QUYỂN 2
PHẨM THỨ NĂM: NGHĨA CHƠN THẬT
Thế nào là nghĩa chơn thật?
– Nghĩa chơn thật có hai:
Một là Tánh các pháp. Hai là sự bình đẳng của các pháp.
Lại có bốn thứ:
Một là sự lan rộng trong đời. Hai là phương tiện lan rộng. Ba là sạch phiền não chướng. Bốn là sạch sở tri chướng.
– Sao gọi là sự lan rộng trong đời?
Các pháp thế gian danh hiệu của nó đồng gọi như vậy. Đất chẳng hạn, chúng sanh thấy đất bèn gọi là đất, chẳng gọi là lửa. Lửa gọi là lửa chẳng gọi là đất. Đến như nước, gió, màu sắc, tiếng tăm, mùi vị, xúc chạm, quần áo, ăn uống, đồ trang sức, chén bát, âm nhạc, sáng tối, trai gái, nhà cửa, ruộng đất, khổ, vui v.v…Khổ rõ thật là khổ chẳng gọi là vui. Vui rõ thật là vui chẳng gọi là khổ. Tất cả người trong thế gian, từ nào những giờ truyền bá những tên, những tướng của các thứ này, tự nhiên mà biết, chẳng phải từ sự tu tập sau đó mới biết. Đây gọi là nghĩa chơn thật về sự lan rộng trong đời.
Sao gọi là phương tiện lan rộng?
-Như những người có trí biện thông, trước hết lấy sự trù tính, sau đó làm ra các sách luận lý. Đây gọi là phương tiện lan rộng.
Thế nào là sạch phiền não chướng?
-Tất cả Thanh văn, Duyên giác do trí vô lậu, đạo vô lậu phá hoại phiền não nên được trí vô ngại. Đây gọi là sạch phiền não chướng.
Thế nào là sạch sở tri chướng?
-Do hoại phiền não chướng, cho nên trí được sáng sạch, trí tuệ sáng sạch nên thân tâm không ngăn ngại. Đây gọi là nghĩa chơn thật sạch sở tri chướng.
Vì sao gọi là nghĩa chơn thật?
-Chơn thật mệnh danh là bốn Thánh Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Quán bốn thánh đế này được trí tuệ chơn thật, bực này gọi là Thanh văn, Duyên giác.
Thanh văn, Duyên giác quán từng phần năm ấm, do đó lìa ấm đều không thấy có ngã và ngã sở. Quán từng phần nhân duyên, do đó lìa ấm, chẳng thấy chúng sanh hay sĩ phu. Đây gọi là nghĩa chơn thật sạch sở tri chướng. Nếu trí chẳng thể biết đúng cảnh giới, gọi là trí chướng (sở tri). Nếu có thể hoại chướng, biết đúng cảnh giới, gọi là nghĩa chơn thật sạch sở tri chướng.
Lại nữa, nghĩa chơn thật là: Chư Phật Bồ Tát quán sát một cách sâu thẳm về Ấm, Giới, Nhập, quán ngã chẳng phải ngã, chúng sanh chẳng phải chúng sanh, sĩ phu chẳng phải sĩ phu. Đây gọi là sạch sở tri chướng. Quán các pháp giới chẳng thể tuyên nói, rõ biết thế đế, cho nên phân biệt pháp giới, biết tánh chơn thật các pháp, cho nên gọi là vô thắng huệ, vô thắng huệ phá hoại tất cả chướng, do đó gọi là nghĩa chơn thật sạch sở tri chướng.
Nghĩa chơn thật lại có hai: Một là có. Hai là không. Có gọi là lan rộng trong đời, lan rộng trong đời là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, đất, nước, lửa, gió, sắc, thanh, hương, vị, xúc, thiện, ác, vô ký, pháp sanh, pháp diệt, do duyên sanh pháp, quá khứ, vị lai, hiện tại, hữu vi, vô vi, đời này, đời khác, đêm, ngày, thấy, nghe, hiểu biết, sở đắc, giác quán, tu tập, thọ trì cho đến Niết Bàn. Đây gọi là “Có” lan rộng trong đời.
Cái Có ra thế gian ấy, gọi là pháp tánh. Pháp tánh là cái Không của cái Có lan rộng trong đời. Từ sắc, thanh, hương cho đến Niết Bàn, tánh nó đều rỗng rang, thế nên gọi là là không. Vì chúng sanh thấy có nên gọi là có. Tánh các pháp rỗng rang, cho nên gọi đó là không. Các đức Như Lai nói có, nói không, gọi là chơn thật, là Trung đạo, chẳng phải có, chẳng phải không gọi là Trung đạo. Trung đạo còn gọi là Vô thượng đạo. Lý Trung đạo như thế, các đức Như Lai diệt trừ chướng ngại, do đó gọi là đấng Nhứt Thiết Trí.
Đại Bồ Tát tuy cũng học Trung đạo trên đây, song còn có chướng ngại, thế nên chẳng được gọi là bực Nhứt Thiết Trí. Trí tuệ của Bồ Tát là phương tiện trí, gọi là nhân của Vô thượng Bồ Đề.
Tại sao thế?
-Đại Bồ Tát tuy chẳng đủ trí tuệ trung đạo, nhưng nói về tướng sanh tử cũng có cũng không và cũng làm cho lan rộng Phật pháp vô thượng. Tuy ở trong sanh tử, vẫn có thể biết rõ tai họa của sanh tử mà tâm không chán, không hối. Như vị nào chẳng biết tai họa của sanh tử, tức vị đó chẳng thể phá hoại kết sử phiền não. Nếu tâm chán nản ắt không thể giáo hóa chúng sanh, hộ trì Phật pháp để mau được Niết Bàn. Nếu được Niết Bàn cũng chẳng thể mau chứng Vô thượng Bồ Đề. Nếu không giáo hóa chúng sanh, làm sao chứng Vô thượng Bồ Đề? Do đó nếu Bồ Tát ở trong đường sanh tử tu đạo Bồ Đề, chẳng sợ Niết Bàn, chẳng cầu Niết Bàn. Nếu Bồ Tát sợ Niết Bàn, tức chẳng đầy đủ sự trang nghiêm đạo Bồ Đề, cũng chẳng hay vì vô lượng chúng sanh mà khen ngợi Niết Bàn. Đối với sở chứng Niết Bàn chẳng sanh lòng tin vui chuyên nhớ. Bởi thế Bồ Tát đối với sở chứng Niết Bàn chẳng sanh tâm sợ sệt. Nếu Bồ Tát này cầu chứng Niết Bàn, tức có thể chứng được, như vị đó chứng được, ắt chẳng thành Vô thượng Bồ Đề, để đem Phật pháp giáo hóa chúng sanh.
Bồ Tát này nếu chẳng hay quán sát sâu xa tai họa sanh tử, hoặc sanh nhàm lìa, sợ sệt Niết Bàn hoặc cầu Niết Bàn, đó gọi là Bồ Tát không có phương tiện hay khéo.
Nếu Bồ Tát này quán sát sâu xa tai họa của sanh tử, thích ở trong đó, chẳng sợ Niết Bàn, chẳng cầu Niết Bàn. Đây gọi là Bồ Tát có phương tiện hay khéo, phương tiện hay khéo là sự hiểu Đệ nhứt nghĩa không. Đại Bồ Tát tu tập đệ nhứt nghĩa không như thế, gọi là đại phương tiện của thế giới Bồ Tát, vì được trí Vô thượng Như Lai vậy.
