1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

QUYỂN 7

PHẨM THỨ MƯỜI CHÍN: NHỮNG PHÁP TRỢ BỒ ĐỀ KHÁC

Thế nào là Đà la ni của Bồ Tát?

-Đà la ni có bốn thứ:

1.Pháp Đà la ni.

2.Nghĩa Đà la ni.

3.Từ Đà la ni.

4.Nhẫn Đà la ni.

Pháp Đà la ni: Tâm của Bồ Tát được sự nhớ nghĩ. Nhờ sức nhớ nghĩ cho nên Bồ Tát được trí tuệ lớn, do sức trí tuệ lớn cho nên Bồ Tát biết các pháp giới, vững tâm thọ trì lời lẽ, chữ, câu, trải vô lượng đời không hề quên mất.

Nghĩa Đà la ni: Như Pháp Đà la ni nói trên, thêm nữa là tùy thuận giải thích nghĩa lý, trong vô lượng đời thọ trì chẳng quên.

Từ Đà la ni: Đại Bồ Tát vì phá những điều ác của chúng sanh mà thọ thần chú, đọc tụng thông lợi và làm lợi ích vô lượng chúng sanh. Vì chú thuật nên Bồ Tát thọ trì năm pháp: Một là không ăn thịt. Hai là không uống rượu. Ba là không ăn năm thứ cay nồng. Bốn là không dâm dục. Năm là không ăn uống trong những gia đình bất tịnh.

Bồ Tát đầy đủ năm pháp như trên, có thể làm điều lợi ích rất lớn vô lượng chúng sanh. Các chứng bệnh ngặt như bị quỷ thần hung dữ ám nhập, những bệnh nơi thân hay các thứ độc hại, không chứng bệnh nào mà Đại Bồ Tát chẳng thể chữa trị.

Nhẫn Đà la ni: Đại Bồ Tát nhờ sức mạnh trí tuệ cho nên tâm người ưa vui vắng lặng, chẳng cùng ở chung với người nào khác, lặng lẽ không nói, không có bạn lữ, với sự cốt sao vừa đủ, chỉ ăn độc nhất một thứ thức ăn, tọa thiền, tư duy, ban đêm không ngủ. Bấy giờ đức Phật đem đại Đà la ni truyền dạy để Bồ Tát này trì tụng: ẤT TRÍ, MẬT TRÍ, Ỷ TRÍ TỲ, SẰN ĐỀ, BÁT ĐÀN NA, TÁ HA.

Khi ấy Bồ Tát từ nơi đức Phật nhận lãnh chú rồi, quán sát mật chú với tâm sâu xa, biết chữ không nghĩa. Vì chữ không nghĩa cho nên sự nói không nghĩa. Do vì không nghĩa nên tất cả pháp chẳng thể tuyên nói. Nghĩa ở đây là Nghĩa Không Nghĩa của tất cả pháp. Do lực của Nhẫn cho nên có thể biết rất rõ ràng bốn thứ Đà la ni, vì thường đầy đủ Nhẫn Đà la ni nên chẳng bao lâu Bồ Tát sẽ chứng Vô thượng Bồ Đề.

Trong a tăng kỳ kiếp thứ nhất đại Bồ Tát tu tập thực hành, được Pháp và Nghĩa Đà la ni trên.

Nhờ Pháp và Nghĩa Đà la ni này mà tu chánh định, do tu chánh định mà phát đại nguyện cho nên Bồ Tát được Từ và Nhẫn Đà la ni.

Nếu như Bồ Tát đầy đủ bốn việc là được bốn thứ Đà la ni nêu trên. Bốn việc ấy là gì?

Một là, không tham ngũ dục.

Hai là, không lòng ganh tị đối với chúng sanh.

Ba là, luôn luôn bố thí.

Bốn là, ưa nghe chánh pháp, thọ trì đọc tụng, biên chép giải nói về Kinh và Luận thuộc về Bồ Tát Tạng.

Thế nào là sự phát thệ nguyện lớn của Bồ Tát?

Sự phát thệ này gồm trong năm điều:

Một là Phát tâm pháp nguyện.

Hai là Hữu phát nguyện.

Ba là Hạnh phát nguyện.

Bốn là Thiện phát nguyện.

Năm là Đại phát nguyện.

-Khi mới phát tâm Bồ Đề, gọi là Phát tâm phát nguyện.

-Vì lợi ích chúng sanh mà ở cõi Trời cõi người gọi là Hữu phát nguyện.

-Vì chúng sanh mà tu vô lượng tâm gọi là Hạnh phát nguyện.

-Tu tập tất cả pháp lành của Bồ Tát gọi là Thiện phát nguyện.

-Chẳng tiếc thân mạng, hộ trì chánh pháp gọi là Đại phát nguyện.

Bồ Tát nếu dùng mười cách cúng dường Phật pháp, Tăng bảo (như phẩm cúng dường Tam Bảo đã nói), hộ trì chánh pháp, thấy người trì pháp thì cúng dường cung kính. Đây gọi là Đại phát nguyện.

Đại Bồ Tát sanh lên cung trời Đâu Xuất, mãi cho đến lúc vào Đại Niết Bàn, gọi là Đại phát nguyện.

Đại Bồ Tát từ sơ phát tâm mãi đến lúc chứng Vô thượng Bồ Đề, gọi là Đại phát nguyện.

Đại Bồ Tát vì độ chúng sanh mà ở khắp các nẻo, tùy loài thọ thân, gọi là Đại phát nguyện.

Đại Bồ Tát thường dùng tạng kinh, tạng Luận của Bồ Tát thừa giáo hóa chúng sanh, gọi là Đại phát nguyện.

Đại Bồ Tát phàm có diễn nói, không gì chẳng làm lợi ích chúng sanh. Người không căn lành, Bồ Tát làm cho phát sanh mầm lành, gọi là Đại phát nguyện.

TAM GIẢi THOÁT MÔN

Thế nào là pháp tu về Không Tam Muội của Đại Bồ Tát?

-Bồ Tát quán sát một cách sâu xa tánh có thể nói của tất cả các pháp. Tánh khả thuyết này với tánh bất khả thuyết nó là rỗng không, cho nên gọi là môn Không Tam Muội.

Thế nào là Vô Nguyện Tam Muội?

-Đại Bồ Tát thường nhận thức rằng: Vì tất cả pháp có thể tuyên nói, cho nên có ngã và có ngã sở. Do có cái ngã, sở hữu của ngã đều gọi là khổ.

Đại Bồ Tát phá ý tưởng lệch lạc, cho nên rõ biết tất cả các pháp chẳng thể tuyên nói, do đó chẳng bị vướng mắc vào ngã, sở hữu của ngã. Vì không có ngã, không có ngã sở, cho nên Bồ Tát chẳng nguyện cầu gì. Đây mệnh danh là Vô Nguyện Tam Muội.

Thế nào là Vô Tướng Tam Muội?

-Đại Bồ Tát biết tất cả các pháp chẳng thể tuyên nói, vì chẳng thể nói cho nên tất cả đều không có tướng tất cả phiền não. Chính vì không tướng cho nên gọi là vắng lặng. Do sự tu tập đã được vắng lặng cho nên gọi là Vô Tướng Tam Muội.

Vì cớ gì Như Lai nói về Ba Môn Tam Muội?

-Vì tất cả pháp đại loại có hai tính cách.

