Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa
Đường Khuy Cơ soạn
Bản Việt dịch của Thích Bảo Lạc
***
QUYỂN 1
Vì chúng sanh bị chướng buộc che ngăn, tin theo tà pháp, bài báng Đại thừa. Đối với pháp Hữu – Vô trãi qua nếu kể sự trói buộc tùy dấu ấn mà biết nên được sanh ra đời là điều hy hữu. Giá như may được sanh làm người là nhờ thân cận bạn lành, vì mỗi người lầm một cách nên làm cho lời dạy rối rắm, e biển học sâu thẳm ban sơ không có ý hướng tầm cầu, dù thích kinh điển mà không hiểu được. Nơi tục đế chấp pháp hữu-vô, tâm-cảnh mới sanh tâm thủ-xả, làm cho nghĩa của pháp thành có đúng sai. Người tin học pháp đều được lợi lạc, y lời dạy nơi pháp trung đạo, như Kinh Giải Thâm Mật thuyết. Theo tánh giả lập (biến kế sở chấp) cho hay mọi pháp không có tự tánh, không sanh diệt, tánh bản lai vắng lặng tùy ba không tánh theo thắng nghĩa. Lúc đó Bồ Tát Thắng Nghĩa hỏi Phật rằng:
– Bạch đức Thế Tôn, ban đầu Phật chỉ nhắm tới Thanh Văn nên nói pháp Tứ đế, tuy rất hiếm nhưng chưa ai hiểu rõ được nghĩa lý, do đó mới có những sự tranh luận diễn ra khắp nơi. Sau Phật vì ý đó nhắm tới Đại Thừa khai diễn pháp ẩn mật và nói các pháp đều không có tự tánh, không sanh, không diệt, bản lai vắng lặng. Tuy pháp rất hiếm có nhưng do chưa hiểu nghĩa nên nảy ra những sự tranh biện. Nay vì người phát tâm hướng đến Phật thừa mà Phật chuyển nói pháp vô thượng chí cực, là pháp thắng nghĩa trong pháp rốt ráo, không còn chỗ nào tranh luận nữa.
Kinh Kim Quang Minh đề cập ba pháp ấy bằng ba từ là chuyển – chiếu – trì; chuyển là phá dẹp sạch hết danh biểu hiện. Do chúng sanh mê chấp thật tướng các pháp tạo nghiệp sai lầm nên trôi lăn trong biển sanh tử. Phật, bậc đại thánh pháp vương ngộ tự tánh các pháp khéo dùng phương tiện thích hợp căn cơ mỗi người lìa ngôn từ; Phật thể nghiệm thuyết minh rõ muốn cho chúng sanh hiểu được thật tướng trung đạo như bài kệ:
Chư Phật hoặc nói ngã
Tùy lúc bảo vô ngã
Đối thật tướng các pháp
Không ngã, không phi ngã.
Ngoài ra, các kinh cũng nói: Phật dùng một âm diễn nói vô số nghĩa, chúng sanh tùy loài nghe đều hiểu rõ. Cũng như nhạc trời hợp với tâm niệm mà phát ra tiếng, hay như hoa mạt lợi chờ trời mưa vậy. Cũng như thế, Phật tuy nói vô số pháp môn, nhưng chỗ nhận hiểu thuần một không trái nhau. Sau khi đức Phật nhập diệt, vì muốn giáo pháp phân bố lợi lạc khắp trời người nên đầu tiên kết tập thành như bài kệ rằng:
Nên xét lời Phật dạy
Y thánh đế trình bày
Như đãi cát tìm vàng
Chọn lọc loại tinh ròng
Các bậc Thánh, Long Mãnh (Long Thọ) v.v… trừ chấp hữu ngộ rõ chân lý đạt tới không tông, như có bài tụng rằng:
Chân tánh có như không
Giả duyên kết hợp rỗng
Vô vi không thật hữu
Không thấy tợ hoa không.
Ngài cho rằng thế gian chấp các pháp là có, theo như Thắng Nghĩa đế tất cả pháp đều không. Tuy không đây là tánh chân không chứ không phải không có, dựa vào thắng nghĩa theo lý đều là tánh không, chúng sanh do đấy nẩy sinh thấy rỗng không. Bồ Tát Vô Trước thỉnh cầu đức Thế Tôn dạy nghĩa trung đạo để trừ bỏ hai lối chấp nên nói bài kệ:
Hư vọng phân biệt có
Trong đó cả hai không
Chỉ có không ở trong
Bên nào cũng khó thông
Nên cho tất cả pháp
Không không cũng chẳng không
Hữu-Vô đều có cả
Cùng trung đạo hiệp đồng.
Phật dạy, thế gian cho ngã-pháp là có, y theo thắng nghĩa đế, cả hai pháp đều không, tuy Phật phá chấp không chấp hữu, vẫn thuyết tướng chung các pháp có-không. Như nói rằng các pháp chẳng không chẳng có, nhưng trên danh nghĩa tự tánh vốn lìa không-hữu cả hai đều không, còn thắng nghĩa truyền pháp hữu-vô ắt có. Phật dạy hữu vi, vô vi gọi là có; Ngã và những cái thuộc về ngã gọi là vô vi; Ngài không nói pháp hữu – vô là không. Xem thế đủ rõ ý Phật với pháp hữu-vô không hề mâu thuẫn nhau. Pháp ngoài trí xét nét có-không thế nào. Theo trình độ, căn bịnh giả (mượn) nói hữu-vô mà về sau người học Phật theo văn khởi chấp. Những gì đã giải hợp trung đạo; còn cái biết của thế gian là hiểu sai lầm. Giờ đây đem nghĩa kinh soi rõ hai bên. Lý sâu nhiệm phi kẻ trí hiểu rõ. Bát Nhã Ba La Mật Đa là gọi chung một bộ kinh quan trọng (vĩ đại theo tầm vóc). Riêng về Tâm Kinh, chữ Kinh đây là lối nói riêng là kinh cốt lõi (kinh ruột) tuệ giác. Tammasa giải thích lấy tên người làm danh, Tô Mạn Đa âm thanh thuộc chủ làm đề mục. Tuy nhiên ở đây Tâm Kinh cũng gọi là Bát Nhã. Một đàng gọi chung, một bên gọi riêng nên là Tâm; Bát Nhã nghĩa là tuệ giác. Theo cựu dịch Bát Nhã có ba nghĩa: 1) Thật tướng là chân lý 2) Quán chiếu là chân tuệ 3) Văn tự là chân giáo. Nay giải thích thêm có năm nghĩa 4) Quyến thuộc là vạn hạnh và 5) Cảnh giới là vạn pháp. Tu tập đầy đủ hai phần phước và trí là thông tỏ hữu – vô, tìm xét kỹ nghĩa lý phát chiếu tuệ tánh, tuệ tư gọi là Bát Nhã để trừ sạch các thói nhiễm ngộ tỏ chân lý. Lấy các đức tánh tốt làm đầu, vạn hạnh dẫn đạo, dù chỉ gọi tuệ song bao hàm hết mọi pháp. Ba La có nghĩa là bờ bên kia (bờ giải thoát) mà theo như lối cổ có hai nghĩa là Bồ Đề, Niết Bàn. Hiểu theo bây giờ bỉ ngạn có năm nghĩa: a) chỗ cần biết b) giáo c) lý d) hạnh e) quả; Mật Đa có nghĩa là lìa hay đạt đến. Do thực hành Bát Nhã mà lìa các chướng nhiễm; cảnh dứt hữu vô rõ thông sáu thức; nghĩa dung chân – tục đầy đủ hai nhân; giác ngộ viên mãn tròn đầy lên bờ giải thoát. Thể dụng nêu cùng lúc nên có tên kinh, song chỗ tu tập phải đầy đủ 7 pháp tối thượng mới có thể đạt được ba la mật đa. Bảy pháp đó là: 1) Vững tu Bồ Tát hạnh 2) Nương theo đại Bồ Đề tâm 3) Thương xót chúng sanh 4) Sự nghiệp tu hành đầy đủ 5) Nhiếp giữ trí vô tướng 6) Hồi hướng đạo Bồ Đề 7) Không bị hai chướng xen tạp. Như tu tập Bát Nhã đạt được mọi nghiệp lành (thiện nghiệp) dưới cái nhìn Bát Nhã mở rộng này một lần chẳng thể đạt đến giải thoát. Kiếp thứ nhất mới đến giải thoát, kiếp thứ nhì là kiếp cận giải thoát, kiếp thứ ba đạt đại giải thoát hay cũng gọi là quả vị Phật. Ở đây nói tổng quát nhân quả gồm chung mà tâm hẳn vô cùng tinh vi nên lấy đó đặt tên bộ kinh quan trọng này; tùy theo nghĩa sâu rộng để hành trì tu tập hay e dè lui sụt thoái tâm. Chư thánh hiền truyền pháp ghi rõ sự thật tối thượng nên nói kinh này. Phần nhiều lời tựa hẳn thiếu nhiều điểm tinh tế chỉ lược nêu chỗ cốt tủy mà không hàm vạn tượng bao la sắc tức là không. Đạo bao nhiếp nhiều pháp môn phải quán rõ đến vô trí mới hội thông được. Thông đạt lý thú sâu rộng nêu rõ nguồn tâm lấy đó đặt tên kinh. Kinh là sự kết hợp lời Phật dạy đạo lý bàng bạc, dứt trừ mê làm mực thước cho chúng sanh, là muốn khiến cho chứng nghiệm hoặc nương theo nên nói bát nhã đích thực Phật mới thuyết Kinh này, lấy tâm làm đề mục, như các luận Du Già, Thủy Lục Hoa, Kinh Thập Địa v.v…
Quán Tự Tại Bồ Tát: là người thắng không. Yù chính kinh Bát Nhã có hai phần: 1) Nói Quán Tự Tại để phá hai lối chấp, hiển lộ hai không 2) Giác hữu tình hay Bồ Đề Tát Đỏa là tán thán hai pháp y đạt hai lợi ích. Đại Kinh nói:
Phật bảo: này Xá Lợi Tử khi đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa nên quán xét như thế này: chân thật Bồ Tát không thấy có Bồ Tát, không thấy danh Bồ Tát. Bồ Tát tự tánh không, Bồ Tát danh không nên nay nêu rõ nghĩa khiến Bồ Tát không thấy có Bồ Tát để phá chỗ chấp và nói pháp không. Nếu phải nói như vầy: Kinh Bát Nhã nói chung có ba phần: 1) Quán Tự Tại là bậc thượng nhân tu hành khuyên bảo người phát tâm 2) Xá Lợi Tử nêu rõ người có căn cơ cảm nhận xứng đáng thuật lý trùm cả thí dụ 3) Bồ Đề Tát Đỏa phản ảnh nương đức hạnh của việc học mà rõ thêm đạt đến thành tựu. Hay nói cách khác, trước nhất là tôi luyện, thứ đến dứt trừ bốn niệm xứ và sau hết lìa khổ chứng chân. Tôi luyện có ba phần: Bồ Tát hơn ai hết là người tu hành rồi khuyến tấn người khác phát tâm, đó là pháp thứ nhất. Như nghe nói hạnh Bồ Đề rộng lớn sâu xa mà sanh niệm thoái thác nên phải rèn luyện tâm. Như Ngài Quán Tự Tại xưa kia khi mới phát tâm cũng với bao nhiêu phiền não vô minh vây buộc rồi mới phát tâm dũng mãnh, xả bỏ thân mệnh, của cải cầu đạt Phật trí, nhờ nung đúc phát khởi hùng lực mới thành Phật. Ta cũng phải làm như vậy nên khuyến tấn mình nỗ lực tu tập, không nên tự khinh mà sanh tâm lui sụt. Quán có nghĩa là xét để bổ sung cho trí và bi; Tự Tại nghĩa là không ngưng trệ, cứu giúp bằng cách khéo léo làm cho chúng sanh thanh tịnh ba nghiệp (thân, miệng, ý). Hẳn đạt được mong cầu sáu phép thần thông rộng đường giáo hóa, không bị lỗi lầm, nguy khốn, bay đi tự tại như chỗ không người. Kết bạn thân thiết không cần mời gọi, làm thầy ứng bịnh cho thuốc, làm lợi lạc vô số không nghĩ bàn gọi là Quán Tự Tại. Ngoài ra, chữ Quán còn có nghĩa chiếu soi, hiểu rõ cái tuệ Không; Tự Tại nghĩa là tự do vô giới hạn, chỗ đạt được là kết quả hơn hết. Do trước thực hành pháp tu lục độ mà nay được kết quả tròn đầy, dùng tuệ làm pháp quán trước hết đạt được 10 pháp tự tại như:
1. Mạng sống tự tại có nghĩa thân mạng diên trì lâu dài
2. Tâm tự tại là không bị dấy nhiễm trong sanh tử
3. Của cải tự tại theo ý có ngay, do bố thí mà cảm nên
4. Nghiệp tự tại tức là chuyên làm việc thiện và khuyên người khác làm
5. Sanh tự tại theo ý muốn ra đi, nhờ giữ giới mà được
6. Thắng giải tự tại, tùy ý muốn trọn thành, do nhẫn mà có
7. Nguyện (mong ước) tự tại, quán sát được niềm vui do tinh tấn
8. Thần lực tự tại, có thể phi thân dễ dàng, do định lực được
9. Trí tự tại theo ngôn từ phát huệ
10. Pháp tự tại hợp với khế kinh, nhờ huệ mà được.
Bồ Tát Quán Tự Tại quán chiếu thấy không tối không sáng, ở bực bổ xứ mà thành Đẳng Giác; nếu nói Quán Âm chỉ theo ý nghĩa của lời nói đều thiếu sót. Bồ Đề Tát Đỏa nói gọn là Bồ Tát. Bồ Đề là tuệ giác, tát đỏa là phương tiện. Cả hai nghĩa đều có khả năng làm tất cả những việc lợi ích chúng sanh. Lại nữa, Bồ Đề cũng có nghĩa là giác, do trí mong đạt quả, tát đỏa còn có nghĩa là hữu tình, nhờ bi nguyện độ sanh, do phát thệ rộng lớn nên gọi là Bồ Tát. Và Tát Đỏa cũng còn mang ý nghĩa là dõng mãnh; tinh tấn cầu đại Bồ Đề dõng mãnh nên gọi là Bồ Tát. Nói cách khác, người tu hành là dũng mãnh tức giác hữu tình mong đạt ba tuệ giác gọi là Bồ Tát, có đủ bi trí cùng tâm thương xót chúng sanh, làm hưng hiển đạo pháp, cứu khổ trừ nguy tịnh hóa chùa am, cơ cảm hợp nhau nên tiêu biểu như vậy. Hoặc đặt ở vị trí cao hơn do đại tâm diệu huệ thành tựu là Quán Tự Tại. Hoặc chỉ rõ điều này khiến nhìn kỹ là Quán, không phải từ Tây phương dạo qua đây như kinh Đại Bát Nhã phân biệt rõ, cho nên Kinh nói rằng hành thâm bát nhã ba la mật đa là như vậy.
Lời tán dương thắng không là nói từ thấp phá pháp chấp rồi mới nói pháp không. Đại Kinh nói rằng, không thấy Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không thấy danh Bát Nhã Ba La Mật Đa. Vì tự tánh Bát Nhã là không, Bát Nhã không nên ứng hợp như lời nói rõ ràng do học mà phát huệ mới soi sáng tánh không, biểu hiện trước hết là pháp tu.