Nếu có người tu tập giới Bồ Tát được trí chơn thật, thấy biết các pháp là không ngã, không ngã sở, biết tánh các pháp, do đó đối với pháp, tâm không chỗ thấp, cũng nói được thế đế và đệ nhứt nghĩa đế, thấy rõ các pháp mà tâm vẫn bình đẳng, luôn luôn đại thí, do nhân duyên đại thí nên khéo biết việc đời, tuy học việc đời nhưng tâm không chán đổi, rõ biết các việc và được sức trí nhớ. Dầu biết việc đời nhưng tâm không kiêu mạn, thường dạy dỗ chúng sanh, tâm không lẫn tiếc điều gì. Dùng những phương tiện hay khéo chỉ bảo chúng sanh những việc ở đời, với mục đích làm cho chúng sanh được Vô thượng Bồ Đề. Bồ Tát đối với những việc thế gian cũng siêng lòng học tập, không chán, không đổi.
Nếu thấy chúng sanh lúc phải chịu khổ, tâm Bồ đề của Bồ Tát được nuôi lớn, Bồ Tát nuôi lớn pháp lành như vậy tâm không kiêu mạn, khởi lòng thương yêu đối với chúng sanh, Bồ Tát như thế thêm lớn trí tuệ, không sanh kiêu mạn, phá hỏng các quan niệm tà vạy của chúng sanh.
Nếu Bồ Tát được thiền định thế gian hay chánh định xuất thế, chẳng nêu đức mình để người cúng dường, chẳng bị pháp thế gian làm cho ô nhiễm. Bấy giờ Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức, gọi là giới Bồ Tát.
Đại Bồ Tát có những công đức gì đều hồi hướng đạo Bồ Đề, đây gọi là giới Bồ Tát. Chư Bồ Tát quá khứ được Vô thượng Bồ Đề đều do thành tựu cấm giới Bồ Tát, vị lai và hiện tại cũng vậy.
Đại Bồ Tát thọ trì các pháp của chư Phật và chư Bồ Tát ba đời, có thể đem Phật pháp giáo hóa chúng sanh, dốc lòng tu hành đạo Bồ Đề, vì đạo Bồ Đề mà không tiếc thân mạng, không tiếc thân mạng là giới Bồ Tát. Người tiếc thân mạng trọn không thể được giới cấm của Bồ Tát, đến như còn lẫn tiếc một vật đáng giá một tiền, cũng không thể được giới cấm của Bồ Tát.
Đại Bồ Tát vì chúng sanh mà thọ nhận hay chứa giữ tiền của, nếu đối với thân mạng, tài sản mà sanh tâm lẫn tiếc, như thế là Bồ Tát giả danh, chẳng phải đúng nghĩa Bồ Tát. Nếu Bồ Tát luôn luôn không tiếc tài sản, thân mạng, nên biết vị này có thể lợi ích chúng sanh, có thể thực hành đức nhẫn, hủy bỏ tâm giận dỗi, ganh ghét, rõ biết việc đời, khéo biết phương tiện quyền biến, hay phá lòng nghi của chúng sanh, có thể tự mình tăng trưởng nhân quả Bồ Đề, chế ngự các giác quan, không bị bốn điều điên đảo khuynh động, có thể hiểu nghĩa sâu xa các pháp, có thể được bốn Vô lượng tâm, thành tựu năm sức thần thông bốn vô ngại trí, cuối cùng có thể quán sát mười hai nhân duyên mãi đến địa vị cứu cánh (Diệu giác), được thân thường, lạc, ngã, tịnh, được đại tự tại của Niết Bàn vô thượng, khéo mở bày phương tiện của Niết Bàn v.v….Đại Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức như vậy, đều do nhân duyên giới cấm mà được.
Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ giới Bồ Tát, có thể làm người sai sử cho tất cả chúng sanh. Nếu bị chúng sanh giận tức đánh mắng, làm hại, Bồ Tát sanh lòng từ bi. Nếu gặp chúng sanh phiền não dày đặc nặng nề, Bồ Tát sanh lòng thương xót.
Vì muốn phá hoại phiền não của chúng sanh Bồ Tát nhiếp tâm tư duy phương tiện hay khéo. Đối với chúng sanh, tâm Bồ Tát không giận dỗi quanh co, mặc tình dùng tài năng thí thố, đem lại an vui cho khắp chúng sanh, chẳng cần báo đáp, chẳng màng sân hận.
Vì phá hoại tâm buồn giận của chúng sanh, Bồ Tát nghĩ đến phương tiện biết ơn, nhớ ơn. Kẻ không cầu gì, Bồ Tát cũng khởi ý thí trước. Những gì mình có nếu chẳng cấp giúp cho kẻ đến xin, tức chẳng được giới cấm của Bồ Tát, người cầu xin đến ba lần mà không cấp giúp, gọi là phạm trọng.
Thế nào không phạm? -Hoặc dùng phương tiện khéo lời an ủi, làm cho người xin chẳng sanh lòng hiềm hận. Người xin có hai hạng: Một là hạng nghèo cùng. Hai là hạng tà kiến. Chẳng cấp thí cho kẻ nghèo cùng tức mắc phải tội, chẳng thí cho kẻ tà kiến, không gọi là phạm. Nếu không bị phạm gọi là khéo làm.
Bồ Tát khéo làm, biết rõ pháp giới chẳng thể tuyên nói, biết tánh pháp giới, biết luôn sự lan rộng thế gian. Sự lan rộng thế gian là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến Niết Bàn. Sắc cho đến Niết Bàn chẳng gọi là chơn thật. Tại sao vậy? Vì sắc đây chẳng phải có, chẳng phải không, cho đến Niết Bàn chẳng phải có chẳng phải không. Nếu chẳng phải có chẳng phải không làm sao chơn thật?
Thế nào là chẳng phải có? -Chúng sanh điên đảo kể sắc là ngã, cho đến Niết Bàn cũng kể ngang là ngã. Đó là chẳng phải có.
Thế nào là chẳng phải không? -Vì lan rộng thế gian, vì có thể tuyên nói. Đây gọi là chẳng phải không. Bởi hai nghĩa trên gọi là chẳng phải có chẳng phải không.
Như bất cứ pháp gì được nói ra, bảo rằng có ư? -Nếu có thì trong một pháp lẽ ra phải có vô lượng tên, vì vô lượng tên lẽ ra có vô lượng tánh. Tại sao vậy? Vì mỗi pháp có vô lượng tên. Thế nào là vô lượng tên? -Như một pháp thuộc về sắc chẳng hạn, cũng nói là xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tròn, lớn, nhỏ, có thể thấy, không thể thấy, có rối, trơn, rít, nhẹ, nặng v.v…Thế gọi là có thể nói. Tùy sự nói, lẽ ra trong một pháp vô lượng tướng. Những gì có thể tuyên nói, thật sự không tánh nhất định, bởi lời lẽ mà lan rộng trong đời. Thật ra không có người nói (hay sự nói), cũng như không có tánh chơn thật. Một pháp như vậy, tất cả pháp cũng như vậy. Như sắc cho đến Niết Bàn, nếu là có thật tánh, lẽ ra chẳng nói có xanh, vàng, đỏ, trắng, cho đến nhẹ nặng v.v…Nếu không thật tánh thì khi chưa lan rộng, làm sao có thể truyền? Cũng vì tánh cách lan rộng là có, tánh cách lan rộng này không ba đầu, khởi thỉ, do đó có thể lan rộng.
Nếu lúc chưa có sắc, đã có sự lan rộng, thì do nhân duyên gì lúc không có sắc lại chẳng lan rộng? Như sự lan rộng ấy có thể làm tánh của sắc vì sao lan rộng mà không làm vô lượng tánh của sắc?
Thế nên pháp tánh chẳng thể tuyên nói. Như sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến Niết Bàn cũng vậy.
Có hai hạng người bị cách xa Phật pháp, chẳng phải đệ tử Phật, mất hết Phật pháp.
Một là hạng nói về sắc cho đến Niết Bàn, cho là có tánh chơn thật. Hai là hạng chẳng tin có tánh lan rộng trong đời. Hai hạng người như thế chẳng kham lãnh thọ trì nổi giới cấm của Bồ Tát, như ai truyền trao, người thọ cũng không đắc giới, vị thầy truyền trao phải mắc tội lỗi.