Một là. Có là có (hữu vi có)

Hai là. Không mà có (vô vi có)

-Có là có, đó là bản ngã, sở hữu của ngã.

-Không mà có, ấy là Niết Bàn.

Về nghĩa có là có. Đại Bồ Tát quán sát tất cả đều khổ cho nên chẳng sanh mong cầu. Đây gọi là Vô Nguyện Tam Cầu.

Về nghĩa Không mà có, tức là Niết Bàn (hữu dư), Đại Bồ Tát đối với Niết Bàn chẳng sanh ý tưởng ưa thích. Đây gọi là vô tướng.

Vô vi pháp là cũng có cũng không, cho nên Bồ Tát chẳng phải có nguyện, chẳng phải chẳng nguyện.

Đại Bồ Tát thấy có có, thấy không không, có trong cái không không, không trong cái không mà có Đây mệnh danh là Không Tam Muội. Lúc Bồ Tát tu môn Không Tam Muội được trí chơn thật. Tam muội như thế Thanh Văn, Duyên Giác cũng tu cũng học, nhưng chẳng thể nói. Tất cả các pháp chẳng thể tuyên nói.

TỨ PHÁP ẤN

Chư Phật, Bồ Tát vì làm cho chúng sanh được sự vắng lặng mà nói bốn pháp ấn sau đây: Tất cả các pháp hữu vi thảy đều vô thường, Khổ, vô ngã và Niết Bàn vắng lặng.

Các đức Phật, các vị Bồ Tát vì các chúng sanh nói bốn pháp này, phải biết tất cả pháp giới được nói, thì bốn pháp này là gốc hết thảy. Đây gọi là Ưu đà na. Ưu đà na đây vô lượng tất cả chư Phật quá khứ cũng nói như vậy, có thể làm sự trên hết, làm tăng trưởng thiện pháp, gọi là Ưu đà na (vô vấn tự thuyết).

Thế nào là sự nhận thức các pháp hữu vi vô thường?

-Đại Bồ Tát biết rằng: Pháp có thi vi, pháp có thể nói vốn đều vô thường, do đó những gì thuộc pháp hữu vi đều là vô thường. Biết tánh các pháp trong nghĩa chơn thật vốn không nhơn quả, cho nên chẳng thể tuyên nói, vì vậy mỗi khi thành tướng nói năng thì tất cả pháp là pháp sanh diệt. Do đó pháp hữu vi quá khứ cũng là pháp sanh diệt. Bởi vậy pháp thuộc quá khứ chẳng thấy có nhân, chẳng thấy có tánh. Vì chẳng thấy nhân, chẳng thấy có tánh, cho nên nói rằng pháp quá khứ đều là vô thường.

Pháp thuộc hiện tại biết có sanh ra nhưng chẳng biết diệt, các pháp hiện tại chẳng thấy nhân mà lại thấy quả, thấy tánh của nó. Vì chẳng diệt cho nên biết tánh mà chẳng biết nhân.

Pháp hữu vi vị lai chẳng thấy sanh diệt, vì vậy biết nhân, chẳng biết quả, chẳng biết tánh, vì cớ chưa sanh vậy. Thế nên Bồ Tát biết nhơn mà không biết tánh. Khi đó quán về ba đời, mỗi niệm mỗi niệm đều có ba tướng (quá, hiện, vị lai). Nếu qua một niệm là có bốn tướng (sanh, trụ, dị, diệt). Trước hết là pháp diệt, tiếp đến sanh ra một pháp tương tự, đây gọi là sanh. Sanh rồi có sự tác động, đó gọi là trụ. Trước diệt pháp tướng, pháp tướng diệt rồi lại thấy tương tự, đó gọi là dị. Sanh rồi chẳng dừng cho đến hai niệm. Đây gọi là diệt.

Bồ Tát nhận thức: Thấy tướng của pháp hữu vi đều là một thứ: Như tướng sanh, tướng trụ và dị cũng vậy, chỉ có tướng diệt là khác. Vì sao biết? -Vì chẳng cộng trụ với ba tướng khác. Bốn tướng như thế thấy ra có hai: Một là có, hai là không. Có là ba tướng trước. Không là tướng thứ tư.

Bồ Tát nhận thức về pháp hữu vi, chẳng thấy tướng sanh, chẳng thấy tướng trụ, chẳng thấy tướng dị, chẳng thấy tướng diệt. Tại sao vậy? -Vì sanh, trụ, dị, diệt không tánh chơn thật. Đại Bồ Tát thấy sự sanh, trụ, dị, diệt của sắc pháp mà chẳng khởi quan niệm về sanh, trụ, dị, diệt.

Đại Bồ Tát dùng trí phương tiện quán sát chẳng thấy bốn tướng. Phương tiện quán là pháp quán của Bồ Tát.

Nếu lìa sắc pháp riêng có cái sanh thì khi sắc pháp sanh, cái sanh lẽ ra cũng sanh? Nếu vậy tất cả các pháp lẽ ra có hai cái sanh? Một là sắc sanh, hai là cái sanh sanh. Hai cái sanh như thế hoặc là pháp tức, hay là pháp ly? Nếu là chẳng rời thì không sanh ra cái sanh. Nếu nói lìa pháp riêng có cái sanh, nghĩa này không đúng. Nếu như chẳng lìa thì khi có sắc không có sanh. Sanh vì nhơn duyên mà sanh. Tướng trụ, dị, diệt cũng vậy.

Nếu tự tánh của pháp Diệt là có, nên biết sự diệt này cũng là sanh, cũng là diệt. Nếu pháp diệt cũng là diệt cũng là sanh, nên biết rằng tất cả pháp hữu vi đều không có diệt. Trường hợp khi nhập Diệt tận định, tâm và tâm sở pháp lẽ ra thường sanh trở lại? Và khi sắc pháp diệt lẽ ra cũng sanh trở lại? Vì sao? -Vì cái diệt này sanh. Thế thì các pháp lẽ ra là thường? Chính vì các pháp hữu vi vô thường, cho nên khi Bồ Tát lìa sắc pháp rồi chẳng thấy bốn tướng, biết tánh của pháp hữu vi là vô thường, vì vậy cũng luôn luôn tuyên nói sự vô thường của pháp hữu vi.

-Bồ Tát quán sát, thấy pháp hữu vi có ba thứ khổ: Khổ khổ, Hoại khổ, Hành khổ. Vì thế Như Lai nói: pháp hữu vi tất cả là khổ.

Bồ Tát thế nào nhận thức pháp hữu vi vô ngã? Vô ngã có hai: 1.Chúng sanh không tự ngã. 2.Pháp không có tự ngã.

-Chúng sanh không tự ngã: Chúng sanh chẳng phải pháp có, chẳng phải pháp không, chẳng phải lìa pháp có, chẳng phải lìa pháp không. Đây gọi là chúng sanh không ngã.

-Pháp không có tự ngã: Tất cả các pháp đều có thể nói. Tánh của sự có thể nói này lại không. Đây gọi là Pháp không có tự ngã.

Đã có hai thứ vô ngã như trên, cho nên Phật nói: “Các pháp hữu vi thảy đều vô ngã”. Đoạn cái nhân hiện tại, làm chướng cái nhân vị lai của pháp hữu vi như thế gọi là Niết Bàn, không có kiết sử phiền não gọi là vắng lặng.

