huệ sáng suốt, nghe kinh pháp của Đắc Niệm nói đều tùy hỷ tin nhận cung kính cúng dường thủ hộ. Những người ngu tối thiện căn mỏng cạn thì chẳng tin trái nghịch bảo rằng: Các kinh ấy chúng tôi chưa nghe Hòa Thượng các Thầy giảng dạy, cũng chẳng nghe Đại Sư Đà Ma Thi Lợi nói.

 Này Phú Lâu Na! Các người có trí huệ sâu y chỉ nơi ý nghĩa mà chẳng theo ngữ ngôn. Và y chỉ nơi ý nghĩa nên chẳng trái nghịch. Vì chẳng trái nghịch nên hộ trì pháp của Phật Di Lâu Kiện Đà và cung kính thủ hộ Tỳ Kheo Đắc Niệm, số này có đến tám mươi na do tha người gồm đủ tứ chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Bấy giờ chia làm hai bộ chúng: Một tên chúng Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi, hai tên chúng Tỳ Kheo Đắc Niệm.

 Tỳ Kheo Đắc Niệm chẳng nói chính mình là Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi. Tại sao, vì mọi người đều cho Đà Ma Thi Lợi chứng quả A La Hán chẳng phải Bồ Tát, còn Tỳ Kheo Đắc Niệm thì mọi người đều gọi là Bồ Tát, nếu tự nói ra sợ mọi người nghi hoặc.

 Lợi ích chúng sanh xong, Đắc Niệm Tỳ Kheo mạng chung theo bổn nguyện sanh lại cõi này nơi nhà Trưởng giả tên là Gia Xá, do bổn nguyện nên nhớ biết túc mạng mới bảy tuổi đã xuất gia tu hành được các đà la ni, bấy giờ là thời kỳ bốn trăm năm sau đức Phật Di Lâu Kiện Đà diệt độ.

 Này Phú Lâu Na! Do sức đà la ni nên Gia Xá có thể vì mọi người giảng thuyết các kinh trước chưa từng nghe. Torng chúng Đà Ma Thi Lợi và chúng Đắc Niệm, những người thiện căn sâu dày nghe pháp của Gia Xá nói đều rất vui mừng được pháp lạc. Những người này y nghĩa chẳng y lời nghe Gia Xá thuyết pháp thâm diệu hiệp đệ nhứt nghĩa liền tin nhận thọ trì đọc tụng y theo tu hành. Còn những Tỳ Kheo ám độn thiện căn mỏng cạn thì chẳng tin mà bảo rằng: Pháp của Gia Xá nói, chúng tôi chưa từng nghe Hòa Thượng các Thầy nói, cũng chẳng nghe Đại Sư Đắc Niệm Bồ Tát dạy.

 Này Phú Lâu Na! Các Tỳ Kheo tin thọ theo pháp của Gia Xá đều bị các Tỳ Kheo chẳng tin thọ trong hai chúng Đà Ma Thi Lợi và Đắc Niệm ganh ghét xa lánh, họ hủy báng là chẳng phải pháp Phật nói, chẳng phải lời Đại Sư dạy.

 Gia Xá Tỳ Kheo rộng truyền pháp của Phật Di Lâu Kiện Đà từ một tụ lạc đến một tụ lạc, từ một thành đến một thành, từ một nước đến một nước, sau đó mạng chung theo bổn nguyện lại sanh vào cung vua cõi này, lúc sanh chư Thiên ở hư không xướng rằng: Vương Tử này sẽ lợi ích lớn cho chúng sanh, do theo lời xướng ấy mà đặt tên cho Vương tử mới sanh là Đạo Sư. Đến năm mười bốn tuổi Vương Tử Đạo Sư xuất gia, bấy giờ là thời kỳ năm trăm năm sau đức Phật Di Lâu Kiện Đà diệt độ. Tỳ Kheo Đạo Sư ấy hiểu biết rộng thông thuộc nhiều kinh sách văn từ thanh biện thuyết pháp rất khéo giỏi. Từ một tụ lạc đến một tụ lạc, từ một thành đến một thành, từ một nước đến một nước, Tỳ Kheo Đạo Sư lưu truyền pháp của Phật Di Lâu Kiện Đà đem lợi ích lớn lại cho nhiều chúng sanh.

 Lúc ấy các chúng Tỳ Kheo Đà Ma Thi Lợi, Đắc Niệm và Gia Xá tụ họp đến chỗ Tỳ Kheo Đạo Sư để huỷ phá.

 Tỳ Kheo Đạo Sư hỏi chúng Tỳ Kheo rằng Chư Tỳ Kheo các Ngài vấn nạn sự gì, dùng sự gì để hỏi, tại sao mà hỏi?

 Chư Tỳ Kheo nghe lời ấy đều ưu sầu chẳng vui nín lặng chẳng đáp được, chẳng làm chướng ngại Đạo Sư được.

 Này Phú Lâu Na! Tùy theo thọ mạng của Bồ Tát Đạo Sư tại thế thì Phật pháp xí thạnh, nếu mạng chung thì Phật pháp diệt. Đạo Sư giáo hóa tám trăm vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề đều được sanh lên các cõi trời.

 Này Phú Lâu Na! Tỳ Kheo Đạo Sư đêm nay mạng chung thì đêm mai pháp diệt. VÌ pháp của Phật Di Lâu Kiện Đà diệt nên kinh pháp thâm diệu nghĩa không nghĩa ly thanh tịnh đều diệt hết.

 Này Phú Lâu Na! Đại Bồ Tát dùng kinh thâm diệu để thủ hộ Phật pháp có thể tự đầy đủ thiện căn công đức.

 Bồ Tát Đạo Sư sau khi mạng chung liền sanh về Phật độ ở thế giới thứ mười tại thượng phương hiện có Phật hiệu Thiện Nhãn Như Lai Đẳng Chánh Giác, liền xuất gia, do thiện căn phước đức đời trước nên trí huệ sáng lẹ, biện tài vô tận vô ngại tu Phật pháp suốt tám vạn bốn ngàn năm, sau khi mạng chung lại sanh gặp đức Phật thứ hai hiệu Nhựt Tăng Kiên Như Lai Đẳng Chánh Giác cũng xuất gia tu các thiện căn cầu Vô thượng Bồ đề, sau khi mạng chung sanh trở lại cõi ấy gặp đức Phật sau rốt hiệu Bất Không Hành Như Lai Đẳng Chánh Giác cũng xuất gia lấy tên là Thủ La trong bảy vạn năm siêng tu thiện căn cầu Vô thượng Bồ đề.

 Đức Phật Bất Không Hành thọ ký rằng: Sau khi ta diệt độ, Tỳ Kheo Thủ La đây sẽ làm Phật hiệu Vô Ngại Nhãn Như Lai Đẳng Chánh Giác.

 Này Phú Lâu Na! Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể đầy đủ tất cả công đức “.

 Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Bồ Tát nghe pháp sâu

 Thanh tịnh diệu quyết định

 Tự mình hay an trụ

 Cũng nói dạy mọi người

 Thế gian chẳng thấu đáo

 Bồ Tát thường thông suốt

 An trụ trong tịnh giới

 Rộng lợi ích chúng sanh

 Bổn sự và thí dụ

 Đem Phật đạo dạy người

 Lời chư Phật nói tuyên

 Đều là pháp quyết định

 Bồ Tát hay tư lợi

 Cũng lợi ích chúng sanh

 Thủ hộ pháp chư Phật

 Dạy Bồ đề cho người

 Việc đúng pháp của người

 Bồ Tát vì họ làm

 Đem Phật đạo dạy người

 Đây thì gần chánh giác

 Hộ trì đạo chư Phật

 Rộng lợi ích chúng sanh

 Chư Thiên Long Quỉ Thần

 Trời Người đều tôn kính

 Thế nên được nghe pháp

 Không thâm tịnh thâm diệu

 Phải nhứt tâm suy tìm

 Thì tăng trưởng trí huệ.

 Lại này Phú Lâu Na! Đại Bồ Tát đầy đủ công hạnh, do công hạnh đầy đủ nên có thể đầy đủ thiện căn phước đức. Những gì là công hạnh? Đó là Bồ Tát gần gũi thiện tri thức tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định trí huệ phương tiện. Những ai là thiện tri thức của Bồ Tát? Đó là chư Phật, chư A La Hán và chư Bồ Tát có thâm tâm cầu Phật đạo mà từ đó Bồ Tát này được nghe các kinh pháp thâm diệu và phương tiện giáo hoá. Các bực ấy đều gọi là thiện tri thức của Bồ Tát.

 Bồ Tát thành tựu pháp thứ tư này thì có thể đầy đủ tất cả công đức “.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