Vì sao không đắc giới? -Vì chê bai pháp chơn thật, chấp chặt điều phi pháp. Thế nên dầu có thọ, rốt cuộc không đắc giới. Nếu không đắc giới, làm sao được gọi là đệ tử của Phật? Vì thế gọi là hạng cách xa Phật pháp.
Giới Bồ Tát đây không phải ở miệng mà được. Tâm và miệng cùng hòa hợp, sau đó mới được. Hai hạng người nói trên không thật tâm làm sao có thể được giới.
Nếu đối với sắc mà sanh tâm hư vọng, so đo, chấp trước, thì đối với Phật pháp sẽ bị mất mát lâu dài. Nếu đối với sắc mà chẳng tin sắc là sự lan rộng, đó cũng là bài báng tất cả pháp, người này cũng là vĩnh cửu mất mát Phật pháp. Bởi vậy chẳng thể tuyên nói là có hay không.
Vì lẽ gì?
-Như nhơn năm Ấm mà có ta, người, chúng sanh, thọ mạng. Nếu không năm Ấm, những danh từ như thế do đâu mà lan rộng? Sắc cũng như vậy, bởi có sắc nên có các thứ danh từ lan rộng. Pháp chơn thật không có lan rộng, lìa pháp chơn thật cũng không lan rộng, người ngu si nói các pháp là ngoan không, sẽ mang tội rất lớn. Người nào cho rằng trong các kinh Đại thừa nói “Các pháp trống không” cũng mang tội lớn, chẳng thể hiểu đúng nghĩa lý kinh đại thừa mà sanh tâm kiêu mạn bảo rằng ta hiểu đúng nghĩa, tùy tự tâm người đó vọng tưởng suy nghĩ, lại vì người khác nói ra, như thế cũng là mang tội lớn. Nếu lại nói “tất cả các pháp tánh là không, làm sao có sự lan rộng thế gian”. Nói như vậy cũng là đắc tội rất lớn. Tại sao vậy? -Vì chê bai tất cả pháp. Kẻ chê bai tất cả pháp là hạng ngoại đạo, như Phú Lan Na và đám đệ tử của y.
Phú Lan Na cho rằng: Tánh các pháp không là gì cả, nhưng trong Phật pháp là cũng có cũng không. Nếu người nào nói tất cả pháp là trống không, nên biết người đó nói không đúng nghĩa. Đối với người đó chẳng nên cùng ở, cùng nói, cùng bố tát cùng thuyết giới, sẽ mang tội lớn. Tại sao vậy? Vì chẳng hiểu nghĩa KHÔNG, người này chẳng thể tự lợi, lợi tha.
Bởi vậy kinh đại thừa nói “Nếu chẳng hiểu nổi nghĩa KHÔNG, còn thậm tệ hơn là kẻ si mê” vì sao?
-Kẻ si mê nói sắc là ngã, cho đến nói thức là ngã, người có chấp ngã chẳng làm bại hoại Phật pháp, người chẳng hiểu nghĩa Không mãi mãi làm hư hoại Phật pháp, phá diệt làm cho mất mát Phật pháp.
Người chấp ngã, không đến nỗi đọa ba đường ác. Người chẳng hiểu nghĩa KHÔNG lại vì kẻ khác nói rộng, nên biết kẻ đó quyết đến A tỳ.
Người chấp ngã chẳng chê bai Tam bảo, kẻ nói quấy trống không, ắt phỉ báng Tam bảo. Người nói có ngã chẳng dối gạt chúng sanh, chẳng chê thật tánh, chẳng phương hại pháp tánh, chẳng phương hại chúng sanh, được chứng quả giải thoát, chẳng dạy người khác hủy phạm giới cấm.
Kẻ chẳng hiểu nghĩa không, bài báng tất cả pháp, chẳng hiểu thật tánh, chẳng hiểu pháp danh, phương hại đến sự giải thoát, làm ác tri thức cho biết bao chúng sanh, tự họ chẳng giữ giới, còn dạy người khác hủy giới, thường ưa nói rằng “Không có người làm, không có người nhận”, làm cho nhiều chúng sanh thêm lớn tội Địa ngục. Bởi nghĩa đó gọi là xa lìa Phật pháp Vô thượng.
Thế nào là chẳng hiểu nghĩa “Không”?
-Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam nữ cư sĩ, chẳng tin, nhận lấy cái không (vô tri), chẳng hiểu về Chơn Không chẳng hiểu về Pháp. Đây gọi là chẳng hiểu nghĩa Không. Tại sao vậy? -Vì số kia nói rằng “tất cả pháp bản tánh tự trống không – Cái Không vô nhân duyên” hoặc nói rằng “Tất cả pháp không xứ sở. Nếu không xứ sở thì sao gọi là rỗng rang?”. Đây gọi là chẳng hiểu nghĩa Không.
Thế nào là chơn thật hiểu nghĩa Không?
-Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam nữ cư sĩ nói rằng: “Trong tất cả pháp vì không có tánh, đó gọi là Không, nhưng Pháp cũng chẳng không” Phát biểu như đây gọi là hiểu nghĩa không. Hiểu như thế không hại gì đến nghĩa, chẳng chê bai Tam bảo, gọi là hiểu đúng, không bị lầm lạc.
Thế nào là hiểu đúng?
-Như Sắc chẳng hạn, nói Sắc cho đến Niết Bàn, phân biệt không có tướng, tánh gọi là Sắc không. Do sắc chơn thật lan rộng thế gian, gọi là bất không. Bởi nghĩa này cho nên nói một pháp thuộc về sắc cũng là có, cũng là không. Do hiểu hai nghĩa này cho nên Pháp cũng là Pháp cũng là không, đối trong nghĩa đây chẳng vọng sanh so đo vướng mắc. Đây gọi là chơn thật hiểu nghĩa Không. Thế nên trong kinh Đại thừa có bài kệ:
Một pháp có nhiều tên
Trong pháp thật thì không
Vì không mất Pháp tánh
Lan rộng nơi thế gian.
Như Sắc cho đến Niết Bàn có rất nhiều tên. Sắc lại không tự tánh, không tự tánh ắt không có nhiều tên. Có nhiều tên gọi là sự lan rộng. Bởi nghĩa này mà trong Tạp Tạng nói: “Các đức Thế Tôn chẳng vướng mắc vào sự lan rộng, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghĩ ngợi, hoặc xét biết!”. Như tên của sắc cho đến Niết Bàn gọi là lan rộng. Chư Phật không nói có tánh lan rộng để sanh nhiễm mắc. Vì sao? -Vì phá sự điên đảo. Có nhiễm mắc gọi là điên đảo. Như Lai đã dứt tất cả những ác kiến nên không còn nhiễm mắc. Vì chẳng quan niệm, chẳng nói năng, chẳng nhiễm mắc cho nên gọi là chánh kiến. Bởi Như Lai vì Tỳ kheo Ca Chiên Diên mà nói như vầy:
-Ca Chiên Diên! Đệ tử Như Lai là người chẳng chấp, chẳng vướng mắc các Định thuộc đất, nước, lửa, gió, không, thức. Không chấp Định Vô sở hữu (xứ), định chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng. Chẳng phải đời này, chẳng phải đời sau, chẳng phải ban ngày, chẳng phải ban đêm, chẳng phải thấy, chẳng phải nghe, chẳng phải nghĩ, chẳng phải lường, chẳng phải lấy, chẳng phải được, chẳng phải giác, chẳng phải quán… Như thế mệnh danh là Thiền Định”.
Tỳ kheo chẳng chấp định về đất như thế nào? -Tỳ kheo đối với đất chẳng khởi tướng Đất cho đến giác quán cũng vậy, chẳng khởi tướng giác quán. Đây gọi là chẳng chấp định về Đất, cho đến Định về giác quán.