Nếu Bồ Tát dùng tâm không thanh tịnh quán về Niết Bàn, hoặc bực Thanh Văn chưa chứng đạo quả mà quán về Niết Bàn, thì cả hai hạng cũng chưa thật sự biết rõ tâm lượng Niết Bàn và cũng chưa biết về tướng Niết Bàn.

Ví như nhà vua vì các người con đang ngủ, lấy gỗ chạm khắc thành những con thú: voi, ngựa, nai, thỏ. Con vua thức dậy thấy voi, ngựa này cũng tưởng đúng là thú vật thứ thật. Có lúc nhà vua khen ngợi voi, ngựa, mỗi người con vua cho rằng vua cha khen ngợi voi ngựa của mình. Sau đó các thái tử ra khỏi cung điện được thấy voi ngựa thật sự, các người con vua đều sanh mắc cỡ và tự bảo nhau: “Vì sao đối với voi ngựa giả tạo mà chúng ta lại tưởng là chơn thật? Vì sao đối với sự đồng tên, đồng tướng mà chúng ta lại sanh ý tưởng cho là chơn thật?”.

Như Lai cũng nói: “Nếu tâm Bồ Tát không được thanh tịnh, hoặc bực Thanh Văn chưa chứng đạo quả, cả hai đều ở ngôi nhà sanh tử, Như Lai vì họ nói đến Niết Bàn vắng lặng. Bồ Tát, Thanh Văn nghe rồi cũng sanh ý tưởng đúng là Niết Bàn mà thật sự ra cả hai chưa biết bề chơn Niết Bàn. Khi nghe Phật thuyết tâm sanh tưởng tượng, nói là Niết Bàn. Sau này các vị ấy tu Tám thánh đạo, được trí thanh tịnh, khỏi thân sanh tử, khi đó các vị chơn thật rõ biết về tánh Niết Bàn mới sanh hổ thẹn và tự nghĩ rằng: “Vì sao lúc trước chẳng phải Niết Bàn mà chúng ta lại sanh ý tưởng là Niết Bàn chơn thật?”.

Lại ví dụ như một người có bệnh đến chỗ thầy thuốc, khi đó lương y vì sự phá bệnh, tùy bệnh trao thuốc, người bệnh được thuốc lòng sanh vui mừng, tưởng là đúng thuốc liền nhận uống ngay. Đã uống thuốc xong, dầu trừ mối lo, nhưng lại phát sanh một thứ bệnh khác. Khi ấy lương y dứt thứ thuốc trước và đưa thuốc mới, bệnh nhân lại nói: “Thuốc trước của thầy thật là tốt lành, đây do tài năng trị bệnh của thầy, không phải hiệu lực của thuốc”. Lương y dầu nói “thuốc ấy rất tốt” nhưng bệnh nhân này vẫn còn chẳng tin. Đến khi bệnh nhân dùng thứ thuốc sau và bệnh được lành, lòng sanh hổ thẹn mới tin tưởng thuốc.

Khi Phật nói pháp cũng tựa như thế, chúng sanh nghe rồi hoại diệt một ít phiền não, ngay đó liền sanh ý tưởng chơn thật. Khi phiền não khởi lại, bèn nói “Phật là vô thường” Như Lai vì họ nói pháp sâu hơn. Tuy lại nghe pháp nhưng còn chưa tin, cho rằng lúc trước mới chính là thật.

Bồ Tát nếu được quả thanh tịnh, khi ấy mới sanh hổ thẹn mà tự nghĩ rằng: “Như Lai Chơn thường, vì sao ta lại cho rằng Như Lai là không thường hằng?”

Bởi vậy Như Lai thường nói: “Các pháp hữu vi thảy đều vô thường, tất cả đều khổ. Tất cả vô ngã và Niết Bàn vắng lặng”.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI: CÔNG ĐỨC

Đại Bồ Tát tu hạnh Bồ Đề, có năm sự không thể nghĩ bàn:

1.Thương xót tất cả chúng sanh.

2.Vì lợi ích chúng sanh chịu khổ sống chết.

3.Dùng phương tiện khéo điều phục chúng sanh.

4.Phát tâm muốn biết nghĩa sâu thẳm khó khăn.

5.Muốn biết thần túc chẳng thể nghĩ bàn.

Năm pháp trên đây tất cả chúng sanh chẳng thể chung cùng, do đó gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Đại Bồ Tát lại có năm sự không thể nghĩ bàn. Thế nào là năm?

1.Vì lợi ích chúng sanh, Đại Bồ Tát chịu cái nhân khổ, bởi chịu nhân khổ cho nên cảm thọ an vui, do sự thọ vui cho nên thành tựu pháp chẳng thể nghĩ bàn.

2.Đại Bồ Tát xem tai họa của sự sống chết, quán sát Niết Bàn thanh tịnh vắng lặng, vì khắp chúng sanh, Bồ Tát tự mình chẳng đắm Niết Bàn, chịu sự trôi lăn trong vòng sinh tử. Đây gọi là thọ vui. Do sự thọ vui cho nên thành tựu đầy đủ pháp chẳng thể nghĩ bàn.

3.Bồ Tát thích ở những chỗ rảnh rang, vắng vẻ, im lìm, song vì chúng sanh mà diễn nói chánh pháp. Đây gọi là thọ vui. Do sự thọ vui cho nên thành tựu đầy đủ pháp chẳng thể nghĩ bàn.

4.Đại Bồ Tát vì khắp chúng sanh mà tu lục độ (sáu ba la mật), lại cũng chẳng mong thành quả bởi lục ba la mật. Đây gọi là thọ vui. Do sự thọ vui cho nên thành tựu đầy đủ pháp chẳng thể nghĩ bàn.

5.Đại Bồ Tát xem sự nghiệp của người không khác sự nghiệp chính mình gây tạo, cam lòng vui ưa không nề siêng khổ. Đây gọi là thọ vui. Do sự thọ vui cho nên thành tựu đầy đủ pháp chẳng thể nghĩ bàn.

Trên đây là pháp chẳng thể nghĩ bàn, thuộc năm sự việc của Đại Bồ Tát.

Bồ Tát lại có năm điều mà với chúng sanh, tâm của Bồ Tát luôn luôn bình đẳng. Đây là năm Điều:

1.Lúc mới phát tâm Bồ đề, Bồ Tát vì khắp tất cả chúng sanh, chẳng phải chỉ riêng vì một người nào. Đó là bình đẳng.

2.Đại Bồ Tát tu tâm Đại bi, là vì chúng sanh chẳng phải chỉ riêng vì một số người. Đây gọi là bình đẳng.

3.Khi Đại Bồ Tát tu hành đến bực Pháp vương Tử, Bồ Tát cũng vì tất cả chúng sanh, chẳng phải chỉ vì một cá nhân nào, gọi là bình đẳng.

4.Bồ Tát quán khắp mười hai nhân duyên, tất cả chúng sanh đồng có, gọi là bình đẳng.

5.Đại Bồ Tát cầu Vô thượng Bồ Đề, chính là vì khắp tất cả chúng sanh, chẳng phải chỉ vì một cá nhân nào. Đây gọi là bình đẳng.

Đại Bồ Tát có năm điều làm lợi ích chúng sanh. Đây là năm điều:

1.Chỉ dạy chúng sanh tu sửa theo cách mưu sinh chánh đáng.

2.Chỉ dạy tập học các phương pháp theo sự nghiệp thế gian.

3.Gặp kẻ nghèo nàn, dùng phương tiện dạy, khiến họ phá hỏng sự khổ nghèo nàn.

