1
2

QUYỂN 2

Biết chỗ học pháp như thế là hợp với sự tu tập; tướng gì thành tựu tu học? Gieo trồng các hạnh tu đầy đủ 12 pháp trụ, thâu nhiếp cùng chư Bồ Tát khắp cùng; sau mới đạt được vô thượng Bồ Đề ở pháp trụ thứ mười ba viên thành Phật quả, như bài kệ:

Chủng tánh, thắng giải hạnh

Thuần vui giới thực hành

Ba huệ tâm chí thành

Vô tướng có dụng công

Vô tướng không công dụng

Với vô ngại giải rành

Bồ Tát trụ cao thanh

Tối thượng Phật xưng danh

12 trụ tâm là: 1. Chủng tánh trụ: do chưa phát hướng đến Vô Thượng Bồ Đề, với các trụ khác chỉ có nhân chuyển, tướng như trên đã nói 2. Thắng giải hạnh trụ: từ mới phát tâm đến sơ địa, do tướng tu trước trụ ở đó, tuy được tịnh vì đã định nên cần phải tu chánh hạnh. Khởi huệ phân biệt khuyến tấn tu tập cần khổ hạnh chậm thông khích lệ giảng pháp; tùy lực có thể đạt thành chánh giác, lợi lạc hữu tình. Đối với các hành nói trên hầu chưa học rộng nên các tướng chưa thành, tâm lạc chưa thanh tịnh 3. Cực hoan hỷ trụ: tức là sơ địa, như phẩm trước nói rõ với 10 đại nguyện được viên mãn, từ đó chuyển thành ý lạc thù thắng, qua khỏi dị sanh địa đạt đến ly sanh tánh, sanh giòng giống Phật thành chân Phật tử làm hưng long Phật pháp được bình đẳng. Dứt bỏ các mối tranh luận có phương hại đạt được pháp tịnh chân thật. Biết ta gần tới tuệ giác chứng lý nhị không thành hai diệu trí, sanh tâm đại hoan hỷ thực hành 10 pháp tịnh trụ nghĩa là tín, từ bi, huệ xả, không mỏi mệt, biết các luận, hiểu thế gian, biết hổ trẽn, lực kiên cố, thọ trì, cúng dường chư Phật, nơi chín pháp trụ chuyên tu tinh tấn cầu đạt thành. Phần nhiều làm vua chuyển luân thánh vương (30) thống trị châu này chế phục xan tham nhẫn đến muốn thành bậc tối tôn, để làm nơi nương tựa cho chúng sanh được nhiều phước lợi; hoặc ưa tinh tấn tín tâm xuất gia tu trong chớp nhoáng ngộ hàng trăm pháp Tam ma địa (Samadhi: Thiền). Dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy các Phật quốc và hằng trăm đức Như Lai hóa hiện đi ở đều hiểu rõ. Thần lực vận đến hàng trăm cõi Phật và thân cũng có khả năng phóng hào quang sáng rực cùng khắp khiến người trông thấy, làm nhiều điều lợi lạc cho vô số chúng sanh. Như muốn lưu thân tồn tại hằng trăm kiếp và chứng kiến đời trước đời sau những việc đã diễn ra trong cả trăm kiếp. Ngộ hằng trăm pháp, hóa hiện nhiều thân đều có khả năng hiện trăm vị Bồ Tát quyến thuộc. 4. Tăng thượng giới trụ: là ở đệ nhị địa, do 10 ý lạc thanh tịnh nơi hoan hỷ địa trên mới vào đến vị này, tánh giới đầy đủ. Tới đây không còn phạm giới, tạo các ác nghiệp nữa, ít tà chấp, huống người đạt phẩm trung phẩm thượng hay biết rõ nhân quả nghiệp tạo tác thế nào. Tự hành và cũng khuyên người hành thiện nghiệp, nơi chúng sanh khổ đặc biệt thương giúp nghĩ tới tận tình, thấy rõ thiện căn chư Phật thanh tịnh. Phần nhiều làm vua chuyển luân cai quản bốn châu (31) thiên hạ; ngưng là phạm giới, bao nhiêu oai lực giảm 10 lần hơn trên. 5. Tăng thượng tâm trụ là đệ tam địa, do đệ nhị địa trước hiểu rõ thông đạt; lại nhờ 10 tâm thanh tịnh mà vào được địa này nên có thể hiểu được các hạnh chúng sanh đạt đại giác, cũng chính là tìm cầu thoát khổ; phương tiện trừ phiền não buộc không còn chướng ngại nữa. Pháp giới thanh tịnh không còn tuệ phân biệt, thấy được điểm này là đạt được tam ma địa (thiền định). Đối với Bồ Tát địa tinh tấn đa văn không tiếc thân mạng, xả bỏ những gì yêu đắm. Không có sư trưởng (Thầy dạy), không mong phụng sự mà lời khuyên bảo đều nguyện vâng làm, thân nguyện chịu khổ. Chỉ được nghe một bài kệ còn hơn của báu đầy trong cõi đại thiên(32). Nghe một câu Phật Pháp có thể dẫn đến hành hạnh Bồ Tát chứng thành Phật quả, hơn cả các trời Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế v.v… Giả sử có kẻ bảo rằng, ta có một câu pháp có thể tịnh tu hạnh Bồ Tát thành bậc chánh giác, nếu nhà ngươi nhảy vào được hầm lửa đương cháy bừng ta sẽ vì ngươi mà thuyết. Bồ Tát hoan hỷ phấn khởi nói làm được, chính đó là hầm lửa trong 3000 cõi vì muốn nghe pháp nên ta từ trời Phạm Thiên mà nhảy vào huống gì là hầm lửa nhỏ. Vì cầu Phật pháp lâu dài trong đại địa ngục mà còn ra khỏi, huống là trong các khổ không đáng kể khác. Nghe pháp theo đó nên thực hành pháp có thể trong đời mà được hết vắng lặng này đến thiền định khác; trở lại xả bỏ tất cả tùy nghiệp mà đầu thai được làm trời Đế Thích, Thiên Vương giáo hóa làm kẻ khác đoạn tham dục, oai đức gấp trăm nghìn lần hơn trước. 6 giác phần tương ưng, tăng thượng huệ trụ là đệ tứ địa, do trước cầu đa văn đạt 10 pháp nên hiển nhiên vào được địa này mà được 10 trí thành thục. Tu các pháp trợ đạo Bồ Đề(33) dứt kiến chấp tà và mọi chấp trước. Lìa bỏ nghiệp hủy hoại (ác nghiệp), tu tập thiện nghiệp, tâm tánh điều hòa đạt được công đức viên mãn, an trú tầm cầu tu tập đạo nghiệp giải thoát. Tâm an lạc viên mãn hơn hẳn tánh giới nên thánh giáo, giặc oán không lay chuyển lung lạc được mà làm vua trời Tô Dạ Ma trừ dứt kiến chấp tà, oai đức gấp vô số lần hơn trước. 