Nếu Tỳ kheo nào có thể tu tập Định như vậy tức được chư thiên cõi trời Phạm vương, Đế thích khen ngợi, được chư Phật, Bồ Tát mười phương khen ngợi. Chư thiên đều nói: “Nam Mô Đại Sĩ! Nam Mô Đại Sĩ! Chúng tôi chẳng biết ngài ở trong Định nào, tu tập Định nào?”
Nếu có nhiễm sắc tướng đất, tên đất, nên biết người này chẳng mệnh danh là tu về Không Quán. Nếu đối với Sắc chẳng mắc vào danh, tướng, đây gọi là pháp tu Quán Không.
Vì sự lan rộng nên tuyên nói tướng đất và tên đất. Nếu chấp tướng và tên của Sắc, gọi là tướng tăng trưởng. Nếu diệt tướng và tên của sắc, gọi tướng buông xả, chẳng tăng chẳng xả gọi là Trung đạo, tu tập hai thứ tướng như trên (tức tướng tăng trưởng và buông xả), gọi là Tỳ kheo tu tập về đất cho đến giác quán.
Nếu có Tỳ kheo tu tập về định Trung đạo này gọi là Thật tướng. Do Thật tướng nên Tỳ kheo đối với Pháp, không có lời lẽ nói năng, vì tánh các pháp không thể nói, do đó Tỳ kheo không chỗ ngôn thuyết.
-Nếu tất cả pháp đều không thể nói, vì sao lại nói “Bất khả thuyết”?
-Nếu không nói làm sao được nghe? Nếu chẳng nói, chẳng nghe, làm sao biết được tất cả pháp chẳng thể tuyên nói? Do có thể biết cho nên nói ra để lan rộng khắp nơi. Người ngu si chẳng hiểu chẳng biết sự lan rộng. Đối với các pháp, sanh ra tám thứ lầm lạc. Thế nào là tám thứ lầm?
Một là lầm về tánh.
Hai là lầm về phân biệt.
Ba là lầm về nhóm.
Bốn là lầm về ngã.
Năm là lầm về ngã sở.
Sáu là lầm về ái.
Bảy là lầm chẳng ái.
Tám là lầm về chẳng ái, chẳng phải bất ái.
Trong tám sự lầm này, ba thứ đầu (Tánh, Phân biệt, Nhóm) là cái lầm căn bản của tất cả. Chấp tánh, chấp tên, chẳng hiểu sự lan rộng, từ đó lần lượt sinh ra vô lượng sự lầm lạc.
Cái lầm về ngã và ngã sở, gọi chung là Ngã kiến (chấp ngã) ngã kiến lại là căn bản của các chấp. Hai thứ này từ kiêu mạn mà phát sanh, vì thế kiêu mạn là gốc của các chấp. Ba cái lầm sau (ái, chẳng ái, chẳng ái chẳng bất ái) từ ba độc sanh ra. Tám thứ này nhiếp tất cả kiết sử phiền não, làm cho chúng sanh xoay vần luân chuyển trong ba cõi.
Thế nào là cái lầm về tánh?
-Nếu Sắc, tưởng là sắc, cho đến nặng tưởng là nặng. Đây gọi là cái lầm về tánh.
Thế nào là lầm về phân biệt?
-Nếu phân biệt sắc là sắc hay chẳng phải sắc, là có thể thấy hay không thể thấy, là có đối hay không đối. Đây gọi là cái lầm về phân biệt.
Thế nào là cái lầm về nhóm?
-Như nơi sắc thấy có ta, có người, chúng sanh, thọ mạng, nhà ở, bốn chúng, binh lính, tộc họ, y phục, ăn uống, hoa sen, ghe chở, cây cối, chất chứa v.v…Trong mỗi cái như thế, mỗi cái là một tướng. Đây gọi là cái lầm về nhóm.
Thế nào gọi là cái lầm về ngã và ngã sở?
-Trong pháp hữu lậu mà bảo thủ cái ta và sở hữu của ta, trong vô lượng đời, luôn luôn sanh tâm chấp giữ, so đo về bản ngã và những gì thuộc bản ngã. Đó gọi là cái lầm về ngã và ngã sở.
Thế nào là cái lầm về ái?
-Đối với vật sạch sanh tâm yêu đắm. Đó là cái lầm về ái.
Thế nào là cái lầm chẳng ái?
-Đối với vật chẳng sạch, sanh tâm giận dỗi. Đó là cái lầm chẳng ái.
Thế nào là cái lầm chẳng phải ái, chẳng phải bất ái?
-Đối với tất cả các vật sạch hay chẳng sạch, sanh tâm tham giận. Thế gọi là cái lầm chẳng phải ái, chẳng phải bất ái.
Như trên gọi là tám cái lầm.
Đại Bồ Tát làm sao có thể biết được tám thứ lầm này? -Nên suy xét bốn điều:
Một là suy về tên.
Hai là suy về vật.
Ba là suy về tánh.
Bốn là suy về phân biệt.
Thế nào là suy về tên?
-Đại Bồ Tát chỉ gọi là tên là tên, mà không có quan niệm về tên của vật. Đây gọi là suy về tên.
Thế nào là suy về vật?
-Chỉ biết vật là vật, ngoài ra chẳng phân biệt gì khác. Thế gọi là suy về vật.
Thế nào là suy về tánh?
-Biết tên gọi là sự lan rộng. Đây gọi là suy về tánh.
Thế nào là suy về phân biệt?
-Nơi tên chẳng quan niệm về vật. Nơi vật chẳng quan niệm về tên. Thế gọi là suy về phân biệt.
Đại Bồ Tát vì sao suy về tên gọi?
-Vì để biết “cái gọi là tên thật” thế nên Bồ Tát suy xét về tên. Bồ Tát quán kỹ: Nếu không tên của sắc, do đâu mà nói sắc. Nếu không nói đến sắc làm sao mà quán sắc. Nếu không quán sắc làm sao để được Vô thượng Bồ Đề. Do đó Bồ Tát suy tầm biết tên.
Bồ Tát do gì suy tầm về tên?
-Nếu như không vật, cái gì có tên gọi đây? Nhưng cái tên để gọi này, chẳng phải là không thể nói, nếu không thể nói làm sao biết được tánh các pháp. Do đó Bồ Tát suy tầm về vật.
Bồ Tát do gì suy tầm về Tánh?
-Đại Bồ Tát biết về tánh của sắc, cho đến tánh của Niết Bàn. Biết sự lan rộng của sắc cho đến sự lan rộng của Niết Bàn. Thế nào là biết về tánh của sắc? -Biết tánh của sắc đây như hình tượng trong gương, huyễn hoá không thật, như mộng ảo, như bóng, như vang, như tia lửa chớp, hay như ánh trăng dưới nước. Thế gọi là suy về Tánh.
Bồ Tát do gì mà tầm về Phân biệt?
-Đại Bồ Tát hoặc phân biệt về tên, phân biệt về vật, phân biệt về tánh, phân biệt về pháp, phân biệt chẳng phải pháp, phân biệt là có, là không, là sắc, chẳng phải sắc, có thể quan niệm, không thể quan niệm v.v…Đó gọi là Phân biệt. Do phân biệt nên được Vô thượng Bồ Đề, vì thế Bồ Tát suy tầm về phân biệt.
Đại Bồ Tát vì hoại diệt tám thứ lầm mà suy xét về bốn điều như trên.
Vì sao Bồ Tát hoại diệt tám thứ lầm này?
-Vì nhân duyên tám thứ lầm làm tăng trưởng tà kiến. Tà kiến tăng nên phiền não càng thêm lớn. Phiền não thêm lớn sanh tử càng thêm lớn, mười hai nhân duyên càng thêm lớn.