 “Phật nói chư Bồ Tát

 Pháp mà họ phải hành

 Bố thí rồi vui mừng

 Không hề có hối hận

 Vui mừng như thế nào

 Là vui khắp cả thân

 Thường dùng lòng vui ấy

 Mà hành đạo Bồ Tát

 Bồ Tát làm bố thí

 Hồi hướng đạo Bồ đề

 Lợi ích các chúng sanh

 Tự lợi vô biên lượng

 Nếu thấy có người xin

 Lòng tưởng họ như Phật

 Quan niệm người ấy đến

 Ban Phật đạo cho tôi

 Tôi nhơn nơi người ấy

 Thanh tịnh được Phật độ

 Người ấy chỉ bày Phật

 Dạy Phật đạo cho tôi

 Nay tôi gặp người ấy

 Rất được các lợi lớn

 Vui mừng khắp toàn thân

 Chẳng còn vui gì khác

 Nếu có ai đến tôi

 Xa thấy tôi chưa hỏi

 Ngài có cần dùng gì

 Tôi sẽ xin cung cấp

 Nếu họ nói không cần

 Bồ Tát cũng vui mừng

 Vì muốn giáo hoá tôi

 Nên họ nói không cần

 Người ấy đem sở đắc

 Pháp thiểu dục tri túc

 Nay đến khai ngộ tôi

 Khiến được duyên Bồ đề

 Nay tôi nhơn người này

 Lại được dạy pháp lành

 Ngài nói không cần dùng

 Lời ấy tốt lắm vậy

 Nếu họ nói cần dùng

 Vật ấy cấp cho tôi

 Nếu Bồ Tát mà có

 Vui mừng mang trao cho

 Khi đem bố thí rồi

 Sau đó không hề hối

 Do thường niệm Phật đạo

 Nên tâm thường vui mừng

 Bố thí rồi hồi hướng

 Chúng sanh đều có phần

 Khiến đều không chỗ thiếu

 Cho họ được tri túc

 Nếu hành đạo Bồ Tát

 Chúng sanh nghe danh tôi

 Tự nhiên biết thôi đủ

 Chẳng sanh lòng xan tham

 Nay chúng sanh nước tôi

 Thuận đạo đều tri túc

 Bỏ lìa ham ngũ dục

 Đều thích đi xuất gia

 Vô lượng hạnh như vậy

 Bố thí mà hồi hướng

 Nguyện thường làm bố thí

 Chúng sanh bắt chước tôi

 Bồ Tát làm bố thí

 Dùng từ che chở người

 Tất cả các thế gian

 Không có vui như vậy

 Như Trưởng giả giàu lớn

 Nhiều của tiền trân bửu

 Mà chỉ có một con

 Nhiều năm bỏ đi xa

 Trưởng giả nghe con về

 Vui mừng khắp toàn thân

 Cách xa mà nay về

 Cầm bằng sống trở lại

 Bồ Tát thấy người xin

 Trong lòng rất vui mừng

 Còn hơn Trưởng giả mừng

 Cả mười sáu lần hơn

 Nếu làm được bố thí

 Trong lòng rất vui mừng

 Tâm từ sanh vui ấy

 Vui ấy không gì sánh

 Như vua trị người tội

 Truyền chặt gãy tay chân

 Đao phủ đem đi giết

 Cất dao sắp chặt xuống

 Vua tha ban chức cao

 Người tội rất mừng vui

 Vẫn chẳng bằng Bồ Tát

 Bố thí được vui mừng

 Lúc Bồ Tát hành đạo

 Chẳng mong cầu phước điền

 Có ai xin liền cho

 Nên được vui vẻ lớn

 Bồ Tát nếu gặp Phật

 A La Hán Duyên Giác

 Cung kính biết khó gặp

 Nên đến siêng cúng dường

 Bồ Tát có oai đức

 Lòng sáng suốt điều thuận

 Thích công đức cầu đạo

 Cúng dường Phật và chúng

 Chẳng đem lòng cung kính

 Phụng sự các thiên thần

 Chỉ kính cúng chư Phật

 Và chư Phật đệ tử

 Nếu có Bích Chi Phật

 Tự nhiên đắc Niết bàn

 Cũng đến kính cúng dường

 Có những công đức ấy

 Bồ Tát cũng biết được

 Phước điền thiện bất thiện

 Những người trí thế gian

 Chẳng kính ngoại đạo ác

 An trụ giữa giới phẩm

 Từ tâm giúp chúng sanh

 Tinh tấn không ai bằng

 Nhẫn trí đa văn rộng

 Làm các công đức ấy

 Bực cao tôn thế gian

 Hay chứng Phật Bồ đề

 Chuyển pháp luân vô thượng

 Bồ Tát hay tu hành

 Đủ bốn pháp như trên

 Tất cả các thiện căn

 Thảy đều được đầy đủ

 Vô lượng ức số kiếp

 Đã tu các công đức

 Đều nhiếp vào đây cả

 Là đạo Bồ Tát tu

 Thế nên chư Bồ Tát

 Phải thường tu tâm từ

 Xuất gia ở núi rừng

 Thích ở chỗ rảnh vắng

 Thường cầu pháp thanh tịnh

 Thậm thâm diệu quyết định

 Bồ Tát hạnh đầy đủ

 Do đây được tăng trưởng”.

PHẨM THẦN THÔNG LỰC THỨ NĂM

 Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng sức thần thông, từ mỗi mỗi lỗ lông trên thân đều phóng ra trăm ngàn vạn ức tia sáng, từ mỗi lỗ lông lại đều phát ra ngọn lửa mạnh lớn như núi Tu Di, từ mỗi lỗ lông lại đều xuất hiện hằng sa chư Phật thuyết pháp. Toàn hội đại chúng đều thấy khắp cả thần thông lực rộng lớn ấy.

 Hiện thần lực xong, Đức Thế Tôn nhiếp lại như cũ bảo Huệ Mạng Phú Lâu Na rằng: “Ông có thấy đức Như Lai từ các lỗ lông xuất hiện thần lực như vậy chăng?”.

 -Bạch Đức Thế Tôn! Đã được thấy.

 -Này Phú Lâu Na! Đức Như Lai thường có thần lực như vậy không lúc nào thôi bỏ. Khiến các đệ tử chỉ thấy biết đức Như Lai ở tại đây thuyết pháp. Mà Như Lai thiệt thường làm Phật sự ở hằng sa thế giới mười phương. Không lúc nào thôi bỏ, cùng thường thuyết pháp ở các thế giới mười phương.

 Này Phú Lâu Na! Nếu có người nói lời chơn thiệt: Ai là Vô đẳng dẳng là người vô tỷ tròn đủ phước trí là phước điền vô thượng, rất sâu khó lường, công hạnh vô biên, cất một bước chân tất cả chúng sanh chẳng biết được, chẳng suy lường được tâm gì hạnh gì dở chưn hạ chưn? Nên nói chính là đức Phật đây vậy.

 Này Phú Lâu Na! Tất cả chúng sanh chẳng thể suy lường được đức Như Lai do nghĩ gì tâm gì làm gì mà dở chưn hạ chưn.

 Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Đức Phật do nghĩ gì

 Làm gì dở hạ chưn

 Chúng sanh động bất động

 Đều chẳng thể biết được

 Thần thông lực vô lượng

 Chỗ làm cũng vô lượng

 Vì công đức vô lượng

 Nên cao tôn đệ nhứt

 Trí huệ lớn vô lượng

 Không ai biết hết được

 Giả sử tất cả người

 Trí huệ thần thông lực

 Đều như Xá Lợi Phất

 Và giống Đại Mục Liên

 Cũng chẳng biết được Phật

 Dở chưn và hạ chưn

 Dầu cho tất cả người

 Đều làm Bích Chi Phật

 Chẳng hiểu Phật một bước

 Huống là thâm pháp khác

 Giả sử vô lượng nhựt

 Hiệp làm một mặt nhựt

 Sáng chẳng bằng tia sáng

 Một lỗ lông của Phật

 Giả sử bảy vạn ức

 Na do tha thế giới

 Mặt nhựt ngang rộng bằng

 Chiếu sáng vô lượng cõi

 Các mặt nhựt lớn ấy

 Số nhiều như hằng sa

 Hiệp làm một mặt nhựt

 Tia sáng bằng Tu Di

 Các mặt nhựt lớn ấy

 Thường chiếu mười phương cõi

 Đem sánh ánh sáng Phật

 Luốt mất như than đen

 Áng sáng các mặt nhựt

 Chẳng thấu qua lá cây

 Núi sông và vách đá

 Đều có thể chướng ngại

 Tia sáng của Như Lai

 Tất cả núi Tu Di

 Núi Thiết Vi Kim Cương

 Chiếu thấu qua không chướng

 Quang minh thần thông lực

 Oai đức đều vô lượng

 Ai thấy chẳng phát tâm

 Chỉ trừ kẻ bất tín

 Chúng sanh thấy quang minh

 Thần thông lực của Phật

 Nhiều phát tâm vô thượng

 Nguyện tôi cũng sẽ được

 Bấy giờ Phật mỉm cười

 An Nan liền quỳ thưa

 Thế Tôn cớ sao cười

 Xin xót thương giải đáp

 Đức Phật bảo An Nan

 Nay chúng sanh thấy Phật

 Hiện thần thông lực lớn

 Phát tâm nguyện làm Phật

 Có đến ba vạn người

 Nguyện hộ trì Phật pháp

 Sau khi Phật diệt độ

 Chúng tôi tụng kinh này

 Những người ấy đời sau

 Được nghe kinh pháp này

 Thời giữa và thời sau

 Nghe rồi làm đúng pháp

 Người phát đạo tâm khó

 Sâu ưa Phật pháp khó

 Đời sau hay tụng trì

 Các kinh này càng khó

 Ngàn vạn ức số kiếp

 Phật xuất thế rất khó

 Trong đời mạt sau này

 Nói kinh này khó hơn”.

 Đức Phật bảo ngài A Nan: “Phật đem kinh này giao phó cho ông lần nữa. Tại sao, vì trong Diêm Phù Đề tùy theo chỗ nào có kinh Bồ Tát Tạng như vậy thì chỗ ấy có Phật pháp.

 Này A Nan! Vì các kinh thâm diệu như vậy nên pháp như thuyết hành cũng diệt. Vì pháp như thuyết hành diệt nên Phật pháp diệt.

 Này A Nan! Nay ông nên đem đồ cúng dường đệ nhứt dâng cúng lên Phật.

 Thế nào là hàng đệ tử đem đồ cúng dường đệ nhứt dâng cúng lên Phật? Ông chớ cho là những hoa đẹp hương tốt phan lọng chuỗi ngọc y phục kỷ nhạc ca tụng Như Lai là đệ nhứt cúng dường lên Phật.

 Nếu có người được nghe kinh pháp thâm diệu như vậy thọ trì đọc tụng làm đúng như lời thì gọi là đem đồ cúng dường đệ nhứt dâng cúng cung kính tôn trọng ca tụng đức Phật.

 Tại sao? Vì chư Phật đều cùng cúng dường cung kính tôn trọng nơi pháp mà chẳng quí đồ cúng dường thế gian.

 Này A Nan! Thế nên nay đức Phật đem kinh pháp này trịnh trọng ân cần giao phó cho ông.

 Này A Nan! Đức Phật do học các kinh như vậy mà nay được Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân vô thượng.

 Chư Phật quá khứ, lúc hành Bồ Tát đạo cũng học các kinh như vậy mà được Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân vô thượng.

 Vị lai chư Phật cũng học các kinh như vậy mà được Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân vô thượng

 Hiện tại chư Phật ở mười phương thế giới thuở tu Bồ Tát đạo cũng học các kinh pháp như vậy mà được Vô thượng Bồ đề hiện nay chuyển pháp luân vô thượng.

 Này A Nan! Vì lẽ ấy nên kinh Bồ Tát Tạng này gọi là kinh chuyển pháp luân, phải nên phụng trì.

 Này A Nan! Ngày trước ở nước Ba La Nại núi Lê Sư trong Lộc Viên, Phật chuyển pháp luân cho hàng Thanh Văn đệ tử. Nay ở tại Trúc Viên này, Phật chuyển kinh Bồ Tát Tạng pháp luân bất thối chuyển dứt nghi cho tất cả chúng sanh.