7. Các đế tương ưng tăng thượng huệ trụ là đệ ngũ địa (địa thứ năm), do 10 môn bình đẳng ý lạc thanh tịnh trên mà được nhập địa này. Lấy 10 pháp phương tiện quán xét mọi sự thật (chân lý) chính là bỏ các hành, thương tưởng chúng sanh, giữ gìn tư lương, cần tu chánh hạnh: niệm, huệ, v.v… đều được tăng trưởng, dứt bỏ hẳn mọi tác ý khác. Dùng các pháp phương tiện hoàn thiện chúng sanh, mọi công trình mỹ thuật đều được thực hiện tốt để làm được sứ trời, vua trời hóa hiện bỏ các tà pháp trong ngoài. 8. Duyên khởi tương ưng tăng thượng huệ trụ là đệ lục địa (địa thứ sáu), do tu tập 10 pháp bình đẳng tánh trên mà nhập địa này. Ngộ các pháp duyên khởi đạt đến giải thoát, mọi tư tưởng tà không thể hoạt động, vì lợi lạc chúng sanh mà ở trong sanh tử. Trí, Bi thành tựu không bị chướng ngăn; tuệ giác siêu việt rốt ráo hiện ra trước mắt, ngộ được nhiều pháp thiền định tam ma địa cao tột. Tâm hoan hỷ chẳng hư hoại, ngoài ra không chi xâm lấn được cả để làm trời Diệu Hóa, Thiên Vương hiện ra trừ dứt tâm tăng thượng mạn, oai đức gấp vô số trăm nghìn lần hơn trước. 9. Hữu công dụng vô tướng trụ là đệ thất địa, do 10 pháp phương tiện khéo trên dẫn lối người tu thắng hạnh mà được nhập địa này. Tu tập đạt tới cảnh giới Phật vẫn không gián đoạn thiếu khuyết, mỗi mỗi sát na ngộ được thập độ, pháp Bồ Đề phần, tu gia hạnh vị hết thảy được thanh tịnh viên mãn ở địa trước dẫn đến do có nhiễm, trí xảo diệu đủ vượt cả thiền nhị thừa. Niệm niệm có khả năng nhập diệt tận định (34) mà Bồ Tát thể hiện kham nhẫn nghiệp kỳ lạ, được làm vua trời Tha Hóa Tự Tại; có thể thọ pháp, hiện quán phương tiện của nhị thừa, oai đức gấp trăm nghìn vô số lần hơn trước. 10. Vô công dụng vô tướng trụ là đệ bát địa, do trước 10 loại nhập pháp đệ nhứt nghĩa (35) đủ trí nhập địa này. Về trước đã tu bốn như thật trí, nay được thanh tịnh đạt vô sanh nhẫn (36), đoạn dứt bốn tai họa ái sâu dày, mong chư Phật soi sáng dẫn đạo dạy khuyên vô lượng pháp để phát trí tuệ đạt sự nghiệp thần thông, chứng nhập vô số phân thân diệu trí được 10 pháp tự tại, thọ nhiều lợi lạc được làm vua cõi trời Sơ Tịnh Lự thiên, chóng nhập địa này trong khoảnh sát na thứ nhất. Nhờ đủ hai phần phước, trí tất cả oai lực đạt được hơn một lần các địa trước; sát na thứ hai hơn hai lần trước, đến thập địa được tăng gấp nhiều lần viên mãn nói không cùng tận. 11. Vô ngại giải trụ là đệ cữu địa (địa thứ 9) do ở địa thâm sâu trước không sanh tâm hỷ đầy đủ, lại đối với tánh ái lạc mạnh hơn tùy nhập mà khởi trí gia hạnh nói các pháp yếu. Công cuộc thuyết pháp do như thật trí mà thành bậc đại pháp sư đủ trí vô ngại được làm vua cõi trời đệ nhị Tịnh Lự thiên. 12. Tối thượng thành mãn Bồ Tát trụ là đệ thập địa (địa thứ 10), như trên trí vô ngại giải hoàn toàn được thanh tịnh kham chịu làm bậc pháp vương (37) thọ pháp quán đảnh (38) được lìa cấu nhiễm v.v… vô lượng giới hạnh làm những gì Phật đã làm, đạt đủ Phật tướng, hợp thời tỏa ra đến quyến thuộc, phát hào quang rực rỡ làm lợi lạc mọi loài chúng sinh. Với diệu trí làm Phật sự chóng được vô lượng giải thoát đà la ni, thần thông, đại nguyện v.v… vô số công đức được làm vua cõi Sắc Cứu Cánh, Đại Tự Tại thiên. Bồ Tát đạo hoàn thành tư lương cụ bị, từ đám mây lành của Phật nhận được đại mưa pháp mầu nhiệm. Cũng như đám mây lớn xuất hiện mọi người đều biết rưới cơn mưa pháp nước mưa quét sạch bụi dơ làm cây cối nẩy mầm sanh trưởng trổ hoa kết trái. Các địa cũng vậy, ở mỗi địa chỗ đoạn trừ, chỗ tu tập, chỗ đạt công đức không thể kể xiết. Nương mỗi địa mà được viên thành nên phải lập riêng biệt từng địa trụ hạnh thắng giải hướng đến vô tướng, chỗ tu hạn hẹp thấp có khuyết bất định, kế đến sáu địa sau tu đạt vô tướng, chỗ tu sâu rộng hẳn không khuyết. Hoàn thành bốn địa sau là đạt quả vị thanh tịnh viên mãn, chỗ làm đạt vô lượng, hạnh thắng giải(39) trụ thứ sáu tín tâm. Tín sanh tâm bất thoái, không mất thiện căn, trong thập trụ là tâm thứ bảy ở vị bất thối, không theo nhị thừa đến cực hỷ địa chỗ chứng đắc không lui sụt và hoàn toàn không quên sót nữa. Đến vô công dụng vô tướng trụ tu hạnh bất thoái, công cuộc tiến tu mong đạt chủng trí lợi lạc rộng khắp nên còn sót mê lầm làm trở ngại việc tái sanh; do đó nên không nói là đoạn phiền não được. Sanh có năm loại: 1) Trừ tai họa: do nguyện tự tại làm cá lớn giúp nạn đói nghèo, làm đại y vương chữa trị các chứng bịnh, làm người đại thiện xảo khéo giải hòa các tranh chấp, làm đại quốc vương theo đúng pháp liền hết khổ, làm đại thiện thần dứt sạch các tà kiến, làm lửa, làm nước, làm xe, làm thuyền, làm tất cả mọi vật để dứt trừ tai họa. 2) Tùy loài thọ sanh: mong được lực tự tại ở loài bàng sanh trong các ác thú chúng chuyên làm ác nhưng tự không làm, hoặc loài ác thú không làm thiện mà mình tự làm. Như vào quán rượu không uống rượu, vào dâm phòng không phạm giới, vì thấy được cái hại của dục. Vì đó giảng pháp giúp dứt lỗi lầm cho họ. 3) Sanh nhiều thế lực: bẩm chất khi sanh, tuổi thọ, hình vóc, vọng tộc giàu có hơn hẳn mọi người, nhờ đó dứt