Nếu Bồ Tát tu bốn pháp như thế là trừ tà kiến. Tà kiến chấm dứt, các phiền não bị diệt, phiền não diệt nên sanh tử diệt, vì sanh tử diệt, mười hai nhân duyên diệt. Rõ mười hai nhân duyên diệt cho nên tu đạo Vô thượng, tu đạo Vô thượng nên chứng Vô thượng Bồ đề. Chứng Vô thượng Bồ Đề rồi, luôn luôn hoại diệt tám thứ mê lầm như trên của chúng sanh, luôn luôn giáo hóa chúng sanh rõ biết nghĩa lan rộng thế gian và thuyết minh nghĩa chân thật, hoặc trừ dứt những cái mê lầm như vậy của chúng sanh, mệnh danh là Đại Niết Bàn. Vì hiện đời được sức đại tự tại, vì được thần thông lớn, vì được phương tiện lớn, vì được thiền định lớn, được nhứt thiết trí rộng lớn, vì cầu được chẳng thoái, chẳng đọa, gọi là Đại Niết Bàn.
Đại Bồ Tát được sức tự tại, thành tựu năm điều: Một là tâm được vắng lặng. Hai là biết rõ việc thế, xuất thế gian. Ba là vì chúng sanh mà ở nơi đường sanh tử nhưng tâm không buồn rầu. Bốn là biết rõ ràng tạng pháp bí yếu sâu thẳm của Như Lai. Năm là tâm Bồ Đề không thể nào hư hỏng.
Vì sao tâm của Bồ Tát vắng lặng?
-Vì luôn luôn phá hoại phiền não của chúng sanh, nên tâm được vắng lặng.
-Vì điều phục chúng sanh, làm cho chúng sanh được Phật pháp, cho nên biết rõ sự việc thế xuất thế gian.
-Vì làm cho chúng sanh được căn tánh lanh lợi, cho nên thích ở trong sanh tử mà tâm không buồn rầu.
-Vì thọ trì giải nói nghĩa thậm thâm bí mật của Như Lai, để phá nghi tâm của những kẻ xấu ác muốn hoại diệt Phật pháp, muốn làm ô nhục Phật pháp, phạm nói không phạm, pháp nói phi pháp, nhận chứa tám vật bất tịnh v.v….
Dầu biết nghĩa lý vi tế trong các sách luận lý ngoại đạo mà không bị hư hỏng tâm Bồ Đề.
Năm điều trên đây nhiếp lấy sự nghiệp Bồ Đề của Bồ Tát, cũng gọi là năm công đức.
Những gì gọi là sự nghiệp Bồ Đề?
-Vì có sự tự tại, điều phục chúng sanh, thọ trì Phật pháp, chẳng phá cấm giới của Bồ Tát, tu học tâm Bồ Đề không nghiêng ngả, siêng tu tinh tấn, phá hoại tà kiến v.v… Và thuyết minh về Tam thừa.
Bồ Tát thành tựu năm sự như trên, gồm có ba hạng: Thượng, Trung, Hạ.
Đầy đủ hai thứ(1) gọi là bực hạ. Đầy đủ ba thứ(2) gọi là bực trung. Đầy đủ bốn thứ(3) gọi là bực thượng.
Chú thích:
(1) Đầy đủ hai thứ: Tức là suy về tên và suy về vật.
(2) Đầy đủ ba thứ: Tức suy về tên, suy về vật, suy về tánh.
(3) Đầy đủ bốn thứ: Như ba thứ trên, thêm nữa là suy về phân biệt.
PHẨM THỨ SÁU: CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN
Thế nào là sự không thể nghĩ bàn của Đại Bồ Tát?
-Đại Bồ Tát chứng chánh định tự tại, phát tâm rồi, được công đức chẳng thể lường, chẳng tạo tác nghiệp mà được quả báo, chẳng tu Thánh Đạo, mà được thánh tâm. Đây là sự không thể nghĩ bàn của Đại Bồ Tát.
Tạo thiện nghiệp ít, được quả báo lớn, vì đạo Bồ Đề nên trong vô lượng kiếp tu các hạnh khổ. Bồ Tát biết rõ thật không chúng sanh, nhưng luôn luôn vì chúng sanh mà siêng tu khổ hạnh, rõ biết không người tạo tác, không người thọ nhận, nhưng vẫn luôn luôn tạo tác và luôn luôn chịu đựng. Thế là sự không thể nghĩ bàn của Đại Bồ Tát.
Sự không thể nghĩ bàn này có năm:
Một là: Sáu thần thông không thể nghĩ bàn.
Hai là: Pháp chẳng thể nghĩ bàn.
Ba là: Sống chung chẳng thể nghĩ bàn.
Bốn là: Chẳng sống chung không thể nghĩ bàn.
Năm là: Chung và chẳng chung không thể nghĩ bàn.
Sáu thần thông là những gì?
Một là Thần túc. Hai là Thiên nhãn.
Ba là Thiên nhĩ. Bốn là Tha tâm.
Năm là Túc mạng. Sáu là Lậu tận.
Thế nào là pháp chẳng thể nghĩ bàn?
-Đó là sáu pháp Ba la mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ.
1. Thần thông là gì? -Thần thông có hai: Một là biến. Hai là hoá.
-Sao gọi là Biến? Nghĩa là làm chấn động, phát ra lửa, tuôn ra ánh sáng, tự chuyển đổi thân hoặc qua lại trong hư không, hiện các thứ sắc, hoặc ẩn hoặc hiện ở giữa đại chúng, hoặc làm chướng ngại thần thông kẻ khác, lời lẽ không ngại, làm cho kẻ khác nhớ lại, đem sự hoan hỷ cho nhiều người, phóng ánh sáng lớn v.v…Như thế gọi là thần thông biến hiện.
Làm chấn động là thế nào?
-Đại Bồ Tát chứng được chánh định tự tại có thể làm rung nhà cửa, thôn xóm, thành lũy, cõi nước. Từ một thứ thiên hạ cho đến một tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, đại thiên thế giới, một trăm đại thiên thế giới, một ngàn đại thiên thế giới, ngàn vạn đại thiên thế giới cho đến chấn động vô thiên thế giới. Đó gọi là chấn động.
Thế nào là phát ra lửa?
-Trên thân phun ra nước, dưới thân phun ra lửa, trên thân phun ra lửa, dưới thân phun ra nước, hoặc cử động thân phát ra ánh lửa với đủ màu sắc: xanh, vàng, đỏ, tím, đen…Thế gọi là Phát ra lửa.
Thế nào là tuôn ra ánh sáng?
-Nơi thân phát ra ánh sáng đầy khắp một nhà, một xóm, một thành, một nước, cho đến vô lượng vô biên đại thiên thế giới.
Thế nào là thị hiện?
-Chư Phật, Bồ Tát vì độ chúng sanh mà thị hiện địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Trời, Người, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già. Hoặc hiện thân Phật, thân Bồ Tát khắp mười phương vô lượng vô biên Hằng hà sa cõi nước cùng chư Bồ Tát quyến thuộc nói danh hiệu Phật làm cho chúng sanh hay biết. Đây gọi là thị hiện.
Thế nào là chuyển đổi thân?
-Chư Phật, Bồ Tát chứng chánh định tự tại có thể biến đất làm lửa, biến lửa làm nước, biến gió cũng vậy. Biến màu sắc thành mùi thơm. Biến mùi thơm thành màu sắc. Hương, vị, xúc biến làm cỏ cây, quần áo, thức ăn, đồ trang sức, chén bát, đá gạch, tiền tệ, lưu ly, chơn châu, vàng bạc… Sắc tốt thành sắc xấu, sắc xấu thành sắc tốt… Đây gọi là chuyển đổi.
Thế nào là qua lại?
-Hoặc qua đến chỗ Phạm thiên, từ Phạm thiên trở về, hoặc lên cõi trời Sắc cứu cánh trở về, hoặc đến phương Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, cho đến vô lượng vô biên thế giới cũng vậy. Xa có thể làm gần, gần có thể làm xa, có thể làm cho núi Tu di nhỏ như hạt bụi, hạt bụi lớn như núi Tu di v. v…Đây gọi là qua lại.