Thứ hai tôi luyện tâm, như thấy Bồ Tát tu vạn hạnh khó thực hành mà sanh ra thoái chí nên cần phải rèn luyện tâm. Ta từ vô thỉ tới nay vì ham vui theo đời nên chưa chuẩn bị đón nhận nghĩa Không, mọi sự khổ huống nữa cầu Bồ Đề mong ra khỏi sanh tử cứu độ chúng sanh mà còn mang tâm khiếp sợ ư ? Muốn hiểu sâu Bát Nhã, Bồ Tát cần phải tu học, ta cũng phải như vậy. Có nghĩa phải phản tĩnh tự thân tấn tu mà không nên thoái chí. Ngài Xá Lợi Phất trước đây phát tâm vĩ đại vì bố thí mắt nên muốn cầu quả Thanh Văn, lo sợ ngày nay thoái tâm nên khuyên nhắc phải luyện tâm. Như nói hành thắng không đó là nương vào thế gian. Còn muốn chứng xuất thế trí vô phân biệt không quán ngược với Không nên cần học để phân biệt những chỗ bị duyên bằng Văn-Tư-Tu; tập soi tỏ Không gọi là hành. Nếu nương thắng nghĩa do Không chỗ đắc, vô phân biệt nên đều không chỗ hành, đó gọi là hành. Kinh Vô Cấu Xưng ghi rằng, không hành là Bồ Tát không nhớ niệm. Đại Kinh cũng nói, không thấy hành chẳng thấy không hành là tự tánh Không.
Nay nói hành không có chỗ hành mới gọi là hành mà không phải hành. Hơn nữa theo nghĩa ẩn không chỗ hành cũng không chỗ chẳng hành, ấy chính là hành. Nếu còn chỗ hành hay chỗ chẳng hành không phải là hành. Cũng còn một lối giải thích khác như động niệm lăn xăn (tâm phan duyên) sanh tử vốn không phải là hành; chuyên tâm dứt nghĩ tưởng là xuất thế mới đúng thật gọi là hành. Như nói đúng chính xác, chẳng hạn nhà ảo thuật là có hành, dù không thật nhưng chẳng phải không giống thật, phải có đủ các duyên nghe, tin, học, thực nghiệm, thuyết minh chưa từng bỏ, song ta cũng khó phân biệt được, vì không thấy rõ hành tướng nhưng vẫn gọi đó là hành mà chẳng phải hoàn toàn vô hành. Giả sử đem con bịnh bảo ta trị chắc không thể trị hết được, nếu vốn ta không có phương pháp chữa bịnh hẳn khó trừ dứt bịnh. Như người ngu tự xưng giác ngộ đem tuyên bố là tự mình làm hại mình, như cái lọng hoa thể nó không thể trị liệu, vì đã không thật làm thế nào trị lành được bệnh ? Cây lọng không thật – lúc đầu do hoa mắt không nhận ra đúng, thắng nghĩa đế do đây soi chiếu thể không hoa. Như không chỗ hành không chỗ chẳng hành là do chúng sanh vô minh không sáng suốt. Từ vô thỉ tất cả đều sáng suốt rồi thoạt dấy khởi niệm vô minh cho đến nay chưa ai từng được minh. Đem sánh chỗ đồng chỗ dị đạo có cùng khắp, trái lý nghịch tông sao đạt tuệ giác ? Nếu dứt nghĩ lăn xăn tức hành đúng pháp, hợp định vô tưởng đều thành thánh đạo. Không vin chỗ hành trì xả thủ mới nhanh chóng tư duy trừ dứt sai lầm được. Nay đề cập tới hành, dù hành mà không thấy hành ấy chẳng phải là không hành. Vì thế, kinh này nói chẳng thấy hành cũng chẳng thấy không hành. Mượn chỗ hành song kỳ thật là vô hành, chẳng những vậy mà phải nói chẳng thấy hành. Ấy vậy nên nêu hỏi: chẳng thấy không hành làm sao đủ lý lẽ rõ ràng ? Vì thế phần sau sẽ thuyết minh rõ. Phật quả là tối diệu thù thắng vô cùng, nếu chẳng phải tu chứng sâu không do đâu chứng đắc. Do vậy, theo nghĩa ở đây nói có thực hành mà điều quan trọng nơi Đại Thừa có hai loại chủng tánh đó là: 1) Bổn tánh trong chủng tánh, có nghĩa nơi bổn thức phát sanh công năng bản tánh vô lậu (không còn phiền não). 2) Do huân tập thành chủng tánh có nghĩa là nghe chánh pháp vân vân rồi huân sâu nơi tiềm thức mà thành.
Làm sao biết bản tánh nơi chủng tánh nhờ tu tập mà đạt đại Bồ Đề ? Như tánh thích bố thí, ưa khen khuyên người khác làm thiện hợp thời mà nói, bị người trách cứ không cuồng nộ, không tỏ thái độ kỳ cục, sống trên châu báu không tham đắm. Nếu người thực hành tâm nhu nhuyến hẳn ác nghiệp không làm tổn hại người khác; có tạo điều ác nhanh chóng sửa sai thường có lòng thương giúp, biết tri ân báo ân. Phàm có việc mong cầu không làm điều phi pháp, ham tu phước, biết sợ tội; thấy nghe, chịu khổ do tự thân, thấy việc thiện ưa làm, việc ác cần xa lánh. Đối với kẻ cầm cương thường không nói lời đay nghiến, với kẻ đức độ luôn sanh lòng ngưỡng mộ. Nếu bị người làm hại không có tâm báo thù, người đến tạ lỗi nhanh chóng tiếp nhận mà không kết hận, không nhớ cựu thù. Nếu có tánh cao ngạo cần sớm dậy tối nghỉ, gặp việc cương quyết thích làm cho xong. Thấy đại nghĩa không nản lòng cũng không tự coi rẽ mình. Đối với giáo pháp phải thẩm xét tư duy, ham thích nơi vắng lặng, yêu mến hạnh xuất thế. Làm việc gì không quên đối với oán có lòng từ mẫn, như có trí thông minh việc học dễ thành tựu. Xa lánh việc ác nhờ gia tâm suy tư chọn lọc nên không khởi phiền não trói buộc tạo nghiệp không ngừng, làm dứt mất thiện căn. Giả thử sanh ở cõi ác có thể mau thoát ra và cũng chẳng thọ thống khổ bứt ngặt, dù chịu ít khổ phải phát tâm hơn lên để đè bẹp, thấy khổ chúng sanh sanh lòng thương xót. Như chứng kiến cảnh này nên thi ân cứu giúp, những phiền não chướng vi tế, thô phù câu thúc, phải biết ứng dụng tuệ giác Bồ Đề. Song nếu chưa gặp được bậc thiện hữu tri thức nói về tuệ giác hay dù gặp được mà điên đảo, cố chấp vẫn còn, do thiện căn chưa thuần thục nên còn trong vòng sanh tử. Nếu ở năm vị tu tập những việc thiện gieo nhân lành hẳn đạt được kết quả. Năm vị đó là gì? Đó là:
1. Tư lương vị: từ sơ phát tâm tới khi đạt đến giác ngộ trải qua tu bốn pháp tầm tư quán 40 trụ tâm đều nằm ở tư lương vị này A – Thập tín có mười tâm như: 1. Tín 2. Tinh tấn 3. Niệm 4. Huệ 5. Định 6. Thí hay cũng gọi là bất thoái 7. Giới 8. Hộ 9. Nguyện 10. Hồi hướng. B – Thập trụ gồm: 1. Phát tâm 2. Trị địa 3. Tu hành 4. Sanh quí 5. Phương tiện 6. Chánh tâm 7. Bất thoái 8. Đồng chơn 9. Pháp vương tử 10. Quán đảnh. C – Thập hạnh: 1. Hoan hỷ 2. Nhiêu ích 3. Vô nhuế 4. Vô tận 5. Ly si 6. Thiện hiện 7. Vô trước 8. Tôn trọng 9. Thiện pháp 10. Chân thật D. Thập hồi hướng: 1. Cứu hộ chúng sanh 2. Bất hoại 3. So sánh đồng chư Phật 4. Đến hết thảy xứ 5. Công đức vô tận tạng 6. Tùy thuận thiện căn bình đẳng 7. Tùy thuận quán chúng sanh như nhau 8. Như tướng 9. Không bám không chấp 10. Pháp giới vô lượng.
2. Gia hạnh vị: Từ sau vị tư lương còn bốn pháp đẳng tri (định) như: 1. Đạt định sáng 2. Minh tăng định 3. Aán thuận định 4. Vô gián định (định không xen hở gián đoạn).
3. Thông đạt vị: từ sau bốn pháp định là sơ địa, sơ tâm, chân tướng, kiến đạo.
4. Tu tập vị: từ sau kiến đạo đến Kim Cang định, thập địa, tu đạo. Thập địa như sau: 1. Cực hỷ 2. Ly cấu 3. Phát quang 4. Diệm huệ 5. Cực nan thắng 6. Hiện tiền 7. Viễn hành 8. Bất động 9. Thiện huệ 10. Pháp vân.
5. Cứu cánh vị: sau Kim Cang định đến giải thoát đạo trong đó có ba thân Phật, bốn diệu viên tịch-viên mãn Phật quả. Tuy biết năm vị làm thế nào tu tập? Những hành giả muốn chứng Bồ Đề làm nhiều lợi lạc trước tiên phải phát tâm đại Bồ Đề rồi mới tu chánh hạnh. Ví như biển cả trước phải do từng giọt nước hình thành, tạo nên các món vật báu, chỗ cư trú v.v… Người ban đầu mới phát tâm cũng thế, năm thừa (Nhơn, Thiên, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát) thiện pháp nhân đây mà có; cũng như thế giới lúc ban sơ sanh trưởng dần dần mới có cây cỏ, chúng sanh sinh sống. Tâm cũng như vậy, bị năm đường do bám chặt các thứ nương gá theo, như hư không, không phải chẳng có gì chung quanh. Tâm đại Bồ Đề cũng thế có cùng các pháp hữu vi nhưng đều che khuất, như hư không, Bồ đề có thể cầu chứng. Chúng sanh trong vũ trụ đều khắp cùng, người sơ phát tâm tuy thấy mới bắt đầu nhưng một niệm phước tụ cũng khó nói hết, huống là qua nhiều kiếp phát tâm tu hành công đức lợi lạc hữu tình. Nhân đâu phát tâm?
1. Nghe thấy thần lực của Phật 2. Nghe giảng Bồ Tát giới 3. Thấy và nghe Phật Pháp sắp diệt. Nghĩ rằng, giáo pháp có thể diệt hết các khổ. 4. Đời mạt pháp đa phần chúng sanh si mê không biết hổ trẽn, ganh ghét đố kỵ, lo khổ, tâm ác, phóng túng, lười nhác, không tin. Vì rằng đời ác đa số khởi tâm ác phiền tạp như thế, ta phải phát tâm làm cho người khác học ở ta, mà phát Bồ Đề nguyện, do đó phát đại Bồ Đề tâm. Người muốn phát tâm trước phải đủ mười đức và ba diệu quán. Mười đức tính hay thắng đức là: thân cận thiện hữu, cúng dường chư Phật, tu tập căn lành, chí cầu pháp giải thoát, tâm luôn nhu hòa, gặp khổ hay nhẫn, từ bi đôn hậu, thâm tâm bình đẳng, tin ưa Đại thừa, cầu trí huệ Phật. Ba Diệu quán là: 1) che bớt pháp hữu vi, nghĩa là xem sanh tử ác thú khổ bức không cùng; ngay nơi thân thể gồm 5 uẩn, bốn đại (1) có thể tạo ác nghiệp. Cữu khiếu chín lỗ (2) thường bài tiết chất dơ bẩn hôi hám; 36 món (3) trong thân tích chứa. Vô số phiền não thiêu đốt thân tâm như bọt như bóng niệm niệm nối luôn không dừng, che dấu tạo nghiệp luân hồi trong sáu đường. Xét nghĩ như thế ngay tự thâm tâm nên xả. 2) Cầu Bồ Đề nghĩa là quán thân Phật tướng tốt trang nghiêm, pháp thân thuần tịnh, đủ giới đức, đẳng tâm, lực vô úy, vô lượng pháp cao tột hoàn thành hai trí (4) thương xót chúng sanh. Phật dẫn dắt kẻ mê khiến tu chánh đạo làm cho chúng sanh mau được dứt phiền não, thấy công đức tu tập phải khát cầu 3) Nghĩ chúng sanh tức quán chúng sanh bị si ái làm mê mờ nên thọ khổ vô cùng; không tin nhân quả mãi tạo ác nghiệp, bỏ phế chánh pháp tin theo tà đạo, bốn dòng (sanh, lão, bệnh, tử) lôi theo mãi, bảy lậu (5) thấm thấu. Tuy sợ các khổ vẫn cứ tạo ác nên hay chuốt lấy bao bi thương khổ não. Yêu nhau phải xa lìa là khổ biết vậy vẫn yêu, oán ghét gặp nhau là khổ, biết vậy vẫn ghét bỏ cay cú. Bị ham muốn sai sử nên khổ vô ngần, mong an vui mà luôn phạm giới, ôm mối ưu tư day dứt, tạo nghiệp dây dưa, hèn không biết xấu hủy báng Đại thừa, mê chấp sanh cao ngạo. Dù có thông minh vẫn đoạn mất thiện căn, tự đại cống cao nên không bao giờ biết hối cải. Sanh nơi chốn bận rộn hết cách không thể tu tập. Tuy nghe pháp nhưng không thực hành nên tập theo thói tà. Thấy chúng sanh khổ sanh tâm thương xót, được an lạc hẳn không sanh nẽo ác mà đạt diệu quả nghĩa là Niết Bàn thuần lạc. Kế đến nên phát tâm và cần phải phát nguyện. Nguyện rằng ta quyết định phải chứng vô thượng chánh đẳng Bồ Đề để làm tất cả việc lợi lạc chúng sanh, hay tùy ý theo danh hiệu chư Phật như đức Thích Ca khi mới phát tâm đã phát lời nguyện hy hữu rằng:
Trong ba vô số kiếp
Đời ác gặp thắng duyên
Phật Nhiên Đăng thọ ký
Thành Thích Ca Mâu Ni
Bồ Tát Vô Trước (6) nhân ý đây nói kệ tán thán rằng:
Thanh tịnh lực cao vời
Kiên trì môn phước trí
Bồ Tát mới phát tâm
Ba đại kiếp tinh cần
Trước tiên phải khởi niềm tin, tinh tấn, niệm, định, huệ mới trừ dứt chướng nhiễm. Thứ đến phát đại nguyện thường gặp thiện hữu để làm thắng duyên, dù gặp bạn ác tìm cách làm tổn hại vẫn không bỏ tâm đại Bồ Đề. Chuyên tâm tu thiện việc thiện gia tăng, dùng tâm tinh tấn mà sách tấn nhiều hơn, tất cả đều là việc tu hành ban đầu vậy. Y theo những gì trình bày trên mà phát sơ tâm dần dà đạt đến Vô Thượng Bồ Đề, dự vào Đại thừa cùng chư Bồ Tát trong biển sanh tử cứu thoát vô số chúng sanh, thẳng tắt mau chứng quả giải thoát. Kế phải nghĩ tới hai nghĩa sau đây: một là nghĩa hẹp, hai: nghĩa rộng. Nghĩa hẹp có ba: cảnh, hành, chứng đắc quả, do xưa mê không biết chân vọng và cảnh giới mà khởi phiền não nên phải thọ khổ. Nay nhận chân được nên cũng có ba: do đây ban đầu phải thẩm quán xét cảnh, khi đã phân biệt rõ thiện ác phải hành để trừ dứt. Nhân hành đầy đủ các đức tánh bèn chứng đắc. Chư Phật Thánh dạy tuy nhiều nhưng pháp tu chẳng qua gồm 3 loại như thế hành giả cần nương theo đó mà học. Sao gọi là chỗ quán cảnh giới? Có nghĩa trước tiên quán xét do duyên sanh hết thảy sắc, tâm, các tâm sở v.v… giống như hoa đốm thường dối gạt người ngu lấy đó làm tự tánh tùy thuộc (y tha khởi). Người ngu không biết vọng chấp đó cho là ngã, là pháp có thật như hoa đốm tánh tướng đều không gọi là giả lập (biến kế sở chấp). Tánh tùy thuộc trên ngã pháp vốn không có, do quán không đây mà làm hiển chân lý như hư không là tánh tuyệt đối (viên thành thật). Các pháp ta biết được không ngoài hữu – vô thể nó là không. Chỉ gọi chung là giả lập bên cạnh những chấp chặt của tâm giả lập có gốc thể của pháp, hợp lý phải phân biệt. Các pháp hữu vi đều tùy thuộc, đủ duyên hiển bày vậy. Các pháp vô vi là tánh tuyệt đối, pháp vốn là lý chân, còn pháp hữu lậu là tùy thuộc, vì tánh điên đảo vậy. Các pháp vô lậu là tuyệt đối, vì chẳng điên đảo vậy. Biết cảnh giới nên tu chánh hạnh. Ba môn học: Văn do nghe mà được, Tư do suy xét, Tu thực hành mà có, tuy chung hai phần phước huệ hết thảy công đức, nhưng phần căn bản tinh yếu sâu thẳm. Thắng nghĩa dễ đạt hợp thời khó sánh, xa lìa các lỗi lầm mới quán xét rõ được ý thức sâu xa Tiểu thừa, Đại thừa, tiệm ngộ, đốn ngộ đều không nương đây đạt lý như Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:
Tâm như người thợ họa
Vẽ năm ấm bày ra
Có cả thế gian và
Vạn tượng pháp bao la
Tâm Phật cùng một thể
Tâm chúng sanh cũng thế
Chúng sanh, tâm và Phật
Cả ba không sai biệt
Chư Phật hẳn rõ biết
Hết thảy do tâm biến
Nếu hiểu rõ thực tiễn
Chân Phật từ đây hiện
Thân tâm chẳng hai riêng
Tâm chẳng phải thân tuyền
Khởi tác dụng thường xuyên
Chưa từng có tự nhiên
Như cũng muốn biết tới
Chư Phật rõ ba đời
Quán sát như thế thời
Tâm là Phật mấy hồi.