4.Vì bực thượng thiện nói đạo chánh thật.

5.Vì khắp ba thừa mà nói giáo pháp thuộc về ba thừa.

Trên đây gọi là năm sự lợi ích.

Tất cả chúng sanh có năm điều để báo ơn Bồ Tát. Đây là năm việc:

1.Thọ trì pháp lành và các giới cấm.

2.Kẻ nghèo nghe rồi y giáo tu hành hầu phá sự nghèo.

3.Cúng dường Tam Bảo.

4.Những pháp gì được nghe từ Bồ Tát, nghe rồi đọc tụng, biên chép, phân biệt giải nói, xoay vần dạy lại cho những người khác.

5.Gặp người trì pháp thì kính cúng dường.

Đại Bồ Tát hành đạo Bồ Đề dốc lòng lập nguyện thường cầu năm việc:

1.Thường nguyện thế gian có Phật xuất hiện.

2.Thường nguyện đầy đủ sáu ba la mật.

3.Thường nguyện tìm tòi tạng Kinh, tạng Luận thuộc Bồ Tát thừa.

4.Thường nguyện sẽ được giải thoát sanh tử.

5.Thường nguyện quyến thuộc đều được thành tựu.

Đó gọi là năm việc.

Đại Bồ Tát có năm sự việc lợi ích chúng sanh, như trước đã nói ở phần lợi hành.

Đại Bồ Tát có năm điều làm cho mau được Vô thượng Bồ Đề:

1.Hộ trì chánh pháp.

2.Tu hành thiện hạnh.

3.Sức mạnh của trí tuệ.

4.Chuyên tâm vắng lặng.

5.Quyết định được tánh Bồ Tát.

-Hộ trì giáo pháp (chánh pháp): Bồ Tát đầy đủ Đà la ni hộ trì, nghe pháp nơi người, nhanh chóng được hiểu.

Lại nữa, Bồ Tát đủ sự hộ niệm của các đức Phật, cho nên Bồ Tát thọ pháp chẳng quên.

Lại nữa, Bồ Tát đủ trí tuệ hộ trì, bởi trí tuệ hộ trì cho nên phân biệt pháp giới.

Lại nữa, Bồ Tát đầy đủ thâm tâm hộ trì để chế ngự các giác quan.

Lại nữa, Bồ Tát đủ tâm hộ trì tha nhân mà thực hành phương tiện.

Trên đây gọi là hộ trì giáo pháp.

-Tu hành thiện hạnh: Đối với giáo pháp, Bồ Tát hiểu biết một cách xuôi thuận, nói cũng xuôi thuận, thường tu thiện pháp, bốn Vô lượng tâm, nguyện hướng Vô lượng chánh đẳng Bồ Đề. Đây mệnh danh là tu hành thiện hạnh.

-Sức mạnh của trí tuệ: Đại Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm cho đến được Vô thượng Bồ Đề. Đó gọi là sức mạnh của trí tuệ.

-Chuyên tâm vắng lặng: Đại Bồ Tát dùng mười pháp thanh tịnh cúng dường Như Lai, gọi là vắng lặng. (mười pháp cúng dường như đã nói nơi phẩm Cúng dường Tam Bảo).

-Quyết định được tánh Bồ Tát: Đại Bồ Tát trụ bực Pháp vương tử hoặc bực Bất thoái chuyển. Gọi là quyết định được tánh Bồ Tát.

Trên đây gọi là năm việc mau được Vô thượng Bồ đề.

Có năm điều làm cho Bồ Tát tổn giảm thiện pháp. Năm điều là gì?

1.Một chẳng hay cúng dường giáo pháp và người thuyết pháp.

2.Buông lung, biếng nhát.

3.Ưa khởi phiền não, tâm động không ngừng.

4.Sanh tâm kiêu mạn đối với Bồ Tát đồng hạnh.

5.Giải nghĩa lộn xộn về tạng pháp Bồ Tát.

Bồ Tát có năm điều làm tăng trưởng pháp lành:

1.Cúng dường kinh pháp và người thuyết pháp.

2.Nhiếp tâm tinh tấn.

3.Tâm ưa dứt trừ phiền não sanh khởi.

4.Sanh tâm cung kính Bồ Tát đồng hạnh.

5.Tùy thuận giảng nghĩa tạng pháp Bồ Tát.

Có năm điều xét chẳng phải Bồ Tát mà mạo danh Bồ Tát, chẳng phải sa môn, hay Bà la môn mà xưng sa môn hay Bà la môn, chẳng được giới Bồ Tát. Chẳng cùng ở trong Tăng số. Năm điều đó là:

1.Tánh tình hung dữ.

2.Che chở cho người hủy phạm giới cấm.

3.Chẳng được Thiền định lại trá hiện tướng thiền định.

4.Tà mạng nuôi sống.

5.Thấy bậc trí giả sanh lòng ganh ghét, tìm cách phỉ báng.

Có năm điều xét thật là Bồ Tát, chơn thật sa môn hay Bà la môn, được giới Bồ Tát và cùng ở trong Tăng số:

1.Tánh tình điều hòa.

2.Sửa trị những người hủy phạm giới cấm.

3.Thật được Thiền định nhưng chẳng hiện tướng thiền.

4.Sống bằng đường lối sinh hoạt chơn chánh.

5.Thấy bậc trí giả sanh tâm vui mừng, ca ngợi đề cao.

Đại Bồ Tát dạy dỗ chúng sanh, gồm có 10 điều:

1.Vì để pháp ác pháp.

2.Vì để biết pháp giới.

3.Chẳng cho phạm phải.

4.Phạm rồi hổ thẹn hối cải.

5.Chế ngự các giác quan.

6.Chẳng hề buông lung.

7.Xa lìa ác trí thức.

8.Ở chỗ vắng lặng.

9.Xa lìa phiền não.

10.Được chứng quả giải thoát.

Thọ ký Bồ Tát có sáu điều:

1.Chắc chắn có tánh Bồ Tát nhưng chưa phát tâm Vô thượng Bồ Đề.

2.Chưa có tánh Bồ Tát nhưng phát tâm Vô thượng Bồ Đề.

3.Có tánh Bồ Tát và cũng phát tâm Vô thượng Bồ Đề.

4.Trong vô lượng đời vì đạo Bồ Đề mà tu các hạnh lành.

5.Chắc chắn được Vô thượng Bồ Đề nhưng không nói rõ thời gian nhứt định.

6.Chắc chắn được Vô thượng Bồ Đề và cũng nói rõ thời gian nhứt định.

Có ba điều xác định Bồ Tát sẽ được Vô thượng Bồ Đề:

1.Xác định có tánh Bồ Tát.

2.Được tâm bất thoái.

3.Phàm làm việc gì cũng nhằm mục đích sanh mầm pháp lành cho các chúng sanh.

Bồ Tát do ba sự xác định này, quyết định được sự thọ ký của Phật.

Đại Bồ Tát không đủ năm việc, chẳng được Vô thượng Bồ Đề:

1.Chẳng phát tâm Bồ Đề.

2.Chẳng được tâm thương xót.

3.Chẳng siêng năng tinh tấn.

4.Chẳng kính trọng giới luật.

5.Chẳng biết tất cả việc thế gian.

Bồ Tát chẳng đủ năm điều như trên, chẳng được Vô thượng Bồ Đề. Người nào nói rằng: Lìa năm pháp này vẫn được Vô thượng Bồ Đề. Điều ấy phi lý.

