1
2
3

Luận Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật

Vô Trước Bồ Tát tạo Tùy Đạt Ma Cấp Đa dịch

Bản Việt dịch của Nguyên Huệ

***

QUYỂN 1

Xuất sinh pháp Phật không gì hơn

Hiển bày pháp giới là bậc nhất

Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp

Tất cả Thánh nhân không thể nhập.

Tiểu Kim Cương Ba-la-mật nầy

Do tên như thế nêu uy lực

Bậc Trí đã thuyết giảng giáo, nghĩa

Nghe rồi chuyển vì chúng con nói.

Quy mạng hết thảy bậc Giác ngộ

Đều đem tâm chánh mà đảnh lễ

Con nên tinh tấn lập nghĩa ấy

Giải thích nối tiếp vì mình, người.

* Luận nêu: Thành lập bảy thứ Nghĩa cú rồi, thì Bát-nhã Ba-la-mật nầy liền được thành lập. Bảy Nghĩa cú là:

1. Chủng tánh không đoạn.

2. Phát khởi hành tướng.

3. Nêu trụ xứ của hành.

4. Đối trị.

5. Không lỗi.

6. Địa.

7. Lập danh.

Bảy nghĩa như thế được thành lập từ trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nên gọi là Nghĩa cú.

Ở đây, sáu Nghĩa cú trước là hiển thị chỗ tạo tác rốt ráo của Bồ-tát. Nghĩa cú thứ bảy hiển thị việc thành lập pháp môn ấy. Nên nhận biết như thế. Bát-nhã Ba-la-mật nầy, vì Phật chủng không đoạn dứt nên lưu hành ở đời. Thượng tọa Tu-bồ-đề, ngay nơi phần đầu kinh đã bạch Phật: Hy hữu thay! Đức Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đã khéo hộ niệm các Bồ-tát, đã khéo phó chúc các Bồ-tát v.v… (Chủng tánh không đoạn).

* Nghĩa cú thứ hai: Phát khởi hành tướng

Như kinh viết: Thế nào là Bồ-tát ở trong Đại thừa phát khởi tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng? v.v…

* Nghĩa cú thứ ba: Nêu trụ xứ của hành

Nghĩa là nêu trụ xứ của hành tướng được phát khởi kia. Ở đây lại có 18 thứ, nên biết:

1. Phát tâm. Như kinh nói: Các Bồ-tát nên sinh tâm như thế, đối với tất cả chúng sinh hiện có v.v…

2. Hành Ba-la-mật tương ưng. Như kinh nêu: Không trụ nơi sự để hành bố thí v.v…

3. Muốn đạt được Sắc thân. Như kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng tướng thành tựu để thấy Như Lai chăng? v.v…

4. Muốn đạt được Pháp thân. Kinh viết: Tu-bồ-đề bạch Phật: Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nơi đời vị lai v.v…

5. Ở trong việc tu đạo đạt được pháp thù thắng, không kiêu mạn. Kinh viết: Tu-đà-hoàn có thể khởi niệm nầy v.v…

6. Không lìa lúc Phật xuất hiện ở đời. Kinh nêu: Theo ý của Tôn giả là thế nào? Như Lai, về thời xa xưa, ở nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng v.v…

7.Nguyện làm thanh tịnh cõi Phật. Kinh viết: Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói như vầy: Ta đã trang nghiêm quốc độ Phật v.v…

8.Thành thục chúng sinh. Kinh nêu: Tu-bồ-đề! Ví như có người thân như núi chúa Tu-di v.v…

9. Xa lìa việc thuận theo nẻo tán loạn của ngoại luận. Kinh viết: Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như số lượng cát hiện có trong sông Hằng v.v…

10. Sắc thân cùng chúng sinh thân giữ lấy chỗ hợp với quán, làm rõ hành tương ưng. Kinh nêu: Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Số lượng vi trần hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v…

11.Cúng dường, hầu cận Như Lai. Kinh viết: Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng ba mươi hai tướng của bậc đại nhân để thấy Như Lai chăng? v.v…

12. Xa lìa mọi thứ lợi dưỡng cùng phiền não bức bách và mệt nhọc, thiếu thốn, khiến tinh tấn không khởi cùng thối chuyển. Kinh nêu: Tu-bồ-đề! Nếu các thiện nam, thiện nữ dùng Hằng hà sa số thân v.v…

13. Nhẫn chịu khổ. Kinh nêu: Như Lai nói Nhẫn nhục Ba-la-mật v.v…

14. Lìa vị tịch tĩnh. Kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Như các thiện nam, thiện nữ, có thể đối với pháp môn nầy thọ trì, đọc tụng, tu tập v.v…

15. Vào lúc chứng đạo, xa lìa hỷ động. Kinh viết: Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng? v.v…

16. Cầu được chỉ dạy, trao truyền. Kinh viết: Ý như thế nào? Như Lai ở nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng có pháp nào để đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? v.v…

17.Chứng đạo. Kinh nêu: Ví như có người thân vi diệu, to lớn v.v…

18. Cầu đạt Phật địa. Kinh viết: Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói như vầy: Ta đã trang nghiêm quốc độ của Phật, tức không gọi là Bồ-tát v.v…

Những trụ xứ ấy, tóm lược làm 8 loại cũng được đầy đủ:

1. Trụ xứ gồm thâu.

2. Trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh.

3. Trụ xứ mong muốn.

4. Trụ xứ lìa chướng ngại.

5. Trụ xứ tâm tịnh.

6. Trụ xứ cứu cánh.

7. Trụ xứ rộng lớn.

8. Trụ xứ thâm diệu.

Ở đây:

Trụ xứ gồm thâu: Nghĩa là phát tâm.

Trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh: Là hành Ba-la-mật tương ưng.

Trụ xứ mong muốn: Là muốn đạt được Sắc thân, Pháp thân.

Trụ xứ lìa chướng ngại: Là mười hai thứ còn lại.

Trụ xứ tâm tịnh: Là chứng đạo.

Trụ xứ cứu cánh: Là trên cầu Phật địa.

Trụ xứ rộng lớn và trụ xứ thâm diệu: Là chung cho tất cả trụ xứ.

Ở trong Trụ xứ thứ nhất: Nếu nói Bồ-tát nên sinh tâm như thế, đối với chúng sinh hiện có, đấy là rộng lớn.