Luận Trí Độ rằng, Bồ Tát lại khởi nghĩ như thế này: Ba cõi những gì có ra do tâm tạo tác. Vì hết thảy do tâm tạo nên ta thấy đó, vì tâm thấy Phật lấy tâm làm Phật. Tâm tức là Phật, tâm tức là thân ta. Tâm không tự biết, cũng không tự thấy. Nếu chấp tâm tướng là hoàn toàn vô trí. Tâm hư dối do vô minh khởi. Biết rõ tướng tâm là liền nhập thật tướng các pháp nên quán duy thức là cao tột đệ nhất. Thức ấy là tâm vậy, do tâm tập khởi vẽ họa làm chủ, độc lập một mình thu nhóm các pháp, chỉ vì bị ngăn che vướng chấp ngã pháp lìa tâm mà có, thức nói đó biểu hiện: Nhân duyên pháp tánh không lìa tâm. Hiện pháp lìa tâm nhất định chẳng có tên gọi duy thức; không nói hết thảy duy chỉ tâm thức mà còn nhiều thứ khác nữa, bạn lành, bạn ác, quả, nhân, sự, lý, chân, tục đều chẳng phải không. Tánh giả lập chỉ cái biết hư vọng, tự tánh tùy thuộc chỉ biết thế tục, tự tánh tuyệt đối biết thắng nghĩa, cho nên các pháp chẳng lìa tâm, như bài kệ sau:
Quỉ, súc sanh, người, trời
Mỗi loài tùy cõi hiện
Tất cả tâm sai biệt
Nghĩa lý không chân thật
Ở quá khứ mọi việc
Mộng tướng hai hình sắc
Giả duyên đâu phải thật
Nhưng cảnh – tướng hoàn tất.
Tại mỗi nơi trong các cõi chỉ duy tâm, e văn rườm rà nên giản lược bớt. Nay hiểu rõ thánh giáo nói duy thức, tuy nhiều nhưng không ngoài 5 loại:
1. Bỏ vọng giữ chân: quán tánh giả lập (biến kế sở chấp) chỉ do hư vọng khởi đều không thật nên phải dứt trừ. Xét tánh tùy thuộc (y tha khởi), tánh tuyệt đối (viên thành thật), thật thể do hai cảnh và trí nên tồn tại có hữu, như bài kệ:
Danh, vật đều như khách
Bản chất thường tìm xét
Cả hai cũng phải bặt
Chỉ lượng và giả danh
Thật trí quán nghĩa không
Duy hữu phân ba tánh
Kia không nên đây đồng
Là nhập ba tánh không.
Di ấy là không quán phá chấp hữu, tồn ấy là hữu quán phá chấp không. Nay quán không – hữu nhưng còn lại hữu-không. Hữu-không như không cũng không-hữu lấy tướng không – hữu ấy để quán thuần hữu thuần không là không hữu cho ai? Muốn nhập pháp tánh ly ngôn đều phải y theo phương tiện này mà vào, chẳng phải không-hữu đều quyết định ngay. Quán thật tế chẳng hữu chẳng vô vì pháp không phân biệt khó thể nghĩ bàn. Cho rằng cần phải quán không mới nhận rõ chân tức quán xét tánh giả lập chấp ngã – pháp không đưa vào chân tánh, thể tánh chẳng phải không. Ở đây Duy Thức nói rằng che sở chấp, như chấp cho rằng các thức thật hữu như thế là Duy; đã có sở chấp cũng phải trừ bỏ. Như chủ trương cho rằng, tất cả duy thức, chân, tục đế, thiện, ác, vô ký, (ba tánh). Ba vô tánh là: Không, vô tướng, vô nguyện (ba giải thoát môn), tin sự bất tử, vô sanh, giác ngộ lý vô sinh (tam vô sanh nhẫn). Giáo hóa chúng sanh bằng phương pháp diễn đạt bình thường, thế tục, hay giáo hóa từng cá nhân một, bằng cách thích ứng với khả năng, căn cơ của mỗi người, hoặc đánh giá tâm bệnh của chúng sanh và chỉ trực tiếp chân lý cứu cánh rốt ráo (tứ tất đàn), lời nói ấn định đúng đắn, xác đáng, không sai, tất cả các hành đều vô thường, tất cả mọi pháp đều vô ngã và Niết Bàn là tịch tĩnh vắng lặng (bốn pháp ấn). Tìm cầu tập trung suy nghĩ là hoạt động thường xuyên của tâm thức: hối cải ăn năn, ngủ say trong mộng, tìm cầu suy xét, nghĩ tìm phăng manh mối (tứ tầm tư). Trí biết suốt tổng tướng và biệt tướng của hết thảy các pháp đúng như thực, không bị ngăn ngại (tứ như thật trí). Kiên nhẫn vượt qua những hoàn cảnh ngang trái, nhẫn chịu kiên trì đạo lý không hề lui sụt tâm trong năm đức tánh phục nhẫn. Bồ tát biệt giáo bậc tam hiền, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng là các bậc tu hành đã cao, nhưng chưa dứt sạch phiền não. Các vị ấy cần tu pháp này để chế phục phiền não. Tín nhẫn: từ hàng sơ địa đến tam địa (hoan hỷ địa, ly cấu địa, phát quang địa); thuận nhẫn: từ hàng tứ địa đến lục địa (diệm huệ, nan thắng, hiện tiền địa) cần tu hạnh này hướng về bậc chứng quả vô sanh; vô sanh nhẫn: từ thất địa đến cữu địa (viễn hành địa, bất động địa, diệm huệ địa, thiện huệ địa) cần tu tập để ngộ lý các pháp đều vô sanh; Tịch diệt nhẫn: từ thập địa (pháp vân địa) và hàng Diệu Giác tu tập dứt mê hoặc, đạt tới Niết Bàn tịch tĩnh v.v… đều quán các pháp này.
2. Bỏ viễn vọng giữ thuần chân: tuy quán sự lý đều chẳng lìa thức song nội thức có cảnh có tâm; Tâm khởi ắt có cảnh giới hiện. Chỉ nói duy thức không nói duy cảnh, chỉ duy thức nội cảnh cũng chung ngoại cảnh, sợ e bỏ ngoại nên phải nói duy thức. Aáy thế, những người ngu mê chấp cảnh, khởi phiền não tạo nghiệp trôi lăn trong sanh tử, không biết quán tâm tìm cầu ra khỏi. Thương xót con người nên nói duy thức khiến tự quán xét để giải thoát sanh tử. Không phải nội cảnh như ngoại đều là không. Do cảnh có lạm xả không gọi duy, thể tâm đã thuần còn lại duy thức, nên Khế kinh nói: tâm, ý, thức bị duyên đều không lìa tự tánh, nên ta nói hết thảy chỉ có thức không chi khác hơn. Ngoài ra kinh cũng nói: ba cõi duy tâm, nhiếp giữ một chỗ đều quán pháp như thế.
3. Gom ngọn về gốc: Nội tâm chấp giữ cảnh hiện ngay. Trong tâm chấp chặt tạo nên tác dụng cũng vậy, hai pháp này đều nương thức, lìa thức gốc ngọn của pháp hẳn không có, như Duy Thức Tam Thập Tụng có kệ rằng:
Do giả nói ngã pháp
Có các tướng chuyển hiện
Kia nương thức sở biến
Đây năng biến có ba
Thành Duy Thức nói biến có nghĩa thức chuyển biến giống hai phần: tướng phần, kiến phần đều nương tự chứng phần sanh khởi. Kinh Giải Thâm Mật ghi rằng, các thức bị duyên duy thức biến hiện, mượn tướng thấy ngọn quy thức bổn (gốc) nên nói có lý sự, chân tục quán vân vân phần nhiều đều nương theo pháp này.
4. Dấu kém bày hơn: tâm, tâm sở đều biến hiện, chỉ nói duy tâm không phải duy tâm sở. Thể tâm vương hơn hẳn, tâm sở kém cần nương tâm vương; dấu kém không ngại chỉ rõ cái hơn, nên Bồ Tát Di Lặc nói bài kệ rằng:
Tâm phần nhiều hai loại
Như tham lam chẳng ngại
Hoặc tín pháp tương tự
Không khác với nhiễm thiện
Kinh Vô Cấu Xưng ghi rằng do tâm nhiễm, tịnh đều dựa theo pháp quán này.
5. Lìa tướng đạt tánh: thức biểu hiện gồm có đủ lý sự, sự là tướng dụng bỏ không lấy, lý là thể tánh nên phải cầu đạt được, nên có bài kệ rằng:
Trông dây tưởng lầm rắn
Dây hiện hẳn rắn không
Chứng kiến mới phân vân
Biết rắn đã nhận lầm.
Như các kinh đã nói, tâm tự tánh vốn thanh tịnh, các bậc hiền thánh đều đạt chân như. Tướng tùy thuộc biết căn bản tánh nên cũng nói rằng, nhứt đế, nhứt thừa, nhứt y là Phật tánh, pháp thân Như Lai tạng, không – chân như – vô tướng – bất sanh bất diệt – pháp môn không hai, không có phân biệt, lìa nói năng quán xét đều nằm trong pháp quán này.
Như đã nói không – hữu, cảnh – tâm, thể – dụng, tâm vương – tâm sở, sự – lý năm loại từ thô đến tế tướng lần lượt nằm trong diệu lý duy thức, bao hàm chung hết thảy. Nhờ Văn, Tư, Tu ba pháp học mà đạt thành diệu huệ trong pháp quán xét chọn lựa rõ ràng không phải đạt thiện. Nếu cõi dục quán chỉ có hai văn – tư, cõi sắc quán chung văn tu huệ, cõi vô sắc quán chỉ có quán tu duy nhất không gì khác hơn; Quán tu vô lậu cùng hai nghĩa trên. Các luận Duy Thức đề cập ở đây từ sơ phát tâm đến 40 tâm, do thấy nghe suy niệm mà tin hiểu sâu xa tùy thuận gặp cảnh duyên. Y theo lời Phật dạy suy ngẫm khiến việc quán chiếu tâm dần dần tăng trưởng mà chưa thể tu hai pháp quán không, do vừa nhập pháp tu không vượt thắng hơn được. Đối với gia hạnh vị với bốn phép đẳng trì (7) mà khởi bốn tầm tư quán xét chỗ chấp. Hoặc danh hoặc nghĩa tánh nó sai biệt, giả có mà thật không. Khởi như thật trí hay chấp thức biến biết chẳng phải hữu (có) nên đức Từ Tôn có dạy bài kệ rằng:
Bồ Tát vì định an
Quán ảnh chỉ do tâm
Các tưởng đã trừ dứt
Tưởng đều do xét nét
Tâm trụ như thế thường
Biết sở chấp chẳng thật
Và năng chấp cũng không
Vô sở đắc sau cùng.