trừ lỗi lầm khinh mạn (khi dễ) của người khác. 4. Sanh nơi cao trọng (tăng thượng sanh) thọ 10 vương pháp, tự tại dẫn đạo sanh tùy nơi thích ứng. 5) Tối hậu sanh: Chuẩn bị tư lương rất sẵn sàng đầy đủ như Từ Thị (Di Lặc) sanh nhằm nhà Đại Quốc Sư dòng Bà La Môn, Phật Thích Ca sanh vào gia tộc đại quốc vương dòng Sát Đế Lợi mà tu chứng thành chánh giác làm mọi Phật sự. Lại còn lấy bốn tướng thu phục chúng sanh như: 1) Rộng dung tất cả từ sơ phát tâm trụ đã thu nhiếp hết thảy chúng sanh đều là quyến thuộc để tùy lực mà làm lợi lạc. 2) Tăng thượng: nếu là gia chủ phải ý thức ban ân huệ, hiếu dưỡng cha mẹ, vợ con v.v… tùy nghi cung cấp (dưỡng) cho người giúp việc không nên bức ép mà nên nhẫn nại kiên trì. Họ có bịnh phải chăm sóc trị liệu bằng lời an ủi cũng như lo cho chính bản thân, không sanh tâm phân biệt. Nếu là quốc vương không dùng dao gậy khí giới xử trị mà lấy luật pháp giáo hóa, đem của cải làm cho mọi người đều lợi lạc, y bổn thổ đất đai của xứ sở xử dụng mà không xâm lấn của người, xem mọi người như cha, như con. Lời nói phải thành thật không gian dối, khuyến khích mọi người nên bỏ ác và dạy họ làm những việc lành. 3) Nhiếp thủ (nghiêm thủ): bình đẳng không phe phái, không mong cầu danh lợi, không thừa hưởng ân huệ. Đồ chúng – những người đồng nghiệp – không nhiễm lợi lộc riêng, đứng đắn hướng dẫn tu tập, không hạnh tà mà thêm hại đó. 4) Tùy thời: chúng sanh có ba hạng: thượng, trung và hạ, phải biết quyền biến theo thời mới kham nhẫn chịu đựng mà làm công việc thu phục phải được thuần thục. Sau đây là trụ tâm ở đệ thất địa, đó là: 1. Chủng tánh địa 2. Thắng giải hạnh địa 3. Tịnh thắng ý lạc địa. Ba địa này trong ba trụ đầu 4. Hành chánh hạnh địa (là trụ thứ 6) 5. Quyết định địa là trụ thứ 10, rơi nhằm vào quyết định thứ ba. 6. Quyết định hạnh địa là trụ thứ 11 7. Đảo cứu cánh địa là trụ thứ 12 và 13, trong hai vòng nhân quả đều hoàn tất. Như trên đã nói các hạnh Bồ Tát, tuy vô số nhưng không ngoài bốn hạnh: a) Hạnh Ba La Mật Đa gồm 60 độ (thay vì lục độ) b) Bồ Đề phần hạnh gồm có 37 phẩm, bốn pháp tầm, tư và hết thảy diệu hạnh c) Thần thông hạnh gồm 6 phép thần thông d) Thành thục hữu tình hạnh là chỗ điều phục, phương tiện dẫn dắt nhiều vô số như trên đã nói. Như chỗ học xứ, hoặc chỗ học pháp, hoặc tự tu học Bồ Tát Hạnh một cách dõng mãnh như lửa nóng nương tựa tu học trên không thấy có hành tướng đó gọi là hạnh. Thực hành pháp như thế tại sao nói thâm sâu? Vì người tu hạnh thắng giải thuyết diệu lý thâm sâu không thể nghĩ bàn; hàng Nhị Thừa không thể hiểu được, phàm phu lại càng ngơ ngác, nên nói sâu vậy. Như đúng phải nói chân đế vượt khỏi trí, cảnh, ngôn ngữ, luận bàn, không đem ví dụ mà thí dụ được, mầu nhiệm khó biết đầy đủ 3 vô thượng và 7 đại tánh tự thể nó là lợi lạc và vượt hơn hết thảy. Pháp giải thoát như biển cả, diệu bảo, suối ao, không phải đại tuệ giác làm chủ pháp giới bởi không do tướng mà được, chỗ tu học như thế mới là sâu nên cần phải đạt đến. Đây là hết thảy hạnh Bồ Tát thật tướng chân như đều khó có thể ngộ được trọn vẹn, trí tuệ quán chiếu khó thể đạt thành lời dạy, văn tự khó thể nói hết, các pháp vạn hạnh khó thành tựu được, các cảnh giới hữu – vô khó thể thông suốt, lấy huệ làm đầu, ngoài ra tánh hoặc tư đều là tuệ giác nên hết thảy là sâu thẳm. Thế nào là thời? Vì người tu hạnh thắng giải nói: như thế tục tin chắc tu học mong đạt tới không, hoặc nương thắng nghĩa hiểu rõ bản thể pháp là không mà thực hành tuệ giác tu tập dần đạt tới rốt ráo gọi chung là thời. Như đúng phải nói: tuệ giác vô thượng rộng lớn cao sâu, không thể tu nhân mỏng cạn mà chứng đạt được như trên nơi 12 trụ tâm. Nếu tính hết mọi lúc trong ngày đêm trong mỗi một trụ tâm trãi qua vô số trăm nghìn đại kiếp, hoặc hơn số đó mới trọn vẹn viên mãn. Nếu lấy một đại kiếp tính hẳn hơn số lượng tính toán mà gộp chung tu trãi qua ba vô số đại kiếp như vậy mới đạt được viên mãn. Trãi qua vô số đại kiếp thứ nhứt nơi mỗi trụ tu một hạnh nên chứng cực hỷ trụ, qua vô số đại kiếp thứ hai nơi mỗi hạnh tu hết các hạnh, đạt đến vô công dụng tướng trụ, được ý lạc thanh tịnh quyết định dũng mãnh; trãi qua vô số đại kiếp thứ ba trong mọi hạnh tu hết thảy hạnh đạt đến Như Lai vị. Hành giả tới vị này thường luôn tinh tấn chắc hẳn không thể không đạt được vậy. Người dũng mãnh như đôi chân sóng bước hoặc có thể chuyển hóa chúng sanh ở trung kiếp hoặc trong đại kiếp; kẻ quyết định không độ chúng sanh, không trãi qua vô số đại kiếp, nên biết rằng cái nhân quyết định phải tu hành trãi qua ba vô số đại kiếp đầy đủ mới chứng quả Bồ Đề. Năm loại bỉ ngạn (bờ giác) có thể đạt đến, ở đây lấy ý nói phải tu năm tuệ giác trãi qua ba kiếp, hoặc do tâm nguyện thay đổi thời lượng mà công việc đạt đến rốt ráo nêu chung gọi là thời. Như đạt không thời chỉ biết đúng theo trí, người đã có quá trình tu tập biết được những gì còn lại. Hàng Độc Giác căn tánh mẫn lợi mà còn phải tu trãi qua trăm kiếp huống gì người muốn làm Phật không tu nhân nhiều kiếp sao?