Lại nói: Nếu Bồ-tát có tướng chúng sinh v.v… Đấy là thâm diệu.

Trong Trụ xứ thứ hai: Nếu nói Bồ-tát không trụ nơi sự để hành bố thí v.v… Đây là thâm diệu. Nếu lại nói: Tụ phước hiện có kia là không thể lường xét v.v… Đấy là rộng lớn.

Như thế, ở trong các trụ xứ còn lại, tính chất rộng lớn, thâm diệu, nên biết là theo chỗ tương ưng.

* Đã nói về Trụ xứ. Nghĩa cú thứ tư: Đối trị

Hành tướng ấy tương ưng như thế, lúc hành các trụ xứ, nên biết là có 2 thứ đối trị:

1. Hành tà.

2. Hành chánh cùng kiến.

Ở đây, kiến tức là phân biệt.

Trong trụ xứ thứ nhất: Nếu nói Bồ-tát nên sinh tâm như thế nơi chúng sinh hiện có: Đây là đối trị hành tà. Vì sinh tâm như thế là Bồ-tát hành tà. Nếu lại nói: Như Bồ-tát có tưởng chúng sinh v.v… Đây là đối trị hành chánh cùng kiến. Vì phân biệt chấp ấy, Bồ-tát cũng nên đoạn trừ, nghĩa là: Ta nên độ chúng sinh đưa họ đến giải thoát.

Nơi trụ xứ thứ hai: Như nói: Nên hành bố thí. Đây là đối trị hành tà. Vì không phải đối với bố thí là hành tà của Bồ-tát.

Như lại nói: Trụ nơi sự v.v… Đây là đối trị hành chánh cùng kiến. Vì phân biệt chấp nầy, Bồ-tát cũng nên đoạn trừ. Nghĩa là nên hành bố thí.

* Nghĩa cú thứ năm: Không lỗi

Nghĩa là lìa hai biên. Thế nào là hai biên? Nghĩa là biên tăng ích và biên tổn giảm.

Nếu ở trong pháp như ngôn từ, phân biệt chấp có tự tánh, là biên tăng ích. Hoặc ở trong sự của pháp vô ngã mà chấp là không, là biên tổn giảm.

Trong đây, như nói: Thế Tôn! Nếu tụ phước chẳng phải là tụ phước v.v… Đây là nhằm ngăn chận biên tăng ích. Do tụ phước kia không có tự tánh phân biệt. Hoặc lại nói: Thế nên Như Lai nói là tụ phước. Đây là nhằm ngăn chận biên tổn giảm. Vì tụ phước ấy không như ngôn từ có tự tánh, nhưng có sự để có thể nêu bày, do Như Lai nói tụ phước. Đây là được hiển thị như thế.

Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy, Như Lai nói là phi Phật pháp: Đây là nhằm ngăn chận biên tăng ích.

Đó gọi là Phật pháp: Đây là ngăn chận biên tổn giảm.

Ở đây, Như Lai nói là phi Phật pháp: Là hiển bày nghĩa không lỗi.

Đó gọi là Phật pháp: Là hiển bày nghĩa tương ưng.

Thế nào là tương ưng? Nếu Phật pháp, như nói có tự tánh, tức Như Lai không nói là Phật pháp. Do tuy không nói cũng tự nhận biết, vì vậy không có tự tánh. Vì thế đế nên Như Lai nói, gọi là Phật pháp.

Như thế, nơi tất cả xứ đã hiển thị nghĩa không chung và nghĩa tương ưng, nên biết.

Lại nữa, Phật pháp: Là gồm thâu sự Ba-la-mật cùng các pháp Bồ-đề phần như Niệm xứ v.v… Nên biết, Bồ-tát lìa hai biên ấy, nên ở nơi sự đối trị kia không còn có lỗi. Đó gọi là không lỗi.

* Nghĩa cú thứ sáu: Nêu địa

Địa nầy có 3 thứ:

1. Địa Tín hành.

2. Địa Tâm tịnh.

3. Địa Như Lai.

Trong đó:

Mười sáu xứ trước là hiển bày địa Tín hành.

Trụ xứ chứng đạo là địa Tâm tịnh.

Trụ xứ cầu đạt Phật địa là địa Như Lai.

* Nghĩa cú thứ bảy: Lập danh

Gọi là kim cương năng đoạn: Tên gọi nầy có hai tướng nghĩa, nên biết, như nói: Hành nhập chánh kiến, hành nhập tà kiến.

Kim cương: Là vi tế, cứng chắc. Vi tế: Là nhân của trí. Cứng chắc: Là không thể hoại.

Năng đoạn: Là đối tượng đoạn trừ của văn tư tu trong Trí tuệ Ba-la-mật, như xứ đoạn của kim cương mà đoạn. Đó gọi là kim cương năng đoạn.

Lại như vẽ hình kim cương, trước sau rộng, giữa thì hẹp. Như vậy, trong Trí tuệ Ba-la-mật, hẹp là địa Tâm tịnh. Trước, sau rộng là địa Tín hành, địa Như Lai. Đây là hiển thị nghĩa không chung.

Năm thứ Nghĩa cú kia, càng lên trên càng nương dựa, nên biết là tất cả đều nương dựa nơi địa.

* Kinh viết: “Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Bà-già-bà ở tại khu vườn rừng Kỳ-đà – Cấp Cô Độc thuộc thành Xá-bà-đề, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị hội đủ.

Bấy giờ, sắp vào giờ thọ trai, Đức Thế Tôn mặc y, bưng bát, vào đại thành Xá-bà-đề, theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong, Đức Thế Tôn trở về trụ xứ để thọ trai. Thọ thực xong xuôi, Đức Thế Tôn thâu y, bát, rửa chân, rồi trải tọa cụ, ngồi kiết già, chánh niệm, bất động.

Lúc nầy, các Tỳ-kheo cùng đi đến chỗ Phật, cung kính đảnh lễ nơi chân Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng theo phía tay phải rồi lui ra ngồi qua một bên.

Khi ấy, Huệ mạng Tu-bồ-đề, ở trong đại chúng, liền từ tòa ngồi đứng dậy, bày vai bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, hướng về Đức Phật, chấp tay cung kính bạch Phật: Hy hữu thay Đức Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đã khéo hộ niệm các Bồ-tát, khéo phó chúc các Bồ-tát”.