Đến đây Bồ Tát tuy đã tu quán, còn vướng theo tướng nên chưa thể chứng chân; lên vị Thông đạt được trí vô phân biệt, nơi chỗ bị duyên cảnh đều không sở đắc, trí đã mịt mờ tâm cảnh càng thêm đen tối. Lúc đó tướng hữu vô không hiện hữu, thật lý duy thức mới gọi là chứng đạt, như có bài kệ sau:
Hợp thời chỗ bị duyên
Trí đều không sở đắc
Bấy giờ trụ Duy Thức
Lìa hai chấp tướng pháp
Rõ chân thức rồi khởi hậu đắc trí (8) mới ngộ tục đế, như Kinh Hoa Nghiêm cho rằng:
Hẳn thấy rõ chân như
Mới nhận ra các hành
Tuy có mà không thật
Mọi sự do huyễn sanh
Đến vị này gọi là đạt pháp, an trụ cực hỷ địa (đất thuần an lạc) sanh nhà Như Lai, tự biết không bao lâu nữa sẽ thành Vô Thượng Giác. Nơi tu tập vị việc tu có khác; nơi bốn địa trước chân-tục duy thức mỗi phần ngộ riêng, vào đệ ngũ địa mới có ít hiệp quán, nhưng phải rất dụng công chưa hề bỏ mặc. Đến đệ thất địa quán biết chân tục tuy thời gian dài mới được gia hạnh. Từ bát địa trở lên không cần cố gắng khuyến tu, cuộc vận hành trong không khởi có thắng hạnh. Đến vị cứu cánh tuy chẳng tu nhưng niệm niệm đủ duyên biết rõ chân tục, cần nhắm tới hai phần: hiện hành và chủng tử. Nơi hai vị đầu tiên còn hữu lậu trong ba huệ gồm chung hai pháp tu (văn, tư), tu tập vô lậu vị thông đạt mới tu huệ vô lậu, thông qua pháp tu hiện đang thực hành chỉ tu hữu lậu. Ở vị tu tập đệ thất địa trở về trước hữu lậu, vô lậu đều có đủ cả nơi ba huệ, đạt pháp tu nơi đệ bát địa trở lên còn hữu lậu, vô lậu chung ba huệ. Chung pháp tu nơi cứu cánh vị các pháp hữu lậu đã trừ; dù chỉ còn vô lậu nhưng vẫn tu đầy đủ. Sở dĩ nói tu để làm cho việc quán xét hiện hành lần lượt gia tăng hơn ngõ hầu được viên mãn. Người đạt tự tại thấp cũng cần phải tu lên; kẻ chưa đạt tự tại không thể tu lên được. Đây nói về Duy Thức bao hàm chung các hành, các hành đều nương Duy Thức mà tu. Thử tóm lược về hình thức tu hành như thế nào ? Người tu hữu lậu có thể cảm được tất cả diệu quả thế gian; người hành vô lậu đã diệt sạch các chướng đạt đại giác ngộ làm lợi lạc chúng sanh cùng tận đời vị lai. Đây là nói riêng, còn nếu nói chung là dung thông tất cả, nói lược pháp tu là như thế; còn tu tập rộng như thế nào ? Pháp tu cũng có ba phần : 1. Chỗ học xứ 2. Pháp tu học 3. Khả năng tu học. Trước hết phải biết chỗ học xứ, thứ đến cần dựa vào pháp mà học và sau cùng mới có khả năng tu học, nên cả ba đều ở nơi hạnh Bồ Tát. Nơi học xứ lược phân thành năm loại: a) nơi được dạy dỗ: nghĩa là phải hiểu rõ ba thừa có nhiều thành phần khác nhau căn tánh không nhất định nên phải giáo hóa thành thục. b) Nơi lợi hành: nếu chỉ biết thuần lợi riêng tham cầu tài vật thọ dụng là bỏn xẻn nên phải tìm hiểu học hỏi, được sanh lên cõi trời thích giữ giới tu hành, cúng dường Tam Bảo mong đạt hữu lậu là tham lợi đề cao đức sáng làm cho kẻ khác thoát nạn trở lại tu tập; đắm say tu hành xả lợi cho chúng sanh. Nếu thuần lợi tha như trừ tà kiến tu hạnh bố thí, cho không thấy đủ là thuyết pháp v.v… Những việc thuần tự lợi phải chấm dứt, một là không gây tội, hai thấy lợi phải khéo tinh tấn tu tập c) Chân thật có nghĩa là đối với tánh mình biết rõ là tánh sở hữu, ắt việc đời, việc đạo đều thành tựu cả. Thực hành pháp chân thật thuần tịnh nên hai chướng theo đó dứt trừ d) Oai lực xứ có nghĩa sức mạnh của lực thần thông đạt đến giải thoát dứt bỏ keo kiệt, nhẫn đến đủ sức đạt được thiện pháp đời sau làm lợi lạc hữu tình, kham nhẫn chịu đại khổ. Chúng sanh tin tưởng, tám tướng (9) hiện hành; người mù kẻ sanh ngược đều được lợi lạc, sanh ra có oai lực, các căn đầy đủ. Pháp giới chúng sanh mọi nơi mọi thời người thông tuệ biết hết; có thần thông biến hóa cảnh giới hóa thành không cảnh giới v.v… đủ oai lực cộng (chung) hay bất cộng (không chung) giữa Phật và Bồ Tát. Biết năm lực này họp cùng chánh cần tu tập đạt thành Phật quả. e) Bồ Đề xứ: nghĩa là trí quyết đoán v.v… hết thảy công đức đều biến khắp đạt thành quả hy hữu hiện tại. Năm xứ như thế là cơ duyên tối sơ làm nơi giáo hóa, rồi mới khởi hạnh lợi tha hơn hết. Thứ nữa, biết rõ thật nghĩa có thể dứt đoạn, có thể tu tập. Nơi pháp oai lực tu được tự lợi, về sau đối với quả vị Vô Thượng Bồ Đề tha thiết khát cầu tinh cần tu chứng. Biết nơi học xứ để rồi chọn tu tập theo. Hành giả học pháp trước hết đối với Tam Bảo phải tạo công đức với Phật, Bồ Tát đủ oai lực; các chân thật nghĩa, không bài bác nhân quả để được lợi lạc. Có đủ phương tiện rồi khéo nói thuyết Khế Kinh làm cho mọi người tin tưởng, hiểu rõ hẳn nhiên ham thích; kế đến phải cầu pháp nên đối với hết thảy Phật Pháp như nội minh, nhân minh, thanh minh, y phương minh, công xảo minh nên tầm cầu học hỏi. Phải cầu như thế nào ?
Đối với Phật pháp phải vững tin, yêu kính, tha thiết muốn nghe. Giá như vì nghe một câu Phật pháp mà phải đi trên thiết lộ chân trần còn hoan hỷ sấn bước, huống chi lại còn ưa thích nhiều lời hay lẽ đẹp. Tuy yêu tự thân và những của cải với yêu giáo pháp không thể so sánh được, yêu pháp không chưa đủ mà còn không biết mệt mỏi tin sâu áp dụng mới quí. Tâm ngay thấy thẳng, trọng đức mến pháp, tới nghe thầy giảng pháp không ngại chẳng thấy khó khăn, chỉ nghĩ diệu bảo, tuệ nhãn, trí minh, thắng quả, vô tội; tưởng nghĩ tới đó ý vui tin sâu cung kính không có tâm cao ngạo, không làm việc phá giới, những sự đê tiện, tồi bại, không có lời thô, văn vụng, ý tưởng lạ đời mà chỉ mong việc thiện không phô dương tài đức, không vì danh lợi mà cầu pháp, hợp thời cung kính lắng nghe, chớ dấy tâm tham cầu mà tổn hại. Đối với tự thân cũng không khinh thường (miệt thị), chỉ vì cầu hiểu, chuyên chú để tai mắt tinh chuyên nghiêm trì chánh giáo. Với thanh minh làm cho người tin thích kinh điển khiến chúng sanh sanh tâm cung kính. Đối với y phương minh hay phương trị liệu giúp trị dứt bịnh làm cho chúng sanh an lạc. Đối với công xảo minh tức công nghiệp dùng ít sức mà thu nhập nhiều tài bảo lợi ích số đông. Đối với năm môn học quan trọng này thứ tự cần cầu không bị tâm chướng ngăn sẽ sanh nhiều vật tư (tư lương) sớm đầy đủ. Thứ đến nên vì người tuyên dương giáo pháp, nói rộng ngũ minh cho ai nấy thích ứng lợi lạc. Làm thế nào nói pháp ? Nghĩa là nên giữ oai nghi đúng pháp an trú, không vì người không bịnh ngồi nơi tòa cao nói pháp v.v… Chư Phật, Bồ Tát trọng pháp làm cho người khác đối với pháp vô cùng trân kính, nên vô vấn (không đợi hỏi) mà đáp, chớ nên tác oai quyền của vị thầy, theo nhu cầu quần chúng thứ tự giải thích không tâm tham tiếc mới gọi nói pháp tùy thuận. Đối với kẻ oán nên giữ tâm từ, đối với hạng người ác phải giữ lòng lành, đối với kẻ thích ham vui phóng túng, bần tiện, hạ cấp nên đem lòng thương xót an ủi, không niệm ghét oán để hủy nhục người. Không mong vì danh lợi, được người cung kính, xưng tụng tán dương mà nói pháp, nên niệm nghĩ tới việc tu tập. Đối lời Phật dạy ba nghiệp gây tội nên sớm xa lìa; những gì được nghe không nghịch trái với sự tu hành. Ở một mình chỗ thanh vắng luôn nghĩ tới giáo pháp; chuyên cần quán xét không gián đoạn (xen hở) mới thích hợp, điều nào chưa biết mong biết, việc gì đã biết đừng quên; chưa thấu đạt Phật lý không sanh tâm bài báng, sợ mình không có mắt tuệ, trực tâm phải tin chắc, khéo biết ý mật, tà thuyết không dao động, lìa ngôn-cảnh để chuyên chú buộc tâm, lìa mọi hý luận không để loạn tưởng. Chuyên tu thiền quán, tuệ minh sát (vipassana); kế phải theo lời chỉ dạy, nên quán xét sâu tâm người nơi ưa thích của họ, tùy nghi tích cực thuyết pháp làm cho người từ bỏ tâm cao ngạo. Và nữa, phải dạy khuyên người nên tránh gây tội mà phát tâm trong sạch tươi sáng. Các pháp ác đang một lúc phạm cần nên như pháp mà khuyên ngăn dứt. Nếu phạm nhiều lần nên đem tâm thanh tịnh thân thiện vui vẽ trách khéo làm cho người luôn nhớ. Kẻ dưới phạm (nhỏ) có thể phương tiện; người trên phạm phạt vĩnh viễn, chớ để kẻ phạm nhiều lần mà mất phước. Người tu hành đứng đắn nên đem lòng thương mến tán trợ, khiêm nhường khuyến khích làm cho họ vui vẻ tiến tu để ba nghiệp được thanh tịnh. Trước hết đem của cải ban cho chúng sanh khiến họ được nghe giáo pháp để tu hành. Đối với người si mê nên nói lời ngọt dịu (ái ngữ) làm cho họ có cơ hội học tập chiêm nghiệm giáo pháp Phật dạy. Trừ sạch điều bất thiện, khuyến khích việc thiện, với việc chính là phải cùng nhau tu hành làm cho không ai nghĩ là được giáo hóa. Thứ nữa tu Ba La Mật Đa (giải thoát không lui sụt) là ban xả thí ba nghiệp không tham. Phàm làm việc bố thí chỉ một điều là làm người khác vui hơn làm lợi mình hoặc thấy không lợi chẳng cho. Nếu chỉ bố thí mà không tạo được an lạc hoặc tạo được an lạc cũng nên ban cho người. Như mong muốn của cải bất chính của kẻ khác quyết định dứt trừ, cái tâm phải theo lẽ tự nhiên. Như mong đao trượng v.v… để tự hại và hại người, không phải của cải của mình, kết cấu với người mưu lấy cho được. Ăn hại như loài côn trùng vô loại lạc loài, giết hại loài vật, cúng tế thần linh làm tổn hại sanh linh dưới nước, trên đất. Gây oán kết thù, binh loạn không hợp, mong cầu điềm dị, gây sầu chuốt não, trấn áp chèn ép, thích ác cầu vị, đoạt của người khác đem cho, bạo ác tổn hại, tự phạm học xứ. Kẻ oán người thân sanh tâm phân biệt, theo hơn bỏ kém, theo đa bỏ thiểu, hoặc mang tâm hoài nghi làm cho lòng vẩn đục. Người bố thí nên tán dương nêu cao ân đức. Hướng về người thí khích bác cho bỏ việc bố thí là tà mị ác cầu vọng tưởng tà chấp mà cho là pháp lành. Như kinh đã dẫn sợ mình nghèo khó, tàn tạ xấu xa, cùng người xuất gia chưa từng thưa hỏi, bố thí bừa bãi phi pháp chẳng hợp nghi cách, chứa giữ đồ vật để làm ân phước. Một số mong cầu trở lại nương vào quyến thuộc y như danh dự thế gian, cầu được đền ân đáp nghĩa, chừng định muốn được tôn trọng tán dương, ý tưởng lại giới hạn. Tuổi trẻ lừa dối để về sau hẳn gặp thất bại, quay mặt chính mình biếng lười làm tổn người. Không chịu nương người đến với mình để lần lượt ban cho đều, vì tâm chẳng hoan hỷ về sau sanh lòng hối hận. Trước chưa dụng tâm cầu chân bỏ giả, chẳng thích thời, trái với nghi cách lộn xộn, bị cười nhạo khinh rẽ khiến sanh thẹn thấy quê đến đổi khó chịu lặng thinh không muốn cho nữa. Ngoại đạo đến cầu học Phật Pháp lại trao đổi bí mật hành động ấy chưa phải là Phật Pháp. Tất cả những việc làm sai trái trên đây không nên làm; ngược lại tất cả đều nên làm. Của báu quí giá nếu thiếu phải nên nghĩ rằng: một là an lạc không nghèo khổ, hai là nghèo khó không nương cậy ai. Lượng tài mình có đủ nên toại nguyện, thiếu phải khéo ẩn nhẫn tầm cầu. Nên biết rằng ôm tâm keo kiệt phải chịu nghèo thiếu trước, gây tạo nhân phước như trồng cây, khéo hướng dẫn lời hay không bị hao tổn mà còn được lợi lạc. Ta có của báu tùy người ban phát, cẩn thận đừng để kẻ khác cầu mà không đáp ứng. Như khi tôi bố thí anh nên tùy hỷ vui thuận rồi dần dần phát tâm bố thí, thấy kẻ tới xin phải biết vui vẻ ban phát. Nếu có tâm kiêu ngạo khinh thường việc xin, nên kín chớ làm thương tổn người để họ được mãn nguyện, khiến người vui không e thẹn mà lui tới với ta. Như trước khinh thường sau mới biết đừng chê cười mà nên đem lòng thương xót. Người vui quên với ta về điều lỗi lầm trước, ta luôn hoan hỷ khiến người cảm thấy an tâm. Nếu không có của cải nên cho theo khả năng; như kinh sách chẳng hạn ban cho đừng thiếu.