Kinh Bát Nhã có câu: “quán chiếu năm uẩn đều không”. Ở đây lời tán nói rõ: do thực hành miên mật trí Bát Nhã (tuệ giác) nên đạt được tuệ nhãn là đạt đến Không gọi là chiếu hay quán chiếu, nghĩa là sắc, thọ, tưởng v.v… các pháp hữu vi của ba đời trong ngoài, thô tế, hơn kém, xa gần tích tụ lại gọi là uẩn (chứa nhóm). Uẩn có năm món gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức song song với lời nói, chỗ chấp xứ, các pháp v.v… Vì người tu hạnh thắng giải nói trước phá năng quán chấp có mới thấy rõ pháp quán Không, nay phá sở chấp (vật được quán sát) hiển lộ pháp quán Không.

Như si mê che mất thắng giải, nơi các uẩn vọng chấp thật có, như người trong giấc mơ thấy cảnh hiện ra trước mắt. Nếu như hiểu đúng sự thật thắng nghĩa hẳn không còn bám chấp, như người tỉnh cơn mơ biết rõ cảnh không thật nên thực hành Bát Nhã soi sáng tánh Không. Như đúng phải nói, dù tu pháp gì cũng phải thực hành Bát Nhã để rõ chân lộ vọng nhờ tuệ quán chiếu KHÔNG, nên ở đây chỉ nói một mặt. Pháp Không nói đây là 3 tánh Không, tức là biến kế chấp (giả lập) bản chất chẳng có tướng nên không (vô) tự tánh, do đó gọi là Không, tánh y tha khởi (tánh tùy thuộc), sắc tợ bọt tụ, thọ như bong bóng nổi, tưởng đồng nháng lửa, hành giống như cây chuối, thức như trò ảo, không giống như chỗ chấp Ta; bản tánh tự sanh nên cũng gọi là Không. Tánh tuyệt đối (viên thành thật) nhân quán chỗ chấp Không là không mới ngộ hoặc không giống như chỗ chấp chân tánh nên đạt chân thắng giải hay cũng gọi là Không. Y cứ sự thật ba tánh là chẳng không, không phải không không, vì để phá chấp Hữu nên ngầm nói Không, Không phải hai tánh sau Không mà gọi là Không. Nói hết thảy pháp Không là mật ý của Phật, đối với Có và Không nói chung là không như lời Thế Tôn dạy:

Thắng nghĩa không tự tánh tướng sanh

Do vậy như Ta đã chỉ rành

Nếu không hiểu mật ý Phật khuyên

Phá hoại chánh đạo chẳng thể thành.

Lại cái Không đây tức là theo lý chân như tự tánh, nó chẳng phải không có; nhờ chỗ không hiển bày, chỗ chấp cho là Có nên tạm gọi là Không. Người ngu không hiểu chấp 5 uẩn thật có nên khởi tướng phân biệt. Giờ tìm về bản thể chân như, sự lìa lý không bỏ tánh, đó đây như trong kinh cho rằng, tất cả chúng sanh đều có Như Lai tạng, hết thảy các pháp đều là Chân Như. Nói về hữu tướng tức là vô tướng Không làm cho chúng sanh đoạn tướng ràng buộc (trói buộc). Con mắt có 5 loại: 1. Nhục nhãn: mắt thịt của phàm phu không định nên tạo vô số tịnh sắc. 2.Thiên nhãn: do định làm nơi khởi phát tạo vô số tịnh sắc. 3. Huệ nhãn: quán chiếu rõ lý Không. 4. Pháp nhãn: thông suốt giáo điển mà được tuệ minh 5. Phật nhãn: bốn loại trước đã đạt thành và cuối cùng được danh hiệu Phật. Bây giờ nhân nơi huệ nhãn đạt pháp Không soi tỏ pháp quán nên gọi là chiếu kiến (soi sáng rõ). Song tánh Không đây ở tư lương vị lắng nghe suy lường phần nhiều là tin hiểu, đến Gia Hạnh vị mới chuyên vào việc tu quán, tuy cả hai đều gọi chiếu nhưng do mượn tướng nên chưa chứng được chân như. Nơi vị thập địa tu quán vô lậu thông tỏ chân lý mới thật sự quán chiếu Không. Đạt đến vị Như Lai quán chiếu viên mãn biết bỏ lời rời cảnh mượn gọi là Không. Tuy đây nói Không mà chung cả không Ngã Pháp như Ngài Xá Lợi Phất chỉ thuyết pháp Không. Ngã chấp lâu bị quên lãng không tạm gọi Không nên hoặc lại chấp ngã y nơi pháp chấp sanh khởi. Chỉ có cách quán pháp Không Ngã tùy thuộc Không. Không đề cập ở đây thể tuy không khác nhưng y sự hiển hiện cũng có sai khác. Như Kinh Đại Bát Nhã nói hoặc 16 không: nội không, ngoại không, nội ngoại không, đại không, không không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, rốt ráo không, vô tế không, vô tán không, bản tánh không, tướng không, hết thảy pháp không, vô tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc nói 17 không thêm vô sở đắc không hoặc 18 không thêm tự tánh không, hay 19 không thêm: biệt gia sở duyên tăng thượng và hằng vô không, hay 20 không thêm, trong 18 không bỏ vô tán không lấy tánh không, vô biến dị không, bỏ tướng không lấy tự tướng không, cộng tướng không như giải thích sơ lược trong bài kệ sau:

Tự ăn và thức ăn

Đây nương thân tồn tại

Thấy chân lý không hai

Nhị đế Không cần phải

Làm lợi lạc hữu tình

Không lìa bỏ tử sanh

Tạo vô số việc lành

Nên quán đều không tánh

Vì chủng tánh tịnh thanh

Các tướng tốt đạt thành

Cho Phật Pháp hưng thạnh

Bồ Tát quán Không tánh

Pháp thường trụ thực hành

Thật chất phi hữu tánh

Chấp hữu tánh, vô tánh

Lập hai không chính danh.

Câu kinh tiếp theo: “vượt qua hết thảy mọi khổ ách”. Ở đây lời tán nói rõ, vì người tu hạnh thắng giải – giải Không – mà nói như trên sơ lược trình bày để phá hai pháp chấp làm rõ hai Không mới vượt qua các khổ: Đã quán chiếu soi rõ tánh Không lìa mọi phân biệt như con ngài thoát khỏi cái kén không còn bị buộc bên trong nữa, mới vượt qua mọi ách nạn khổ thống, chóng đạt Niết Bàn. Tuy nương thắng nghĩa không có vượt qua, không chỗ đạt đến nhưng theo thế tục thì có độ có đắc.