* Luận nêu: Thân Tu-đa-la nối tiếp, Nghĩa cú ấy nay sẽ nói.

Đức Thế Tôn do đâu đã dùng oai nghi của người tịch tĩnh để an tọa? Là nhằm hiển thị, chỉ có người tịch tĩnh, đối với pháp mới có thể tỏ ngộ, mới có thể nêu bày, nên kinh viết: Khéo thâu giữ các Đại Bồ-tát bậc nhất. Nghĩa là các Bồ-tát đã thành thục đối với thời gian Phật chứng đắc Chánh giác, chuyển pháp luân, dùng năm thứ nghĩa hợp với pháp Bồ-tát mà kiến lập. Các Bồ-tát có bảy thứ lớn:

Ở đây là chúng sinh lớn nên gọi là Ma-ha Tát-đóa.

Những gì là 7 thứ lớn? Đó là:

1. Pháp lớn.

2. Tâm lớn.

3. Tin hiểu lớn.

4. Tâm tịnh lớn.

5. Tư lương lớn.

6. Thời lớn.

7. Quả báo lớn.

Như trong phần Bồ-tát Địa Trì đã nói.

Nơi trụ xứ của các Bồ-tát, thế nào là khéo thâu giữ? Thế nào là bậc nhất? Lợi lạc tương ưng là khéo thâu giữ. Bậc nhất có sáu thứ, nên biết:

1. Thời.

2. Sai biệt.

3. Cao lớn.

4. Kiên cố.

5. Hiện bày khắp.

6. Dị tướng.

Thế nào là thời? Là pháp hiện thấy và vị lai. Bồ-tát kia khéo gồm thâu hợp với lạc, là pháp hiện thấy. Lợi là vị lai.

Thế nào là sai biệt? Là đối với Tam-muội của thế gian cùng các bậc Thánh xuất thế như Thanh-văn, Độc-giác, trong sự khéo gồm thâu có sai biệt.

Thế nào là cao lớn? Tức sự khéo gồm thâu nầy là vô thượng.

Thế nào là kiên cố? Nghĩa là rốt ráo.

Thế nào là hiện bày khắp? Là tự nhiên ở nơi thân mình, người, khéo thâu giữ.

Thế nào là dị tướng? Là ở trong chốn các Bồ-tát chưa tịnh, khéo thâu giữ là hơn hết.

Kinh nói: Phó chúc bậc nhất: Là các Bồ-tát đã được khéo thâu giữ, đối với lúc Phật Bát-Niết-bàn, cũng dùng năm nghĩa ấy để kiến lập như thế.

Thế nào là phó chúc bậc nhất? Có 6 thứ nhân duyên:

1. Nhập xứ.

2. Được pháp như thế.

3. Chuyển giáo.

4. Không lỗi.

5. Bi.

6. Tôn trọng.

Thế nào là nhập xứ? Là ở nơi trụ xứ của Thiện hữu khéo phó chúc.

Thế nào là được pháp như thế? Là các Bồ-tát đã được khéo thâu giữ, ở chỗ kẻ khác cũng khéo thâu giữ pháp như thế.

Thế nào là chuyển giáo? Tức là các vị ấy đối với các Bồ-tát khác phải nên khéo thâu giữ. Đó gọi là chuyển giáo.

Ba thứ ấy theo như thứ lớp, tức là không lỗi, cùng bi và tôn trọng đều có thể nhận biết.

Hai thứ khéo thâu giữ và phó chúc nầy là hiển bày về Nghĩa cú thứ nhất: Chủng tánh không đoạn.

* Kinh viết: “Thế Tôn! Bồ-tát ở trong Đại thừa, phát tâm Bồ-đề cầu đạt đạo quả Chánh giác Vô thượng, thì nên trụ như thế nào, nên tu hành như thế nào, làm sao để hàng phục tâm mình?

Bấy giờ, Đức Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề: Lành thay! Lành thay! Nầy Tu-bồ-đề! Như Tôn giả đã nói, Như Lai đã khéo hộ niệm các Bồ-tát, khéo phó chúc các Bồ-tát. Tôn giả nay nên lắng nghe, Ta sẽ vì Tôn giả mà giảng nói. Như Bồ-tát ở trong Đại thừa phát tâm Bồ-đề cầu đạo quả Chánh giác Vô thượng, thì nên trụ, nên tu hành, nên hàng phục tâm mình như thế.

Tôn giả Tu-bồ-đề thưa: Thế Tôn! Con mong muốn được nghe”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là Nghĩa cú thứ hai: Phát khởi hành tướng. Do đâu Thượng tọa Tu-bồ-đề thưa hỏi? Có 6 nhân duyên:

1. Vì đoạn trừ nghi.

2. Vì phát khởi tin hiểu.

3. Vì hội nhập nghĩa thâm diệu.

4. Vì không thối chuyển.

5. Vì sinh hoan hỷ.

6. Vì khiến cho chánh pháp trụ lâu. Cũng tức là Bát-nhã Ba-la-mật khiến cho Phật chủng không đoạn.

Thế nào là do đấy khiến Phật chủng không đoạn? Tức nếu có người nghi, liền được dứt. Các Bồ-tát vui thích với phước đức, nhưng tâm chưa thành thục, nghe có nhiều phước đức, nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật dấy khởi tin hiểu. Người tâm đã thành thục thì hội nhập nghĩa thâm diệu. Người đã được không còn bị khinh khi, do tham thọ trì tu hành, có nhiều công đức nên không còn thối chuyển. Người đã được thuận thâu giữ cùng tâm tịnh, ở nơi pháp tự nhập và thấy sinh hoan hỷ, có thể khiến cho nơi đời vị lai, giáo pháp Đại thừa được trụ lâu dài.

Nếu lược nói, thì kẻ nghi khiến thấy rõ. Các Bồ-tát vui thích phước đức cùng đã thành thục thì được thâu nhận. Đã được không còn bị khinh khi thì tâm tâm tinh tấn. Người đã được tâm tịnh thì khiến hoan hỷ.

Kinh viết: Nên trụ như thế nào? Nghĩa là dục nguyện. Nên tu hành: Là tương ưng nơi Tam-muội. Nên hàng phục tâm: Là điều phục sự tán loạn.

Ở đây: Dục là đang cầu. Nguyện là vì chỗ cầu nên khởi tâm tư niệm.