Đối với Phật Pháp vi diệu cần phải tuyên dương làm cho chúng sanh thích ứng học hạnh bố thí. Luôn có lòng nhân xả thí phải hóa độ người xin khiến họ phát tâm ban phát; chớ mắc lỗi hèn không cho làm người xin bất kính để mất niềm tin. Phải biết ngoài cách cho ấy, còn một cách khác là ban phát kinh sách cho người xin, như thấy người thiếu, không đủ sức biên chép nên nghĩ cách giúp đỡ. Ta chẳng tiếc chỗ yếu kém nên chẳng ngại giảng kinh, như có ngại cũng phải ban phát, nhờ bố thí mà dứt si ngây không keo kiệt, huống đầy đủ tư lương diệu trí còn e kém khuyết gì. Nếu không vì tham tiếc cái hơn mà nghĩ bố thí để diệt phiền não, còn nghĩ tới chúng sanh, tức là đầy đủ trí nhân. Quán xét phiền não như không, thấy không để mà tăng thêm bố thí làm trí tuệ sáng cũng là yêu thích làm việc bố thí cho chúng sanh. Nếu lúc thí cho người liền chỉ nghĩ tới mình như thế là thí mà phạm tịnh giới, nên khéo tìm cách khuyến dụ người phát tâm. Nuôi dưỡng tài bảo làm cho tâm thanh tịnh cần nên phụng sự chư Phật, Bồ Tát. Tuy nuôi dưỡng tài bảo trong dòng Thánh chủng cũng phải nghĩ phước đây luôn được tăng trưởng là nhờ chư Phật, Bồ Tát gia ân hộ trì. Nếu thấy bố thí không hợp lý xứng đáng nên nói rằng: này hiền giả, đây là vật của người khác không phải để cho ngươi; nhờ lời an ủi ban ra, hoặc đem nhiều của báu ban cho người, khiến người biết bố thí không còn keo kiệt nữa. Hẳn Kinh này không phải vật riêng tư, gặp khổ oán lấy đức ban cho chúng sanh, nên lấy từ bi, hỷ xả mà ban phát. Nếu bị bốn chướng (10) không thể xả thí ban ân nên khởi bốn trí để đối trị: 1. Có của cải, tâm không thích bố thí, phải nghĩ do trước chưa từng tu tập, nên nay chẳng xả sau này càng thiếu hụt hơn phải cần nỗ lực tu tập đạt được giác ngộ. 2. Của cải yếu kém, tâm không thích bố thí, nghĩ tới khốn khó này là nhơn làm trở ngại bố thí, nên khởi tâm thương giúp. Chấp nhận nghèo khổ trong sự ban phát làm lợi lạc cho chúng sanh tâm vẫn luôn ẩn nhẫn chịu đựng. 3. Của cải làm mờ tâm tánh không thích bố thí, nên nghĩ do tham đắm si mê điên đảo, nên biết đời sau sanh ra gặp nhiều khổ hận, do vậy nên nỗ lực tranh thủ một đời để đạt đến trí tuệ. 4. Tuy bố thí mà chỉ nghĩ đến kết quả trong đời, nên sớm biết rằng đó là tà kiến, phải quán các hành đều không bền chắc, ly tan, chóng hoại diệt, chẳng lấy đó làm vui thú mà mong cầu Bồ Đề, vì suy nghĩ mọi vật vô thường không bền chắc lâu dài. Phải trong thanh tịnh khởi niệm tin sâu, luôn luôn buộc niệm giữ tài bảo vô giá. Dùng lực bố thí chúng sanh nên ít dụng công mà được vô lượng phước. Ở chỗ của quí đáng yêu nên tự mình xả thí, giả thử gặp khó khăn cũng đừng nên keo kiệt. Lòng tin, sự tôn kính, tự biết hợp thời không để tổn hại mình và người khác mà làm việc xả thí. Nên nghĩ ba điều này: cho vật thanh tịnh là ban phát tài thí, trừ sạch hết sợ hãi là hành vô úy thí, khuyên người tu thiện nghiệp là pháp thí, nhanh nhẹn cho không một mảy may tiếc giữ. Không phải người ta mong mỏi được của xả thí nhanh gấp như thế, mà tùy theo vật mình có ban cho không nhứt thiết đợi dư dã mới bố thí. Đối với kẻ khiêm hạ không tranh đua không cao ngạo, giữ giới là học để tịnh ba nghiệp. Phàm tu giữ giới thanh tịnh chính là gìn giữ ý thanh tịnh, lỡ phạm trở lại giữ giới thanh tịnh tôn trọng không phạm lại nữa. Trường hợp lỡ phạm nên xem xét người khác mà khởi tâm hổ thẹn. Giữ ý trong sạch nếu lỡ phạm giới nên tự hồi tâm biết xấu trẽn mới có thể giữ giới lại thanh tịnh trong niệm chí thành. Do hai tâm hổ, trẽn nên tránh không làm việc ác, trước hai sau một mới có thể không phá giới. Đã phạm giới trở lại giữ thanh tịnh có thể mau thoát khổ liền được nhiều lợi ích đạt đến giải thoát. Hai giới Phật tử tại gia hay xuất gia đều giữ gìn cẩn trọng ba tụ giới thanh tịnh này:
1. Nhiếp luật nghi giới: trong đó có bảy chúng(11) đã thọ giới, riêng giới xuất gia bỏ địa vị Luân vương như bỏ rác bẩn không mong muốn cõi trời, huống là địa vị, tiền tài làm chướng ngăn đạo quả; sá chi những chuyện nhỏ nhoi khác cần phải biết. Không phải giới là đủ mà còn phải tránh lời ác, lập thệ sớm sửa đổi, dần dần kiểm soát lời nói ý nghĩ đúng. Nghe việc khó nghe tâm không nhiếp nhược, tự gắng cần tu. Không đỗ lỗi người khác, phải tự nỗ lực xét lỗi mình, thấy người bạo ác khởi lòng thương giúp. Bị người làm nhục không giận dỗi chớ bực tức. Có lỗi sám hối trừ diệt nguyện không tái phạm, sống thiểu dục tri túc kham chịu mọi sự khổ, không cằn cựa, vụt chạc, mà giữ oai nghi đoan nghiêm, lìa bỏ kiêu ngạo, không làm các nghề bất chánh mưu sinh.
2. Nhiếp thiện pháp giới: nghĩa là sau khi thọ giới tu tập đại giác để tích chứa các thiện pháp. Giữ giới ẩn tu Văn – Tư – Tu. Thờ việc đáng tôn thờ, kẻ bị hại phải tỏ lòng thương xót ban cho người lời thiện lành; tán dương công đức người bố thí.
Đối với việc thiện nên tùy hỷ, được bao nhiêu công đức cúng dường phát nguyện hồi hướng và tinh tấn giữ giới. Ăn uống biết điều độ khéo giữ gìn các căn. Đầu đêm rạng sáng luôn luôn giữ niệm tĩnh thức; thân cận bạn lành, đừng hoài đến thân mạng, tài sản. Đối với việc ác đều không nên làm, khéo biết rõ nhân quả cho tới lúc lìa hết chướng duyên, ngỏ hầu thứ tự vào được thập trụ(12).
3. Nhiêu ích hữu tình giới: đối với chúng sinh không làm họ mất công ăn việc làm mà nên trợ giúp. Gặp người bịnh nên giúp đỡ, gặp người mù nên dẫn đường, người điếc nên nói lớn, người câm ngọng nên làm dấu, người mê lầm chỉ đường, kẻ mỏi mệt cho nghỉ ngơi, người tật nguyền cho xe đi, người ngu độn dạy khuyên lấy trí tuệ trừ trói buộc; giải thích chỗ hơn khuyên người dứt tâm keo kiệt, thọ nhận của tốt khiến người tin lời Phật dạy diệt phiền não dứt các khổ. Thọ ân nghĩ tới việc đền đáp sẽ thấy kết quả việc thiện đến. An ủi nói năng chân thành, luận bàn nhã nhặn ôn hòa, gặp bả mồi danh lợi không hèn yếu. Người sợ khiếp nên trợ lực, kẻ lo lắng nên giải bày, luôn luôn sẵn sàng tư lương lúc cần ban cho ngay. Trước lo chẩn bịnh sau mới cứu cấp; nếu tự thấy còn chỗ yếu kém nên bồi dưỡng để giúp cho người. Có đại chúng cùng dùng chung không quá tính toán (chi li). Mỗi lời nên bảo ban khuyên nhắc, nhắm tới bất vụ lợi mà làm, nhờ đó chuyển hướng người khác. Không nhiếc mắng kẻ vi phạm, chẳng làm họ buồn phiền, cũng không khinh rẽ làm họ sanh lòng hổ thẹn. Không che đậy cái chướng người, không tự cống cao cũng như không quá thân thiện người. Nếu phải thân cận cũng không nên phi thời gần gũi người, không chê bai cái người thích, không khen cái người ghét. Không phải chỗ thâm tình không tỏ hết sự thật, và đừng bao giờ mong chẳng trái ý mình, được vậy là đạt vô lượng tạng công đức. Như chư Bồ Tát trước phát Bồ Đề tâm rộng lớn muốn cần cầu tu học; đối với người cần phải cởi mở nên như pháp mà giảng dạy. Khi có giới Bồ Tát nên khuyên người thọ để sanh lòng ân cần tôn trọng nuôi dưỡng; vì chánh pháp mà truyền thọ cho người khác. Nếu không có người truyền giới nên tới trước tôn tượng Phật tự phát nguyện thọ giới đúng pháp. Từ đây trở về sau Bồ Tát luôn suy nghĩ việc nào cần phải làm và những gì không nên làm; thấy nghe, hiểu rõ thích hợp với ý kinh. Cho dù người tài trí thông minh giảng luận tài giỏi, thậm chí hủy báng giới Bồ Tát, người như thế chẳng nên thọ học; hoặc kẻ không tin hủy báng cũng chớ nên chỉ dạy. Nếu an trú trong tịnh giới – giữ giới thanh tịnh – hẳn được công đức rất lớn. Kẻ hủy báng giới pháp mắc tội rất nặng; lời nói, chỗ hiểu biết chưa hoàn toàn xả không thể giải thoát được. Không phải khuyên người là hơn mà nên nghĩ cách khéo để họ khởi niệm lâu bền mới thích hợp. Có bốn pháp thắng xứ cần nên suy nghĩ: 1. Tự đề cao danh lợi mình sẽ làm phương hại người 2. Cầu pháp với tâm không keo kiệt 3. Bị người hãm hại tới xin tạ tội nên chấm dứt oan kết 4. Hủy báng giới Bồ Tát vì muốn tuyên dương thời tượng pháp (13) do tin theo tà pháp. Người nào phạm bốn điều này không đủ lực tăng trưởng thanh tịnh, ngay cả không được đại tư lương. Giống như Bồ Tát không thật là Bồ Tát nhờ xả hai duyên mà được tịnh giới.
1. Lập đại nguyện cầu Vô Thượng Bồ Đề.
2. Thượng phẩm bao hàm thắng xứ của hành giả, trung phẩm, hạ phẩm vây chặt không lìa tịnh giới. Qua vài lần phạm bốn thắng xứ mà vẫn không biết xấu hổ, lại cứ muốn phạm gọi là thượng phạm, không phải phạm trong giây lát mà có thể xả được. Nếu không có hai duyên ấy dù chuyển sanh qua đời khác vẫn giữ giới thanh tịnh, hay dù quên mất giới đã lãnh thọ vẫn nghĩ đến giác ngộ, đó không phải người mới thọ giới mà được. Người niệm nghĩ giới như thế luôn sanh nơi an lạc, gặp được Tam Bảo hằng ngày tùy tâm cúng dường, trân trọng lễ bái. Tán thán bài kệ bốn câu suốt đời tin tưởng niệm nghĩ ân đức Tam Bảo. Không một chúng sanh nào không độ với tâm cung kính khuyên răn chớ sanh tâm tham dục, xả bỏ danh lợi, kính noi đức sáng hợp thời đền đáp. Đến như thỉnh cầu pháp, thọ nên không nhiễm vật thí, xả không nhiễm pháp. Đối với già tội (tội ngăn che giấu giếm) cần nên cẩn thận. Nếu vì lợi người tùy trường hợp cần thể hiện ngay nên sống chánh mạng (không làm nghề tà). Dứt sạch ba nghiệp, trừ dứt sanh tử khổ ham thích Niết Bàn an lạc. Nghe tiếng chê, lời khen đều phải giữ mình như băng tuyết; cảm ân kẻ làm hại. Không nhiễm thói quan quyền để trả thù ngang tàng. Thức ngủ hợp thời, lìa ái, giỡn đùa, hạ mình cầu pháp, trừ dứt năm thứ che tâm (14), không hủy báng Nhị thừa. Giỏi rành Bồ Tát tạng (kinh tạng) mới học tạng Thanh Văn, tinh thâm Phật pháp mới nghiên cứu ngoại luận. Người tuệ trí mỗi ngày học đủ hai phần nội điển và một phần ngoại điển như vị cay thấm dần. Nên tin thích mến pháp để được nhiều lợi lạc; nghe pháp phải chú ý lắng nghe tinh cần, khéo dựa văn nghĩa tin kính pháp sư; cho tới khi nào hiểu đúng lời chỉ dạy. Như với người tâm cuồng loạn bị thống khổ bức bách chưa thọ tịnh giới của hàng thập trụ thời không vi phạm; trái lại là vi phạm nên biết là đã phạm tội. Nếu thành phần bực trên phạm nhiều lần hoặc ba hoặc hơn ba lần phải biết cần sám hối đúng pháp để trừ dứt, cải đổi sửa sai, thành phần bực hạ phạm một lần bày tỏ hối hận phát lồ, hiện nếu chưa diệt không thể tiêu tội được, phải thành tâm tự phát thệ không phạm trọng giới, do thành tâm như vậy tội đã phạm đều được thanh tịnh trở lại. Nương theo giới đây tu tập hẳn dứt sạch ba nghiệp; một là viên mãn do giữ giới không thiếu sót, nên ba nghiệp thanh tịnh, hai ý nghiệp tròn đầy vì pháp xuất gia cầu đại Bồ Đề, cho chí không cầu quả dị thục đời sau, ba là nhân đủ do trước đây hành thiện nghiệp nay được thắng quả lại càng tu thiện há chẳng an lạc sao! Như trái phạm phá giới bị khổ nạn; ngược lại người giữ tịnh giới, bỏ địa vị giàu sang cho tới khi chết không phạm một mảy may mà luôn chẳng buông lung cũng như không dễ duôi trái phạm, do đây đời đời sanh ra được năm điều lợi: 1/ được 10 phương chư Phật hộ niệm 2/ Lúc bỏ thân mạng được niệm hoan hỷ 3/ Những người tu hành thường gần gũi 4/ Thành tựu viên mãn mọi công đức 5/ Sanh ra thường gặp giới, nhờ giới hành giả thấy tánh. Người trụ tâm giới thành tựu Phật quả lợi lạc hữu tình nên tinh tấn chớ phạm. Nhẫn tức thì trong cảnh có được niệm vô sân nhờ tinh tấn huệ xét soi. Được ba nghiệp như vậy, quyết lòng nhẫn sự oán hại, nghĩa là gặp người hại nên nghĩ như thế này: đây là do nghiệp trước của ta. Nay nếu không nhẫn tức tạo thêm nhân khổ, thế thì chẳng thương mình nên tự buộc hại. Lại tự thân ta thân người bản chất đều khổ, chỉ vì người không biết nên mới làm hại ta. Ta đã biết thà để người hại, Thanh Văn tự lợi còn chẳng làm khổ người, huống nữa ta làm việc lợi tha, nên nhẫn chịu người hại, bèn suy nghĩ thế này là nên nghĩ tưởng năm điều:
1/ Niệm nghĩ người đối với ta từ vô thỉ lâu xa hoặc là quyến thuộc hoặc là bằng hữu nên trừ bỏ niệm oán mà nghĩ tới tình thân thiện.
2/ Niệm nghĩ hành động chỉ tùy thuộc nơi các duyên, chỉ có pháp vô ngã thì ai là kẻ oán hại? nên lìa bỏ hữu tình chỉ nghĩ pháp.
3/ Nghĩ rằng người khác sanh trưởng trong vô thường, ta muốn báo oán không gì hơn là đoạn mạng sống họ. Ai là người trí, đối thân mạng mình đang ở trong sanh tử lại muốn sát hại, đâu chẳng khởi niệm nhiễm ô, huống lại sanh lòng sát hại, nên bỏ thường mà an trụ trong vô thường.
4/ Niệm nghĩ việc thạnh suy đều là ba khổ (15) luôn bám sát nhau. Nay ta đối với người nên lập phương tiện làm cho người vĩnh viễn xa lìa. Chấp giữ làm gì cho thêm khổ, phải đoạn ái lạc nên nghĩ tưởng khổ.