 Này A Nan! Quá khứ chư Phật cũng đều ở tại địa phận hư không này mà nói kinh Bồ Tát Tạng này.

 Vị lai chư Phật cũng sẽ đều ở tại địa phận hư không này nói kinh Bồ Tát Tạng này.

 Nay đức Phật Vô thượng Bồ đề cũng ở tại địa phận hư không này nói kinh Bồ Tát Tạng này.

 Vì thế nên biết chỗ địa phận này là tháp lớn của Phật, là chỗ cúng dường của Trời Người.

 Này A Nan! Chỗ địa phận này riêng có công đức bất cộng, đó là quá khứ chư Phật nói kinh thâm diệu tại đây.

 Này A Nan! Bao nhiêu chúng sanh tham dục sân hận ngu si khi vào Trúc Viên này thì chẳng phát sanh tham sân si. Đức Như Lai dâù cũng có ở các tinh xá khác mà những nơi ấy không có công đức như vậy. Tại sao? Này A Nan! Nay các rừng trúc Ca Lan Đà này, súc sanh nào vào đây thì chẳng phát dâm dục, các chim vào đây chẳng kêu hót phi thời.

 Đại Vương Bình Sa nước Ma Kiệt ngày xưa lúc đăng vị cùng các thể nữ vào trong vườn này để cùng vui, lúc vào rồi nhà vua tự cảm thấy lòng mình không có ý dục chẳng thích các sự vui đùa, chúng thể nữ cũng đều tự cảm thấy không lòng tham dục vui đùa.

 Bấy giờ nhà vua vui mừng luôn thầm nguyện rằng: Cầu mong thế gian có Phật xuất thế tại nước tôi, tôi sẽ được thấy, thấy rồi kính tin, tin rồi cúng dường. Tôi sẽ đem vườn trúc này dâng lên Phật. Phật sẽ ở trong đó, tôi sẽ được nghe pháp. Tại sao? Vì chỉ có bực đáng cúng dường mới nên ở tại vườn này, chẳng phải người ngũ dục nên ở.

 Này A Nan! Vua BÌnh Sa vào vườn này phát tâm nguyện lành như vậy đều do quá khứ chư Phật ở trong vườn này nói kinh Bồ Tát Tạng. Vì thế nên công đức của vườn này chẳng cùng hàng với các nơi khác. Vườn này tất cả Trời Người Bát Bộ đều nên lễ kính.

 Này A Nan! Vườn này không có ruồi muỗi độc trùng rắn rít đốt cắn. Nếu nó có ở nơi đây thì chẳng còn tâm độc. Đây cũng là công đức bất cộng của Trúc Viên.

 Dầu cả trăm năm, đức Phật khen nói công đức của Trúc Viên cũng không hết. Nay Trúc Viên này thành tựu vô lượng công đức, nơi khác không có”.

 Ngài A Nan bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Tôi vốn chẳng biết Trúc Viên này có công đức như vậy.

 Bạch Thế Tôn! Trước kia tôi chẳng muốn làm thị giả Phật, nay tôi sám tạ tội lỗi ấy”.

 Đức Phật bảo A Nan: “Lúc ông mới được pháp nhãn thanh tịnh ở các pháp thì đã trừ dứt tội ấy rồi”.

PHẨM ĐẠI BI THỨ SÁU

 Bấy giờ Ngài Đại Mục Kiền Liên suy nghĩ rằng: Đức Thế Tôn hi hữu. Đức Thế Tôn thành tựu đại bi như vậy hay khéo giải thuyết sự việc của chư Bồ Tát. Tại sao? Bởi Chư Bồ Tát đầy đủ tu tập Phật pháp vì vô sanh diệt mà khai thị giác ngộ các chúng sanh.

 Đức Phật biết chỗ suy nghĩ của Đại Mục Kiền Liên nên bảo Ngài rằng: “Đúng như vậy, này Đại Mục Kiền Liên! Chư Phật thành tựu tâm đại bi, nếu hàng đệ tử của ta nghe nói đầy đủ nghĩa đại bi ấy thì chắc chắn tâm sẽ mê loạn không còn vui thích gì nữa. Này Đại Mục Kiền Liên! Đừng nói đại bi của Như Lai, nếu Phật tự thuật đại bi được có lúc Phật làm Bồ Tát, ông nghe cũng sẽ mê muộn không còn vui thích gì nữa”.

 Ngài Đại Mục Kiền Liên bạch rằng: “Lành thay Đức Thế Tôn! Xin nói chút ít phần đại bi thuở đức Phật làm đạo Bồ Tát”.

 Đức Phật bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên: “Nay ông lắng nghe, khéo nhớ và thọ trì sẽ vì ông mà nói chút ít phần đại bi lúc làm đạo Bồ Tát. Sẽ dùng thí dụ để giải thuyết nghĩa ấy. Thuở trước lúc tu Bồ Tát đạo thật hành đại bi nói chẳng hết được. Mà đại bi ấy y chỉ nơi bốn sự. Những gì là bốn?

 Đại bi ấy của Bồ Tát, theo chỗ an trụ nơi đại bi Bồ Tát hay tu tập Phật pháp, gọi là đại bi.

 Trước kia Phật có đại bi như vậy, có đại nguyện như vầy: Bao nhiêu chúng sanh bị khổ não nơi a tì địa ngục, nơi hỏa nhiệt đại địa ngục, nơi hàn băng đại địa ngục, tôi thường thay thế các chúng sanh ấy mà chịu khổ trong các đại địa ngục, cho đến lúc tội xong hết chịu các sự khổ, lòng tôi không hề hối hận.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Nếu có các chúng sanh do nhơn duyên ấy mà đắc độ, ta có thể thay thế tất cả khiến các chúng sanh ra khỏi đại địa ngục, ta thay thế họ chịu khổ, một lần vào địa ngục làm mãn hết tội nghiệp của các chúng sanh trong ấy, lúc bấy giờ lòng ta không hề lo buồn ăn năn.

 Thuở ấy, ta phát đại nguyện tinh tấn như vậy rồi tìm hỏi các bực trí huệ, đó là chư Phật và hàng đệ tử Phật có được đạo lý nhơn duyên thay thế chúng sanh chịu khổ như vậy mà làm cho các chúng sanh ra khỏi địa ngục chăng?

 Các bực trí huệ nghe ta hỏi, đều vì ta mà tán thán nói về đa văn sâu phát tâm Bồ đề Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, khen nói sự gần gũi thiện tri thức.

 Được nghe lời khen dạy ấy, ta phát đại tinh tấn. Vì cầu Phật pháp nên ta phát đại nguyện cầu được thành tựu pháp lớn của chư Phật, siêng tu tinh tấn đầy đủ các Ba la mật, thật hành sâu về hạnh nhẫn nhục.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở trước ta thật hành sâu về hạnh nhẫn nhục thế nào? Lúc làm Bồ Tát ta phát tâm như vầy: Bao nhiêu chúng sanh ở mười phương, hoặc có sắc hay không sắc, hoặc có tưởng hay không tưởng, hoặc phi hữu tưởng phi vô tưởng, giả sử các chúng sanh ấy đều được thân người đều đến chỗ ta mà nói rằng: Ông phát tâm Vô thượng Bồ đề, chúng ta phần đông thiếu thốn ngũ dục lạc, thiếu những đồ cần để sống, nếu ông chẳng cung cấp đủ cả cho tất cả chúng tôi thì ông chẳng được Vô thượng Bồ đề.

 Vì chẳng được vừa ý nên các chúng sanh ấy đều ác khẩu mắng nhiếc chửi rủa và dùng dao gậy ngói đá gia hại thân ta, lúc ấy ta chẳng nên giận hờn, chẳng nên hối hận. Ta phải tự điều phục tâm mình như vầy: Các chúng sanh ấy ngu si chẳng biết sanh khởi nghiệp ngu si. Nếu đối với các chúng sanh ngu si ấy mà ta khởi giận hờn thì có khác gì họ là chẳng nhập đạo.

 Nay ta nhập đạo lành nơi các chúng sanh ấy lãnh nhận sự khổ chẳng khởi sân nghiệp, lòng ta phải như mặt đất bình đẳng hứng chịu các thứ tốt xấu.

 Thuở trước ta sâu thật hành nhẫn nhục như vậy.

 Lại này Đại Mục Kiền Liên! Từ lâu ta thường xem tất cả chúng sanh như con một.

 Như trưởng giả giàu lớn tu trăm hạnh trai giới cầu sanh được một con trai rất cưng yêu không biết chán đủ. Trưởng giả ấy đối với con trai thường cầu sự tốt, thường cho sự tốt, thường ban lợi ích, chẳng để suy não.

 Cũng vậy, này Đại Mục Kiền Liên! Từ lâu ta đối với các chúng sanh thường xem như con một, thường vì các chúng sanh mà cầu sự tốt để lợi ích cho họ chẳng để suy não.

 Với các chúng sanh thất đạo, các chúng sanh tà đạo, ta chỉ dạy họ chánh đạo khiến họ an trụ trong chánh đạo.

 Do cớ ấy nên biết rằng đức Như Lai từ lâu đối với các chúng sanh rất thương nhớ họ xem họ như con một.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở quá khứ có đoàn người đi buôn ban đêm lạc đường, vì đêm tối nên chẳng biết phải đi hướng nào đều nói rằng: Chúng ta lạc đường không ai cứu không chỗ về không nơi y chỉ, có ai hoặc Trời hoặc Rồng hoặc Thần hoặc Nhơn, Phi Nhơn dẫn dắt chúng tôi giữa đêm tối đến đường chánh, ai có thể thương xót làm lợi ích chúng tôi, làm ánh sáng cho chúng tôi giữa đêm tối tăm nơi đường hiểm này.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Bấy giờ trong rừng vắng có tiên nhơn ở thảo am giữa đêm nghe đoàn người buôn kêu than ai oán tự nghĩ rằng: Giữa đêm tối nới rừng vắng này đoàn người bị lạc đường nếu ta chẳng cứu họ thì chẳng phải. Hoặc họ sẽ bị các ác thú giết hại. Nghĩ xong tiên nhơn kêu to bảo các người buôn rằng: Các người chớ sợ, tôi sẽ cứu các người, tôi sẽ làm ánh sáng chỉ con đường chánh.

 Kêu gọi an ủi đoàn người buôn xong, tiên nhơn ấy lấy áo lông bó quấn hai tay nhúng đầy dầu rồi châm lửa đốt làm đuốc sáng chỉ đường cho đoàn người buôn. Mọi người thấy vậy đều nghĩ rằng: Nay tiên nhơn này thật hi hữu vì cứu chúng ta mà chẳng tiếc thân mạng.