Tương ưng nơi Tam-muội: Là Tam-muội không phân biệt.

Điều phục sự tán loạn: Là nếu tâm chánh định kia tán động thì chế ngự, khiến trở lại an trụ.

Câu thứ nhất là hiển bày về thâu giữ đạo. Câu thứ hai là hiển bày về thành tựu đạo. Câu thứ ba là hiển bày về đạo không lỗi.

Do đâu chỉ hỏi về việc phát khởi hành Bồ-tát thừa? Vì ba thứ Bồ-đề có sai biệt. Do khéo thưa hỏi, nên đối với Thượng tọa Tu-bồ-đề đáng được khen là: Lành thay!

* Kinh viết: “Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Các Bồ-tát nên sinh tâm như vầy: Tất cả chúng sinh hiện có, thuộc về các loài, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh từ thai, hoặc sinh từ sự ẩm thấp, hoặc hóa sinh. Hoặc có sắc, hoặc không sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc phi có tưởng phi không tưởng, hết thảy giới chúng sinh ấy, Ta đều khiến nhập nơi Niết-bàn vô dư mà được giải thoát. Hóa độ khiến đạt đến giải thoát vô lượng vô biên chúng sinh như thế, nhưng thật không có chúng sinh được diệt độ. Vì sao? Nầy Tu-bồ-đề! Vì nếu Bồ-tát còn có tướng chúng sinh, tức chẳng phải là Bồ-tát. Vì sao? Nầy Tu-bồ-đề! Vì nếu Bồ-tát còn khởi tướng chúng sinh, tướng người, tướng thọ giả, thì không gọi là Bồ-tát”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là Nghĩa cú thứ ba: Nêu trụ xứ của hành. Đến hết cuối kinh, có 18 môn, như trước đã nói đủ.

Ở đây, phần Trụ xứ thứ nhất: Nêu rõ về phát tâm.

Kinh viết: Chúng sinh hiện có thuộc về các loài: Là nói về tướng chung.

Hoặc sinh từ trứng v.v…: Là nói về sai biệt.

Lại, thọ sinh, nương dựa, cảnh giới được gồm thâu có sai biệt, nên biết.

Sinh từ trứng cho đến hóa sinh: Là nói về thọ sinh có sai biệt.

Hoặc có sắc, hoặc vô sắc: Là nói về nương dựa có sai biệt.

Hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc phi có tưởng phi không tưởng: Là nói về cảnh giới được gồm thâu có sai biệt.

Cảnh giới chúng sinh hiện có, thuộc về chúng sinh: Nghĩa là các thứ loại tưởng ở trên, trụ nơi cảnh giới chúng sinh, Đức Phật nêu đặt để thuyết giảng.

Ta đều khiến nhập nơi Niết-bàn vô dư: Do đâu nguyện nầy, về nghĩa không thể đạt được? Do thuộc về sinh, nên không có lỗi. Do đều là sinh, như đã nói các loài sinh, như sinh từ trứng v.v… đều nhập nơi nguyện số. Các loài sinh từ trứng, sinh từ sự ẩm thấp kia đều là không tưởng, cùng phi có tưởng phi không tưởng, tức không thể. Vì sao có thể khiến cho hết thảy chúng sinh nhập Niết-bàn? Có 3 nhân duyên:

1. Sinh nơi xứ nạn: Là được thời.

2. Sinh nơi xứ không nạn: Chưa thành thục thì khiến thành thục.

3. Đã thành thục rồi thì khiến giải thoát.

Vì sao nói giới Niết-bàn vô dư mà không nêu trực tiếp về Niết-bàn? Nếu như thế thì so với điều Đức Thế Tôn đã nói về Niết-bàn phương tiện như sơ thiền v.v… là không khác. Kẻ kia tự dùng sức trượng phu, nên không có Phật cũng đạt được, song không rốt ráo.

Do đâu không nói giới Niết-bàn hữu dư? Vì quả chung kia, tự cho là từ túc nghiệp. Lại gặp Phật nêu giảng mà được quả. Lại, không phải thân hoàn toàn khổ là hữu dư. Như vậy, Niết-bàn cùng Niết-bàn hữu dư, là quả của sức trượng phu, là quả chung, không phải là quả cứu cánh, không phải là quả hoàn toàn. Thế nên nói vô dư.

Như thế, vô lượng chúng sinh nhập Niết-bàn rồi: Là hiển bày các loài sinh như sinh từ trứng v.v… mỗi mỗi loài là vô lượng.

Không có chúng sinh nào được Niết-bàn: Đây là có nghĩa gì? Như Bồ-tát tự chứng đắc Niết-bàn, không khác với chúng sinh. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát có tướng chúng sinh, tức chẳng phải là Bồ-tát. Đây lại có nghĩa gì?

Nếu Bồ-tát ở nơi chỗ các chúng sinh, có tưởng khác chuyển, không phải tưởng của tự thể, thì không gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát khởi tưởng chúng sinh, tưởng người, tưởng thọ giả, tức không gọi là Bồ-tát. Ở đây lại có nghĩa gì?

Nếu dùng phiền não giữ lấy tưởng chúng sinh, thọ mạng, người cùng chuyển, tức có tưởng ngã, cùng ở trong chúng sinh có tưởng chúng sinh cùng chuyển. Bồ-tát trong trường hợp nầy không chuyển là do đã đoạn trừ ngã kiến, nên được tự hành (hành của năm ấm) nơi tướng bình đẳng, nên tin hiểu về tự tha bình đẳng. Bồ-tát kia không chấp giữ nơi kiến của chúng sinh, mạng, người: Đây là nghĩa đã được nói đến.

Lại nữa, kinh nói: Các Bồ-tát nên sinh tâm như thế: Là hiển thị Bồ-tát nên trụ như thế hợp với dục nguyện.

Nếu Bồ-tát có tưởng chúng sinh, tức chẳng phải là Bồ-tát: Đây là hiển bày nên tu hành như thế, hợp với lúc Tam-muội tương ưng.