5/ Niệm nghĩ cầu Bồ Đề vốn là chúng sanh nên ban cho sự an lạc, nhận làm thân thuộc, chấp làm gì bây giờ trở lại chuốt lấy oán hận, nên tưởng đến bao dung, tự không giận ghét chẳng làm hại người, cũng không để ý theo đuổi tiếp tục, nên mọi oán hại đều có thể nhẫn qua. Yên trí chịu nhẫn khổ nếu gặp khổ nên nghĩ tới điều đó. Nếu gặp việc khổ nên nghĩ như thế này: ta từ vô thỉ ngu muội lỗi lầm vì ham mê các dục nên bị sự khổ bức; nay cầu Bồ Đề thành đại sự nghiệp dù trãi qua trăm nghìn kiếp thống khổ cũng phải nhẫn chịu, huống gì khổ ít ư ? Nếu đối với cả bốn sự tệ hại ràng ràng vẫn tĩnh táo không nghĩ lo phiền, các pháp thế gian hoại diệt cho đến bịnh chết vẫn trụ bốn oai nghi mà thọ học pháp. Xuất gia hủy bỏ hình tướng đẹp, mặc hoại sắc tự phấn đấu khắc phục, hành hạnh khất thực, bỏ của phi pháp, đoạn dâm dục, tu thiện, lợi ích đúng pháp, cần khổ đều có thể nhẫn chịu. Tinh tấn trừ biếng lười cầu đại Bồ Đề lìa bỏ tâm ô nhiễm, chớ sanh tâm thoái chuyển. Nhẫn quán sát kỹ ba đế, với Tam Bảo tu tập trí tuệ khéo hiểu rõ mọi việc hơn, đối với chúng sanh thấp kém ti tiện đối xử tôn trọng bình đẳng giống nhau, oán thân đều nhẫn nại chịu đựng. Trước chỗ trú xứ, ngày đêm qua lại thậm chí thọ bệnh cũng cần tu tập ba nghiệp. Với sự bức hại nhờ nhẫn nên được khỏi, với chỗ mong cầu do kham nhẫn mà được. Thường làm việc lợi lạc trước sau không thay đổi, không một việc lợi ích nào bỏ qua mà không làm lợi lạc. Chỗ oán nhanh chóng giải bày tha thứ, sớm chịu đừng để mình sanh tâm ghét giận. Không kham nhẫn được nên khởi tâm xấu hổ, sửa đổi xét kỹ do nhẫn mà hiện đời được an lạc, trừ mọi việc bất thiện là nhân đưa đến hạnh phúc khi lâm chung không hối tiếc. Đời sau sanh cõi thiện không thù không oán chứng được Vô Thượng Giác (giải thoát); cũng thấy không chịu được cảnh đã tạo khổ quả. Tự nghĩ nên dạy khuyên an ủi tán trợ người khác. Tinh tấn tức là tu tập thiện pháp dũng mãnh dứt 3 nghiệp. Tinh tấn đây có 3 nghĩa, gia hạnh tinh tấn là tu thiện tâm trước sanh dũng dước phát lời thệ nguyện rằng con nay vì muốn thoát khổ: 1) Chúng sanh khổ: lấy một ngày đêm trong trăm nghìn đại kiếp (16) hơn gấp trăm ngàn lần thường ở địa ngục mới chứng Bồ Đề, tâm dõng mãnh của con cũng không lui sụt, huống gì có lúc trãi qua thời gian khổ bức ít hơn. Ở trong sự khổ chiêm nghiệm mới hiểu chỉ là một phần nhỏ, thế nhưng nhân tu đại Bồ Đề còn dài lâu vô số kiếp để đạt quả vị. Cho nên người đạt quả vị không yếu hèn khiếp nhược 2) Nhiếp thiện tinh tấn nghĩa là nhờ đây dẫn đến viên mãn các hạnh. Tất cả phân biệt phiền não, dị luận, khổ bức đều bất động, ân cần nhẫn đến lìa cao mạn mà hành. Đức Thế Tôn luôn luôn xưng tán hạnh tinh tấn mới chóng hoàn thiện chứng Bồ Đề. 3) Tinh tấn lợi lạc hữu tình: như trên nói lợi ích chúng sanh có nhiều loại cần nên làm. Như thế hẳn tránh xa được tưởng nghĩ lo cho thân mình, phải dụng toàn phần không gián đoạn không bỏ sót, bình đẳng dung thông tương ứng mọi công đức. Không chậm, không gấp, không nghiêng lệch tu tập mới làm cho pháp nhiễm dứt trừ không sanh và cũng làm cho pháp tịnh phát sanh rộng lớn. Ba nghiệp thanh tịnh, ba huệ (17) tăng trưởng, không lìa, không lui sụt không hèn, không ngã mà tinh tấn dũng mãnh thực hành. Có lực, cần, dũng, kiên, mãnh mới không bỏ mất thiện pháp.
Dũng mảnh, ưa thích v.v… tu không biết mỏi mệt như cứu lửa cháy đầu mới mau dứt trừ phiền não. Pháp tùy pháp hành hộ mình lợi người, thiền định đều là nghe, suy niệm tâm duyên một cảnh. Đây có ba loại: 1. hiện pháp lạc trú thiền, có nghĩa là lìa phân biệt, hôn trầm, động niệm, tướng ái mới sanh khinh an, đẳng trì thiền. 2. Dẫn phát thần thông thiền có nghĩa đưa tới pháp thần thông – đẳng trì. 3. Nhiêu ích hữu tình thiền, nghĩa là làm lợi lạc nương pháp đẳng trì do nơi thiền định có thể dùng chú thuật trừ tai ách, trị nhiều bịnh nan y, trừ sạch sợ hãi; bố thí của cải và thức ăn uống, chế ngự phóng túng tạo nên việc lành. Thần thông như đã khuyên nhắc là biến hiện thậm chí phóng quang trừ dứt các khổ mà cũng có thể dứt trừ vĩnh viễn mọi chướng nhiễm nặng sâu. Huệ là đối với cảnh chọn giản đơn hợp lý có ba cách: 1) đối với sở tri theo cái biết chân huệ nghĩa là với vô ngã nghĩa hợp trong thắng nghĩa bình đẳng minh giác 2) đối với ngũ minh (18), tam tụ (19) diệu trí bao nhiếp trong đây nên chóng viên mãn trí tư lương giác 3) làm cho chúng sanh được nghĩa lợi huệ, tức là làm bạn trợ giúp thực hành quả diệu giác (20). Học pháp nội minh lấy tịnh huệ làm chỗ nương, hiện làm người si dẫn dắt giáo hóa kẻ phóng đảng, khuyên gắng người nhu nhược để an ủi khuyến khích họ tu tập. Thứ nữa cần tu bốn pháp nhiếp hóa như: 1) Bố thí: như trên đã nói rõ 2) Ái ngữ: thường nói lời vui đẹp ý người, chân thật đúng pháp – nói lời dịu ngọt dễ nghe, tránh lời dèm pha chế giễu. Trước hỏi thăm sức khỏe tùy đó an ủi phủ dụ người; thấy có điểm mạnh không tự biết nên phải biết đó để mà hoan hỷ. Thuyết giảng Phật pháp cho người thường vì sự lợi ích chung. Đối với tự thân gặp oán thù nên giữ tâm bình tĩnh; với người tâm si mê nghĩ mong sao dứt trừ nghi hoặc. Đối với chân phước điền, dua dối, ác hành đều không ghim giữ mà phải nói lời ái ngữ. Muốn dứt trừ những chướng ngăn trước tiên là dùng lời ái ngữ; kẻ tâm thuần thiện vì họ nói pháp, người nhiều phóng túng khuyên bảo khiến từ bỏ. Kẻ còn nghi ngờ phân tích rõ chỗ phải quấy giữ bốn tịnh ngữ (21), theo tám thánh ngữ (22). 3) Lợi hành: do ái ngữ nên bày tỏ lý chân thật, theo sự hiểu biết bằng lòng thương vô nhiễm khuyên dắt người, điều phục tạo sự an lạc để làm cho hiện đời được tài lợi, về sau thuận duyên xuất gia được lìa dục, nhẹ nhàng giải thoát. Quen gần bạn ác chưa gieo được nhân lành, tham chấp giàu sang địa vị vô cùng phóng túng; chấp mê ngoại đạo tà kiến, bài xích thường khởi tám điều trói buộc (23), mười nghiệp ác (24) v.v… Đối với người như thế, thảy đều có thể thông cảm mà khởi tâm đại bi thương xót. Tuy thọ vô vàn sự khổ mà tâm không hề mệt mỏi vẫn luôn luôn giữ niệm hoan hỷ. Dù được địa vị, của cải cao sang tột bực mà tự khiêm hạ như kẻ tôi đòi, như hạng Chiên Đà La (hàng nô tỳ), như người con hiếu thảo v.v… không nhiễm, không gian dối, chân thật hết lòng để tâm thương xót luôn không dứt. 4) Đồng sự: người cùng hợp tác chung việc đem sự lợi ích khuyên lơn như họ cùng nhau học tập, dạy người biết chia xẻ trong phận sự. Thiện niệm kiên cường không sanh lòng lui sụt làm cho họ phải nhớ mãi điều này. Việc này dạy ta đạt nhiều lợi lạc, người khác tự làm chẳng phải chỉ nói suông. Nếu anh đã bất thiện làm sao có thể dạy tôi được; hơn nữa chính tôi đối với người khác, cũng phải làm như vậy. Việc tiếp nữa là cúng dường Tam Bảo, trước nhất là cúng dường hiện tiền Phật như Xá Lợi và cốt tượng v.v… thân cận cúng dường 2) Cúng dường mười phương ba đời chư Phật, Phật tượng bằng tâm tưởng mà không phải cúng dường Phật hiện tiền 3) Đối Phật hiện tại lại nghĩ như thế này: một pháp thân Phật tức là ba đời mười phương chư Phật; pháp thân là pháp tánh nên ta nay cúng dường một pháp thân Phật hiện tiền là cúng dường 10 phương ba đời tất cả chư Phật, nên việc làm hiện không phải là cúng dường chỉ Phật hiện tiền. Sau khi Phật diệt độ như tạo một hoặc nhiều hình tượng Phật để cúng dường, hẳn được vô lượng công đức. Nhờ đại phước đức này mà trong vô số kiếp không đọa vào ác thú, cũng như đủ tư lương đạt đến vô thượng Bồ Đề. 4) Đối với tự thân cúng dường chỉ nên đúng như thế. 5) Nếu khởi lòng thương tùy sức đem của bố thí cho kẻ nghèo khổ mong họ được an lạc khiến họ cũng nghĩ về pháp cúng dường. 6) Cúng dường các thứ không thiếu 7) Đem hoa hương lễ bái cúng dường cho đến châu báu, vật quí v.v… cúng dường 8) Đem ngay của cải cúng lâu dài với tâm hoan hỷ nhẫn đến thành tâm hồi hướng Bồ Đề nên cần cúng dường rộng lớn 9) Không đem lòng khinh mạn, kiêu ngạo, phóng túng, không cúng đồ bất tịnh v.v… mà phải cúng với tâm vô nhiễm. Lượng sức với của của mình mà đem cho người khác cần đến, phát nguyện hóa hiện trăm nghìn thân cung kính lễ bái. Mỗi một hóa thân đưa ra trăm nghìn cánh tay rãi hoa thơm cúng dường, phát vô số âm thanh ca ngợi công đức, và cùng vô số đồ tốt trang nghiêm dâng hiến cúng dường. Ở cõi Thiệm Bộ Châu (Nam Diêm Phù Đề) cho đến khắp 10 phương đều có cúng dường chúng sanh để được hoan hỷ. Dù ít dụng công mà công đức cúng dường thật là vô lượng, vô biên, nên khởi thiện tâm, tâm hoan hỷ tinh tấn tu tập. 10) Nếu được một chút phước đức từ bốn vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) nhẫn trong giây lát tín nhẫn, lìa dứt nói năng đạt pháp tánh chân như, khởi niệm vô phân biệt, trụ tâm vô tướng tức là giữ gìn tịnh giới Bồ Tát vững an tu hành bốn pháp nhiếp hóa… Nên nghĩ tới sự chánh hạnh cúng dường, đây là cách cúng dường cao quí tối thượng, hơn cách cúng dường trước gấp trăm nghìn vạn lần không thể sánh ví được. Lúc cúng dường nên suy nghĩ rằng, Phật là ruộng phước lớn đầy đủ đại ân đức, là bậc tôn trong chúng hữu tình rất khó gặp, duy nhứt xuất chúng là nơi y chỉ nương tựa. Đối với pháp, đối với Tăng việc cúng dường nên suy nghĩ tùy nghi cũng như vậy, hẳn đạt phúc lớn nói không thể hết. Kế nên thân cận thiện hữu, giữ giới không phạm khuyết, đa văn tu niệm, ai mẫn, vô úy (không sợ hãi), kham nhẫn chịu đựng, không mỏi mệt, lời lẽ khúc chiết rõ ràng gọi là người thiện hữu. Có kẻ tới xin nên ban cho đối với việc này nên biết rõ tùy lực mà khéo thay đổi làm lợi lạc không bỏ mất đại bi tâm. Không bè đảng mà là thiện hữu, việc làm không dối, oai nghi đầy đủ, ngôn hạnh bao dung không kiêu căng, không ganh ghét; cần kiệm tích giữ tùy đó xả, đó là thiện hữu đáng tin cậy. Đưa việc bàn thảo khiến cho bạn luôn ghi nhớ, dạy bảo, khuyên nhắc để thuyết pháp cho bạn nghe. Đó gọi là thiện hữu sanh chỗ nào cũng kết làm bạn thân thiết. Bạn có bịnh hay mạnh khoẻ phải luôn yêu kính giúp đỡ hỏi thăm, tiếp đón nên hòa nhã đúng phép. Bốn sự vật cúng không thiếu sót, hợp thời cung kính phụng sự, hỏi đáp từ tốn là cách thân cận cúng dường. Kế nói đến cảm thọ của pháp giới chúng sanh gồm ba loại: 1. Xả thọ: không khổ không vui 2. Khổ thọ: thọ toàn khổ 3. Lạc thọ: thọ thuần vui. Đối với ba cảm thọ đây gồm đủ từ-bi-hỷ-xả mà chúng sanh trong mười phương trước nhất mong cầu lạc nên làm cho hữu tình đó biết không làm sao có cái lạc ấy, đó là chúng sanh duyên từ, duy chỉ tưởng pháp mượn thuyết cho chúng sanh gọi là pháp duyên từ. Lại đối với vạn pháp lìa phân biệt tưởng là vô duyên từ. Với người thọ khổ muốn nhổ sạch khổ nên phải có chúng sanh duyên bi, với người thọ vui nên vui với cái vui ấy là chúng sanh duyên hỉ. Với người không khổ không vui khởi tâm lìa bỏ tưởng lìa si, với người bị khổ khởi nghĩ lìa sân, với người vui khởi nghĩ lìa tham, bình đẳng v.v… muốn làm họ xa lìa các hoặc nghiệp nên gọi là chúng sanh duyên xả; ngoài ra giống như trên. Trong ba tâm vô lượng: tâm từ chung cho ngoại đạo, tâm bi chung nhị thừa, tâm xả chỉ riêng Bồ Tát có. Trước là ba sự an lạc, sau là một lợi ích, thứ đến phải có tâm biết hổ thẹn. Nếu có ứng tác nhưng không theo, hễ theo thì không ứng tác. Đối việc che giấu xấu ác của mình, mình nên sửa đổi bèn đeo đuổi chẳng bỏ, phải nhìn lại tự thân biết xấu hổ làm điều phi pháp. Kính tôn hiền thánh, quí trọng thiện pháp nên khởi tâm xấu hổ. Ngoài nhìn lại dòng đời xấu hổ với ác danh, khinh miệt, hung tàn, đểu giả, ác gian mà khởi tâm tự thẹn. Kế nên giữ lực vững chãi, ngăn chặn tâm nhiễm chớ lao theo mà bị mê chuyển. Dù gặp thống khổ phải tu hành hẳn thoát khổ, sợ hãi, không làm nao núng mà dũng mãnh kiên trì tánh đức bền chặt. Thứ đến quán thế gian mạng sống nhớp nhơ, chúng sanh bẩn thỉu, phiền não bức bách, kiến giải (chấp) hẹp hòi và kiếp đời chìm nổi lênh đênh bất định để xa lìa và đem lòng thương xót. Thấy việc thành hoại nên nghĩ vô thường, quán trong thân ta sáu ngoại giới kết hợp giả lập thành danh tánh nên không bền chắc. Với người cao niên kỳ lão nên tôn kính hỏi han xem như bậc cha mẹ; cả hai bên cùng nhau an ủi, luận bàn xem như anh em. Với kẻ thấp kém hèn hạ lấy lời từ ái khuyến khích xem như bạn trai, bạn gái mình. Tiếp bực tôn quí, xử kẻ hèn kém không phân biệt đối xử mà phải bao dung tùy thuận tiếp mời. Như với kẻ quen biết hay không quen, có bịnh, không bịnh, nghèo giàu, sang hèn xem tất cả đều là bằng hữu, không oán thù không hẹp hòi. Giả như có vi phạm trọn không đến nỗi trầm trọng đừng khiến cho trong phút chốc sống trong sự bất an. Lìa bỏ 14 chỗ nhơ bẩn ẩn trong sáu phương, xa lánh bốn thứ ác hữu, thu phục bốn loại thiện hữu, phân chia của bình đẳng; vật của người chẳng nên đoái hoài. Quán xét của báu là vật đổi chác, nếu kẻ không biết không nên chấp.