Thế nào là hiện các thứ sắc?
-Có thể biến tự thân trở thành người nam người nữ, lớn, nhỏ, đứa ở, cây rừng, thảo mộc…Đó là hiện các thứ sắc.
Thế nào là ẩn hiện tự tại giữa đại chúng?
-Có thể đem thân đại chúng nhập vào thân mà tâm không sợ, thân không chướng ngại, các đại chúng này mỗi mỗi đều không tự biết chỗ nơi qua lại. Hoặc có khi qua đến chỗ đông đảo Bà la môn hiện hình giống như họ, cũng một màu sắc, hình chất, y phục, tiếng nói không khác gì những kẻ ấy. Họ nói gì cũng có thể nói được. Có thể dùng phương tiện hay khéo dẫn dắt những kẻ kia, chỉ dạy xong rồi liền đó biến mất. Đám đông ấy chẳng biết là từ đâu đến, biến đâu đi đâu, không biết là người hay là trời.
Như đám đông Bà la môn, đám đông Sắt đế lợi (quý tộc), đám đông trưởng giả, Tứ thiên vương, Đao Lợi Thiên, Dạ ma Thiên, Đâu xuất đà Thiên, Hoá Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, Đại Phạm Thiên, Thiểu Tịnh Thiên, Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên, Phước Sanh Thiên, Phước Ái Thiên, Quảng Quả Thiên, Nghiêm Sức Thiên, Vô Lượng Nghiêm Sức Thiên, Nghiêm Sức Quả Thiệt Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Thiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Cách Thiên….Sự ẩn hiện thân tại cũng như vậy. Ở nơi những chỗ đông đảo chư thiên như thế, trong khoảng thời gian ngắn, có thể trăm lần hiện, trăm lần ẩn, ngàn lần hiện, ngàn lần ẩn, vạn lần hiện, vạn lần ẩn, ngàn vạn lần hiện, ngàn vạn lần ẩn. Đây gọi là ẩn hiện tự tại giữa đại chúng.
Thế nào là làm chướng ngại thần thông kẻ khác?
-Đại Bồ Tát chứng được thần thông, trừ đức Phật và các Bồ Tát đồng tánh, đồng hành, đồng chánh định, ngoài ra, những chúng sanh lớp sau, có bao nhiêu sức thần thông, Bồ Tát đều hơn tất cả. Đó gọi là chướng ngại thần thông kẻ khác.
Thế nào là lời lẽ không ngại?
-Khi Đại Bồ Tát nói pháp, lời lẽ vô tận, ý vị, nghĩa lý vô tận, lạc thuyết vô tận. Đó gọi là lời lẽ vô ngại.
Thế nào là giúp kẻ khác nhớ lại?
-Khi Đại BồTát nói pháp, những gì xảy ra trong vô lượng đời trước của vô lượng chúng sanh họ đều quên hết, Bồ Tát đều có thể làm cho họ nhớ lại. Đây gọi là giúp kẻ khác nhớ lại.
Thế nào là đem lại sự hoan hỷ cho nhiều người?
-Khi Đại Bồ Tát nói pháp, có thể làm cho chúng sanh tăng trưởng sự an vui, hoại diệt các phiền não, những người nghe vui vẻ như ở đệ tam thiền, các chứng bệnh thuộc thân tứ đại đều tiêu diệt trong một lúc, các thứ ác quỷ chẳng thuận tiện làm hại. Đó là đem lại sự vui vẻ cho nhiều người.
Thế nào là phóng ánh sáng lớn?
-Đại Bố Tát phóng quang minh lớn soi suốt mười phương vô lượng thế giới. Ánh sáng đến địa ngục phá hoại sự khổ của chúng sanh nơi địa ngục, chiếu đến cõi trời Phóng Dật, chỉ dạy chúng sanh nơi đó tu pháp Nhơn thừa, để được thân người qua đến chỗ Phật, đồng thời mời thỉnh vô lượng Bồ Tát nhóm lại chỗ Phật dạy dỗ chúng sanh. Đây gọi là phóng ánh sáng lớn.
Những việc như trên gọi là Thần Thông Biến Hiện. Vì đổ pháp tánh, nên gọi là thần thông biến hiện.
Thế nào là Thần thông Hoá hiện?
-Vật không là vật, cho nên gọi là Hóa, như hóa thân, hóa tiếng chẳng hạn. Hóa thân là, hoặc hóa giống thân mình, hoặc giống thân người, có đủ giác quan, hoặc không đủ giác quan v.v.. Ngoài ra như trong đoạn chuyển đổi thân ở trước.
Lại nữa, hóa làm vô lượng thân. Chư Phật, Bồ Tát vì khắp chúng sanh hóa làm vô lượng thân trong khắp vô lượng cõi. Chư Phật, Bồ Tát hiện thân biến hoá, có thân như huyễn, có thân chơn thật, hoặc hiện áo quần, thức ăn, vàng bạc, lưu ly, chơn châu, pha lê v.v…lại cũng như vậy, để phá sự nghèo nàn khốn khổ của chúng sanh. Đó gọi là hóa thân.
-Hóa ra tiếng: chư Phật, Bồ Tát hóa hiện tiếng hay, tiếng nhanh, tiếng thanh tao, tiếng tự nói nghĩa, tiếng người khác nói nghĩa, tiếng vô tình, tiếng thuyết pháp, tiếng giáo hóa v.v…Dùng các tiếng này có thể phá tâm buông lung của các chúng sanh. Đây gọi là tiếng hóa hiện.
Tiếng của Phật, Bồ Tát xa thẳm như tiếng sấm vang, trong trẻo như tiếng chim Ca lăng Tần Già, tiếng được người nghe vui thích, tiếng khắp vũ trụ, tiếng rõ ràng, tiếng dễ hiểu, tiếng không vướng mắc, tiếng hoan hỷ, tiếng không thể chê bai, tiếng vô tận. Các thứ tiếng như trên của Đại Bồ Tát, nếu trong một tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu chư thiên nhơn, bao nhiêu Thanh văn, Duyên Giác và bao nhiêu Bồ Tát dù xa, dù gần, tất cả đều nghe. Trong tiếng như thế phát ra các thứ pháp môn làm lợi ích chúng sanh.
Tiếng tự hóa là gì?
-Như tự nói pháp để giáo hóa chúng sanh buông lung.
Tiếng tha hóa là gì?
-Như đức Phật hóa ra tiếng người khác nói pháp để độ những chúng sanh buông lung.
Tiếng vô tình là gì?
-Như trong hư không phát ra tiếng nói.
Tiếng nói pháp là gì?
-Vì chúng sanh si mê mà nói pháp.
Tiếng giáo hóa là gì?
-Vì kẻ buông lung làm tăng trưởng tánh không buông lung.
Chư Phật, Bồ Tát đồng hóa thiện nhiều thần thông như vậy, lần lượt không thể kể xiết, thần thông biến hóa vô lượng không thể tính kể. Những sự biến hóa như vậy đều vì hai việc: Một là, làm cho chúng sanh phát sanh lòng tin hướng về Tam bảo. Hai là, vì chỉ ruộng phước vô thượng cho những chúng sanh nghèo hèn khốn khổ.
(Trên đây là nói rõ ý nghĩa thần thông biến hóa. Dưới đây nói về lục thông).
Trí Túc mạng như thế nào?
-Đại Bồ Tát tự biết đời trước của mình với các chúng sanh liên hệ, cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc. Biết giòng tộc của mình và giòng tộc của vô số người khác. Biết sự ăn uống, sự khổ vui của mình và của vô số người khác.