Nếu Bồ-tát khởi tướng chúng sinh, tướng người, tướng thọ giả, thì không gọi là Bồ-tát: Đây là hiển thị nên hàng phục tâm như thế hợp với lúc thâu giữ sự tán loạn. Như lúc Bồ-tát hành Tam-muội tương ưng bị tán động, tưởng chúng sinh cũng không cùng chuyển, như nơi cảnh giới kia cùng trụ. Thế nên không có chúng sinh đắc Niết-bàn: Đây là thành tựu được dục nguyện kia. Thâu giữ các trụ xứ là tối thắng. Hành tướng tương ưng ấy, lúc hành các trụ xứ khác, nương dựa nơi dục nguyện, quyết định là đạt được. Nghĩa của dục nguyện nầy không giải thích nữa.

* Kinh viết: “Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát không trụ nơi sự để hành bố thí. Không chỗ trụ để hành bố thí. Không trụ nơi sắc để bố thí. Không trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí. Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên bố thí như thế, tức không trụ nơi tướng tưởng. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát không trụ nơi tướng để bố thí, thì tụ phước đức là không thể lường xét.

Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Hư không ở phương Đông có thể lường xét chăng? Tu-bồ-đề thưa: Không thể, bạch Đức Thế Tôn! Phật bảo: Đúng vậy! Nầy Tu-bồ-đề! Hư không nơi các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng cùng hai phương trên dưới, là có thể lường xét chăng? Tu-bồ-đề thưa: Không thể, bạch Đức Thế Tôn! Phật bảo: Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát không trụ nơi tướng để bố thí thì tụ phước đức cũng lại như vậy, là không thể lường tính.

Đức Phật lại bảo Tu-bồ-đề: Bồ-tát chỉ nên hành bố thí như thế”.

* Luận nêu: Nơi đoạn nầy trở xuống là Trụ xứ thứ hai: Nói về hành Ba-la-mật tương ưng. Từ đây về sau, trong các trụ xứ còn lại, nên biết có 5 thứ theo chỗ tương ưng mà giải thích:

1. Dựa nơi nghĩa.

2. Nói về tướng.

3. Thâu giữ.

4. An lập.

5. Hiển hiện.

Trụ xứ đối trị là dựa nơi nghĩa. Tức trụ xứ kia là nói về tướng. Dục nguyện là thâu giữ. Trụ xứ đệ nhất nghĩa là an lập. Tương ưng nơi Tam-muội cùng thâu tóm tâm tán động là hiển hiện.

Ở trong trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh, kinh nói: Bồ-tát không trụ nơi sự để hành bố thí: Đây là dựa nơi nghĩa, hiển thị việc đối trị trụ chấp.

Kinh viết: Nên hành bố thí: Đây là nói về tướng.

Sáu Ba-la-mật ấy được gồm thâu nơi thể tánh của tất cả bố thí. Bố thí có 3 loại:

1. Tư sinh thí (Tài thí): Nghĩa là Bố thí Ba-la-mật.

2. Vô úy thí: Là Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật.

3. Pháp thí: Là Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền na Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật.

Nếu người thọ nhận pháp không tinh tấn, thì khi thực hiện việc thuyết pháp sẽ mệt mỏi, không thể thuyết pháp. Nếu không thiền định, tức sẽ tham chấp nơi sự tin kính, cúng dường, cùng không thể nhẫn chịu sự bức não của lạnh nóng, tức thuyết pháp với tâm nhiễm. Nếu không trí tuệ thì sẽ thuyết pháp điên đảo, có nhiều lỗi lầm. Luôn gắn liền với ba thứ ấy (Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ) để có thể thành tựu pháp thí.

Các Ba-la-mật ấy có hai thứ quả: Vị lai và hiện tại.

Quả vị lai: Là Bố thí Ba-la-mật được phước báo lớn. Trì giới Ba-la-mật được tự thân đầy đủ, tức như Thích, Phạm. Nhẫn nhục Ba-la-mật thì được nhiều bạn bè hỗ trợ, quyến thuộc đông đúc. Tinh tấn Ba-la-mật thì được các thứ quả báo không đoạn dứt. Thiền na Ba-la-mật thì được sinh thân không thể tổn hoại. Trí tuệ Ba-la-mật thì được các căn mạnh mẽ, nhạy bén cùng nhiều vui thích, ở trong đại chúng luôn được tự tại.

Quả hiện tại: Là được tất cả tin kính, cúng dường, cùng Niết-bàn hiện pháp.

Ở đây, nếu Bồ-tát vì cầu quả vị lai nên hành thí, là trụ nơi sự để hành thí, như vật được thí trở lại được quả là vật ấy. Thế nên kinh nói: Không trụ nơi sự để hành bố thí.

Nếu cầu quả vị lai như trì giới v.v…, nên hành thí, là có chỗ trụ để hành thí, nên kinh viết: Nên không chỗ trụ để hành thí. Quả của trì giới có rất nhiều, không thể phân biệt, nên gọi chung là có chỗ trụ.

Nếu cầu quả hiện tại là được tin kính, cúng dường để hành thí, là trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc để hành thí, nên kinh viết: Không trụ nơi sắc v.v…

Nếu vì cầu Niết-bàn hiện pháp nên hành thí, là trụ nơi pháp để hành thí, nên kinh viết: Không trụ noi pháp để hành bố thí.

Lại, kinh nói: Nên hành bố thí: Tức nói về thâu giữ thí nơi dục nguyện.

Kinh nói: Không trụ nơi hành thí: Tức không trụ ấy là an lập đệ nhất nghĩa. Ở đây, do không trụ nên hiển bày như sự hiện có nơi đệ nhất nghĩa, vì không trụ nơi vật v.v… là sự hiện có.

Kinh viết: Bồ-tát nên hành thí như thế, tức không trụ nơi tướng, tưởng: Đây là hiển thị, tức tương ưng nơi Tam-muội cùng thâu giữ tâm tán động, là ở nơi hai thời gian ấy, chẳng trụ vào tướng, tưởng.