Có năm điều, luôn luôn là chỗ tu hành của chư Bồ Tát:

1.Chẳng buông lung.

2.Vì phá sự cùng khốn của chúng sanh.

3.Cúng dường Tam Bảo.

4.Hết lòng giữ giới, nếu phạm liền hối.

5.Làm việc lành nào cũng đều hồi hướng Vô thượng Bồ Đề.

Đại Bồ Tát có mười pháp, là pháp hơn hết tất cả. Mười pháp là gì?.

1.Tánh Bồ Tát hơn tất cả tánh.

2.Mới phát tâm Bồ Đề là hơn tất cả những sự phát tâm thế, xuất thế gian.

3.Tinh tấn ba la mật, Bát nhã ba la mật hơn tất cả ba la mật khác.

4.Nhiếp pháp Ái ngữ hơn các nhiếp pháp khác.

5.Như Lai hơn tất cả chúng sanh.

6.Bi tâm hơn tất cả tâm vô lượng.

7.Tu đệ tứ thiền hơn các thiền thiên.

8.Môn không tam muội hơn các tam muội.

9.Diệt tận định hơn các diệt định.

10.Phương tiện thanh tịnh hơn các phương tiện.

Có bốn pháp này, chỉ Phật, Bồ Tát mới hay tự mình làm cho lan rộng, ngoài ra chẳng phải Thiên vương, Phạm vương hoặc là ma vương có thể làm nổi. Nếu những số ấy được nghe từ Phật, tức cũng có thể làm cho lan rộng. Bốn pháp ấy là:

1.Pháp lan rộng.

2.Thật lan rộng.

3.Phương tiện lan rộng.

4.Thừa lan rộng.

-Pháp lan rộng là: Lần lượt diễn nói mười hai phần kinh.

-Thật lan rộng là: Có một cách thức, cách thức ấy là sự không nói vọng.

Lại có hai: Lý tương đối. Lý tuyệt đối.

Lại có ba: Tướng thật. Lời thật. Hạnh thật.

Lại có bốn: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Lại có năm: Nhơn thật, Quả thật, Trí thật, Biết cảnh giới thật, Vô thượng thật.

Lại có sáu: Thật sự chơn thật. Thật sự hư vọng. Thật sự sáng suốt. Thật sự xa lìa. Thật sự chứng nhập. Thật sự tu hành.

Lại có bảy: Thật sự ái nhiễm. Thật sự khổ đau. Thật sự giải thoát. Thật sự đúng pháp. Thật sự hiểu biết. Thật sự là thánh. Thật chẳng phải thánh.

Lại có tám: Hành khổ thật. Khổ khổ thật. Sanh khổ thật. Hoại diệt thật. Phiền não thật. Giải thoát thật. Hạnh lành thật. Quả lành thật.

Lại có chín: Vô thường thật. Khổ thật. Bất tịnh thật. Không thật. Vô ngã thật. Hữu ái thật. Đoạn ái thật. Phương tiện dứt hai thứ ái thật. Hữu dư Niết Bàn thật.

Lại có mười: Thật khổ vì không phải bổn phận nhưng bị cưỡng ép làm việc. Thật khổ vì nghèo nàn. Thật khổ vì bốn đại không điều hòa. Thật khổ vì ái ân chia lìa. Thật khổ vì oán hờn gặp gỡ. Nghiệp nhân thật. Quả báo thật. Phiền não thật. Khéo tư duy thật. Nhận thức đúng đắn thật.

Trên đây là mười pháp thuộc về Thật lan rộng.

-Phương tiện lan rộng: Như đã nói ở phần phương tiện.

-Thừa lan rộng: Tức Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Phật thừa.

Như trên gọi là bốn pháp lan rộng.

Đại bồ Tát quán sát tất cả phương tiện, có năm sự không thể suy lường:

1.Chúng sanh giới không lường.

2.Thế giới không lường.

3.Pháp giới không lường.

4.Điều phục giới không lường.

5.Phương tiện điều phục không lường.

-Chúng sanh giới không lường: Gồm có 62 món kiến. Bồ Tát trụ Hoan hỷ địa, quán về chúng sanh chuyển thành vô lượng.

-Thế giới không lường: Vì không thể lường cho nên có vô lượng tên. Như thế giới này gọi là Ta bà, Trời Phạm vương, gọi là chủ cõi Ta bà.

-Pháp giới không lường: Nghĩa là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký chuyển thành vô lượng.

-Điều phục giới không lường: Có một nghĩa ấy là: Có sự điều phục.

Lại có hai: Đủ phiền não. Chẳng đủ phiền não.

Lại có ba: Thượng căn. Trung căn. Hạ căn.

Lại có bốn: Bà la môn. Sát đế lợi. Tỳ xá. Thủ đà.

Lại có năm: Nhiều tham. Nhiều giận. Nhiều si. Nhiều ngã mạn. Nhiều giác quán ác.

Lại có sáu: Tại gia. Xuất gia. Chưa thuần thục. Đã thuần thục. Chưa giải thoát. Đã giải thoát.

Lại có bảy: Nghe rồi liền hiểu. Nhờ thí dụ được hiểu. Mỗi câu mỗi câu tự hiểu. Mỗi chữ mỗi chữ đều hiểu. Hiện tại thành thục. Đời khác thành thục. Theo nhân duyên thành thục.

Lại có tám: Ấy là tám bộ chúng.

Lại có chín: Được Như Lai điều phục. Được Bồ Tát điều phục. Được Thanh Văn điều phục. Bực Duyên Giác điều phục. Khó điều phục. Dễ điều phục. Nói nhỏ nhẹ điều phục. Quở trách điều phục. Nói nhỏ nhẹ và quở trách để điều phục.

Lại có mười: Địa ngục. Súc sanh. Ngạ quỷ. Trời người và cõi Dục. Thân trung ấm. Có hình sắc. Không phải có hình sắc. Có tưởng. Không tưởng. Chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng.

Trên đây là tổng quát tất cả mười pháp, gồm năm mươi lăm chủng loại. Năm mươi lăm chủng loại này nếu đem quán sát chuyển thành vô lượng.

Về cõi chúng sanh, và giới hạn điều phục có gì khác biệt chăng?

Về cõi chúng sanh, chẳng phân biệt là có tánh hay không tánh. Về giới hạn điều phục, có sự phân biệt có tánh, không tánh.

-Phương tiện điều phục không lường:

Như đã nói trong phẩm điều phục ở trước (phẩm thứ bảy).

Năm tính cách vô lượng của Bồ Tát, nhiếp hết tất cả phương tiện. Đại Bồ Tát nếu muốn rõ biết một cách chơn thật phải nên suy ngẫm bốn sự: Suy vật. Suy tên. Suy tánh và Suy về phân biệt. Bốn nghĩa như thế đã nói ở trước.

Các đức Phật, các vị Bồ Tát, vì chúng sanh nói pháp, có năm điều kết quả:

1.Khi nói, chúng sanh liền tỏ ngộ bốn Thánh đế.

2.Khi nói, ngay đó chúng sanh được pháp giải thoát.

3.Khi nói, ngay đó chúng sanh phát tâm vô lượng Bồ Đề.

4.Khi nói, ngay đó chúng sanh được pháp nhẫn của Bồ Tát.

5.Chúng sanh nghe rồi thọ trì đọc tụng, biên chép giải nói, hộ trì chánh pháp.