Kế đến tu bốn pháp nương tựa: 1. Y nghĩa bất y ngữ: mong hiểu rõ nghĩa mà không nô lệ câu văn của nguyên gốc. Khởi tâm yêu kính. 2. Chỉ nương nơi pháp mà không y theo kinh nghĩa rốt ráo nên không khởi niệm ngờ vực 3. Chỉ y trí mà không y thức: là nghĩa quyết định nói chung. Bốn vô ngại giải, cho chí bốn pháp thiền định, 32 tướng tốt cho đến hết thảy diệu trí đều là pháp Bồ Tát cần phải học 4. Y pháp bất y nhơn: đem thân, miệng, ý làm lợi lạc cho chúng sanh trong mọi thời tâm luôn hoan hỷ không đổi thay, không làm tổn hại; chỉ thấy công đức chân thật thanh tịnh, thiện tâm quyết định không sợ hãi, khiếp đãm v.v… mà tất cả phải làm cho được hiện thực. Tu phép quán bất tịnh nhẫn đến 37 pháp trợ đạo Bồ Đề; Bồ Tát tuy tu riêng không như nhị thừa mà không chứng đắc như kinh nói. Thứ đến phải phát nguyện, phát một nguyện bao hàm tất cả nguyện, có nghĩa là hàm nơi chánh pháp, lại có 3 nguyện: 1. đời đời sanh ra được gặp chánh pháp 2. Tâm không che giấu vì chúng sanh thuyết pháp 3. Bỏ thân mạng, của cải để hộ trì chánh pháp. Lại còn có bốn nguyện: 1) Người chưa thoát khổ mau thoát khổ 2) Người chưa được an lạc chóng được an 3) Người chưa phát tâm dứt ác tu thiện liền phát tâm 4) Người chưa thành Phật sớm được thành Phật. Ngoài ra cũng có 5 điều nguyện: 1. Phát tâm cao thượng nguyện đạt vô thượng Bồ Đề. 2. Nguyện tái sanh: nguyện sanh vào cõi thiện để được lợi lạc cho mình và người 3. Nguyện tu thiện nghiệp: nguyện nghĩ chân chánh chọn pháp tu các thiện nghiệp 4. Nguyện đúng: nguyện thấu tỏ hết thảy công đức của chư Bồ Tát hoặc chung hoặc riêng nguyện đúng sở hữu (những gì do ta chăm sóc). 5. Đại nguyện: trong đây còn có 10 điểm khác nhau: nguyện phải được cúng dường đồ cao trọng đến chư Phật, nguyện hộ trì chánh pháp và góp phần truyền bá không để bị gián đoạn, nguyện được như chư Phật tám tướng hiện ra đời(25), nguyện tu hết thảy hạnh Bồ Tát, nguyện giáo hóa hết thảy chúng sanh thuần thục, nguyện ở các thế giới đều có Phật thị hiện, nguyện tịnh tu tất cả Phật tuệ, nguyện cùng chư Bồ Tát hướng đến Đại Thừa, nguyện quyết tu hành không lui sụt, nguyện mau chứng Vô Thượng Bồ Đề; muốn làm cho sự tu tập đạt kết quả rộng sâu nên tu mỗi một hạnh đều phát nguyện này. Như đã nêu trên tất cả hạnh nguyện 40 tâm đều dung thông trong sự tu tập rất rành rõ. Có vị tu riêng biệt lúc đầu mới phát tâm nương mười học pháp, sau cúng dường chư Phật, tán thán chư Bồ Tát, tâm hộ trì chúng sanh, thân cận người hiền đức, ca ngợi tâm không lui sụt, tập tu công đức như Phật, nguyện sanh đời gặp Phật, tu thiền định, lìa bỏ sanh tử, vì khổ quy y(26). Lại còn phải tu thập lực(27), ngoài thứ lớp như đây còn cả 20 pháp riêng khác để tu tập, như trong kinh có đề cập. Song các thứ vị tu đây phần nhiều tu tán hạnh, một số ít cũng tu định vị điều phục tâm, để nhập gia hạnh vị. Trong các pháp phương tiện trên, truớc tu ba môn tam ma địa (thiền định) nghĩa là hữu chẳng phải hữu, có là không, không là có của danh nghĩa. Ta và cái của ta là phi hữu, ở trong sanh tử vọng chấp chấp đó gọi hữu là điều trái ngược. Tu thiền định vô nguyện nơi Niết Bàn viên thành chánh nguyện vô vi an lạc, tu vô tướng tam ma địa (samadhi) nơi ngã, cái thuộc ta, tánh tùy thuộc chẳng phải hữu mà đó là vô nguyện, vô vô nguyện nên tu tam ma địa không. Song đây nếu chỉ nói không, vô nguyện dung thông tới hữu vô lậu(28) nơi pháp thiền định tam huệ. Pháp tam ma địa thông với hữu vô lậu duy chỉ tu không tán loạn. Cho rằng giải thoát môn chỉ là vô lậu cũng phải tu không tán loạn. Ở phẩm vị này chỗ tu chuẩn phải hoàn tất, kế tu bốn pháp ấn (ốt tha nam) là muốn làm cho chúng sanh được thanh tịnh giải thoát. Bốn pháp ốt tha nam là: 1. Quán chư hành đều vô thường, có sanh ắt phải có diệt 2. Quán vô thường đều là khổ, và đều vô cùng bức ngặt 3. Quán tánh Niết Bàn vắng lặng, để lìa các sự khổ vây buộc 4. Quán các pháp vô ngã, không có chủ tể nên cần thực hành pháp phương tiện. Kế đến ở gia hạnh có noãn, đảnh, 2 vị tu bốn pháp tầm tư, tới nhẫn vị, thế đệ nhứt tu bốn như thật trí, tức là vô tướng, vô ngã, thuận tu năm tâm vô lượng(29) khởi hạnh lợi tha, vì lợi lạc chúng sanh. Trước quán 64 loại hữu tình y xứ thọ sanh, kế tiếp quán 10 phương thế giới khác nhau, chúng sanh tại mỗi nơi có nhiễm tịnh đủ cả. Và nữa quán các thiện pháp nhiều sai biệt mà trong đó chúng sanh kham chịu nỗ lực tu tập để giải thoát mọi sự khổ. Cũng quán 55 loại để điều phục sự khác biệt mà quan trọng do pháp phương tiện khéo khiến chúng sanh được giải thoát. Lại cũng quán pháp phương tiện tùy thích ứng để điều phục, ở gia hạnh vị tu hai pháp lợi: ở sơ địa dùng pháp vô lậu quán chiếu đạt lý chân gọi là thấy chân tướng, không thiếu hạnh tán tu. Như lối đi tắt nên biết cách thức ra sao, từ sau vị này nơi thập địa phải tu mười thắng hạnh, dứt 10 trọng chướng, chứng 10 chân như. Mười thắng hạnh gồm 6 pháp lục độ: bố thí, trì giới v.v… thêm vào phương tiện, nguyện, lực, trí độ, hết thảy diệu hạnh đều bao hàm trong đó. Pháp phương tiện thiện xảo gồm 12 loại: tâm biết thương tưởng, biết rõ chư hành vô thường, vui với diệu trí Phật, vui nơi sanh tử không nhiễm luân hồi, tinh tấn như chữa lửa, sáu cách này là ở trong khiến dùng một thiện căn mà đạt kết quả rất lớn, dùng lực ít nhiếp phục đại căn lành. Kẻ ghét thánh giáo khiến dứt trừ tức bực, kẻ đang trong thứ vị tu làm cho họ hướng nhập, người được hướng nhập làm cho họ thuần thục, kẻ đã thuần thục khiến họ được giải thoát, đây là sáu cách ở ngoài. Mười hai pháp trên gom chung thành hai: 1. Hồi hướng 2. Bạt tế (giúp trừ hết khổ). Nguyện có năm đây nói chung phân thành hai: 1. cầu Bồ Đề 2. thực hành lợi tha. Thập lực nêu chung bao hàm hai pháp: 1. Tư trạch (nghĩ chọn pháp tu) 2. tu tập trí, thông suốt các pháp đạt trí sáng suốt (tịnh trí). Trong tịnh trí có phân hai: 1. thọ pháp an lạc 2. thành thục chúng sanh, như trên nói bố thí v.v… các hạnh; chỗ tu hàng thập địa còn vượt xa hơn thế nữa, nghĩa là mong thân thể và các cơ phận toàn vẹn để được tâm vô nhiễm, nhưng cũng còn tùy ước muốn của hành giả. Nếu mong cầu quá dù đem trăm nghìn thân mạng bố thí cũng không thỏa mãn kẻ xin. Tâm bố thí nếu thanh tịnh có chúng sanh tới xin từng phần cơ thể nên thể hiện lợi lạc thuận cho. Cho dù gặp chúng ma quấy phá lung lạc hay kẻ si cuồng nhiễu loạn chọc tức cũng không nên phản ứng. Nếu kẻ hám thực nhai nuốt mạng chúng sanh cũng nên cho họ ngấu nghiến mà bố thí cho xong. Tất cả niệm nghĩ ân nhân thân thuộc chưa trả, dù hiểu rõ như thế; người mong muốn hung hăng tệ ác muốn vợ con tôi tớ đem làm nô lệ thảy đều không cho; trái lại những việc nêu trên nên thực hiện ban ân bố thí. Thà phạm tội đọa địa ngục quyết không làm trái nghịch thiện tâm. Xét nghĩ suy tư việc gì phi pháp bất thiện nên thống thiết hổ trẽn thương tâm đoạn dứt. Phán đoán xem bạo ác tìm cách phá trừ dứt. Phi pháp chừa bỏ, trộm cắp đoạt của người tùy trường hợp hoàn lại. Những gì không thuộc về mình mà đang tâm mong chiếm hữu cho được không phải là người phạm hạnh, nên tìm cách ban cho để thiện niệm tăng trưởng. Người xuất gia hành Bồ Tát hạnh nên hành như thế. Để trừ sạch nạn dối trá làm xa lánh bạn ác, nói lời ly gián càng che giấu đường chánh, bày lời thô ác dẫn tới cơ hội nói lời tạp nhơ. Nhờ tránh đó bèn sanh vô lượng công đức, hoặc hiện lực thần thông thấy chỗ đáng sợ trong loài ác thú làm cho họ thấy để từ bỏ hẳn tâm bất thiện, xấu ác. Nếu người không tin hỏi chẳng đáp, thấy tướng hiện thần thông làm cho sợ không tin, nên làm việc lợi hành để đạt được lợi ích. Như gặp khổ bức bách không nghĩ gì khác hơn là nên kiên nhẫn quán xét thấu đáo, mạnh dạn không mệt mỏi để có thể trụ trong kham nhẫn tới cùng. Nghĩ vượt qua 10 lực, chủng tánh, đẳng trì khi chết không bỏ lìa mà sanh lại cõi dục để tiếp tục tu hành thắng nghĩa, bình đẳng viên thành quả chánh giác. Do vậy, nên biết rằng các pháp vô ngã, đều theo phương tiện, các cảnh giới không ngăn ngại. Đối với công việc làm hoặc hiện thật hoặc ẩn do công đức của mình làm cho người đồng sự nhưng không hiển lộ; hay làm cho người sợ sệt sanh bực tức, đó không phải đồng sự mà tự khoa trương. Như thế việc thiện do tâm động niệm thể hiện trong đồng sự, nếu thái độ cẩu thả (phóng dật) cả hai đều sai. Trong pháp cúng dường cúng chư Phật bình đẳng nên đầy đủ trân báu, hoặc dùng thần thông hóa hiện vô số châu báu cho đến việc lễ bái, trì tụng, tán dương mười phương chư Phật là chân thật cúng dường. Tu trong vô số kiếp được bình đẳng trong loài hữu tình, rõ pháp tục – chân nên quyết lòng tu tập được tâm bi mẫn vô lượng cũng gọi là lòng đại bi. Gặp vô vàn các khổ vi tế cần phải tu tập lâu dài phát tâm dũng mãnh mới thật được thanh tịnh. Lúc dụng công tu tập như thế nên được tất cả bi tâm của Bồ Tát, được ý che chở tịnh lạc, nên đối với chúng sanh có ân đức sâu dày rất mực yêu thương không ngăn trở nên thay chúng nhẫn thọ. Thanh Văn đạt được cứu cánh Bồ Đề vẫn còn bị che tâm dày đặc, không như Bồ Tát thể hiện bi tâm trước nhất. Do đây việc huân tu trong ngoài không thiếu sót nên chẳng rời bỏ thậm chí diệu trí cũng không thể vào. Bồ Tát đạt Bồ Đề do tâm bi lập nên nên trong sanh tử kham nhẫn chịu mọi sự khổ bức. Lại trong thập địa mỗi địa tu riêng biệt, nghĩa là đầu tiên tu bố thí cho đến thứ mười có phép thần thông. Trong thập địa tùy theo sự thích ứng đều bao hàm thập hạnh, duy nói thập độ không tăng giảm như bài kệ rằng:
Ngăn phú quí cõi lành
Chẳng rời bỏ hữu tình
Với thất đức giảm tăng
Giải thoát hướng tới thẳng
Bố thí việc thiện gắng
Liên tục không cách ngăn
Tạo thiện quyết định rằng
Thọ dụng pháp tựu thành
Mười loại ngăn chướng nhờ tu thập độ, thập địa đoạn dứt trừ vô minh; cũng có 10 chướng nữa là dị sanh tánh cho chí các pháp chưa tự tại còn bị ngăn chướng. Mười chân như gồm có: 1- Biến hành do đó được tự tha bình đẳng 2- Tối thắng hơn tu cùng hạnh xuất ly 3- Thắng lưu: cầu pháp không tiếc thân mạng 4- Không nhiếp thọ nhẫn đến ái cũng đều diệt hết 5- không khác loại, nhờ đây đạt 10 ý lạc, bình đẳng, tịnh tâm 6- Không nhiễm tịnh: rõ biết pháp duyên khởi không nhiễm không tịnh 7- Loại loại không khác: biết pháp vô tướng hợp khế kinh so với mọi tướng các pháp. 8- Tướng làm chỗ nương tự tại, do đây đạt viên mãn chứng vô sanh pháp nhẫn, không còn thấy có một pháp tăng giảm, nhiễm tịnh 9- Trí là chỗ nương tự tại: thành tựu đạt trí hiểu biết vô ngại 10- Nghiệp làm chỗ nương an ổn (tự tại) do tâm ưa thích khiến làm việc lợi lạc nên chư Bồ Tát phải dùng bốn tướng này tu trước các hạnh. Bốn tướng đó là: 1) Tu thiện: quyết định luôn luôn chắc chắn tu tập không gây tội 2) Phương tiện: làm nhiều người được lợi lạc, giữ đúng giới luật đã thọ nên thành tựu hợp căn cơ thuyết pháp. 3) Làm lợi ích: có thể đem lợi lạc cho người theo từng trường hợp chung hay riêng 4) Hồi hướng: ba pháp trên tích chứa từ đời trước tới đời này gặp được thiện liền bám chặt để thành một vị tín tâm thanh tịnh, hồi hướng Bồ Đề mà không do dư báo đời trước. Nên đem bảy tướng ấy thương tưởng chúng sanh khiến không còn sợ hãi để khuyến khích học chân lý không biết mệt mỏi. Không đợi người cầu thỉnh, cũng không sợ viễn vông, gặp hại không xa lánh, bình đẳng vô song, làm được như thế xứng đáng gọi là học pháp. Ba đời chư Bồ Tát khuyến tu các pháp này nên hiện tại từng chứng vô thượng Bồ Đề cũng không tăng giảm. Những người xuất gia xa lìa thân quyến, từ bỏ sự nghiệp, thường tu phạm hạnh cho tới lúc hoàn toàn giác ngộ viên mãn. Trụ nơi tịnh giới nói năng không làm mất niềm tin của người Phật tử tại gia không giới đức; thật là cao quí thù thắng biết bao!