Như đúng phải nói, do quán rõ tánh không mới vượt sanh tử; trước tiên làm hiển phát quá trình tu tập lợi ích. Phương pháp thứ ba: pháp luyện tâm có nghĩa là quán chiếu chỗ thâm diệu khó ngộ, nếu như thoái chí cần phải tôi luyện tâm cẩn thận. Người thế tục chỉ bố thí sơ mà khi mạng chung (chết) còn được quả báo tốt huống gì nay ta tu tập cẩn trọng nghiêm túc, đời sau lại không vượt thoát khổ để chuyển sanh sao ! Như người tu huệ hẳn vượt qua mọi khổ ách, dứt phần trọng trược được cái không nhiễm nhơ, ta đây cũng như vậy. Ta phải tự khích lệ hơn lên tu tiến không nên tự khinh mà sanh thoái tâm. Độ có nghĩa là vượt, là thoát vậy, khổ chỉ chúng sanh trong ba cõi và sáu đường do nghiệp phiền não mà thọ sanh. Sự thật còn phiền não là không thể nào hết khổ được. Nhân đây trình bày sơ qua 3 điểm: 1. Các pháp hữu lậu (pháp phiền não) rơi vào chỗ bức bách bất an nên đều gọi là Khổ cả. Những sự vui thú thế gian ắt đưa đến chỗ tan hoại, duyên hợp ràng buộc bao mối phiền toái bất ổn là hoại khổ. Tánh bức bách lại càng tăng thêm thống thiết khó chịu đựng được, chúng càng dồn dập phát sanh nên gọi là khổ khổ. Cái khổ dồn dập này là nghĩa của họa tai, hoặc là nghĩa của họa tai, ách nạn nên nói khổ hoặc là tám khổ: sanh khổ: thai nhi trong bào thai, ra khỏi thai đều bị các khổ đoanh vây bức ngặt; lão khổ: lớn lên già nua lụm cụm, thân thể bại hoại rã rời, bịnh khổ: bần thần bất an, thiếu ăn mất ngủ, thể xác, tinh thần suy nhược biến đổi; tử khổ: hơi thở không còn mạng sống chấm dứt, tan rã, ghét nhau phải chung đụng (oán tắng hội khổ): không thương nhau mà gặp nhau hoặc chung đụng lẫn nhau, thật không gì khổ bằng, ái biệt ly khổ, yêu thương nhau phải xa lìa từ bỏ người thương; cầu bất đắc khổ: những gì mình mong muốn không thỏa đáp đều gây nên khổ, ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hưng phát khổ: do phiền não (hữu lậu) sai sử nói chung bao gồm trong năm ấm (uẩn) gây ra khổ. Trở lên bàn về tám khổ, sau đây nói qua “ách” có nghĩa là 8 nạn và những chướng ách của ba tai gây ra. Do chưa đủ sức quán chiếu Không nên bị cảnh buộc chặt tâm khởi phân biệt dấy phiền não sanh trong 5 đường (thú) khổ. Đã thấy được ba tánh Không hoặc quán chiếu các uẩn hoàn toàn chân không nên phân biệt với chẳng sanh, quả xấu theo đó mất hẳn nên có thể vượt qua mọi khổ đau ách nạn, như bài kệ sau:

Tướng ràng buộc chúng sanh

Đều do nhơ nhiễm quánh

Khéo lo tu chỉ quán

Mới mong giải thoát cảnh

Y cứ tu quán chiếu Không cũng thoát khỏi nghiệp mê lầm, phạm vi rộng ở đây chỉ nói là vượt qua khổ, tức nói tướng không ở vị tư lương do nghe, suy lường để quán chiếu. Tâm thứ sáu nơi 10 tâm đầu, sau là tín tâm không lui sụt, không mất thiện căn liền vượt thoát mọi khổ đau tai ách như bài kệ sau:

Nếu hữu tình thế gian

Niệm chánh kiến gia tăng

Dù ngàn kiếp thọ sanh

Ác đạo hẳn xa lánh

Đến thập trụ, trụ thứ tư trở về sau phiền não thô không còn mới có thể chế phục vượt ác thoát khổ ách; sanh quí trụ mới dứt phiền não, vĩnh viễn đoạn sạch không còn sót thừa, lìa sanh tử thoát khỏi ba cõi. Kinh Duyên Khởi ghi: ngoại đạo chấp các hành dị sanh đều lấy bốn thứ ngu làm duyên: Nội pháp hành dị sanh như kẻ phóng túng phước không cần đoái hoài, ba thứ ngu khác làm duyên: người không buông lung chủ các hành, ta không nói lấy vô minh làm duyên nên biết rằng từ đây trở đi lìa hẳn ác thú và mọi khổ ách. Sau trụ thứ bảy mới không còn tâm lui sụt và lìa hẳn mọi khổ ách nơi nhị thừa; đến vị thông đạt trước ngộ chân không, sau vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác, tám nạn dữ không còn dấu vết khổ nghèo bịnh tật v.v… của mọi sự khổ ách, hoặc cũng có thể vĩnh viễn lìa từng phần dứt khổ nạn, sợ hãi, phiền não trong ba cõi; đến sau địa thứ tám mới dứt hết được những thứ này. Từ địa thứ 7 về trước vẫn còn phiền não nên đến thập địa mới quán không được viên mãn. Hết thảy hạt mầm hữu lậu (phiền não) đều vĩnh viễn đoạn trừ, mọi biến dịch sanh tử khổ đau đều chấm dứt. Đến Như Lai vị làm lợi ích chúng sanh hoặc có khi thị hiện chẳng đúng như vậy; như Bồ Tát Quán Tự Tại do chưa thành Phật nên tu quán chiếu Không ắt phải đạt được để khuyên dạy người phát tâm tu nên nói vượt qua tất cả.