Như trên gọi là: Chư Phật, Bồ Tát vì chúng sanh nói pháp được công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Sao gọi là Đại thừa?

Có bảy ý nghĩa rộng lớn, cho nên gọi là Đại thừa. Những gì là bảy?

1.Pháp lớn. 2.Tâm lớn. 3.Sự hiểu lớn. 4.Thanh tịnh lớn. 5.Sự trang nghiêm lớn. 6.Thời gian lớn. 7.Đầy đủ lớn.

-Pháp lớn: Trong mười hai phần giáo thì Tạng pháp Bồ Tát cực kỳ rộng lớn, rất là cao tột, cho nên gọi là Đại phương quảng (tỳ Phật lược).

-Tâm lớn: Nghĩa là phát tâm Vô thượng Bồ đề.

-Sự hiểu lớn: Hiểu Tạng pháp Bồ Tát và các kinh Phương quảng.

-Thanh tịnh lớn: Khi Bồ Tát phát tâm rồi, thì tâm của người thuần túy trong sạch, mãi đến lúc chứng Vô thượng Bồ Đề.

-Sự trang nghiêm lớn: Đại Bồ Tát đầy đủ công đức trang nghiêm, trí tuệ trang nghiêm và được Vô thượng Bồ Đề.

-Thời gian lớn: Đại Bồ Tát vì Vô thượng Bồ Đề, tu các hạnh khổ trong ba vô số kiếp.

-Đầy đủ lớn: Đại Bồ Tát đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp đề tự trang nghiêm, chứng được Vô thượng Bồ Đề.

Pháp lớn, Tâm lớn, Hiểu biết lớn, Thanh tịnh lớn, trang nghiêm lớn, thời gian lớn. Sáu nghĩa lớn này là nhân. Đầy đủ lớn là quả.

Có tám pháp hay nhiếp tất cả Đại thừa:

1.Diễn nói tạng pháp Bồ Tát.

2.Nói nghĩa lý của Bồ Tát tạng.

3.Nói về sự không thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát trong Bồ Tát tạng.

4.Tư duy về nghĩa.

5.Tu tập nghĩa ấy.

6.Được nghĩa đầy đủ.

7.Được quả vị tu tập.

8.Hiểu nghĩa rất sâu.

Đại Bồ Tát tu học tám pháp như thế là chứng Vô thượng Bồ Đề.

BồTát học đạo Bồ Đề của Bồ Tát, gồm có mười việc. Đây là mười:

1.Tánh trụ.

2.Nhập.

3.Tâm chẳng tịnh.

4.Tâm tịnh.

5.Chẳng thành thục.

6.Thành thục.

7.Không chắc chắn.

8.Chắc chắn.

9.Một đời nữa chứng được.

10.Hiện đời chứng được tánh quyết định.

-Tâm thanh tịnh học các pháp gọi là Tánh trụ.

-Phát tâm Vô thượng Bồ Đề gọi là Nhập.

-Sự thể nhập chưa đến chỗ thanh tịnh gọi là chẳng tịnh.

-Được chỗ thanh tịnh gọi là tâm tịnh.

-Sự thanh tịnh chưa vào địa cứu cánh gọi là chưa thành thục.

-Vào địa vị cứu cánh, gọi là thành thục.

-Sự thành thục chưa quyết định, gọi là không chắc chắn.

-Đã vào địa vị quyết định gọi là chắc chắn.

Sự thành thực có hai:

-Một đời nữa chứng Vô thượng Bồ Đề.

-Thân hiện đời được Vô thượng Bồ Đề.

Mười điều như trên, Đại Bồ Tát thường thọ giới Bồ Tát. Mười điều trên đây, Bồ Tát nhiếp hết tất cả Bồ Tát. Nếu ai luôn luôn chí tâm thọ trì và luôn thực hành giới của Bồ Tát, bực này gọi là Bồ Tát ma ha tát, gọi là bực trí nhân, là bực dõng kiện, là bực Thượng tiến, gọi là Phật tử, gọi là được Phật Hộ trì, là bực Đại thắng, gọi là giới của Phật, là đấng Vô úy, là đấng Đại thánh, là bậc Thương chủ, gọi là Thuyền sư, còn gọi là đấng tiếng đồn vang dội, là đấng thương xót, là đấng Đại công đức, đấng Đại tự tại, Đấng Rõ biết các pháp, đấng chẳng thể nghĩ bàn, và gọi là đấng “Rõ biết mười phương vô lượng Thế giới như xem trái am-ma-lặc trong lòng bàn tay”.

Nếu có người nói: “Tôi là Bồ Tát, chẳng thọ giới Bồ Tát, chẳng thường chí tâm thực hành giới Bồ Tát nhưng sanh được tín tâm”, nên biết Bồ Tát này muốn được Vô thượng Bồ Đề.

Nếu có người nói: “Tôi là Bồ Tát chẳng thường hết lòng trì giới Bồ Tát, tâm chẳng tin tưởng” Đây gọi là danh dự Bồ Tát, người này lâu lắm mới được Vô thượng Bồ Đề.

Nếu có người nói: “Tôi là Bồ Tát, thọ trì giới Bồ Tát, chí tâm tu hành và tin giới Bồ Tát” Bực này gọi là vào trong mười hạng Bồ Tát, chẳng bao lâu quyết định được Vô thượng Bồ Đề.

Nếu có người nói: “Tôi là Bồ Tát, thọ giới Bồ Tát mà chẳng thường hay dốc lòng hộ trì giới cấm, trái lại còn hủy những giới đã thọ, tâm không tin tưởng giới pháp Bồ Tát” Đây gọi là Bồ Tát chiên đà la, chẳng gọi là Bồ Tát thật sự, chẳng được gọi là Bồ Tát đúng nghĩa.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI MỐT: TƯỚNG NHƯ PHÁP TRỤ CỦA BỒ TÁT

Bồ Tát chân thật có năm tướng. Vì đầy đủ năm tướng, gọi là Bồ Tát chân thật.

Năm tướng đó là:

1.Tâm thương xót.

2.Nói năng mềm mỏng.

3.Dõng cảm mạnh mẽ.

4.Không tham lam.

5.Giải nói nghĩa sâu.

Năm pháp như vậy có năm thứ khả năng phân biệt. Năm khả năng là: 1.Tánh. 2.Nhân duyên. 3.Quả công đức. 4.Thứ lớp. 5.Nhiếp thủ.

1.Tánh thương xót:

Có hai: Một là chí tâm. Hai là như pháp.

Sự chí tâm là: Đem lại an ổn cho nhiều người.

Như pháp là: Đại Bồ Tát đem lại cho chúng sanh sự vui như vui của mình. Đây là tánh thương xót.

Tánh nói năng mềm mỏng: Mở lời chào hỏi trước người, nói năng vui vẻ, nói năng tránh xa điều ác, nói lợi ích người. Đây gọi là Tánh nói năng mềm mỏng.

Tánh dõng cảm mạnh mẽ: Tâm của Bồ Tát không sợ điều gì. Dõng mãnh, quả cảm, có thể phá tướng sợ hãi của người. Đây là tánh dõng cảm mạnh mẽ.

Tánh không tham lam: Thí tất cả! Thí tất cả! Thí tất cả! Thí rồi không hối. Thí trong sạch. Đây gọi là Tánh không tham lam.

Tánh giải nói nghĩa sâu: Bốn trí vô ngại của Bồ Tát, gọi là tánh giải nói nghĩa sâu.