Như thế là đã kiến lập không trụ rồi, hoặc có Bồ-tát do tham vướng nơi phước đức, nên đối với điều ấy không thể kham nhận. Nhằm khiến cho các Bồ-tát gắng sức nhận lấy, nên Đức Thế Tôn đã hiển thị: Hành thí không trụ nơi tướng thì tụ phước là hết sức nhiều cũng như hư không. Có 3 nhân duyên:

1. Hiện bày khắp tất cả xứ. Nghĩa là ở trong tướng trụ, chẳng trụ, phước sinh khởi.

2. Rộng khắp, cao lớn, thù thắng.

3. Vô tận, là rốt ráo không cùng.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng tướng thành tựu để thấy Như Lai chăng? Tôn giả Tu-bồ-đề thưa: Không thể, bạch Đức Thế Tôn! Không thể dùng tướng thành tựu để thấy Như Lai. Vì sao? Vì Đức Như Lai đã nói tướng tức là phi tướng (hư vọng). Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Phàm mọi tướng hiện có đều là vọng ngữ. Nếu thấy các tướng là phi tướng tức không vọng ngữ (hư vọng). Các tướng như thế là phi tướng, tức thấy Như Lai”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là Trụ xứ thứ ba: Muốn đạt được Sắc thân.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng tướng thành tựu để thấy Như Lai chăng?: Đây là dựa nơi nghĩa. Hiển thị nên như sự đối trị về mạn nơi sắc thân Như Lai.

Kinh nói: Tướng thành tựu: Đây là nói về tướng, hiển thị về sắc thân của Như Lai.

Thượng tọa Tu-bồ-đề nói không phải: Là thành tựu đủ nghĩa ấy.

Đức Thế Tôn nói: Nầy Tu-bồ-đề! Phàm các tướng hiện có đều là vọng ngữ: Tức hiển bày về dục nguyện. Ở trong nghĩa như thế nên thâu giữ, cùng tức là an lập đệ nhất nghĩa. Nơi đệ nhất nghĩa, tướng thành tựu là hư vọng, phi tướng thành tựu là không hư vọng. Kinh viết: Như thế các tướng là phi tướng, tức thấy Như Lai: Đây là hiển hiện. Nghĩa là tương ưng nơi Tam-muội, cùng lúc thâu giữ tâm tán động. Ở trong tướng kia, phi tướng là thấy.

* Kinh viết: “Tu-bồ-đề bạch Phật: Thế Tôn! Như có chúng sinh nơi đời sau cùng của đời vị lai, được nghe chương cú của kinh như thế, có sinh khởi thật tướng chăng?

Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Tôn giả chớ nói như vậy! Chớ nói là nếu có chúng sinh nơi đời sau cùng của đời vị lai, được nghe chương cú của kinh như thế, có sinh khởi thật tướng chăng! Đức Phật lại bảo Tôn giả Tu-bồ-đề: Nơi đời sau cùng của đời vị lai, lúc chánh pháp sắp bị hủy diệt, có các Đại Bồ-tát là những người có trì giới, tu phước đức, trí tuệ, đối với chương cú của kinh nầy, có thể sinh tâm tin tưởng, cho đó là thật, nên biết các Đại Bồ-tát ấy, không phải đã ở nơi trú xứ của một Đức Phật, hai Đức Phật, ba, bốn, năm Đức Phật tu hành, cúng dường, gieo trồng thiện căn, mà đã ở nơi trụ xứ của vô lượng ngàn vạn chư Phật tu hành, cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn chư Phật, đã gieo trồng các thiện căn, nghe kinh nầy, cho đến trong một niệm có thể sinh tịnh tín. Nầy Tu-bồ-đề! Như Lai đều nhận biết các chúng sinh ấy. Như Lai đều thấy rõ các chúng sinh ấy. Nầy Tu-bồ-đề! Các Bồ-tát đó, sinh vô lượng tụ phước đức như thế, nhận lấy vô lượng phước đức như thế. Vì sao? Vì các Bồ-tát đó không còn tướng ngã, tướng chúng sinh, tướng người, tướng thọ giả. Nầy Tu-bồ-đề! Các Bồ-tát ấy, không có tướng pháp, cũng không phải không có tướng pháp, không tướng cũng không phải là không tướng. Vì sao? Nầy Tu-bồ-đề! Vì các Bồ-tát ấy, nếu chấp giữ nơi tướng pháp, tức là chấp trước nơi ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Nầy Tu-bồ-đề! Nếu các Bồ-tát ấy, có tướng pháp, tức là chấp nơi tướng ngã, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ giả. Vì sao? Vì không nên chấp giữ pháp, chẳng phải là không chấp giữ pháp. Do nghĩa ấy, nên Như Lai thường nói: pháp môn dụ như chiếc bè, pháp còn nên bỏ huống chi là phi pháp”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là Trụ xứ thứ tư: Muốn đạt được Pháp thân. Ở đây có 2 loại Pháp thân:

1. Pháp thân ngôn thuyết.

2. Pháp thân chứng đắc.

Vì muốn đạt được Pháp thân ngôn thuyết, nên kinh viết: Thế Tôn! Như có chúng sinh nơi đời sau cùng của đời vị lai, được nghe chương cú của kinh như thế v.v…

Trong ấy, chương cú của kinh: Tức là về nghĩa hiện có, nên biết. Thế nào là cú? Như trên đã nói về bảy thứ nghĩa cú.

Ở nơi nghĩa tưởng không điên đảo, đó là thật tướng. Nên biết, như ngôn thuyết chấp giữ nghĩa, thì đấy không phải là thật tướng. Thượng tọa Tu-bồ-đề khởi suy niệm: Nơi đời vị lai không có người sinh khởi thật tướng. Vì nhằm ngăn chận điều ấy, nên Đức Thế Tôn nói có lúc chánh pháp sắp bị diệt hoại: Nghĩa là sự tu hành dần diệt. Nên biết là tiếp theo sau, Đức Thế Tôn vì nghĩa như thế, nên đã hiển thị 5 thứ:

1. Hiển thị về tu hành.

2. Hiển thị về tập nhân.

3. Hiển thị về Thiện hữu thâu nhận.

4. Hiển thị về sự thâu giữ phước đức tương ưng.

5. Hiển thị về việc sẽ đạt được tưởng thật trong tướng thật.

Kinh nói: Có bậc trì giới, tu phước đức trí tuệ: Đây là ba học như giới, tăng thượng v.v… Là hiển thị về công đức tu hành, công đức như thiểu dục v.v… là đứng đầu, cho đến chánh định v.v…

Kinh viết: Đã được cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, cho đến nhất tâm tịnh tín v.v…: Đây là hiển thị về tập nhân. Nhất tâm tịnh tín hãy còn được như thế, huống chi là sinh tưởng thật.

Kinh nói: Như Lai đều biết, đều thấy các chúng sinh ấy: Đây là hiển thị về Thiện hữu đã thâu nhận.