 Lúc tiên nhơn dùng ánh sáng nơi hai cánh tay chỉ đường cho đoàn người buôn xong, đối với các chúng sanh lòng từ bi càng tăng thêm nguyện rằng: Lúc tôi được Vô thượng Bồ đề, với chúng sanh tà đạo, tôi sẽ làm ánh sáng pháp dạy họ chánh đạo.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở quá khứ ấy dầu đốt hai tay mà thân tâm ta chẳng biến đổi. Tại sao? Vì thâm tâm của Bồ Tát ở nơi sự lợi ích cho người chẳng tham tiếc thân mạng, do nhơn duyên dùng tâm thanh tịnh bố thí nên hai cánh tay bình phục như cũ chẳng có thương tích. Đoàn người buôn được đường chánh đến sáng thấy hai cánh tay tiên nhơn không bị thương tích liền sanh ý tưởng hi hữu: Nay tiên nhơn này có đại thần lực, suốt đêm đốt hai cánh tay soi sáng cho chúng ta được con đường chánh mà cả hai tay đều không bị thương tích, chắc chắn đã nên hạnh lớn, chắc chắn có đức lớn. Họ thưa tiên nhơn rằng: Lành thay đại tiên, có thể làm khổ hạnh khó làm đệ nhứt, nay dùng công hạnh này Ngài muốn nguyện điều chi?

 Tiên nhơn nói với đoàn người buôn: Do sự việc này ta nguyện khi được Vô thượng Bồ đề rồi sẽ độ các người ra khỏi khổ s? sanh tử, với chúng sanh tà đạo sẽ vì họ mà nói chánh đạo.

 Đoàn người buôn đều rất vui mừng thưa rằng: Chúng tôi nên dùng gì để báo đáp ơn đức của Ngài?

 Tiên nhơn bảo: Các người nên chuyên làm điều lành chớ có phóng dật.

 Đoàn người buôn đồng thưa: Kính nghe lời dạy. Họ đều vui mừng cung kính từ biệt mà đi.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở quá khứ ấy, tiên nhơn đốt hai cánh tay làm đuốc sáng soi đường chính là thân ta, còn đoàn người buôn này là ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo vậy.

 Từ lâu đức Như Lai đối với chúng sanh sợ hãi thì bố thí vô uý cho họ. Đối với chúng sanh tà đạo thì chỉ con đường chánh. Với chúng sanh không mắt sáng thì khiến họ được mắt thanh tịnh. Với chúng sanh bệnh nặng thì chữa trị cho lành. Do duyên cớ ấy nên phải biết rằng Như Lai từ lâu thường đối với các chúng sanh rất có lòng đại bi.

 Lại này Đại Mục Kiền Liên! Quá khứ xa xưa, trong Diêm Phù Đề này đến kiếp bịnh tật lớn, khắp nơi chúng sanh bị bịnh lớn làm khổ. Bấy giờ vua Diêm Phù Đề tên Ma Ha Tu Na có tám vạn bốn ngàn đại thành, vua có oai thế tự tại. Phu nhân lớn nhất mang thai, nếu lấy tay chạm đến ai thì người ấy liền lành bệnh. Đầy tháng sanh con trai. Vừa sanh xong hoàng nam ấy liền cất tiếng nói: Tôi có thể chữa trị các người bịnh. Lại lúc sanh, trong Diêm Phù Đề chư Thiên quỉ thần đều xướng lời rằng: Hoàng nam được sanh đây là nhơn dược. Vì âm thanh ấy vang khắp nơi, mọi người đều nghe nên đặt tên là Nhơn Dược.

 Người thời ấy đều tuần tự mang bịnh nhơn đến cho Vương Tử điều trị. Khi bịnh nhơn đến, Vương Tử hoặc tay chạm thân đụng thì bịnh liền lành an ổn khoái lạc.

 Trong ngàn năm Vương Tử Nhơn Dược trị bịnh cho mọi người, sau đó mạng chung. Các người bịnh đến hay tin Vương Tử đã chết đều buồn rầu khóc than: Ai là người cứu khổ chúng tôi. Họ tìm đến chỗ thiêu thi hài lấy tro xương tán mịn thoa lên thân tất cả bịnh liền lành. Họ đồng xướng to rằng tro tàn của thi hài Vương Tử Nhơn Dược còn có thể trị lành bệnh. Khi đã dùng hết tro xương, mọi người lấy đất chỗ thiêu thi hài thoa lên thân bịnh cũng được lành.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Vương Tử Nhơn Dược thuở xưa dùng phương tiện trị bịnh cho người ở kiếp đại bịnh ấy chính là thân ta vậy.

 Đối với các chúng sanh bịnh tật không ai cứu không chỗ y tựa, ta cứu trị cho họ. Nay ta được Vô thượng Bồ đề cũng dùng thuốc đại trí huệ chữa trị cho các chúng sanh cứu cánh hết khổ. Ta vì chúng sanh mà thọ thân, tùy theo sự gì có thể lợi ích cho họ thì làm lợi ích.

 Lại này Đại Mục Kiền Liên! Quá khứ xa xưa ta từng di một mình, có ác thú đến muốn ăn thịt. Lúc sắp chết lòng ta phát nguyện rằng: Sau khi chết tôi sẽ sanh trong rừng vắng này làm thân thú lớn, sẽ làm cho các ác thú sát hại tôi đều được no đủ. Tại sao, vì các ác thú thường bắt giết các thú nhỏ ăn mà chẳng được no đủ.

 Sau khi chết ta liền sanh làm thân thú to lớn ở tại rừng hoang vắng ấy cho các ác thú uống máu ăn thịt, tất cả đều được no đủ. Như vậy lần lượt đến trăm ngàn vạn ức na do tha đời ấy ta cố ý thọ thân để làm lợi ích các chúng sanh.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Nếu ta tự nói lúc hành đạo Bồ Tát đem thịt máu nơi thân mà bố thí cho chúng sanh được no đủ, dầu nói đến cả một kiếp hay dưới một kiếp cũng chẳng hết.

 Với các chúng sanh khổ não ta sanh lòng đại bi làm lợi ích cho họ như vậy.

 Lại này Đại Mục Kiền Liên! Quá khứ xa xưa ta nhớ thân trước của ta thấy các chúng sanh khổ não nên nghĩ rằng: Nay tôi chẳng nên bỏ họ mà chẳng cứu. Liền đến chỗ họ mà hỏi họ có sự khổ gì có cần muốn gì? Họ đáp: Chúng tôi rất đói khát. Hỏi: cần thứ gì để ăn uống? Họ đáp: Nay chúng tôi chỉ muốn uống máu ăn thịt. Nếu có thể đem thân máu thịt cho chúng tôi ăn uống thì chúng tôi rất sung sướng không còn đau khổ nữa. Lúc ấy ta hứa cho và liền cắt thịt hứng máu cho họ ăn uống. Lòng ta chẳng hề hối hận chẳng sầu chẳng mê, chỉ suy nghĩ rằng: Nay tôi cắt thịt cũng sứt được phần khổ sanh tử cho họ. Tôi sẽ mãi mãi vui thích bố thí như vậy. Bố thí như vậy rồi ta rất vui sướng.

 Do duyên cớ ấy mà biết rằng Như Lai đối với các chúng sanh có lòng đại bi rất sâu vậy.

 Lại này Đại Mục Kiền Liên! Ta nhớ thuở quá khứ có Quốc Vương tên Đại Lực có đức lớn thiện căn dầy. Nhà vua ấy nghĩ rằng: Nay ta sao chẳng lập hội đại thí tha hồ kẻ đến cầu xin: cần ăn cho thức ăn, cần uống cho thức uống, cần y phục cho y phục, cần ngọa cụ cho ngọa cụ, cần thuốc men cho thuốc men, cần vàng bạc thất bửu của cải đều cấp cho cả, đến tôi trai tớ gái xe cộ voi ngựa bò dê ruộng đất sản nghiệp hương hoa phan lọng lục vải cũng đều cung cấp đủ.

 Bấy giờ Thiên Đế Thích nghĩ rằng: Sao ta chẳng làm sự chướng ngại cho vua ấy chẳng trọn bố thí. Liền hóa làm Bà La Môn đến hỏi vua Đại Lực rằng nay hội thí này bố thí thứ chi? Vua đáp: Tôi có thứ gì đều bố thí cả chẳng hối tiếc. Bà La Môn hỏi: Chí nguyện của nhà vua như vậy, nay tôi có chỗ muốn cầu xin, có cho được chăng? Vua đáp: Tôi đã nói có gì đều cho cả. Bà La Môn nói: Nhà vua đã bảo như vậy, nay tôi cần từng phần thân của vua. Đại Lực Vương nghĩ rằng: Bà La Môn này chẳng cần của tiền đồ vật mà muốn phá sự đại thí này. Nếu ta chẳng đem thân phần của ta để cho ông ấy thì chính ta tự phá hội đại thí. Suy nghĩ xong, vua bảo Bà La Môn: Tôi cho người thân phần của tôi, người cứ chặt lấy mang đi. Bà La Môn hỏi: Nhà vua nói như vậy mà chẳng hối hận ư? Vua nói: Lòng tôi chẳng hối tiếc. Chỉ vì hôm nay có nhiều người từ bốn phương đến xin tôi đều phải cung cấp cho họ được đầy đủ. Bà La Môn nói: Nay một mình tôi còn chẳng đầy đủ luận chi đến người khác. Bấy giờ vua Đại Lực cầm dao bén tự chặt đứt cánh tay cho Bà La Môn nói rằng: Người nên lấy một cánh tay này.

 Lúc chặt cánh tay, vua Đại Lực không động tâm không hối hận, vì nhứt tâm bố thí và vì hay xả bỏ tất cả nên cánh tay vua bình phục như cũ. Thiên Đế Thích do duyên cớ ấy mà mất hết phước trời lòng nóng đốt khổ não kêu la, hiện thân sa vào đại địa ngục A Tỳ.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở xưa ấy vua Đại Lực đem thân mình bố thí chính là thân ta. Còn Thiên Đế Thích muốn chướng ngại hội đại thí là thân trước của Điều Đạt vậy.

