QUYỂN HẠ
Lại do nghiệp gì mà có bổ đặc già la, hoặc thân và tâm đều không khoái lạc, lại không tu phước? Đó là có một hữu tình trong đời quá khứ làm nhiễu loạn chúng sanh, làm cho sợ sệt, lại không có tín tâm, không phát nguyện lành. Cho nên bổ đặc già la này sau khi mạng chung sanh trong loài người, cả thân lẫn tâm đều bị bất an, lại có nhiều ngu ám nên không tu hạnh bố thí.
Tại sau có bổ đặc già la ở nhân gian thì bị chết yểu, nhưng sống lâu dài trong tam đồ? Đó là một bổ đặc già là quá khứ tu nhân, đời này thọ quả lành ít, đời sau thọ quả dữ nhiều, cho nên bổ đặc già la này sanh ở nhân gian bị chết yểu, đời sau sanh vào địa ngục, ngạ quỷ và A-tố-ra thì thọ mạng lại lâu dài.
Tại sao có bổ đặc già la ở tam đồ thọ mạng ngắn nhưng ở cõi người thì thọ mạng lâu dài? Đó là có một bổ đặc già la tu nhân ở quá khứ, đời này thọ nghiệp ác ít, đời sau thọ nghiệp thiện nhiều, cho nên bổ đặc già la này ở tam đồ thì thọ mạng ngắn ngủi, đời sau sanh ở nhân gian thì thọ mạng lại lâu dài.
Tại sao có bổ đặc già la sanh ở nhân gian và ở tam đồ thọ mạng đều ngắn ngủi? Đó là có một bổ đặc già la tu nhân ở quá khứ, ở đời này và đời sau thọ nghiệp thiện, ác đều ít, cho nên bổ đặc già la này ở trong loài người và ở tam đồ thọ mạng đều ngắn ngủi.
Tại sao có bổ đặc già la khi mạng đã tận thì phiền não cũng tận? Tại sao có bổ đặc già la phiền não đã tận mà thọ mạng không tận? Đó là người được Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, quyết định tánh và bất quyết định A la hán.
Lại do nghiệp gì mà có bổ đặc già la tuy sanh ở ác thú mà hình sắc thân thể đoan nghiêm thù diệu, ai thấy cũng hoan hỷ? ai cũng yêu thích? Đó là có một bổ đặc già la trong đời quá khứ tu tập hạnh nhẫn nhục, nhưng vì phá tịnh giới của Phật nên đọa vào ác thú thọ thân hình khác, được hình sắc đoan nghiêm, mềm mại, cụ túc, ai thấy cũng hoan hỷ.
Lại do nghiệp gì mà có bổ đặc già la sanh ở trong ác thú mà thân hình thô rít, hình sắc xấu xí, ai thấy cũng không ưa? Đó là do bổ đặc già la này ở đời quá khứ tâm nhiều sân hận, không tu nhẫn nhục, đã phá tịnh giới của Phật lại không phát lồ. Cho nên sau khi mạng chung sanh trong loài khác, hình sắc xấu xí, thân thể thô lậu, các căn bị sứt mẻ, hôi thối dẫy đầy, si mê ám muội, ai thấy cũng không hoan hỷ.
Lại nữa, ác nghiệp bị quả báo như thế nào? Do nhân sát sanh nên bị thọ mạng, sắc lực đều không đầy đủ. Do nhân trộm cắp nên bị sương, mưa đá, sâu trùng, đói khát, hạn hán. Do nhân tà dục nên bị quả báo bên ngoài nhiều trần cấu, vợ không trinh thuận. Do nhân hư vọng nên bị quả báo hôi thối ô danh, người đều hiềm ghét. Do nhân ly gián nên bị quả báo quyến thuộc bất hòa, tật bệnh triền miên. Do nhân nói thô ác nên bị quả báo xúc chạm vật cứng nhám, kết quả không đẹp. Do nhân tạp uế nên bị quả báo rừng cây gai góc, vườn tược tiêu điều. Do nhân tham ái nên bị quả báo kho tàng ít ỏi. Do nhân sân hận nên bị quả báo mùi vị cay đắng, dung mạo xấu ác. Do nhân ngu si nên bị quả báo sắc bên ngoài không sạch, bị hư hao. Do tạo mười nghiệp bất thiện nên bị như vậy.