2.Nhân duyên sự thương xót:

Gồm có năm duyên: 1.Chúng sanh chịu khổ. 2.Chúng sanh làm ác. 3.Chúng sanh buông lung. 4.Chúng sanh tà kiến. 5.Chúng sanh ưa vui theo đuổi phiền não.

-Chúng sanh chịu khổ: nghĩa là luôn luôn chịu khổ, cho đến không một khoảnh khắc an vui. Đó gọi là chịu khổ.

-Lại có chúng sanh tuy chẳng chịu khổ nhưng thân, miệng, ý tạo mười nghiệp ác, như làm mười nghề ác chẳng hạn. Như thế gọi là chúng sanh làm ác.

-Lại có chúng sanh chẳng chịu khổ não, chẳng làm nghề ác nhưng ưa tham đắm năm thứ dục lạc, đam mê chơi bời, tham ái rồi thân chẳng tu pháp lành. Đây gọi là buông lung.

-Lại có chúng sanh chẳng chịu khổ não, chẳng làm nghề ác, cũng chẳng buông lung, nhưng cầu giải thoát lại thấy biết sai lầm, thật chẳng phải nhân nhận thức là nhân, thật chẳng phải quả nhận thức là quả. Đây gọi là hạng tà kiến, như những ngoại đạo chẳng hạn.

-Lại có chúng sanh chẳng chịu khổ não, chẳng làm nghề ác, chẳng có buông lung, chẳng theo tà kiến nhưng đủ sức trói buộc bởi các phiền não, vì phiền não làm chướng cho nên chẳng tu pháp lành.

Trên đây gọi là nhân duyên của sự thương xót. Do nhân duyên này mà tâm thương xót của Bồ Tát càng được tăng trưởng.

Nhân duyên nói năng mềm mỏng: Gồm có năm:

1.Lời nói hay khéo thăm hỏi trước người.

2.Lời nói hay khéo hoan hỷ.

3.Lời nói hay khéo không sợ.

4.Lời nói hay khéo trong sạch.

5.Lời nói hay khéo giáo hóa.

Năm nhân duyên này như đã nói trong phẩm Ái ngữ (thuộc tứ nhiếp pháp).

Nhân duyên dõng cảm mạnh mẽ: Gồm có năm: (Như đã nói ở phần đầu trong 37 phẩm trợ đạo. (Tức là: Các khổ sanh tử. Các hành vi ác nghiệp của chúng sanh. Vô lượng đời làm lợi ích chúng sanh, cho nên chịu vô lượng khổ. Hết lòng giữ vững giới cấm của Bồ Tát. Hết lòng nghe nhận những pháp sâu diệu).

Nhân duyên không tham lam: Gồm có năm:

1.Không phân biệt bố thí.

2.Vui vẻ bố thí.

3.Dốc lòng bố thí.

4.Trong sạch bố thí.

5.Đúng pháp được của bố thí.

Năm nhân duyên chẳng tham như đã nói rộng ở phẩm Bố thí độ.

Nhân duyên giải nói nghĩa sâu: Gồm có năm:

-Nói nghĩa rất sâu trong các Khế kinh, giải nói nghĩa Không của Đại thừa, nói về thân trung ấm, giải nói nghĩa thoái chuyển, về ngã, về ngã sở, về Phật tánh, Bồ Tát tánh, Như Lai tánh, giải nói về nghĩa Niết Bàn của ba thừa, nói về các sự cấu tạo của sắc, giải nói mười hai nhân duyên. Đây gọi là nghĩa rất sâu trong các Khế kinh.

-Có thể nói về nghĩa lý tỳ ni, như nói: Đây gọi là phạm, Đây chẳng phải phạm, Có thể sám hối, Không thể sám hối, là nhẹ, là nặng, là tánh trọng, là giá trọng…Như thế là nói nghĩa rất sâu của tỳ ni.

-Nói nghĩa tạng Luận: Dụ như nói rằng: “Đức Phật lúc ấy vì các chúng sanh, ngài dạy những điều gọi là vi phạm. Vì số người khác Phật nói giới khinh thành ra giới trọng, hoặc nói giới trọng thành ra giới khinh. Nói như vậy là để cho một người được phép sám hối, cho đến để cho nhiều người được phép sám hối…” Đây gọi là nói nghĩa rất sâu của tạng luận.

-Có thể tự giải nói nghĩa chơn chánh.

-Có thể biết tên gọi của tất cả pháp.

3.Quả công đức của sự thương xót:

Tâm từ của Bồ Tát vì tất cả chúng sanh, vì hoặc ác tâm mà tu Từ tâm, luôn luôn lợi ích chúng sanh, tâm không hối hận. Vì luôn tu tập cho nên hiện đời được sự an vui. Bởi vậy Phật nói: Thành quả công đức của lòng từ bi, độc chẳng thể hại, đao kiếm chẳng làm tổn thương, ngủ không ác mộng, chư thiên thường theo ủng hộ bên mình. Khi bỏ thân này rồi sanh lên sơ thiền. Đây gọi là quả công đức của tâm thương xót.

Quả công đức của sự nói năng mềm mỏng: Đại Bồ Tát tu hành cách thức nói năng mềm mỏng. Tu hành như vậy có thể phá trừ bốn lỗi của miệng. Lối nói mềm mỏng, tự lợi, lợi tha có thể làm cho chúng sanh yêu thích, vui nghe. Đây gọi là thành quả công đức nói năng mềm mỏng.

Quả công đức của sự dõng cảm mạnh mẽ: Bồ Tát ngay khi hiện tại hay phá biếng lười, cảm thọ một niềm hoan hỷ an lạc, sự vui đối với tâm cảnh vắng lặng, hộ trì giới cấm, tâm không hối hận, tự mình tư Nhẫn và giáo hóa người tu hạnh nhẫn nhục, tu các khổ hạnh, trang nghiêm đạo Bồ Đề, tâm không thoái chuyển. Đây gọi là thành quả công đức của sự dõng cảm mạnh mẽ.

Còn hai thành quả công đức: Chẳng tham lam và Giải nói nghĩa sâu, như đã nói ở trước.

4.Thứ lớp:

Thứ lớp là thế nào?

-Đại Bồ Tát trước hết dùng tâm thương xót điều phục chúng sanh. Kế đó nói năng mềm mỏng để phá nghiệp ác của chúng sanh. Thấy những chúng sanh chịu lấy ác nghiệp, Bồ Tát không chút sợ sệt mà sanh tâm cứu vớt. Đó chính là sự dõng cảm mạnh mẽ. Vì điều phục chúng sanh mà thực hành thí, kế đó nói về sự không tham lam và nói nghĩa sâu xa.

5.Nhiếp thủ:

Đại Bồ Tát tùy thuận năm tướng trên đây, nhiếp hết sáu pháp ba la mật.

Tướng thương xót nhiếp về Thiền Ba la mật và Bát Nhã ba la mật.

Tướng dõng cảm mạnh mẽ nhiếp về Tinh tấn ba la mật, nhẫn nhục ba la mật và Bát nhã ba la mật.

Tướng chẳng tham lam nhiếp về bố thí ba la mật.

Giải nói nghĩa sâu nhiếp về Bát nhã ba la mật và Bố thí ba la mật.