 Thuở xưa ấy, Điều Đạt si nhơn lòng ganh tị muốn phá hội đại thí của ta mà chẳng phá được rồi bị đọa địa ngục A Tỳ. Ngày nay ta được Vô thượng Bồ đề lập đại pháp thí, Điều Đạt si nhơn vẫn còn ganh tị tham lợi dưỡng cùng người hiệp mưu muốn giết ta. Trong lúc ta kinh hành dưới núi Kỳ Xà Quật, Điều Đạt trèo lên núi dùng cơ quan xeo lăn đá khối tự phá căn lành của mình sanh lòng ác đối với ta mà phải mất lợi dưỡng thế lực tôn quí đọa vào đại địa ngục A Tỳ.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Đối với Điều Đạt si nhơn từ nào ta không có thân khẩu ý ác, mà ông ấy mãi oán thù ta, đời đời muốn chướng ngại sự tu tập hạnh lành của ta, nhưng vẫn chẳng chướng ngại được. Ta thường lấy đức từ bi ban bố mà vẫn chẳng khiến được ông ấy có tình thân với ta. Điều Đạt đời đời chẳng biết ơn ta, cũng chẳng biết ơn Trời Người thế gian. Người như vậy thì nhập vào hạng tà định

.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Sau này lúc sắp vào địa ngục A Tỳ, đối với ta mới sanh lòng tốt sâu chắc, đó cũng lá do sức oai thần của Như Lai.

 Lúc sắp sa vào địa ngục A Tỳ, Điều Đạt si nhơn chẳng biết ơn ấy nghe có tiếng gọi to rằng: Điều Đạt si nhơn giận thù đức Phật, nơi đấng chẳng thể giết hại được mà muốn ngang khởi nhơn duyên giết hại, do tội ấy nên nay sa vào đại địa ngục A Tỳ.

 Nghe lời xướng to ấy, Điều Đạt rất đỗi kinh sợ, lòng liền điều phục mà nói rằng: Nay tôi đem cả cốt tủy nhứt tâm quy mạng nơi Phật. Kêu lớn như vậy xong, lòng Điều Đạt liền được an vui kính tin nơi Phật, liền sa vào địa ngục A Tỳ. Do duyên lành ấy, sau này khi ra khỏi địa ngục được sanh trong loài người xuất gia tu hành thành Bích Chi Phật hiệu là Cốt Tủy.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Nay Phật thọ ký cho Điều Đạt được làm Bích Chi Phật rồi thì đã thoát khổ sanh tử. Ta độ cho Điều Đạt như bổn nguyện của ta. Đời trước ta muốn độ Điều Đạt mà bảo rằng: Ta sẽ độ ngươi mà không độ ai khác.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Điều Đạt chỉ ở chỗ ta mà gieo nhơn duyên Niết bàn chớ chẳng gieo chỗ khác. Từ đây về sau Điều Đạt cũng chẳng ở chỗ khác trồng căn lành mà chỉ ở chỗ ta phát lòng tin thanh tịnh nói rằng quy mạng Phật. Do nhơn duyên căn lành này nên ngày sau sẽ được đạo Bích Chi Phật.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Ta thường từ lâu thương nhớ chúng sanh như cha mẹ thương nhớ con một, thương họ côi cút nghèo cùng không có tài vật, qua lại sanh tử ác đạo hiểm nạn ngu si vô trí mù lòa không con mắt, ai dắt đường họ, ai hay cứu họ, chỉ có một mình Phật phải dắt cứu họ.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Ta nghĩ tưởng như vậy rồi, nếu có chúng sanh ác khẩu mắng ta ta chẳng mắng lại, trách chửi ta ta chẳng chửi lại, giận thù ta ta trọn chẳng giận lại. Tại sao? Vì đối với tất cả chúng sanh ta phải thường ban cho an vui trọn vẹn, phải thường trừ dứt tất cả khổ não suy loạn mà chẳng nên làm khổ làm não họ. Đối với các chúng sanh ấy, ai có thể nhẫn nhịn, chỉ có ta hay nhẫn nhịn. Nay ta phải học pháp chúng sanh nhẫn, pháp thiện tịch diệt, pháp nhu hòa thuận, phải như voi chúa điều phục chớ chẳng như voi chẳng điều phục. Ví như voi chúa điều phục lúc vào chiến trận lòng chẳng thối khuất có thể chịu được tiếng trống tiếng loa tiếng sừng tiếng hô to, nghe các thứ tiếng ghê rợn ấy chẳng kinh chẳng sợ, có thể chịu đựng được lạnh nóng muỗi mòng độc trùng gió mưa đói khát, có thể chịu được vết thương vì đao kiếm cung nỏ roi gậy mà xông thẳng vào trận chiến chẳng lui chẳng khuất. Voi lớn điều phục ấy chẳng có ý nghĩ ta chẳng xông vào được trận giặc mà nó chỉ nghĩ ta sẽ thắng giặc.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Lúc ta hành đạo Bồ Tát phát tâm nguyện lớn cũng như vậy, đối với các chúng sanh ta điều phục tâm mình. Nếu có ai ác khẩu chửi mắng ta chẳng mắng lại, họ giận thù đánh giết tranh giành ta đều chẳng báo oán. Ta luôn chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề cũng chẳng phân biệt sự này chịu được sự kia chẳng chịu được, đây nên thân cận, kia chẳng nên thân cận. Trong tất cả sự không lo sầu không hối hận không giận hờn. Lòng không hề chán rời sự Bồ Tát, chẳng bao giờ có ý nghĩ ta chẳng vào được trận giặc lớn ma chướng phiền não, mà chỉ nghĩ rằng ta có thể phá tan trận giặc ác to lớn để được Vô thượng Bồ đề hầu cứu độ vô lượng chúng sanh trong tam giói sanh tử khổ. Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở ta làm đạo Bồ Tát trước kia, ta tu hành nhẫn nhục, bao nhiêu sự từ bi đối với chúng sanh, nếu dùng lời để nói thì không thể hết được.

 Lại này Đại Mục Kiền Liên! Quá khứ xa xưa có ngoại đạo tên Nhẫn Lực thọ pháp như vầy: Với các chúng sanh tôi chẳng sanh lòng giận hờn.

 Bây giờ có ma tên Ác Ý nghĩ rằng nay ta sẽ đến chỗ tiên nhơn phá hoại pháp nhẫn nhục khiến sanh sân hận hư mất tâm nhẫn nhục. Ma liền sai ngàn người mắng chửi giỏi đến vây quanh tiên nhơn buông lời ác chửi mắng, lúc đi cũng mắng, vào tụ lạc cũng mắng, lúc ăn cũng mắng, ăn xong cũng mắng, đứng dậy cũng mắng, ra khỏi tụ lạc cũng mắng, về đến rừng cây chỗ cư ngụ cũng mắng, lúc đứng lúc ngồi nằm lúc kinh hành đều mắng chửi, cho đến thở ra thở vào cũng mắng, luôn theo mắng chửi không lúc nào nghỉ. Ngàn ngưòi do ma sai khiến ấy mắng chửi suốt tám muôn bốn ngàn năm, còn ma Ác Ý lúc tiên nhơn vào tụ lạc nó tự lấy cứt đái đổ lên đầu lên bát lên y lên thân của tiên nhơn.

 Tiên nhơn Nhẫn Lực dấu bị mắng nhục cả tám vạn bốn ngàn năm mà lòng chẳng hề giận hờn, chẳng hề có quan niệm lui bỏ hạnh tu, chẳng tự nói tôi có tội lỗi gì, cũng chẳng dùng ác nhãn nhìn ngó kẻ ác.

 Sau tám vạn bốn ngàn năm vây quanh mắng chửi tiên nhơn Nhẫn Lực, ngàn người giỏi mắng ấy biết chẳng phá hoại được nên sanh lòng tin thanh tịnh sám hối trừ tội và thưa rằng: Ngài tu tập cầu được pháp gì chúng tôi cũng nguyện được pháp ấy. Họ cung kính cúng dường tôn trọng khen tặng tiên nhơn. Được cung kính cúng dường, Nhẫn Lực cũng chẳng sanh lòng tham ái.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Tiên nhơn Nhẫn Lực thuở xưa chính là thân ta. Thuở ấy ta tu pháp nhẫn nhục, ma Ác Ý sai sai ngàn người mắng chửi làm nhục suốt tám vạn bốn ngàn năm cũng chẳng khiến lòng ta đổi khác được. Ngàn người giỏi mắng sau khi hối hận sanh lòng tin sám hối tội lỗi theo học tiên nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, an trụ trong Phật pháp. Ngàn người ấy đầy đủ sáu Ba la mật thứ đệ thành Phật đều đã nhập vô dư Niết bàn rồi. Còn ma Ác Ý ấy chính là Điều Đạt vậy.

 Lại này Đại Mục Kiền Liên! Ta nhớ đời quá khứ tự đem thân bố thí cho chúng sanh vì người đời mà làm nô bộc. Thuở ấy mọi người sai sử ta. Có người sai ta đổ rửa phân tiểu, có người sai ta đổ đất, dọn cỏ, lấy thóc gạo sữa bơ dầu mật, có người sai ta lấy củi than nước lửa, bao nhiêu thứ dịch vụ như vậy đều sai ta làm.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở ấy ta chẳng hề sanh tâm niệm rằng có người sai khiến ta làm việc dơ dáy mà không tùy theo, còn sai bảo lấy hoa hương châu báu vật thực dưa trái thì liền tuân lời, ta cũng chẳng hề ham sự vụ tốt mà chê sự vụ cực, ta cũng chẳng hề có quan niệm giai cấp theo Sát Lợi chẳng theo Bà La Môn, theo Bà La Môn chẳng theo Sát Lợi. theo Tỳ Xá chẳng theo Thủ Đà, theo Thủ Đà chẳng theo Tỳ Xá, ta chẳng hề phân biệt người lớn người nhỏ, theo kẻ này chẳng theo kẻ kia, hễ ai kêu ta trước thì ta liền vui vẻ theo làm.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở ta tu đạo Bồ Tát, ta chẳng nhớ có ai sai ta làm sự việc đúng pháp mà ta chẳng làm dầu ta trọn không có sức, không bao giờ làm việc gì mà không cứu cánh, không bao giờ làm việc lành mà việc lành ấy chẳng trọn vẹn.