Tu mười thiện nghiệp được quả báo gì? –Xa lìa việc giết hại, thọ mạng và y báo đều được đầy đủ. Xa lìa trộm cắp thì đói khát, gió, mưa đá, sâu trùng, các tai hoạn đều được xa lìa. Nhân không có tà dâm thì tiếng tốt đồn khắp, xa lìa trấn cấu. Nhân không vọng ngữ, miệng thường thơm sạch. Nhân không ly gián nên quyến thuộc được hòa thuận xa lìa cao thấp, sấm sét, sương, mưa đá. Nhân không có thô ác nên quả ngọt, tốt đẹp, xa lìa cứng nhám. Nhân không có tạp uế nên rừng cây, vườn tược xa lìa gai góc, tất cả đều tươi nhuận. Nhân không có tham ái nên kho lẫm được sung mãn, đầy đủ. Nhân không có sân hận nên thân tướng được tròn đầy, các căn không có khuyết tật. Nhân không có tà kiến nên tín tâm không đoạn, được tối thượng, thơm, đẹp đầy đủ. Do tu mười thiện nghiệp nên được quả báo như vậy.
Lại nữa, làm mười điều ác có mười quả báo. Những gì là mười? Sát sanh có mười quả báo:
1. Oan gia ngày càng nhiều
2. Ai thấy kẻ ấy cũng không hoan hỷ.
3. Hữu tình sợ sệt.
4. Hằng chịu sự khổ não.
5. Thường nghĩ đến việc giết.
6. Nằm mộng thấy sầu khổ.
7. Lúc lâm chung bị hối hận.
8. Thọ mạng ngắn ngủi.
9. Tâm thức bị ngu muội.
10. Khi chết đọa vào địa ngục.
Lại nữa, trộm cắp quả báo có mười thứ. Những gì là mười?
1. Kết thêm oan gia đời trước.
2. Luôn luôn nghi ngờ nghĩ ngợi.
3. Bị bạn ác theo đuổi.
4. Bạn lành lánh xa.
5. Phá tịnh giới của Phật.
6. Bị phép vua trích phạt.
7. Buông lung phóng dật.
8. Mãi mãi sầu lo.
9. Không được tự do.
10. Chết đọa địa ngục.
Lại nữa, tà dục quả báo có mười thứ. Những gì là mười?:
1. Dục tâm bừng cháy.
2. Thê thiếp không trinh lương.
3. Tăng trưởng sự bất thiện.
4. Thiện pháp bị tiêu diệt.
5. Nam nữ phóng túng.
6. Tài sản âm thần tiêu tán.
7. Tâm nhiều nghi ngờ nghĩ ngợi.
8. Xa lìa bạn lành.
9. Bị thân tộc không tin tưởng.
10. Mạng chung bị đọa vào tam đồ.
Lại nữa, vọng ngữ quả báo có mười thứ. Những gì là mười?
1. Hơi trong miệng thường hôi thối.
2. Kẻ ngay thẳng xa lánh.
3. Người nịnh nọt quanh co ngày càng nhiều.
4. Gần gũi kẻ phi nhân.
5. Dù có nói thật cũng không ai tin.
6. Trí huệ ít dần.
7. Tiếng tăm không thật.
8. Không nói lời thành thật.
9. Ưa nói chuyện thị phi.
10. Thân chết sanh vào ác đạo.
Lại nữa, uống rượu có ba mươi sáu lỗi, những lỗi ấy như thế nào?