Biết: Là nhận biết về danh thân.

Thấy: Là thấy rõ về sắc thân. Nghĩa là trong tất cả hành trụ đã tạo tác, đã nhận biết về tâm, thấy rõ về chỗ nương dựa.

Kinh viết: Sinh, nhận lấy vô lượng tụ phước: Đây là hiển thị về sự thâu giữ phước đức.

Sinh là lúc phước đang dấy khởi.

Nhận lấy là lúc phước kia diệt, thâu giữ chủng tử.

Kinh viết: Các Bồ-tát ấy, không còn tướng ngã, tướng chúng sinh, cho đến: Nếu các Bồ-tát có tưởng pháp, tức chấp trước nơi tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả: Đây là hiển thị về tưởng thật, đối trị 5 thứ chấp giữ tà vạy. Những gì là 5 thứ chấp giữ tà vạy? Đó là:

1. Ngoại đạo.

2. Phàm phu và Thanh-văn của nội pháp.

3. Bồ-tát tăng thượng mạn.

4. Định cùng tưởng của thế gian.

5. Định vô tưởng.

Loại thứ nhất: Là tưởng như ngã v.v… cùng chuyển.

Loại thứ hai: Là tướng pháp cùng chuyển.

Loại thứ ba: Là tưởng không tịnh cùng chuyển. Ở đây cũng có chấp giữ pháp. Có chấp giữ pháp: Là chấp giữ pháp không.

Loại thứ tư: Là có tưởng cùng chuyển.

Loại thứ năm: Là không tưởng cùng chuyển.

Các Bồ-tát ấy, đối với năm thứ nầy đều không cùng chuyển.

Ở đây hiển bày rõ là có giới, cho đến sẽ sinh vô lượng tụ phước. Kinh nói: Vì sao? Tức ở đây nói là trong sự chấp giữ tà vạy chỉ có tưởng pháp và tưởng phi pháp cùng chuyển, không phải là tưởng như ngã v.v…? Do tưởng ngã cùng sự nương dựa không cùng chuyển. Nhưng ở trong tưởng ngã, tùy miên không đoạn, tức là có ngã chấp giữ. Do đó, kinh viết: Các Bồ-tát nầy, nếu chấp giữ tưởng pháp, tức là chấp trước nơi sự chấp giữ như ngã v.v… Nếu không có tưởng pháp cùng chuyển. Nếu có tưởng không pháp cùng chuyển, tức là có ngã chấp giữ. Trong tưởng ngã cùng chuyển nầy, các nghĩa khác cũng chưa nói.

Kinh viết: Nếu các Bồ-tát ấy có tướng pháp, tức chấp trước nơi ngã v.v…: Ở đây, chấp giữ về tự thể nối tiếp là tưởng ngã. Đối tượng được chấp giữ của ngã là tưởng chúng sinh. Nghĩa là ngã cho đến thọ mạng trụ được chấp giữ là tưởng mạng. Lần lượt chấp giữ các nẻo khác, thì sự chấp giữ ấy là tưởng nhân. Nên biết ở đây nói sẽ sinh tưởng thật: Đây là dựa nơi nghĩa, nên biết là hiển bày sự đối trị tưởng không thật.

Nói ở trong chương cú của kinh nầy đã nêu bày: Đây là nói về tướng, hiển thị về Pháp thân ngôn thuyết. Tức trong tưởng thật sẽ sinh kia nói sẽ sinh, thế nên nguyện thâu giữ.

Các Bồ-tát nầy không còn tưởng ngã cùng chuyển: Là an lập đệ nhất nghĩa.

Tu-bồ-đề! Không nên chấp giữ pháp, không phải là không chấp giữ pháp: Là hiển bày đầy đủ: Tức Tam-muội tương ưng cùng với lúc tâm tán động, không nên chấp giữ pháp. Đối với thể của pháp và pháp vô ngã đều không phân biệt.

Lại, nghĩa chính yếu của Pháp thân ngôn thuyết, như kinh nói: Do nghĩa ấy, nên Như Lai thường nói, pháp môn dụ như chiếc bè, nếu hiểu rõ điều ấy, thì pháp hãy còn nên bỏ, huống chi là phi pháp.

Pháp hãy còn nên bỏ, là tưởng thật sinh. Huống chi là phi pháp: Là lý không nên. Lược nói là hiển bày, Bồ-tát muốn đạt được Pháp thân ngôn thuyết thì không nên tạo tưởng không thật.

* Kinh viết:“Lại nữa, Đức Phật bảo Huệ mạng Tu-bồ-đề: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? Như Lai đã có thuyết pháp chăng? Tu-bồ-đề thưa: Như con hiểu nghĩa Phật đã nói thì không có pháp cố định để Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng, cũng không có pháp cố định để Như Lai có thể thuyết giảng. Vì sao? Vì Như Lai đã nói là pháp không thể giữ lấy, không thể nêu bày, là phi pháp, phi phi pháp. Vì sao? Vì tất cả Thánh nhân đều do pháp vô vi mà được gọi là Thánh nhân”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là nói về Pháp thân chứng đắc. Lại có 2 loại:

1. Pháp thân trí tướng.

2. Pháp thân phước tướng.

Vì muốn đạt được trụ xứ của Pháp thân chứng đắc trí tướng nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? Đây là dựa nơi nghĩa, hiển thị ngược trở lại đối với chánh giác về Bồ-đề được nhận lấy.

Thuyết pháp là thuộc về chánh giác, nên kinh viết: Có pháp, có thể nêu giảng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác: Đó là nói về tướng, hiển thị Pháp thân chứng đắc, nên không có pháp cố định.

Thượng tọa Tu-bồ-đề nói theo ý của Đức Phật. Là thế đế nên có Bồ-đề cùng chứng đắc. Đó là dục nguyện đã thâu giữ do phương tiện, nên cả hai cùng là có. Nếu như ý của Đức Thế Tôn nói, là cả hai cùng không có. Vì hiển thị điều ấy, nên kinh viết: Như con hiểu nghĩa của Đức Thế Tôn đã nói v.v…

Lại, kinh nói: Vì sao? Vì Như Lai đã nói pháp là không thể giữ lấy, không thể nêu bày, là phi pháp, phi phi pháp: Đây là an lập đệ nhất nghĩa. Do nói pháp, nên biết là đạt được Bồ-đề, nên ở trong sự thuyết pháp, an lập đệ nhất nghĩa.