 Nói tóm lại, thuở ta tu đạo Bồ Tát, ta chưa hề tham thân huống là tài vật. Ở trong tài vật, ta chẳng có ý tưởng là tài vật của mình, chỉ do nghiệp nhơn quả báo trước mà ta có tài vật, ở nơi tài vật ấy ta quan niệm tài vật ấy nên cùng chúng sanh dùng chung, ta có phần trong ấy thì chúng sanh cũng có phần.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Ta tu đạo Bồ Tát được gần Phật pháp thì ở trong ấy, vui chẳng tham trước chẳng nhiếp cũng lấy, vui rời xa các pháp, chẳng ưa nhận lấy các pháp, vui tất cả pháp không, chẳng ưa tất cả pháp có, vui tất cả pháp tịch diệt, chẳng ưa tất cả pháp sự tướng, vui bổn tánh vô sở hữu, chẳng ưa bổn tánh có sở hữu.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Ta nhớ thuở ta tu đạo Bồ Tát vô lượng trăm ngàn vạn đời, trong đêm tối tăm ta tự đốt thân mình để soi sáng dắt đường cho người đi lạc, tự cắt thịt thân mình bố thí cho loài chúng sanh ăn thịt bị đói, tự chích lấy máu mình thí cho loài chúng sanh uống máu khiến chúng đều được no đủ vui sướng.

 Nói tóm lại, ở trong thế gian tất cả tài vật đồ dùng sanh sống cho đến thân thể, đối với các chúng sanh ta trọn chẳng tham tiếc, chẳng não chẳng hại chúng sanh, được ngưòi trí bằng lòng, được hiền thánh khen ngợi, trong đêm trường ta thường thật hành lòng bi sâu xa đối với các chúng sanh.

 Lại này Đại Mục Kiền Liên! Ta nhớ thuở quá khứ làm chủ đoàn buôn tên là Cát Lợi vào đại hải lấy được nhiều châu báu an ổn ra khỏi biển trở lại bổn quốc vào thành về đến trước cổng nhà. Hay tin, có nhiều kẻ ăn xin đến vây quanh nói rằng: Lành thay đại thí chủ Cát Lợi, chúng tôi có chỗ muốn xin, nếu ngài vui lòng chúng tôi sẽ cầu xin. Cát Lợi nói: Mọi người cứ xin, nếu tôi có thể cho được thì không hề tham tiếc. Chúng ăn xin nói: Ngài Cát Lợi vào đại hải được bao nhiêu vật báu quí xin cho hết chúng tôi, được vậy chúng tôi đều được lợi tốt. Cát Lợi liền đem tất cả trân bửu cho chúng ăn xin có đến tám mươi ức châu ma ni, mỗi châu ma ni đều giá trị trăm ức lượng vàng. Bố thí xong, Cát Lợi chẳng vào nhà mình mà trở lại vào biển tìm lấy trân bửu. Sau khi vào đại hải được châu báu gấp bội, hơn tám mươi năm mới về đến bổn quốc. Lúc muốn vào thành thấy người phạm tội bị trói mang đi đến chỗ giết. Kẻ tử tội xa thấy Cát Lợi liền kêu to: Xin chủ đoàn buôn ban cho tôi sự vô úy cứu tôi khỏi tội chết ban tôi mạng sống. Ngài là đại thí chủ người tốt hiền lành. Cát Lợi nói với tử tội: Vâng, tôi sẽ cứu người khỏi tội chết ban cho người sự vô úy. Cát Lợi liền đến chỗ ban giám sát tặng mỗi người một châu ma ni giá trị một ức lượng vàng để yêu cầu tạm đình án lịnh chờ Cát Lợi vào tâu Quốc Vương. Cát Lợi liền gấp rút vào thành tâu với Quốc Vương xin đem trân bửu tốt mua mạng sống người ấy. Quốc Vương nói: Tội người ấy chẳng tha thứ được, chẳng thể mua được. Nếu quyết muốn mua thì có bao nhiêu tài vật ông phải nộp hết cho ta và ông phải chịu chết mới tha người ấy được. Cát Lợi nghe lời phán của Quốc Vương lòng rất vui mừng mà nói rằng tôi được lợi lớn được sở mãn nguyện, cứu được người ấy rất vừa ý tôi. Cát Lợi liền đem tất cả tài sản và tất cả châu báu lấy được ở đại hải kể có vô lượng ngàn ức vàng bạc châu báu nộp cho Quốc Vương mà tâu rằng: Xin tha người ấy, tất cả sở hữu của tôi đều hiện ở đây. Quốc Vương nhận tài vật xong truyền đem Cát Lợi đi chém, tay cầm đao bén đưa lên mà chém xuống chẳng được. Thị thấn cả kinh đem Cát Lợi về triều tâu sự việc ấy lên Quốc Vương. Nghe tâu, Quốc Vương liền tự cầm đao lên muốn chém xuống, cả hai cánh tay vua liền rơi rụng xuống đất, quá đau tức, vua kêu to lên mà chết.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Chủ đoàn buôn thuở ấy chính là thân ta. Còn Quốc Vương kia là Điều Đạt người ngu si vậy.

 Thuở xa xưa ấy Điều Đạt muốn giết ta mà chẳng giết được. Đến đời nay ta được Vô thượng Bồ đề, Điều Đạt cũng muốn giết ta mà cũng chẳng được. Tại sao, vì với Như Lai, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La không ai có thể hại được, huống là người ngu si Điều Đạt. Nay Điều Đạt mưu mô tập họp những kẻ ác đến muốn giết ta, ông ấy cũng tự phương tiện muốn giết cho được ta, do đó ông ấy phải mất lợi dưỡng danh tiếng thế lực, thân sống sa thẳng vào địa ngục A Tỳ.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Lúc thật hành đạo Bồ Tát ta chẳng thấy làm lợi ích cho ai bằng làm lợi ích cho Điều Đạt, mà ông ấy chẳng biết ơn nghĩa.

 Lúc tu đạo Bồ Tát, ta đối với chúng sanh như cha mẹ, do đó mà biết rằng tâm từ của Như Lai luôn luôn sâu đậm đối với chúng sanh.

 Lại này Đại Mục Kiền Liên! Thuở quá khứ xa xưa ở bên núi Tuyết có bầy voi năm trăm con, trong đó có voi chúa lớn thân hình khả ái sức mạnh có trí. Chỗ ở của bầy voi rất hiểm trở chỉ có một con đường để đi ra. Bấy giờ có thợ săn rình thấy bầy voi liền suốt đêm đào hố sâu rộng giữa đường hiểm rồi xua đuổi bầy voi đến bên hố, bầy voi không thể vượt qua hố được. Voi chúa liền nằm ngang miệng hố làm cầu cho bầy voi chạy qua. Bầy voi qua hết rồi voi chúa vọt mình qua khỏi hố.

 Lúc ấy sơn thần nói kệ rằng:

 Kẻ ác đào hố sâu

 Bầy voi có voi chúa

 Độ chúng cũng độ mình

 Uổng công đào hố sâu.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở xưa voi chúa ấy chính là thân ta, bầy voi năm trăm con ấy nay là năm trăm Tỳ Kheo bị Điều Đạt khuyến dụ đó, thợ săn thuở ấy nay là bọn ông Điều Đạt như Tỳ Kheo Kiển Đà Đạt Đa, Tỳ Kheo Ca Lâu La Đề Xá, Tỳ Kheo Tam Văn Đà Đạt, Tỳ Kheo Câu La Lê Bà Đạt Đa.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Từ lâu xa, thấy chúng sanh bị bố úy, ta ban cho họ sự vô úy, thấy chúng sanh khổ não, ta ban cho họ sự an vui, thấy chúng sanh nghèo cùng, ta ban cho họ tài vật, thấy chúng sanh tà đạo, ta chỉ cho họ chánh đạo, thấy chúng sanh bịnh khổ, ta trừ bịnh cho họ, thấy chúng sanh đói khát, ta cho họ ăn uống, đem cả thân thể mình cho các chúng sanh ăn thịt uống máu.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Khi ta phát nguyện gì, ta đều làm đúng và trọn vẹn, khi ta đã hứa điều chi với chúng sanh thì không bao giờ ta biếng trễ.

 Này Đại Mục Kiền Liên! Từ lúc ta phát tâm Vô thượng Bồ đề đến nay thành bực Vô thượng Chánh Đẳng Giác, trong thời gian giữa, lời nói ra đều thành thiệt không hề đổi khác, việc làm đều tinh tiến không hề giải đãi thôi bỏ. Bao giờ ta cũng làm đúng như lời nói và lời nói đều đúng như việc làm”.

PHẨM ĐÁP NẠN THỨ BẢY

 Bấy giờ trong pháp hội có một Tỳ Kheo tên Tượng Thủ rời chỗ ngồi trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Tôi nghe đức Phật nói sự khó như vậy cả mình rởn ốc, nước mắt nước mũi chảy tuôn. Nay tôi muốn hỏi một việc. Đức Thế Tôn tự nói lúc tu hạnh Bồ Tát việc làm đúng như lời và lời nói đúng như việc làm. Lúc ban sơ đức Thế Tôn nguyện độ tất cả chúng sanh. Nếu đã nguyện như vậy mà hiện nay chúng sanh được độ chưa hết đức Thế Tôn lại sẽ nhập Niết bàn. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, hoặc có người đến chất vấn các Tỳ Kheo rằng Đại Sư của các Thầy bổn nguyện sẽ độ tất cả chúng sanh. Chúng sanh chưa hết mà đã tự diệt độ. Nếu họ hỏi như vậy thì phải đáp thế nào?”

 Đức Phật bảo Tỳ Kheo Tượng Thủ: “Nếu có người chất vấn như vậy thì nên hỏi lại họ: Ngài lấy pháp gì làm chúng sanh? Nếu họ đáp là ấm nhập giới là chúng sanh thì lại hỏi họ là ấm nhập giới hoà hiệp là chúng sanh hay ấm nhập giới ly tán là chúng sanh? Nếu họ nói ho hiệp là chúng sanh thì lại nên bảo họ rằng Ngài đã tự trả lời rồi. Tại sao? Vì hoà hiệp là chúng sanh, ấm nhập giới chẳng phải chúng sanh. Pháp của Phật nói là để vì ly tán chớ chẳng phải để vì hoà hiệp. Đức Phật thích hạnh ly tán mà chẳng thích hoà hiệp. Trong hoà hiệp không có chúng sanh.