1. Tài sản bị tản thất.
2. Hiện tại có nhiều bệnh tật.
3. Nhân ưa thích đấu tranh.
4. Tăng trưởng sự giết hại.
5. Tăng trưởng sự sân hận.
6. Phần nhiều không toại ý.
7. Trí huệ kém dần.
8. Phước đức không Tăng.
9. Phước đức hao giảm.
10. Phơi bày sự bí mật.
11. Sự nghiệp không thành.
12. Tăng nhiều sự ưu khổ.
13. Các căn bị ám muội.
14. Làm hủy nhục cha mẹ.
15. Không kính bậc sa-môn.
16. Không tin bà la môn.
17. Không tôn kính Phật.
18. Không kính Tăng, pháp.
19. Thân cận bạn ác.
20. Xa lánh bạn lành.
21. Bỏ bê việc ăn uống.
22. Thân hình (lõa lồ) không kín đáo.
23. Dâm dục hẫy hừng.
24. Mọi người không thích.
25. Tăng thêm sự cười chê.
26. Cha mẹ không vui.
27. Quyến thuộc chê bỏ.
28. Chấp nhận điều phi pháp.
29. Xa lìa chánh pháp.
30. Không kính bậc hiền thiện.
31. Vi phạm điều tội ác.
32. Xa lìa sự viên tịch.
33. Điên cuồng ngày càng nặng.
34. Thân tâm tán loạn.
35. Làm ác, phóng dật.
36. Thân hoại mạng chung đọa vào đại địa ngục, thọ khổ vô cùng tận.
Bấy giờ đức Phật bảo trưởng giả Du ca rằng:
–Nếu lại có người đối với tháp của Như Lai mà chấp tay cung kính, có mười công đức. Những gì là mười?:
1. Sanh vào nhà đại quý tộc.
2. Có nhiều sắc đẹp.
3. Hình tướng khoẻ mạnh khả ái.
4. Tứ sự được dồi dào.
5. Trân bảo thật nhiều.
6. Tiếng tốt đồn khắp.
7. Tín căn thâm sâu.
8. Sự nhớ nghĩ rộng lớn.
9. Trí huệ nhạy bén cùng khắp.
10. Nghề nghiệp rộng lớn.
Như vậy, này trưởng giả! Nếu lại có người chắp tay cung kính tháp của Như Lai, được những công đức như vậy.
Nếu lại có người đối với tháp của Như Lai mà chấp tay lễ bái, được mười công đức. Những gì là mười?
1. Ngôn từ nhu nhuyến.
2. Trí huệ siêu quần.
3. Người trời đều hoan hỷ.
4. Phước đức rộng lớn.
5. Cùng ở với người hiền thiện.
6. Được tôn quý tự tại.
7. Hằng được gặp Phật.
8. Được thân cận với Bồ tát.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch. Công đức như vậy do lễ bái tháp của Phật mà có được.
Nếu lại có người lau bụi bặm tháp của Phật được mười công đức. Những gì là mười?:
1. Sắc tướng tròn đầy.
2. Thân thể ngay thẳng.
3. Âm thanh vi diệu.
4. Xa lìa ba độc.
5. Đi đường không bị chông gai.
6. Được chủng tộc tối thượng.
7. Được tôn sùng, quý trọng, tự tại
8. Mạng chung được sanh lên trời.
9. Thân thể không có cấu nhiễm.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do lau chùi bụi tháp của Phật mà được.
Nếu có người bố thí dù lọng cho tháp của Như lai được mười thứ công đức. Những gì là mười?:
1. Xa lìa sự nhiệt não.
2. Tâm không tán loạn.
3. Làm chủ thế gian.
4. Nghề nghiệp rộng lớn.
5. Phước đức vô lượng.
6. Được làm vua Chuyển luân.
7. Thân tướng tròn đầy
8. Xa lìa tam đồ.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do cúng thí dù lọng cho tháp của Phật mà được.
Nếu hoặc có người bố thí chuông, linh cho tháp của Phật, được mười thứ công đức? Những gì là mười?