PHẨM THỨ HAI MƯƠI HAI: NHƯ PHÁP TRỤ THIỀN

Đại Bồ Tát tại gia hay xuất gia đều có bốn pháp, người có khả năng tu học là được ngay hạnh Vô thượng Bồ Đề và thể hiện sự thương xót chúng sanh bằng những phương tiện thiện nghiệp. Phương tiện thiện nghiệp là: Vì Bố thí ba la mật mà tu các hạnh như sau:

Hạnh từ thiện.

Hạnh chuyên tâm.

Hạnh thường hằng.

Hạnh trong sạch.

1.Hạnh từ thiện:

Bố Tát có nhiều tiền của trong khi cấp thí, có người cầu xin, Bồ Tát chẳng hề để ý là kẻ biết ơn hay kẻ vô ơn, chẳng thấy ruộng phước hay không phải ruộng phước. Dầu có Trời, người, dầu có sa môn hay ba la môn cũng không làm trở ngại hư hỏng quyết tâm bố thí của Đại Bồ Tát. Đây gọi là Hạnh Từ thiện.

2.Hạnh chuyên tâm:

Khi Bồ Tát bố thí, có kẻ tìm cầu, Bồ Tát xả bỏ vật bên trong thân và vật ngoài thân, bố thí tất cả tâm không tham lẫn. Đây gọi là Hạnh chuyên tâm.

3.Hạnh thường hằng:

Khi Bồ Tát bố thí, có người tìm đến cầu xin, Bồ Tát chẳng xem nay là đúng lúc hay không đúng lúc, mà tùy được tùy thí. Đây gọi là Hạnh thường hằng.

4.Hạnh trong sạch:

Khi Bồ Tát bố thí, có người đến cầu xin, Bồ Tát chẳng vì danh dự, tiếng khen, lại cũng chẳng vì sự vui cõi trời mà làm việc cấp thí, như đã nói trong phẩm Bố thí độ. Đây gọi là Hạnh trong sạch.

Về Bố thí ba la mật có bốn pháp trên. Đến như Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát Nhã ba la mật cũng đồng có đủ bốn tướng như vậy.

Thế nào phương tiện hay khéo của Bồ Tát?

-Nếu như có người manh tâm phá hoại Phật pháp, vì điều phục họ Bồ Tát thực hành phương tiện hay khéo. Vì khiến cho người vào cửa Phật pháp, Bồ Tát thực hành phương tiện hay khéo. Dầu người đã vào ngưỡng cửa Phật pháp, nếu chưa thuần thục, Bồ Tát thực hành phương tiện hay khéo làm cho thuần thục. Người đã vào cửa và đã thuần thục Bồ Tát thực hành phương tiện hay khéo, làm cho kẻ ấy chứng quả giải thoát.

Bồ Tát thực hành phương tiện hay khéo bằng cách áp dụng y học thế gian, kỹ thuật khoa học và các môn luận lý.

Vì muốn hết lòng thọ giới Bồ Tát, kiên trì chẳng phạm, Bồ Tát thực hành phương tiện hay khéo, phương tiện thiện nguyện, phương tiện của Thanh văn thừa, của Bích Chi Phật thừa và phương tiện của Đại thừa.

Mười phương tiện này có thể tạo thành năm sự. Bốn phương tiện đầu là sự lợi ích chúng sanh. Phương tiện kỹ thuật thế gian là phá các luận thuyết tà kiến.

Bồ Tát thọ trì giới cấm của Bồ Tát, trọn không hủy phạm. Giả sử có phạm cũng theo chỗ phạm mà làm pháp sám hối, khéo dùng phương tiện phát những thiện nguyện, do đó tùy chỗ sự việc mong muốn liền có thể được đúng như sở nguyện.

Phương tiện tam thừa của Đại Bồ Tát là tùy căn cơ, trình độ chúng sanh mà giảng chánh pháp, cho nên mười phương tiện như trên của Bồ Tát (từ câu: Có người manh tâm….đến phương tiện Đại thừa) có thể tác thành năm việc (bốn hạnh phương tiện và phá các tà kiến), do năm việc này Bồ Tát đầy đủ tánh cách quyết định, có thể đạt được kết quả mọi việc thế gian trong khi hiện tại hoặc thuở vị lai.

Thế nào là sự lợi ích tha nhân của Bồ Tát?

-Như trong phẩm Tứ nhiếp đã nói đủ.

Thế nào là sự khéo phát nguyện của Bồ Tát?

-Phàm tất cả những sự nghiệp lành nào Bồ Tát đã tu, Bồ Tát đã làm trong thuở quá khứ, hiện tại, vị lai, Bồ Tát chẳng cầu thành quả gì khác, mà chỉ cầu quả Vô thượng Bồ Đề. Đây gọi là sự khéo phát nguyện.

Khi Phật thuyết giới cho người xuất gia và người tại gia, tất cả sự thuyết giới ấy đều là nhiếp lấy bốn sự như trên. Nếu các Bồ Tát xuất gia, tại gia quá khứ, vị lai, hiện tại, những ai thọ trì giới cấm Bồ Tát, tất cả đều sẽ chứng được Vô thượng Bồ Đề. Bồ Tát xuất gia hơn Bồ Tát tại gia. Vì sao thế? -Bồ Tát xuất gia gặt hái tất cả kết quả cấm giới của Bồ Tát. Tại gia Bồ Tát chẳng được tất cả giới cấm của Bồ Tát.

Xuất gia Bồ Tát có thể thực hành phạm hạnh vắng lặng thanh tịnh. Bồ Tát tại gia khó nổi, hoặc chẳng thể tu phạm hạnh vắng lặng.

Bồ Tát xuất gia có thể tu tập 37 phẩm trợ đạo.

Bồ Tát tại gia chẳng hay tu hành 37 phẩm trợ đạo.

Bồ Tát xuất gia giải thoát tất cả sự việc thế gian. Bồ Tát tại gia còn bị sự việc thế gian ràng buộc.

    Xem thêm:

  • Giải Nghi Thiền Tông - Kinh Tạng
  • Thiền Pháp Yếu Giải - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Kim Cang Đỉnh Du Già Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Tu Hạnh - Kinh Tạng
  • Kinh Thụ Thập Thiện Giới - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Nhứt Thiết Bí Mật Tối Thượng Danh Nghĩa Đại Giáo Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ 31 – Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt (Singàlovàda Sutta) - Kinh Tạng
  • Giảng giải việc quán xét tâm Bồ-đề - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 146 – Kinh Giáo Giới Nandaka (Nandakovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 144 – Kinh Giáo Giới Channa (Channovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 145 – Kinh Giáo Giới Phú Lâu Na (Punnovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Giảng Giải Tinh Yếu Kinh A Di Đà - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 62 – Ðại Kinh Giáo Giới La Hầu La (Mahà Ràhulovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Đỉnh Nhứt Thiết Như Lai Chơn Thực Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Đại Minh Thành Tựu Trì Minh Tạng Du Già Đại Giáo Tôn Na Bồ Tát - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Của Thiền Sư Thụy Châu Động Sơn Lương Giới - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 143 – Kinh Giáo Giới Cấp Cô Ðộc (Anàthapindikovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Bích Nham Lục Của Thiền Sư Phật Quả Viên Ngộ – Thích Mãn Giác dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 61 – Kinh Giáo Giới La Hầu La Ở Rừng Ambala (Ambalatthikà Ràhulovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 147 – Tiểu Kinh Giáo Giới La Hầu La (Cùlaràhulovàda sutta) - Kinh Tạng