***
Chú Thích:
(1) Ngũ uẩn, tứ đại: ngũ uẩn là năm sự tập họp hay chứa nhóm thành một hợp thể thân và tâm thức con người gồm: sắc tức hình sắc; thọ là cảm thọ (vui, buồn, sướng khổ…), tưởng là suy tưởng, nghĩ ngợi, hành là hành động, thức là phân biệt nhận thức. Bốn uẩn sau (thọ, tưởng, hành, thức) thuộc tâm thức hay tâm lý hợp với sắc thân – vật thể hay sinh lý. Tứ đại là bốn yếu tố vật lý phổ quát tạo thành thân thể gồm có: đất, nước, gió, lửa (đại có nghĩa cùng khắp, phổ quát)
(2) Cửu khiếu: chín lỗ bài tiết từ thân thể con người như: hai con mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, lỗ miệng, đường tiểu và đại tiện.
(3) 36 món bất tịnh nơi cơ thể gồm: tóc, lông, răng, móng, ghèn, nước mắt, nước mũi, gàu, mồ hôi, đại tiện, tiểu tiện, da dày, da mỏng, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ chài, mỡ nước, óc, màng, lá lách, thận, tim, gan, mật, phổi, ruột già, ruột non, dạ dày, đàm đỏ, đàm trắng, sinh tạng, thục tạng, thường bài tiết ra chín lỗ.
(4) Nhị trí: hai trí của thế tục trí và vô sanh trí (xuất thế trí)
(5) Bảy món lậu (phiền não) 1) Kiến lậu: mắt trông thấy sắc không rõ sắc thật tánh là bình đẳng cứ đắm vào phần sắc tướng sanh tâm phân biệt, nhận cảnh tốt xấu mà sanh tâm yêu ghét. 2) Chư căn lậu: không chỉ nhãn căn mà các căn khác cũng vậy 3) Vọng lậu: quên điều lành, dong ruổi theo điều ác 4) Ác lậu: đối với nghịch cảnh sanh tâm ghét bỏ 5) Thân cận lậu: không tuân lời thầy dạy, gần gũi bạn ác. 6) Ái lậu: gặp cảnh thuận liền ham mê mải miết không rời 7) Nghi sử: sự ngờ vực sai sử (bó buộc).
(6) Bồ tát Vô Trước: (tiếng Phạn là Ashangha) là anh của Ngài Thế Thân hay Thiên Thân Bồ Tát đều là Tổ của Tông Pháp Tướng. Cả hai đều chuyên sâu về Pháp tướng Duy Thức qua các bộ luận Du Già và Duy Thức còn truyền tới nay.
(7) Bốn phép đẳng trì: biệt danh của Định dịch từ chữ Samadhi, chỉ cái tâm trụ một cảnh, bình đẳng duy trì. Bốn phép định là: 1) Không đẳng trì 2) Vô tướng đẳng trì 3) Vô nguyện đẳng trì 4) Tâm chẳng tán loạn. Đẳng trì là định, chánh định.
(8) Hậu đắc trí: cái trí sâu kín hợp chân như nên còn gọi là Vô phân biệt trí, hay Căn bản trí; cũng gọi là tục trí, như lượng trí, vì đó là trí sở đắc sau căn bản trí.
(9) Tám tướng: (hay tám tướng thành đạo): các kinh, luận, thuyết minh không giống nhau. Theo Đại Thừa Khởi Tín luận thì 8 tướng đó là: 1) từ cõi trời Đâu Suất giáng sanh 2) Nhập thai 3) Trụ thai 4) Xuất thai 5) Xuất gia 6) Thành đạo 7) Chuyển pháp luân 8) Nhập Niết Bàn. Tứ giáo Nghi q.4. Ghi tám tướng thành đạo gồm: 1) Từ cõi trời Đâu Suất mà giáng hạ, 2) Thác thai 3) Xuất sanh 4) Xuất gia 5) Hàng ma 6) Thành đạo 7) Chuyển pháp luân 8) Nhập Niết Bàn.
(10) Bốn chướng là bốn thứ ngăn trở con đường tu đạo Bồ Đề. Đó là 1) hoặc chướng, tức tư hoặc tham dục, sân nhuế, ngu si v.v… 2) nghiệp chướng: ác nghiệp do thân, khẩu, ý tạo ra 3) báo chướng: tức là khổ báo ở ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh 4) Kiến chướng là những tà kiến.
(11) Bảy chúng thuộc hàng đệ tử của Phật gồm 5 chúng xuất gia là: sa di, sa di ni, thức xoa ma na, tỳ kheo, tỳ kheo ni và hai chúng tại gia là ưu bà tắc và ưu bà di tức nam, nữ Phật tử.
(12) Thập trụ: 10 trụ tâm (theo dòng nghịch lưu): 1) tin sâu nhân quả 2) tâm rất xấu hổ 3) tâm rất sợ sệt 4) phát lồ sám hối 5) tâm đoạn dứt tương tục 6) phát Bồ Đề Tâm 7) đoạn ác tu thiện 8) giữ gìn chánh pháp 9) Niệm nghĩ mười phương chư Phật 10) Quán tội tánh không.
(13) Tượng pháp: giáo pháp Phật chia ra thành 3 thời kỳ: Chánh pháp; Tượng pháp và Mạt pháp. Tượng pháp sau Phật diệt độ 500 năm. Nay là thời mạt pháp.
(14) Năm thứ che tâm (ngũ cái) làm cho chẳng sanh thiện pháp. Đó là: 1) tham dục: chấp chặt năm dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) mà che lấp tâm 2) sân nhuế: giận dữ đối với cảnh trái tình làm che mất tâm tánh 3) thùy miên: tâm mê muội, thân xác nặng nề chẳng xử dụng nổi che lấp tâm tánh 4) trạo hối: tâm tháo động lao chao, lo lắng phiền não về những việc đã làm, gọi là hối, để đến mức che lấp tâm tánh. 5) nghi cái: đối với việc gì cũng mờ ám, không biện biệt được chân ngụy, tâm do dự không quyết đoán.
(15) Ba Khổ: 1) Khổ khổ: cái khổ này chưa dứt tiếp tục theo cái khổ khác. 2) Hoại khổ: hư hao tan hoại gây nên khổ 3) Hành khổ: hành nghiệp tạo nên nhiều điều khổ não. Những nỗi khổ này cùng với khổ của sanh, già, bịnh, chết, thương yêu nhau phải xa lìa, cầu không được toại nguyện và thân ngũ ấm mất quân bình gây nên khổ đau thống thiết.
(16) Đại kiếp: chỉ một chu kỳ của thành, trụ, hoại, không gồm 4 trung kiếp hình thành. Một tiểu kiếp là 16 triệu 800 ngàn năm. (16,800,000 x 4 x 4) thành một trung kiếp. Như vậy một đại kiếp là 268,800,000 năm.
(17) Ba huệ: gồm có văn huệ, tư huệ, và tu huệ. Ba môn trí huệ này cũng gọi là ba môn vô lậu học, nhân tu tập mà đạt được.
(18) Ngũ minh: 5 môn học quan trọng trong Phật giáo. Đó là: 1) Công xảo minh: về kỹ thuật các ngành v.v… 2) Thanh minh: ngành truyền thông vệ tinh v.v… 3) Nhân minh: luận lý học – khoa học về lý luận 4) Y phương minh: ngành y học, bệnh lý, trị liệu… 5) Nội minh: chứng ngộ nội tâm hoặc khai ngộ. Thiền quán để quán chiếu trí tuệ.
(19) Tam tụ tịnh giới: ba điểm hội tụ giới đức thanh tịnh. Đó là: 1) Nhiếp luật nghi giới: giữ gìn giới luật một cách nghiêm minh không sai phạm 2) Nhiếp thiện pháp giới: tinh tấn làm tất cả điều thiện, dù việc nhỏ đến đâu. 3) Nhiêu ích hữu tình giới: làm lợi lạc mọi loài chúng sanh mà không phân biệt đối xử.
(20) Diệu giác: tự mình giác ngộ và giác ngộ cho người tròn đầy không thể nghĩ bàn, tức là Phật quả vô thượng chánh giác. Hàng Nhị thừa chỉ dừng ở tự giác và giác tha, nhưng chưa tròn đầy trọn vẹn. Chỉ có Phật mới đạt được toàn giác nên gọi là diệu giác.
(21) Bốn tịnh ngữ: bốn loại phát ngôn thanh tịnh là không nói dối hay đặt điều, không nói lời đường mật ngọt ngào trau chuốt, không nói lưỡi đôi chiều và không nói độc ác, mắng chửi…
(22) Tám thánh ngữ: 8 lời nói chánh trực đúng đắn là 1. không trông thấy nói là không trông thấy 2. không nghe nói là không nghe 3. không nhận ra nói là không nhận ra 4. không hiểu biết nói là không hiểu biết 5. đối với các sự việc nhìn thấy nói là nhìn thấy 6. nghe thấy nói là nghe thấy 7. nhận ra nói là nhận ra 8. biết được nói là biết được.
(23) Tám điều trói buộc (bát triền): 1. Vô tàm: không cảm thấy xấu hổ về tội lỗi đã gây ra 2. Vô quí: trước người không thấy thẹn về lỗi quấy đã phạm 3. Tật (ghen ghét): tâm không vui đối với những sự tốt lành thịnh vượng của người khác 4. Xan: keo kiệt bủn xỉn 5. Hối: hối tiếc về những việc thiện đã làm 6. Miên: khiến tâm tàm hối 7. Trạo cử: làm cho tâm chao động chẳng yên 8. Hôn trầm: tâm u tối nặng nề.
(24) Mười ác nghiệp do thân, miệng, ý tạo ra như: – thân 3 nghiệp: sát sanh, trộm cắp, tà dâm – miệng 4 nghiệp: nói dối, nói lời điêu ngoa đểu cáng, nói lưỡi 2 chiều, nói lời độc địa thâm hiểm. – ý 3 nghiệp: tham, sân, si.
(25) Tám tướng thành Phật: xem chú thích 9 ở trước.
(26) Quy y: hướng về nương tựa ba nơi an toàn: hướng về nương tựa Phật, hướng về nương tựa Pháp, hướng về nương tựa Tăng; với sự tha thiết tâm thành chắc hẳn không đọa lạc vào 3 đường xấu ác.
(27) Thập lực: 10 trí lực của Như Lai, đó là: 1) Tri giác xứ phi xứ trí lực: trí biết sự vật nào đạo lý, phi đạo lý; 2) Tri tam thế nghiệp báo trí lực: biết rõ nhân quả nghiệp báo ba đời của chúng sanh; 3) Tri chư Thiền giải thoát tam thế trí lực: biết các thiền định, tám giải thoát, ba tam muội; 4) Tri chúng sanh tâm tính trí lực: trí biết hết mọi tâm tánh chúng sanh 5) Tri chủng chủng giải trí lực: biết hết mọi hiểu biết của tất cả chúng sanh; 6) Tri chủng chủng giới trí lực: biết hết và đúng như thực các cảnh giới khác nhau của chúng sanh. 7) Tri nhứt thiết sở đạo trí lực: biết rõ các cõi mà người tu hành sẽ đạt tới như cõi trời, cõi người, Niết Bàn v.v… 8) Tri thiên nhãn vô ngại trí lực: vận dụng thiên nhãn nhìn thấy sanh tử và nghiệp thiện ác của chúng sanh mà không chút chi ngăn ngại 9) Tri túc mạng vô lậu trí lực: biết rõ đời trước của chúng sanh, lại còn biết rõ vô lậu Niết Bàn 10) Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực: có thể biết rõ được như thực đối với mọi tâm hư vọng hoặc sẽ vĩnh viễn đoạn diệt chẳng sinh.
(28) Hữu lậu, vô lậu: hữu lậu tức là còn phiền não câu thúc và bị trói buộc; vô lậu: là sạch phiền não, không còn nhiễm ô mà hoàn toàn thanh tịnh.
(29) Bốn tâm vô lượng là bốn tâm rộng lớn: từ, bi, hỷ, xả 1) Tâm từ ban vui: 2) Tâm bi cứu khổ 3) Hỷ là tâm vui mừng khi thấy người khác khỏi khổ được vui 4) Xả: tâm hoan hỷ không còn chấp trước. Bốn tâm này dựa vào bốn thiền định tu hành mà thành tựu làm lợi lạc tất cả chúng sanh nên gọi là bình đẳng tâm.