1. Đoan nghiêm không thể so sánh được.
2. Diệu âm thật đáng ưa thích.
3. Tiếng như chim Ca-lăng
4. Ngôn từ nhu nhuyến.
5. Ai thấy cũng hoan hỷ.
6. Được sự đa văn như ngài A-Nan.
7. Tôn quý tự tại.
8. Tiếng tốt đồn xa.
9. Qua lại thiên cung.
10. Cứu cánh được viên tịch.
Công đức như vậy do bố thí chuông, linh cho tháp của Phật mà được quả báo thù thắng.
Nếu lại có người bố thí tràng phan cho tháp của Như Lai có mười công đức. Những gì là mười?
1. Hình dung ngay thẳng, được trường thọ, tròn đầy.
2. Thế gian ân trọng.
3. Tín căn kiên cố.
4. Hiếu dưỡng cha mẹ.
5. Thân hữu quyến thuộc thật nhiều.
6. Được khen ngợi có tiếng tốt.
7. Sắc tướng đoan nghiêm.
8. Ai thấy cũng hoan hỷ.
9. Sanh nhà thượng tộc, phú quý, tự tại, được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do bố thí tràng phan cho tháp của Phật mà được.
Nếu có người dâng cúng y phục cho tháp của Như lai được mười hai thứ công đức thù diệu. Những gì là mười hai?
1. Thân thể ngay thẳng.
2. Ai thấy cũng hoan hỷ.
3. Phước tướng sáng láng.
4. Sắc tướng vi diệu.
5. Sắc hình đẹp không thể so sánh.
6. Thân không có trần cấu.
7. Y phục sạch đẹp.
8. Ngọa cụ mềm mại.
9. Được đại tự tại.
10. Mạng chung được sanh lên trời.
11. Ai thấy cũng đều kính yêu.
12. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do dâng cúng y phục cho tháp của Phật mà được.
Nếu lại co người cúng dường hoa cho tháp của Như Lai có mười công đức. Những gì là mười?
1. Sắc tướng đẹp như hoa
2. Thế gian không thể so sánh.
3. Tỷ căn không hư hoại.
4. Thân không xú uế.
5. Diệu hương thanh tịnh.
6. Vãng sanh 10 phương tịnh độ, được thấy Phật.
7. Hương giữ giới thơm phức.
8. Thế gian ân trọng, được đại pháp lạc.
9. Được sanh lên trời tự tại.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do dùng hoa cúng dường tháp xá lợi của Phật mà được.
Lại nếu có người dùng tóc trải ra để dâng cúng tháp Như Lai, được mười thứ công đức. Những gì là mười?
1. Nhân sắc mềm mại thù diệu.
2. Thân không hôi thối.
3. Hình thể thanh tịnh.
4. Sanh về mười phương cõi Phật.
5. Hương giới thơm phức.
6. Hằng nghe diệu hương.
7. Quyến thuộc được viên mãn.
8. Các căn vui thích.
9. Sanh lên trời tự tại.
10. Mau chứng Niết-bàn.
Công đức như vậy là do dâng cúng tóc nơi tháp Như Lai mà được.
Nếu lại có người bố thí đèn cúng dường tháp xá lợi của Phật, được mười công đức. Những gì là mười?
1. Được nhục nhãn thanh tịnh.
2. Được thiên nhãn thanh tịnh.
3. Xa lìa tam độc.
4. Được các thiện pháp.
5. Thông minh trí tuệ.
6. Xa lìa ngu si.
7. Không đọa vào tam đồ tối tăm.
8. Được tôn quý tự tại.
9. Qua lại các cõi trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do cúng dường đèn cho tháp xá lợi của Phật.
Nếu lại có người bố thí hương hoa cúng dường tháp của Như Lai được mười công đức. Những gì là mười?