Đại Bồ Tát tự biết đời trước như vậy và có thể dạy người khác, làm cho họ biết được kiếp trước. Tự biết những việc xảy ra trong vô lượng đời. Đây gọi là Trí Túc mạng. Do Trí Túc mạng này mà có thể nói ra nhân duyên, gốc gác thuở xưa của Bồ Tát, làm cho chúng sanh đối với Phật pháp phá sanh lòng tin. Nói ra các kinh Bổn Sanh, Bổn sự của chư Phật, Bồ Tát, nói nhân duyên nghiệp ác, nghiệp thiện, để phá chấp thường chấp đoạn của những chúng sanh tà kiến. Đây gọi là Trí Túc mạng của Đại Bồ Tát.
Thế nào là thiên nhãn thông?
-Đại BồTát với thiên nhãn thanh tịnh, hơn hẳn mắt của người đời. Thấy các chúng sanh chết nơi này sanh nơi nọ, nào sắc tốt, sắc xấu, nào nghiệp lành, nghiệp dữ, nào quả lành, quả dữ, người già, người trẻ, hoặc tự tạo nghiệp, hoặc bảo người gây tạo, nào thô, nào tế, hình sắc của người, của trời, hình sắc nơi ba đường ác, cho đến hình sắc của vô lượng chúng sanh trong vô lượng thế giới, vô lượng Phật độ ở khắp mười phương. Những sự vật như vậy, Bồ Tát đều thấy rõ, và khi các đức Phật trong mười phương thuyết pháp, cũng rõ thấu một cách sáng suốt. Đây gọi là thiên nhãn thông.
Thế nào là Thiên nhĩ thông?
-Những gì thuộc về âm thanh, lời lẽ, Đại Bồ Tát đều nghe rõ suốt. Hoặc tiếng cõi trời, tiếng loài người, tiếng thánh nhơn, tiếng chẳng thánh, tiếng to, tiếng nhỏ, tiếng biến hóa, tiếng thật sự, tiếng xa, tiếng gần v.v…
Tiếng cõi trời là sao? -Từ cõi trời Dục giới cho đến cõi trời Sắc cứu cánh thuộc về Sắc giới (có 18 cõi), tột đến vô lượng thế giới ở phương trên, có những âm thanh của chư thiên, Bồ Tát đều nghe tất cả.
Tiếng loài người? -Tiếng của loài người trong vô lượng thế giới ở khắp mười phương.
Tiếng Thánh là sao? -Tiếng của chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác vì giáo hóa chúng sanh mà tuyên nói Phật pháp. Hoặc khen ngợi các thiện nghiệp bố thí, trì giới v.v…để phá những ác nghiệp. Hoặc tiếng đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Phật. Đây gọi là tiếng Thánh.
Tiếng không phải Thánh? -Nghĩa là những lời nói dối, hai lưỡi, nói ác, nói thêu dệt, nói vô nghĩa, dưới là ba đường ác, trên đến cõi trời cao nhất thuộc Dục giới, bao nhiêu chư thiên và mười phương chúng sanh có những lời gì xấu ác, gọi là tiếng chẳng phải thánh.
Tiếng to là sao? -Tiếng của nhiều người, tiếng kêu vang trong địa ngục, tiếng sấm rền, tiếng tù và, tiếng trống v.v…Đây là tiếng to.
Tiếng nhỏ là sao? -Tiếng nói thầm, tiếng không rõ như tiếng các nước Đà tỳ la, Lật Đặc, Nguyệt Chi, An Tức, là những nước biên địa, tiếng nói không rõ, khó hiểu. Đây gọi là tiếng nhỏ.
Bồ Tát thành tựu Thiên nhĩ, nghe chúng sanh phát ra những lời tán thán cung kính, bèn dạy chúng sanh phát khởi tín tâm ở vào Phật pháp, vì chúng sanh mà phân biệt, giải nói mười hai phần giáo và bí tạng Bồ Tát. Nếu nghe lời xấu ác và mở bày pháp môn đối trị. Đây gọi là Thiên nhĩ thông của Đại Bồ Tát.
Thế nào là tha tâm trí thông của Đại BồTát?
-Đại Bồ Tát biết khắp những mê lầm chung và mê lầm riêng trong tâm của bao chúng sanh trong khắp thế giới khắp mười phương, biết những phiền não trói buộc và không trói buộc, biết những tâm nguyện lành và tâm nguyện ác, biết tâm nghi ngờ và tâm không nghi ngờ, tâm tham lam, giận dỗi, si mê. Biết tâm chúng sanh ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, nhẫn đến tâm chịu khổ vui hay chẳng khổ vui của những chúng sanh trong đường súc sanh. Dùng một tâm quán sát tâm của một chúng sanh, dùng một tâm quán sát tâm của vô lượng chúng sanh. Đây gọi là Tha tâm trí thông.
Tha tâm trí thông của Phật, Bồ Tát biết rõ căn tánh lanh lợi hay chậm lụt, vì biết được căn tánh cho nên sau khi chúng sanh có những căn lành nào, liền diễn nói mười hai phần giáo và Bồ Tát Tạng. Trái lại, biết tâm ác liền quở trách, nói rõ tội lỗi nghiệp ác. Như thế gọi là tha tâm trí thông của Bồ Tát.
Thế nào là Lậu tận trí thông?
-Đại Bồ Tát vì đoạn phiền não mà tu tập Đạo. Vì phá hoại phiền não của chúng sanh mà thuyết pháp. Vì phá hoại tâm kiêu mạn hữu lậu của chúng sanh mà thuyết pháp, để dứt trừ cái mê lầm chẳng phải Đạo mà cho là Đạo của chúng sanh.
Đại Bồ Tát tuy vì chúng sanh nói pháp dứt trừ lậu hoặc, nhưng tự mình chưa rốt ráo sạch hết lậu hoặc, (vì chưa chứng quả Phật). Dầu chưa hoàn toàn sạch hết lậu hoặc, nhưng không bị lậu hoặc làm ô nhiễm thêm nữa.
Lậu tận trí thông của Bồ Tát không thể nghĩ bàn. Tu lậu tận trí là để giáo hoá khiến chúng sanh bỏ tâm kiêu mạn. Đây gọi là Lậu Tận Trí Thông.
2. Thế nào là Pháp chẳng thể nghĩ bàn?
-Kết quả của bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật. Đây gọi là Pháp. Kết quả sáu độ này, mỗi độ đại hoại có bốn điều: Một là vì tu tập đạo. Hai là vì trang nghiêm Vô thượng Bồ đề. Ba là lợi ích tự và tha. Bốn là được kết quả lành rất lớn ở đời sau.
Bồ Tát thực hành bố thí nhằm phá hoại cá tánh sẻn tham, trang nghiêm đạo Bồ Đề mà thực hành bố thí. Muốn thí, lúc thí, thí xong hoan hỷ. Đây gọi là tự lợi. Dứt trừ đói khát, nóng lạnh, khổ buồn, sợ sệt của chúng sanh, gọi là lợi tha. Bỏ thân này rồi được sức tự tại, của cải dồi dào tôn quý, ấy là quả lớn. Đó là bốn điều thuộc bố thí độ của Bồ Tát.
Đại Bồ Tát thọ và giữ gìn giới cấm, trừ diệt giới ác, trang nghiêm đạo Bồ Đề nhiếp lấy chúng sanh. Vì đạo Bồ Đề mà kiên trì giới cấm. Lìa sự lo sợ của nghiệp phá giới, ngủ yên, thức yên, tâm không hối hận mà là sung sướng, vui đẹp. Đây là tự lợi. Đối với chúng sanh không lòng làm hại, đem chúng sanh sự không sợ sệt, gọi là lợi tha. Do giữ giới cấm cho nên cảm thọ cái vui cõi trời, cõi người và được đạo Niết bàn. Đó là quả lớn. Ấy là bốn điều thuộc Trì Giới Độ của Bồ Tát.