 Nếu họ lại nói chỉ ấm nhập giới là chúng sanh thì nên hỏi lại họ rằng nếu như vậy thì tất cả cỏ cây ngói đá đều là chúng sanh cả vì trong ấy cũng có ấm nhập giới. Nếu họ nói trong các thứ ấy không có tâm, không có tâm sở nên chẳng phải là chúng sanh, thì nên hỏi lại họ rằng nếu như vậy thì tất cả chúng sanh lẽ ra là một chúng sanh. Tại sao? Vì đức Phật chẳng nói ấm nhập giới có khác. Nếu họ lại nói trong kinh Phật nói có chúng sanh vì vậy nên có chúng sanh, thì nên bảo lại họ rằng Ngài đã tự đáp rồi. Tại sao? Vì trong kinh đức Phật nói ly hữu ly vô. Nếu họ nói rằng như thế thì không có đạo quả, thì nên hỏi lại họ Ngài lấy gì làm quả? Nếu họ nói là lấy quyết định đệ nhất nghĩa làm đạo quả thì nên hỏi lại họ trong quyết định đệ nhứt nghĩa không có âm thanh ngữ ngôn. Trong không có âm thanh ngữ ngôn chẳng được nói quyết định có không có. Ngài nói quyết định đệ nhứt nghĩa là quả, trong quyết định đệ nhứt nghĩa ấy không có chúng sanh không có danh tự chúng sanh. Thế nên Ngài nói có chúng sanh thì lời nói ấy tự phá rồi.

 Lại này Tượng Thủ! Trong kinh cuả Phật nói trong các pháp không có cái gì diệt chỉ dứt diệt khổ não thôi. Phật thông đạt thiệt tướng các pháp như vậy. Theo pháp của mình được mà đem dạy chúng sanh. Pháp của Phật nói là để vì không tham lấy, vì viễn ly, vì không hí luận, vì không tác khởi.

 Này Tượng Thủ! Nếu người nào biết pháp nghĩa của Phật như vậy thì có thể chẳng bị sự có không có mà khởi sanh hành nghiệp. Nếu người đã chẳng vì có không có mà khởi hành nghiệp thì người ấy đâu còn thấy có chúng sanh thấy không có chúng sanh.

 Này Tượng Thủ! Đây gọi là thường an trụ thiệt tướng các pháp. Trong ấy không có ức tưởng phân biệt không cấu không tịnh không lai không khứ không đạo không đạo không đạo quả không trường không đoản không tròn không vuông không hình không sắc. Thế nên nói các pháp nhứt ngôn đó là định môn vậy.

 Này Tượng Thủ! Đây gọi là kiến pháp môn. Nhập vào kiến pháp môn này thì có thể gọi là thấy Phậy vậy.

 Này Tượng Thủ! Ý ông thế nào, tuỳ theo dùng pháp nào thấy Phật, pháp ấy có phải là tướng diệt đã diệt nay diệt sẽ diệt chăng?

 -Bạch Thế Tôn, không.

 -Này Tượng Thủ! Ý ông thế nào, tuỳ theo dùng pháp nào thấy Phật, pháp ấy có tướng sanh đã sanh nay sanh sẽ sanh chăng?

 -Bạch Thế Tôn, không.

 -Này Tượng Thủ! Nếu vậy thì Phật chẳng gọi là diệt độ.

 -Bạch Thế Tôn, Đúng như vậy.

 Này Tượng Thủ! Nếu người ấy lại nói rằng tôi chỉ căn cứ nơi thân tướng mà nói Phật diệt độ. Phật nhập Niết bàn rồi không còn trở lại. Chỉ thấy thân tướng chẳng cón trở lại mà tôi nói Phật diệt độ. Nếu họ nói như vậy thì nên hỏi họ rằng Ngài nói thân tướng thành tựu là Phật chăng? Nếu họ nói phải thì nên bảo họ rằng trong kinh Phật chẳng nói thân tướng gọi là Như Lai. Nếu nói thân tướng là Phật thì tất cả ngói đá núi sông cỏ cây đều là Phật cả. Nếu họ lại nói tất cả thứ ấy không có đủ ba mươi hai tướng đại nhơn nên chẳng được gọi là Như Lai, thì nên bảo họ rằng Ngài nói có đủ ba mươi hai tướng nên gọi là Phật, như vậy Chuyển Luân Thánh Vương là Phật rồi. Tại sao, vì thân Chuyển Luân Thánh Vương có ba mươi hai tướng.

 – Nếu họ lại nói rằng cứ theo tướng pháp, Bà La Môn biết tướng pháp nói sẽ làm Phật, sự ấy là thiệt. Nên bảo họ rằng nếu có đủ ba mươi hai tướng chính là Phật, sao ngài lại tự nói rằng tướng sư thấy có ba mươi hai tướng thì ghi nhận sẽ được làm Phật. Nay Ngài nên nói tướng cuả Phật. Nếu họ nói rằng tôi nói, Phật thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp, Vô lậu, Căn lực, Giác đạo, Thiền định, Giải thoát tam muội v.v… là tướng của Phật, thì nên bảo họ rằng Ngài nói Thập lực v.v… là tướng của Phật nay nên nói Phật thể tánh thì phải hơn. Nếu họ nói rằng Phật cùng với tướng ấy khác nhau chăng? Thì nên bảo họ rằng Ngài tự nói là tướng của Phật. Tướng của Phật chẳng phải Phật. Nếu họ lại nói rằng còn có pháp không hình không sắc là tướng của Phật Thập lực v.v… chăng? Thì nên bảo họ rằng pháp không hình không sắc sao lại dùng pháp có hình có sắc làm tướng? Nếu Ngài lại nói pháp không hình không sắc gọi là Phật thì các pháp không hình không sắc khác cũng đều có thể là Phật cả. Nếu các pháp ấy cũng là Phật thì Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp, Vô lậu, Căn lực, Giác đạo, Thiền định, Giải thoát tam muội v.v … cũng lẽ ra cùng tương ưng với nó.

 -Nầy Tượng Thủ! Bổn nguyện của ta được Vô thượng Bồ đề độ thoát tất cả chúng sanh. Ta ngồi đạo tràng được Vô thượng Bồ đề rồi chẳng được chúng sanh chẳng được danh tự chúng sanh. Ta ngồi đạo tràng chỉ thông đạt pháp mười hai nhân duyên: Vì sự này có nên có sự này, vì sự này không nên không sự này, vì sự nào có nên có sự nào, vì sự nào không nên không sự nào. Đó là do vô minh nhơn duyên nên có các hành, do các hành nhơn duyên nên có thức, do thức nhơn duyên nên có danh sắc, do danh sắc nhơn duyên nên có lục nhập, do lục nhập nhơn duyên nên có xúc, do xúc nhơn duyên nên có thọ, do thọ nhơn duyên nên có aí, do aí nhơn duyên nên có thủ, do thủ nhơn duyên nên có hữu, do hữu nhơn duyên nên có sanh, do sang nhơn duyên nên có lão tử ưu bi khổ não, xoay vần như vậy chỉ là khối đại khổ tập hợp.

 -Vì vô minh diệt nên các hành diệt, vì các hành diệt nên thức diệt, vì thức diệt nên danh sắc diệt, vì danh sắc diệt nên lục nhập diệt, vì lục nhập diệt nên xúc diệt, vì xúc diệt nên thọ diệt, vì thọ diệt nên ái diệt, vì ái diệt nên thủ diệt, vì thủ diệt nên hữu diệt, vì hữu diệt nên sanh diệt, vì sanh diệt nên lão tử ưu bi khổ não diệt, trong ấy chỉ là khối đại khổ diệt. Trong ấy ta phát sanh mắt trí huệ thấy rõ thông đạt giải thoát không trung không hậu không hoại. Vì Phật thông đạt giải thoát ấy nên chẳng được pháp nào khác, mà chỉ được pháp các nhơn duyên sanh.

 -Này Tượng Thủ! Đức Như Lai là bực thông đạt các pháp, theo đó mà giảng nói cho chúng sanh.

 -Này Tượng Thủ! Hoặc chư Phật xuất hiện hay chẳng xuất hiện, tánh tướng các pháp luôn thường trụ bất hoại. Nghĩa là danh sắc chẳng mất chẳng chống trái nhau chẳng sanh chẳng khởi. Phật thường thuyết pháp như vậy, các ông cũng phải hiểu biết theo ý của Phật. Phật vì các ông mà nói pháp như vậy, các ông chỉ nên siêng năng tu hành như vậy.

 -Này Tượng Thủ! Các sự việc mà bực Đại Sư phải làm cho đệ tử thì ta đã làm xong. Các ông theo lời dạy mà thật hành, ở trong các pháp sẽ được trí huệ sáng suốt”.

 -Tượng Thủ lại bạch đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu có người nói vì chánh pháp của đức Như Lai nói diệt thì ai sẽ chỉ dạy. Vì không ai chỉ dạy nên gọi là chánh pháp diệt. Vì chánh pháp diệt nên nói là Như Lai diệt. Như vậy cũng gọi là chẳng độ tất cả chúng sanh”.

 -Đức Phật dạy: “Này Tượng Thủ! Nếu có người chất vấn như vậy thì nên đáp thế này:

 -Đức Phật là người Nhứt thiết trí biết hết thấy hết, thường chờ thời tiết chúng sanh có thể được độ. Dầu nhập Niết bàn mà vẫn còn lợi ích. Lại nay Phật thọ ký Phật đời vị lai thì Phật chủng nối nhau chẳng tuyệt, tất cả Phật pháp là một Phật pháp, thế nên gọi là Như Lai pháp. Như Lai pháp là Phật pháp. Do đó nên biết đức Như Lai lúc hành Bồ Tát đạo việc làm đúng như lời, lời nói đúng như việc làm vậy”.

 -Tượng Thủ Tỳ Kheo nói: “Hi hữu Thế Tôn! Đức Như Lai khéo có thể thông đạt suy cầu tất cả các pháp. Vì khéo có thể thông đạt tất cả các pháp nên thân khẩu và ý được trí huệ dẫn đầu đều theo tr1i huệ. Đức Như Lai lúc hành Bồ Tát đạo việc làm đúng như lời, lời nói đúng như việc làm”.

 -Đức Phật phán: “Đúng như vậy! Đúng như lời ôg nói, lúc hành Bồ Tát đạo, ta làm đúng như lời, lời nói đúng như việc làm.

 -Này Tượng Thủ! Nếu có người thành thiệt nói ai chẳng sai lầm xuất hiện thế gian lợi ích chúng sanh an lạc Trời Người, tất cả Đại Sư dạy nói chánh đạo chánh trí giải thoát không có hí luận đến bỉ ngạn, độ kẻ chưa độ Đấng Như Lai Thế Tôn thì nên nói chính là ta vậy. Đó là người nói thành thiệt.

 -Này Tượng Thủ! Nếu người thành thiệt nói ai là người chẳng dối phỉnh là người biết báo ơn? Thì nên nói chính là ta đây vậy. Đó là lời nói thành thiệt. Này Tượng Thủ! Nếu có chúng sanh nào phụng sự ta chút ít thì sự ấy chẳng mất.