1. Tỷ căn được thanh tịnh.
2. Thân không có hôi thối.
3. Thân sạch, có mùi thơm vi diệu.
4. Hình tướng đoan nghiêm.
5. Được thế gian cung kính.
6. Ưa pháp và nghe nhiều.
7. Được tôn quý tự tại.
8. Tiếng tốt đồn khắp.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Mười thứ công đức như vậy là do bố thí hương hoa cúng dường tháp xá lợi của đức Như Lai.
Nếu lại có người dùng âm nhạc vi diệu cúng đường tháp của Phật được mười thứ công đức thù thắng vi diệu. Những gì là mười?
1. Thân tướng đoan nghiêm.
2. Ai thấy cũng hoan hỷ.
3. Được âm thanh vi diệu.
4. Ngôn từ hòa thuận.
5. Thân thể thích nghi.
6. Xa lìa sự sân hận
7. Được sự đa văn của ngài Khánh Hỷ.
8. Được tôn sùng, tôn quý, tự tại.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do dùng âm nhạc vi diệu cúng dường tháp của Phật.
Nếu lại có người hoan hỷ tán thán tháp của Như lai được mười tám thứ công đức thắng diệu. Những gì là mười tám?
1. Chủng tộc tôn quý, cao thượng.
2. Hình tướng đoan nghiêm.
3. Thân thể ngay thẳng đầy đặn.
4. Ai thấy, nghe thấy cũng đều hoan hỷ.
5. Tiền của vô lượng.
6. Quyến thuộc rộng lớn.
7. Không bị mất mát, hư hoại.
8. Được tôn quý tự tại.
9. Thường sanh về cõi Phật.
10. Tiếng tăm đồn xa.
11. Đức tốt được tán tụng.
12. Tứ sự được dồi dào.
13. Người trời đều cúng dường.
14. Được làm Chuyển luân vương.
15. Thọ mạng được lâu dài.
16. Thân thể cứng chắc như kim cang.
17. Mạng chung được sanh lên trời.
18. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do hoan hỷ tán thán tháp xá lợi của Phật.
Nếu lại có người bố thí giường tòa cho Phật được mười thứ công đức. Những gì là mười?
1. Đức nghiệp được tôn trọng.
2. Được thế gian khen ngợi.
3. Tay chân có nhiều sức mạnh.
4. Danh xưng dù xa cũng nghe.
5. Đức tốt được ca tụng.
6. An hòa vui thích.
7. Được ngồi tòa của Chuyển luân vương, kẻ hầu hạ thật nhiều.
8. Ai thấy cũng hoan hỷ
9. Được sanh lên trời Tự tại, đầy đủ phước tướng.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do cúng thí giường tòa cho Phật mà được quả báo thù thắng ấy.
Nếu lại có người bố thí giày dép cúng dường Tăng chúng của Phật, được mười công đức. Những gì là mười?
1. Oai nghi mô phạm.
2. Voi ngựa không thiếu.
3. Hành đạo dõng kiện.
4. Thân không mệt mỏi.
5. Chân đi không tổn hại.
6. Xa lìa gai góc, cát sỏi.
7. Được thần túc thông.
8. Tôi tớ đông đảo.
9. Sanh lên trời Tự tại.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do bố thí giày dép cho tỳ kheo chúng của Phật.
Nếu lại có người bỏ 10 vật vào bình bát cúng thí cho Phật và Tăng, được mười thứ công đức. Những gì là mười?
1. Hình sắc sáng rạng.
2. Đồ đựng đầy đủ, tùy ý thọ dụng.
3. Không bị các sự đói khát.
4. Ngọc báu thật nhiều.
5. Xa lìa đường ác.
6. Nhân thiên đều hoan hỷ.
7. Phước tướng tròn đầy.
8. Được tôn quý tự tại.
9. Hằng được sanh lên các cõi trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do cúng đồ đựng nên được quả báo ấy.