Đại Bồ Tát tu nhẫn nhục để phá tâm bất nhẫn, trang nghiêm đạo Bồ Đề, nhiếp lấy chúng sanh, vì đạo Bồ Đề mà tu nhẫn nhục. Tự mình, hoặc khiến người khác đều xa lìa sợ sệt. Đây là tự lợi, lợi tha. Do nhân duyên Nhẫn nên lòng không giận dỗi, quyến thuộc chẳng hư hỏng, chẳng bị khổ não, tâm không hối hận. Bỏ thân này rồi, cảm thọ sự vui cõi trời, cõi người và được đạo Niết bàn, gọi là quả lớn. Đó là bốn điều thuộc Nhẫn nhục Độ của Bồ Tát.
Đại Bồ Tát siêng tu tinh tấn, phá bỏ sự biếng nhát, trang nghiêm đạo Bồ Đề nhiếp lấy chúng sanh, vì đạo Bồ Đề mà tu tinh tấn, ngủ yên, thức yên, lìa các phiền não, pháp lành thêm lớn, thân thọ an vui, đây là tự lợi. Bồ Tát tinh tấn chẳng buồn những kẻ đánh ném, quở mắng mình, đó là lợi tha. Bỏ thân này rồi, cảm thọ sự vui cõi trời cõi người, thân được sức khỏe rất mạnh, được đạo Bồ Đề. Đây gọi là quả lớn. Ấy là bốn điều thuộc Tinh Tấn Độ của Bồ Tát.
Đại Bồ Tát tu Thiền định để phá tâm tán loạn, trang nghiêm đạo Bồ Đề, nhiếp lấy chúng sanh. Vì đạo Bồ Đề mà siêng tu thiền định, hiện thời thọ vui, thân tâm vắng lặng. Đây là tự lợi. Do thân tâm vắng lặng nên không làm phiền lụy chúng sanh, ấy là lợi tha. Bỏ thân này rồi, thọ thân trong sạch, an ổn sung sướng, được đạo Niết bàn gọi là quả lớn. Đó là bốn điều thuộc Thiền Định Độ của Bồ Tát.
Đại Bồ Tát thành tựu trí tuệ, phá hoại vô minh, trang nghiêm đạo Bồ Đề, dùng bốn Nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sinh, vì đạo Bồ Đề mà tu trí tuệ, vì rõ Pháp giới cho nên thọ an vui. Đây là tự lợi. Hay dạy chúng sanh các việc thế gian, ấy là lợi tha, luôn luôn phá hoại hai chướng phiền não, sở tri, gọi là quả lớn. Bốn điều này thuộc Trí tuệ Độ của Bồ Tát.
3. Thế nào là sống chung chẳng thể nghĩ bàn?
-Đại Bồ Tát không phải dùng trí Túc mạng để nhớ biết việc đời trước, mà là xem xét nghiệp lành, nghiệp dữ của các chúng sanh. Sự cùng chịu khổ là muốn chúng sanh được lợi ích.
Đại Bồ Tát ở cung trời Đâu Xuất, thành tựu thọ mạng lâu dài. Có ba điều hơn. Một là sống lâu hơn. Hai là sắc thân hơn. Ba là tiếng đồn hơn.
Từ cung trời Đâu Xuất, lúc mới hạ sanh xuống nhân gian, Bồ Tát phóng ánh quang minh chiếu khắp mười phương, rõ ràng tự biết vừa vào thai mẹ, thời gian thụ thai, lúc xuất thai, khi sanh ra bước đi bảy bước, xoay mặt ngó khắp mười phương, không nhờ người phò đỡ và thốt lời như vầy: “Thân của ta nay là thân cuối cùng” Chư Thiên và các bộ chúng quỷ thần đem hương hoa quý báu, âm nhạc vi diệu, tràng phan, bão cái cúng dường, thân Bồ Tát đầy đủ ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm, thân không ai bằng. Bởi sức Từ Thiện mà hoại ma binh. Mỗi mỗi bộ phận cơ thể mà có sức mạnh như trời Na la Diên. Lúc còn thơ ấu chẳng học việc đời nhưng biết tất cả, không thầy dạy học mà tự mình chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề. Phạm Thiên khuyến thỉnh vì các chúng sanh mà chuyển Pháp luân. Sức thiền định kiên cố, dù sét vang, sấm nổ cũng không làm lay động, các giống thú gần gũi mến như cha mẹ, súc sanh biết được đem dâng hiến thức ăn thần mây tuông mưa tắm gội thân thể, thần cây vươn nhánh che mát chỗ ngồi. Khi đã thành đạo, trong sáu năm đầu ma thường rình rập nhưng chẳng tìm thấy điều gì sơ hở, luôn luôn ở trong trạng thái thiền định, thành tựu niệm tâm, khéo rõ biết sự sanh diệt của giác quán. Đây gọi là Sống Chung Chẳng Thể Nghĩ Bàn của Đại Bồ Tát.
4. Chẳng Sống Chung Không Thể Nghĩ Bàn:
-Chẳng sống chung là sao?
Vì muốn lợi ích cho khắp chúng sanh, như kẻ cuồng nọ do thấy Như Lai mà được tỉnh trở lại, người mù được sáng mắt, kẻ sanh nghịch được thuận sanh, kẻ điếc được nghe tiếng, người nhiều tham, giận, si, được trừ diệt tham, giận, si v.v…Đây gọi là chẳng Sống Chung Không Thể Nghĩ Bàn.
Lại nữa, sự sống chung là: Cũng có những việc đi, đứng, ngồi, nằm, ăn uống, thức ngủ như mọi người, nhưng những gì về động tác của Như Lai không thể nghĩ bàn: Luôn luôn mằm nghiêng về hông bên phải, nằm như dáng sư tử chúa, đầu nằm trên cỏ, trên lá cũng không động đậy cỏ lá. Dầu có gió bão mãnh liệt như gió chướng tỳ lam cũng không làm lay động y phục. Khi bước chân đi như sư tử chúa, hay chúa loài bạch nga. Khi muốn đi đâu, chân phải đi trước, chỗ Phật đi qua dầu có cao thấp cũng thành bằng phẳng. Tuy ăn, nhưng không hạt cơm nào rơi vào trong miệng. Đây gọi là Sống Chung Không Thể Nghĩ Bàn.
5. Thế nào là Chung mà chẳng chung?
-Chẳng chung với Thanh văn, Duyên giác, có ba điều chẳng chung với Thanh văn, Duyên giác: Một là Tế. Hai là Hạnh. Ba là Giới.
Như Lai rõ biết vô lượng phiền não của vô lượng chúng sanh, và có vô lượng pháp môn đối trị. Đây gọi là Tế.
Sáu thần thông, Sáu pháp Ba la mật chẳng thể nghĩ bàn, từ Pháp tánh sanh ra, gọi là Hạnh.
Giới nghĩa là: Tất cả thế gian không thể làm trở ngại Trí tuệ của Phật. Đó gọi là giới. Chẳng chung không thể nghĩ bàn là như vậy.
Thần thông của Thanh văn trong phạm vi một trung thiên thế giới (1 triệu tiểu thế giới). Thần thông của Duyên giác trong phạm vi một đại thiên thế giới (1 tỷ tiểu thế giới). Chư Phật, Bồ Tát thông đạt Vô lượng vô biên thế giới. Đây gọi là chẳng chung.
Sự chẳng chung là trừ ba điều trên, ngoài ra các điều khác có thể đồng. Vì vậy Thanh Văn và Duyên Giác còn chẳng được chung với Phật, Bồ Tát, huống gì hạng phàm phu, hàng trời người hay kẻ tà kiến.
Sáu Độ Ba la mật của Đại Bồ Tát cũng từ Pháp tánh chung sanh mà chẳng sống chung.
Thanh Văn, Duyên Giác chung pháp mà chẳng đồng pháp.
Đây gọi là chẳng thể nghĩ bàn.