 -Này Tượng Thủ! Từ lúc ta bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồ đề đến nay, chẳng hề có lúc nào tâm ta thối chuyển, ta cũng chẳng nhớ có tham ưa Thanh Văn thừa hay Bích Chi Phật thừa cùng mong được pháp ấy. Chỉ có một lần ta muốn dạy đệ tử cầu Bích Chi Phật.

 -Này Tượng Thủ! Thuở quá khứ xa xưa, lúc ấy ta làm ngoại đạo tiên trí huệ sáng lẹ học rộng biện tài được thông pháp nhẫn. Bấy giờ có năm trăm Bà La Môn tuổi trẻ thấy lỗi họa ngũ dục tại gia và thấy sự lợi ích xuất gia nên đồng xuất gia học đạo đến chỗ ta nghe pháp được đạo quả Bích Chi Phật đủ lực thần thông tâm được tự tại thành tựu như ý túc, thường dùng thần lực bay vào thành ấp tụ lạc khất thực cúng dường ta. Bấy giờ ta tự nghĩ rằng chư thánh nhơn đại trí thanh tịnh ấy ta chẳng nên thọ sự cúng dường của họ. Ta giáo hoá họ mà họ được đạo quả ấy còn ta thì chẳng được.

 -Này Tượng Thủ! Vì muốn chứng đạo pháp Bích Chi Phật ấy ta nên siêng tu tinh tiến. Trời Tịnh Cư liền hiện đến bảo ta rằng chớ tham quả Bích Chi Phật, Ngài nên được quả Vô thượng Bồ đề, Ngài phải độ vô lượng vô biên chúng sanh. Ta nghe lời trời Tịnh Cư dạy rồi chẳng tiếp tục hành đạo ấy, trong tâm được sự hoan hỉ khoái lạc đệ nhứt, tịnh tọa suốt nửa tháng khoái lạc khắp toàn thân.

 -Này Tượng Thủ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp chư Thiên khai ngộ thì được tâm hoan hỷ tự biết mình sẽ được Vô thượng Bồ Đề.

 -Những gì là bốn pháp?

 -Một là Bồ Tát tự thâm phát tâm Vô thượng Bồ đề và cũng dạy người thâm phát tâm Vô thượng Bồ đề.

 -Hai là thấy người thâm phát tâm Đại thừa, Bồ Tát chẳng có lòng ganh ghét chẳng quan niệm chỉ riêng mình được Vô thượng Bồ đề.

 -Ba là Bồ Tát theo sở hành của chúng sanh mà tùy thời giảng dạy, có ý tốt cùng chuyện trò giúp gìn căn lành của họ.

 -Bốn là siêng cầu những chánh pháp rộng rãi vì người mà chỉ dạy chẳng bao giờ lẫn tiếc.

 -Thành tựu bốn pháp này, được chư Thiên khai ngộ, Bồ Tát tự biết sẽ thành Phật”.

 -Đức Thế Tôn muốn thuyết minh sự ấy mà nói kệ rằng:

 Bồ Tát lòng vững chắc

 An trụ Vô thượng thừa

 Hay giáo hoá chúng sanh

 Khiến an trụ thừa ấy

 Lúc hành đạo Bồ Tát

 Không có lòng tật đố

 Siêbg tu phát tinh tiến

 Lòng hoan hỉ càng thêm

 Thấy các chúng sanh ác

 Theo thời mà khuyên dạy

 Thường dùng lòng từ bi

 Không hề có hờn giận

 Thường siêng tu cầu pháp

 Lưu bố cho chúng sanh

 Đem pháp đầy cho tất cả

 Như mưa chảy ướt khắp

 Người tu bốn pháp này

 Được chư Thiên khai ngộ

 Ngài sẽ được làm Phật

 Chớ sanh lòng nghi hoặc

 Bồ Tát nghe lời này

 Dũng mãnh thêm tinh tiến

 Việc ấy quyết phải đúng

 Tôi chắc sẽ làm Phật

 Chư Bồ Tát như vậy

 Dùng tinh tiến và nguyện

 Chánh niệm tri và huệ

 Tự mình càng cao đại

 Nếu có chư Như Lai

 Xuất hiện tại thế gian

 Thì chư Bồ Tát này

 Có công đức như vầy

 Trời người đều cung kính

 Vua chúa và quan dân

 Đều sanh lòng hoan hỉ

 Biết là người có đạo

 Kinh sách chương cú nghĩa

 Văn kệ môn toán số

 Thảy đều giỏi thông đạt

 Bực tối thượng trong người

 Thông suốt có trí huệ

 Làm việc chẳng tốn sức

 Chỉ dùng những mưu sách

 Mà thành công cả thảy

 Dẹp tan các trận chiến

 Chẳng dùng sức chân tay

 Chỉ dùng sức trí huệ

 Tự nhiên giặc hàng phục

 Vua chúa và quan dân

 Đều khen rất hi hữu

 Vì thương xót chúng sanh

 Mà sanh ở thế gian

 Mọi người đều biết rõ

 Bảo chuyện trò với Trời

 Cớ sao lại sáng suốt

 Biết rõ tâm của tôi

 Bồ Tất này thường được

 Gần gặp gỡ chư Phật

 Hầu kề thưa thỉnh pháp

 Lợi ích lớn cho người

 Thưa học nơi Phật rồi

 Dứt hết những nghi lầm

 Hay lợi ích chúng sanh

 Làm mọi người vui mừng

 Phật hiện sức thần thông

 Thọ ký sẽ làm Phật

 Do đó Bồ Tát nầy

 Lòng rất là hoan hỉ

 Những của vật quí trọng

 Trong ngoài đều không tiếc

 Do đó rất hoan hỉ

 Tự biết sẽ thành Phật

 Từ bi che trùm khắp

 Không hề có sân hận

 Do đó rất hoan hỉ

 Tự biết sẽ thành Phật

 Được chư Phật ngợi khen

 Đã được trí thâm diệu

 Do đó rất hoan hỉ

 Tự biết sẽ thành Phật

 Chẳng y chỉ các pháp

 Biết pháp chẳng y được

 Được trí huệ như trên

 Thân có thể bay lên

 Tâm ấy chẳng ở trong

 Cũng chẳng ở tại ngoài

 Ra khỏi các tưởng niệm

 Nên được nhẫn vô thượng

 Đêm trường dùng từ bi

 Nhớ thương khắp chúng sanh

 Do nơi phước đức này

 Được thấy vô lượng Phật

 Tất cả thân Bồ Tát

 Cùng thân Phật không khác

 Được trí nhẫn như vậy

 Dùng pháp tự tăng trưởng

 Người phát tâm Bồ đề

 Ai chẳng theo để học

 Ở bền nơi chánh pháp

 Được công đức như vậy

 Vì thế người cầu pháp

 Dùng pháp cầu tự lợi

 Thì thêm lớn Bồ đề”.

PHẨM PHÚ LÂU NA THỨ TÁM

 Bấy giờ Tôn giả Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử bạch rằng: “Hi hữu Thế Tôn! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ Tát, đức Thế Tôn khéo an trụ vững các pháp lành”.

 Đức Phật phán: “Đúng như vậy, nầy Phú Lâu Na! Đêm trường thuở hành đạo Bồ Tát ta an trụ vững chắc nơi pháp lành”.

 Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ sự ấy mà nói kệ rằng:

 “Cầu pháp hay đắc pháp

 Gọi là gốc Phật đạo

 Thường siêng tu thiện pháp

 Rời xa các phi pháp

 Thường đi trên chánh đạo

 Rời xa các tà đạo

 Thường tu tập đạo pháp

 Mà chư Phật thân cận

 Đây thì lìa xa nạn

 Được chỗ không nạn chướng

 Được chỗ không nạn rồi

 Tâm tinh tiến chẳng luống

 Ở hai túc tôn quí

 Trên hết trong hình sắc

 Quyến thuộc thành tựu đủ

 Hơn hết trong tất cả

 Tâm thường an trụ vững

 Nơi giới phẩm nhẫn phẩm

 Cũng trụ vững tinh tiến

 Tăng trưởng thiền và trí

 Thường hay làm thượng thủ

 Trong các loài chúng sanh

 Tối thắng trong công đức

 Rõ nghĩa được vô úy”.

 Ngài Phú Lâu Na bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Pháp vi diệu như vậy ai sẽ chẳng học. Chỉ nhớ lại thuở trước chúng tôi giải đãi chẳng mong được Phật trí, chẳng tự tin mình có thể được Phật huệ như vậy, nên dùng thừa Thanh Văn để tự độ.

 Bạch đức Thế Tôn! Từ nay tôi chỉ dạy chư Bồ Tát cho họ an trụ Phật thừa. Tại sao? Vì chư Phật Thế Tôn là người làm sự khó làm. Thuở xưa lúc làm hạnh Bồ Tát, đức Thế Tôn là người làm sự rất khó khăn lớn lao như vậy. Sự khó khăn lớn lao như vậy. Sự khó và lớn ấy, tất cả A La Hán và Bích Chi Phật còn không có huống là các chúng sanh khác.

 Bạch đức Thế Tôn! Sự lớn lao khó khăn như vậy, chỉ có chư đại Bồ Tát vì thương xót các chúng sanh mà làm lợi ích. Do đây nên hành đạo Bồ Tát có vô lượng vô biên vô số sự lớn khó như vậy.

 Bạch đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát làm sự rất khó khăn lớn lao như vậy được Vô thượng Bồ đề rồi hay chuyển pháp luân độ thoát chúng sanh khổ não”.

 Đức Phật nói: “Đúng như vậy, nầy Phú Lâu Na! Chư đại Bồ Tát thâm phát tâm Vô thượng Bồ đề vì tất cả chúng sanh mà cầu lợi ích an lạc, với tất cả chúng sanh có đại từ bi, nên lúc vì chúng sanh mà hành đạo Bồ Tát có vô lượng vô biên vô số đại nguyện đại sự thậm thâm như vậy”.

 Đức Phật nói kinh rồi, Huệ Mạng Phú Lâu Na và tứ chúng trong hội Trời, Người, Long, Thần, Bát Bộ đều rất vui mừng tin nhận lời Phật dạy.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 7 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 6 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 3 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 9 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 1 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 2 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập 3 – HT Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 1 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập 1 – HT Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập 2 – HT Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 113 – Kinh Chân Nhân (Sappurisa sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Những Điều Trái Nghịch Của Ma - Kinh Tạng