Nếu lại có người lấy cơm chay cúng dường Phật và chúng Tăng có mười công đức; những gì là mười?
1. Thọ mạng lâu dài.
2. Hình sắc đầy đặn tròn trịa.
3. Tay chân có sức lực.
4. Ký ức không quên (trí nhớ tốt)
5. Trí huệ biện tài.
6. Ai thấy cũng hoan hỷ.
7. Có nhiều châu báu.
8. Dù ở cõi người hay ở cõi trời vẫn được tự tại.
9. Sau khi chết được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Mười món công đức thù thắng như vậy là do cúng cơm chay cho Phật và chúng Tăng.
Nếu lại có người dùng voi, ngựa, xe cộ cúng thí cho Phật và chúng Tăng có mười công đức. Những gì là mười?
1. Tướng của bàn chân mềm mại.
2. Có oai nghi không sứt mẻ.
3. Thân thể không mệt mỏi.
4. An lạc không bệnh.
5. Oan gia xa lìa.
6. Thần túc tự tại.
7. Có nhiều tôi tớ.
8. Có phước tướng của nhân thiên, ai thấy cũng hoan hỷ.
9. Sau khi chết được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do dùng xe cộ, voi ngựa cúng thí cho Phật và chúng Tăng.
Nếu lại có người tu sửa phòng thất, nhà cửa, cung điện cúng thí cho Phật và chúng Tăng có nhiều công đức. Hành tướng của công đức ấy như thế nào?
¯ Hằng xa lìa sợ sệt.
¯ Thân tâm an lạc.
¯ Được ngọa cụ mềm mại tối diệu.
¯ Y phục trang nghiêm, thân thể hương thơm thanh tịnh.
¯ Ở nhân gian hay thiên thượng được ngũ dục tự tại.
¯ Làm sát đế lợi, bà la môn đại tánh chủng tộc.
¯ Và trưởng giả, cư sĩ, tể quan, thương chủ, làng xóm, thành ấp, quốc vương, đại thần, tùy nguyện được đầy đủ, tất cả đều thành tựu.
¯ Nếu làm Chuyển luân thánh vương, tùy theo sức lực (thống nhiếp) một châu, hai châu, cho đến bốn châu nhà vua giáo hóa tự tại.
¯ Nếu ở Lục dục chư thiên, Tứ vương Đao lợi, cho đến Tha hóa Tự tại, mọi ý nguyện đều thành tựu, tùy ý sanh ra.
Nếu lại có người do phước lực đời trước đối với các cõi trời Sắc giới, Phạm chúng, Phạm phụ, cho đến cõi trời Sắc cứu cánh, đều được thành tựu ý nguyện sanh ở các cõi ấy.
Nếu lại có người đối với cõi Vô sắc giới, Không vô biên xứ, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều được thành tựu, hoặc đối với quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn và A la hán, Duyên giác, cho đến Vô thượng Bồ đề, tùy ý đều cũng được thành tựu. Công đức như vậy sai biệt vô lượng. Nhân sửa phòng nhà, cung điện, lầu gác, cúng thí cho Phật và Tăng mà được quả báo như vậy.
Nếu lại có người dùng thuốc thang, đồ uống mỹ diệu Cúng Phật và Tăng được mười thứ công đức. Những gì là mười thú?
1. Các căn được viên mãn.
2. Thanh tịnh tươi sạch.
3. Trán rộng ngay thẳng.
4. Dung mạo vui vẻ.
5. Hình sắc sáng rạng.
6. Phước đức tròn đầy.
7. Không bị đói khát.
8. Xa lìa ba ác đạo.
9. Được sanh lên trời Tự tại
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do bố thí thuốc thang, đồ uống mỹ diệu cho Phật và chúng Tăng mà được.
Nếu lại có người theo Phật xuất gia có mười công đức. Những gì là mười?