Ở đây, không thể giữ lấy: Là lúc đang nghe. Không thể nêu bày: Là lúc diễn nói. Phi pháp: Là tánh phân biệt. Phi phi pháp: Là pháp vô ngã.

Kinh viết: Vì sao? Do vô vi nên được gọi là Thánh nhân?

Vô vi: Là nghĩa không phân biệt, thế nên Bồ-tát hữu học được mang tên. Trong không khởi, không tạo, Như Lai chuyển y (Bồ-đề và Niết-bàn) gọi là thanh tịnh, do đó Như Lai vô học (Tu học hoàn tất) được mang tên.

Ở đây, thứ nhất là nghĩa của vô vi: Tam-muội tương ưng cùng với lúc điều phục tâm tán loạn, đã hiển bày đầy đủ.

Thứ hai là vô vi chỉ là đệ nhất nghĩa: Là vô thượng giác.

Từ đây trở về sau, trong tất cả trụ xứ đều hiển bày, do vô vi nên được gọi là Thánh nhân. Nên biết trong các trụ xứ trước, chưa nói về vô vi được mang tên. Ở đây, trong đạo quả Chánh đẳng Chánh giác, nói về vô vi đã xong.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nếu đem bảy thứ báu đầy khắp trong Tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, thì thiện nam, thiện nữ đã hành thí như thế, phước đức đạt được là nhiều chăng? Tu-bồ-đề thưa: Rất nhiều, bạch Đức Thế Tôn! Rất nhiều, bạch Đức Thiện Thệ! Các thiện nam, thiện nữ ấy được phước đức rất là nhiều. Vì sao? Vì như Đức Thế Tôn nói: Tụ phước đức ấy tức phi tụ phước đức, thế nên Đức Như Lai nói là tụ phước đức. Đức Phật bảo: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu lại có người đối với kinh nầy thọ trì, cho đến chỉ một bài kệ bốn câu, vì người khác thuyết giảng thì phước đức người nầy có được hơn hẳn trường hợp trước là vô lượng không thể tính kể. Vì sao? Nầy Tu-bồ-đề! Vì pháp thuộc đạo quả Bồ-đề Vô thượng của tất cả chư Phật, đều từ kinh nầy sinh ra. Hết thảy chư Phật Như Lai đều từ kinh nầy xuất sinh.

Nầy Tu-bồ-đề! Gọi là Phật pháp, tức phi Phật pháp, đó gọi là Phật pháp”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là nói về Pháp thân phước tướng. Vì muốn đạt được trụ xứ của Pháp thân chứng đắc phước tướng, nên kinh nói: Ý của Tôn giả thế nào? Nếu có người đem bảy thứ báu đầy khắp trong Tam thiên đại thiên thế giới để hành bố thí v.v…: Vì sao hiển thị, tức nơi Pháp thân ngôn thuyết hiện có kia, đã xuất sinh Pháp thân chứng đắc phước tướng của Như Lai? Nơi trường hợp đã nêu, cho đến chỉ thuyết giảng một bài kệ bốn câu, đã sinh phước đức rất là nhiều, huống chi lại là Pháp thân chứng đắc phước tướng hiện có của Như Lai. Do nhân duyên nào, nên ở trong Pháp thân ngôn thuyết, giảng nói một bài kệ bốn câu như thế, có thể sinh rất nhiều phước? Vì nhằm thành tựu nghĩa nầy, nên kinh nói: Vì sao? Vì Như Lai và đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đều từ kinh nầy sinh ra. Ở đây, tập hợp khắp mười pháp hành A-hàm, nên chư Phật Thế Tôn từ đấy xuất sinh: Vì là thế đế, nên nói Phật xuất sinh, do đấy có Bồ-đề. Tức hai thứ nầy cùng có, nên gọi là Phật pháp, là do Bồ-đề và Phật. Nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Phật pháp tức là phi Phật pháp v.v… Lại nữa, kinh viết: Về chỗ sinh phước là hơn hẳn trường hợp trước vô lượng A-tăng-kỳ: Đây là dựa nơi nghĩa, hiển thị việc đối trị phước chẳng sinh.

Ở đây, phước kia: Là nói về tướng, hiển bày về Pháp thân phước tướng.

Hơn hẳn trường hợp trước: Là hiển thị dục nguyện đã thâu giữ.

Kinh nói: Thế Tôn! Tụ phước ấy tức phi tụ phước, thế nên Như Lai nói là tụ phước. Cùng nói: Nầy Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy tức phi Phật pháp, đó gọi là Phật pháp: Do tụ phước nầy cùng với Phật pháp là thâu giữ lấy phước tướng của Như Lai, nên trong Pháp thân, an lập đệ nhất nghĩa. Vì thuận theo vô vi nên được mang tên, tức tương ưng Tam-muội cùng với việc điều phục tâm tán động không còn hiển bày rõ.

Nói: Hết sức nhiều, bạch Đức Bà-già-bà! Rất là nhiều, bạch Đức Tu-già-đà! Hai lời ấy là hiển thị về thâu tóm tâm, giữ lấy tâm. Do thâu giữ tự tâm nên nói là thọ trì. Vì kẻ khác thuyết giảng là giải thích về cú vị. Vô lượng: Là vượt quá thí dụ. A-tăng-kỳ: Là hiển bày về số lượng nhiều.

Đã nói về Trụ xứ mong muốn xong.

    Xem thêm:

  • Luận Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Phá Thủ Trước Bất Hoại Giả Danh - Luận Tạng
  • Luận Thích Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa - Luận Tạng
  • Luận Tụng Kinh Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa - Luận Tạng
  • Luận Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Cửu Tụng Tinh Nghĩa - Luận Tạng
  • Kim Cương Bát Nhã Luận - Luận Tạng
  • Luận Kim Cương Bát Nhã - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Lược Giải Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa - Luận Tạng
  • Luận Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề - Luận Tạng
  • Luận Thích Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Ba Mươi Bài Luận Tụng Duy Thức - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Kim Cang Châm - Luận Tạng
  • Luận Kim Cương Tiên - Luận Tạng
  • Sớ Luận Toát Yếu Kinh Kim Cang Bát Nhã - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 2) - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng
  • Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Luận Tạng