1. Xa lìa nhà vợ.
2. Dù nhiễm dục vẫn không tham đắm.
3. Yêu thích sự tịch tịnh.
4. Chư Phật hoan hỷ.
5. Xa lìa tà ma.
6. Gần Phật nghe pháp.
7. Xa lìa ba đường ác.
8. Chư thiên kính yêu.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng tịch tịnh.
Mười thứ công đức như vậy là nhờ theo Phật xuất gia mà được.
Nếu có tỳ kheo ở trong rừng hoang tịch tịnh có mười thứ công đức Những gì là mười?
1. Xa lìa sự huyên náo ồn ào.
2. Thanh tịnh thơm sạch.
3. Thành tựu thiền định.
4. Được chư Phật thương tưởng.
5. Không bị nửa chừng chết yểu.
6. Được đa văn, tổng trì.
7. Thành tựu Xa ma tha vĩ bát xá na (chỉ và quán).
8. Phiền não không khởi.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do tỳ kheo tu hành ở trong rừng vắng mà được.
Nếu có tỳ kheo ôm bát khất thực có mười thứ công đức. Những gì là mười thứ?
1. Oai nghi không sứt mẻ.
2. Thành thục hữu tình.
3. Xa lìa tâm ngã mạn.
4. Không tham danh lợi.
5. Phước điền cùng khắp.
6. Chư Phật hoan hỷ.
7. Làm hưng thạnh tam bảo.
8. Phạm hạnh tròn đầy, bỏ ý nghĩ thấp hèn.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Rốt ráo viên tịch
Công đức như vậy là do thường ôm bát khất thực mà được.
Nếu có tỳ kheo ôm bát khất thực, xa lìa mười thứ hắc ám, được mười thứ công đức như vầy. Những gì là mười?
1. Biết rõ việc ra vào xóm làng có ích hay không có ích.
2. Biết rõ gia đình dòng họ lúc đi đến có ích hay không có ích.
3. Biết rõ thuyết pháp có ích hay không có ích.
4. Biết rõ thân cận A-xà-lê, Hòa thượng có ích hay không có ích.
5. Biết rõ dùng tâm từ bi giáo hóa lợi lạc chúng sanh có ích hay không có ích.
6. Biết rõ sự thân cận hay xa lìa có ích hay không có ích.
7. Biết rõ tập học ba món giới, định, tuệ có ích hay không có ích.
8. Biết rõ đàn na tín thí bố thí y có ích hay không có ích.
9. Biết rõ ôm bát vào đường hẻm có ích hay không có ích.
10. Biết rõ thọ dụng ngọa cụ, thuốc thang cho đến lúc chết rồi có ích hay không có ích.
Do biết rõ như vậy được mười thứ quả báo thù thắng như vậy.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo con của trưởng giả Du ca rằng:
–Nghiệp nhân, nghiệp sanh, nghiệp nhân, nghiệp diệt, nghiệp có trước, sau, dẫn nghiệp, mãn nghiệp sai biệt cho nên quả báo mới có cao, thấp, ngu trí cách biệt.
Khi đức Phật nói pháp này, lúc ấy trưởng giả Du ca bạch Phật
–Thưa Thế tôn, trong dòng họ Ô bá tắc ca và trong tất cả các dòng họ Sát-đế-lợi, Bà la môn ở nước Xá vệ này, nghe pháp này hoan hỷ, nhớ nghĩ và thọ trì. Quyến thuộc của chúng con đều rất yêu thích, mãi mãi được an lạc, lợi ích cho mình và cho người không cùng tận.
Đức Phật dạy:
–Lành thay! Lành thay! Này trưởng giả Du ca, đúng như lời ngươi nói.
Đức Thế tôn nói lời ấy xong, trưởng giả Du ca, con của Đâu nễ dã và các Bí sô, vô lượng trăm ngàn người và không phải người v. v… hoan hỷ, phấn khởi, lạy Phật rồi lui ra.