Này Xá Lợi Tử, lời ca tụng người tu hạnh thắng giải không do pháp thành lập, pháp là nhân sanh ra. Ở đây phải hiểu rộng là sanh Không để pháp Không sau đó hiển lộ. Như đúng phải nói, căn cơ người phàm thấp kém gọi là thuật nêu ẩn dụ chỉ rõ cho kẻ tu thắng hạnh dứt trừ bốn chấp, nghĩa là có ba đoạn: trước hết, này Xá Lợi Tử v.v… lưu ý chung sự chướng ngại của Không; kế đến: vì thế v.v… tóm kết riêng về Không, sau hết: vì vô sở đắc cho nên, giải thích rõ lý Không. Giải: Xá Lợi Tử là tiếng Phạn; tiếng Tàu đời Đường gọi là Xuân Thu (Thu Tử) do mẹ Ngài có biện tài nên lấy dụ đặt tên con, hiển lộ tư chất con nên lại xưng là tử. Do tài biện luận nơi mẹ mượn đặt tên con, để phá tà hiển chánh, nghe ít hiểu nhiều, tri kiến ban đầu sớm tỏ thông nhờ tư chất của Mẹ. Nay diễn đạt tánh không làm sao nêu dụ, chỉ nói thắng giáo để liên kết pháp hiển lý Không. Riêng lưu ý hàng thượng nhơn cho thích hợp căn cơ và đồng thời cũng là khuyến cáo chung đến đại chúng. Kinh dù đã khuyến giáo rõ nhưng người chưa ngộ pháp Không nên trước khuyên tôi luyện tâm mới trừ được bốn chấp (nhơn, ngã, chúng sanh, thọ giả tướng).

– “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc”. Lời xưng tán có nghĩa là bốn đại và những gì tạo ra chúng gồm 10 sắc xứ và pháp sắc xứ tánh đều biến hiện gọi chung danh từ sắc. Vì người tu hạnh thắng không nói rộng là pháp Không. Kinh Đại Bát Nhã nêu hỏi: tại sao như vậy ? Vì sắc tự tánh không, chẳng phải từ không nên sắc không không phải sắc. Sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Đây phá hai lối chấp (có – không). Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc để phá chấp thế gian chấp cho rằng ngoài sắc riêng có thật không; không ngộ chân không chấp bám các sắc mê mờ gia tăng nghiệp mê lầm nên trôi lăn trong dòng sanh tử. Giờ đây chỉ rõ do bị mắt nhặm thấy hoa đốm cố nhiên con mắt bị bịnh, không phải là không có, nên y thắng nghĩa sắc chẳng khác không, như Thánh điển Phật dạy rằng, nhân duyên sanh pháp nên Ta nói Không; sắc tức là không, không tức là sắc để phá chấp của kẻ ngu quan trọng hóa sắc không mới phân biệt có không; đối với sắc, đối với không mỗi mỗi phân biệt. Bây giờ nêu rõ dựa thắng nghĩa: sắc bản tánh không, người mê hiểu nhầm nghĩa đặc thù bị vướng không sắc. Như thế tại sao sắc diệt mới thấy không ? Như người nhặm mắt thấy hoa đốm tánh chẳng phải có, đâu cần phải thấy hoa mất rồi mới thành không; nên đối với sắc-không chớ sanh cố chấp. Phải dứt trừ kiến chấp điên đảo mới đạt đến Niết Bàn rốt ráo. Do hai câu kinh trên ghi rằng: sắc tự tánh không chẳng phải sắc diệt Không. Đúng phải nói như vầy, nếu y thắng nghĩa các pháp không đều không Hữu; mới thoáng qua tuy vậy mà trên lý chưa hẳn vậy. Chân – tục, tướng – hình, tục không chân diệt, sắc-không đối đãi nhau nên sắc diệt, không cũng mất, cho nên bản lai thể sắc là không. Vì người tu hạnh thắng giải nói căn cứ Không thật này khẳng định là Không, Không cũng Không nên phải nói như thế này: do nhân duyên sắc tự thể là Không, nên kẻ ngu trước đó thành người trí, tức phàm thánh lẫn lộn giữa Thánh phàm, tự xử là thành tư cách bậc Thầy, còn ai là kẻ mê? Vì người tu hạnh thắng giải nói phiền não là một phần của Bồ Đề, sanh tử tức Niết Bàn, một phần của trần lao là chủng tánh Phật. Tất cả chúng sanh bản tánh vắng lặng đâu chẳng phải ngu trước rồi sau mới thành trí. Đúng phải nói nếu vin sắc việc có khác lý Không, nên bỏ chấp sắc mà cầu ngộ lý Không, đã không thật sắc chấp sắc tức là ngu, cầu trí bỏ ngu há chẳng phải không điên đảo đó sao! Vã che mất sanh tử cầu đạt Niết Bàn, khổ vui chẳng màng cầu để làm gì? Kẻ mê muốn dứt sanh tử đạt Niết Bàn, bậc trí chẳng mong cầu làm gì? Kẻ mê muốn dứt sanh tử đạt Niết Bàn, bậc thánh mong cầu đạt thành là tà vọng. Vì người tu hạnh thắng giải nói: thế nhân mê lầm cầu thánh bỏ phàm, chân lý sắc không, lấy bỏ thành được gì ? Đúng phải nói, như nhiều việc cá biệt cũng nói không: đủ trong thắng nghĩa tự thành mâu thuẫn. Người chưa đạt ngộ biết sắc là không; người đã đạt ngộ chẳng nghĩ không sắc; bậc thánh tinh thông cần thấy đó đem lòng thương xót cho kẻ si mê lười biếng mừng vui hoan lạc. Như lời đức Thế Tôn dạy: Bồ Tát tùy thuận phương tiện khéo léo đạt giải thoát rốt ráo. Nếu chúng sanh đối với những gì Phật giảng về Tánh Không, nghĩa là tất cả pháp không có tự tánh đều không, tức không sanh không diệt mà đều như mộng huyễn; nơi các pháp ấy không thể hiểu rõ thấu suốt. Bồ Tát như lý hiểu thông suốt pháp nên Phật nói với chư Bồ Tát rằng: Kinh này không nói hết thảy mọi pháp đều vô sở hữu mà chỉ nói các pháp theo ngôn ngữ tự tánh đều vô sỡ hữu, nên biết các pháp đều vô tự tánh. Tuy theo ngôn từ nói tất cả đều y (dựa) pháp nên mọi ngôn từ có chuyển đổi. Song như lời Phật dạy tự tánh căn cứ nơi thắng nghĩa đế không phải là tự tánh, nên nói các pháp đều vô sở hữu. Hết thảy mọi pháp như đã nói tự tánh vốn từ Không nên đều vô sở hữu. Không từ đâu sanh, không từ đâu diệt nên nói các pháp không sanh không diệt. Hơn nữa, các pháp như mộng huyễn không đúng như nó là, không thật hữu, cũng không phải mọi mộng huyễn hình thể đều vô sở hữu. Như thế các pháp không như người ngu luận bàn theo quán tính thấy chỗ hiển hiện như thật hữu; cũng không phải các pháp thắng nghĩa lìa ngôn từ tự tánh vô sở hữu. Do đó nên hiểu rõ mọi pháp chẳng có chẳng không mà như mộng huyễn tánh nó không hai, nên nói tất cả các pháp đều như mộng. Thế nên Bồ Tát có cùng nơi các pháp và pháp giới, không chấp thiểu phần cũng không bỏ thiểu phần; không làm tổn giảm cũng không tăng thêm, không bị diệt mất. Như pháp thật hữu biết là thật hữu, như pháp thật không biết là thật không. Được vậy đích thực Bồ Tát đã tùy thuận phương tiện khéo léo mà thông đạt pháp. Kinh Bát Nhã thuyết những kẻ mê mờ cố chấp thật hữu nên phải nói tự tánh các pháp thật như mộng huyễn không có tự tánh và đều không thật có không sanh không diệt, chẳng phải không thánh trí, hẳn chân – tục đế đều lìa ngôn ngữ là pháp tánh. Không phải như mộng huyễn, tất cả vật chất cũng như hình sắc đều vô danh vô tánh, đạt đến vô danh ấy là ngộ chẳng phải Hữu, đạt đến thánh cảnh hữu danh là ngộ chẳng phải Vô. Cho nên nói rằng Bồ Tát không chấp thiểu phần cũng không lìa thiểu phần; không biết là không, hữu biết là hữu. Nếu y thắng nghĩa nói thể các pháp đều không không thiếu hữu. Hiểu vấn đề như thế đâu phải thiện xảo (hay khéo), gọi là ngộ không phải không chẳng bỏ thiểu phần cũng theo đám rối làm thương tổn hoại diệt chánh pháp. Do đó nên biết rằng ý kinh này trước là phá chấp sắc Hữu nên nói sắc Không. Không ấy chính là Vô vậy. Không phải pháp tánh là không, do kẻ mê chấp cho tình – sắc – tướng bản tánh chẳng có. Như chấp chẳng không và do vậy sắc diệt không cách gì thành không được mà thành hai lối chấp điên đảo, cho nên song hành làm rõ sắc, sự lý không như chỗ chấp. Chớ khởi vọng mà sanh chấp điên đảo, vọng chấp đã dứt hẳn chỗ chấp sắc cũng không còn. Nên phải dứt đoạn tánh tùy thuộc mà giữ tánh giả lập (biến kế chấp) như mắt nhặm đã hết không còn thấy hoa đốm nữa. Hàng nhị thừa, ngoại đạo chấp thật có nhân duyên tác dụng sanh pháp tánh đều phi Hữu nên Phật dạy: nhân duyên sanh pháp Ta nói đều là Không không phải gọi tánh tùy thuộc sắc như huyễn cũng đều Không vậy, như bài kệ sau đây:

Vọng chấp phân biệt sanh

Do đó nghĩa lập thành

Chẳng thật hữu toàn không

Diệt sạch giải thoát xong

Thánh điển cũng nói các pháp không tự sanh cũng không từ cái khác sanh, không từ cộng sanh cũng chẳng phải không từ cả hai sanh. Tuy vô sở chấp do nhân duyên tác dụng mà có công năng duyên mới thành. Đây nếu nói không ứng hợp với không tục đế; tục đế không nên chân đế cũng không. Nương ai và do ai mà được giải thoát, hoặc giả cái không này là pháp tánh không. Nếu giả lập (biến kế sở chấp) chấp sắc và cái tùy thuộc sắc (y tha chấp) hẳn khác thật hữu; chân tục hẳn riêng biệt thành mê mờ. Nay hiển bày hai sắc tánh là Không – Vô tướng, Vô vi – Không gồm trí – cảnh; nên xả hai chấp hướng đến chân không nên hướng tới Không nhưng cả hai trừ vọng kiến. Sắc thể của pháp tánh là chân tướng không khác Không, thế còn mê chấp gì? Kinh giảng nhị đế có cạn sâu khác nhau mà tướng bổ sung nhau thành có chân tục, có tục trong tục, có tục tục trong chân, có chân chân trong chân, có chân chân trong tục, tức tục chính tục, chân tục chân. Có tục có chân, tục không chân diệt, đã không phải vô sắc mà độc nhứt Không, cũng chẳng phải sắc không, chẳng là không phải chẳng là. Nay giả định khác so sánh chỉ nói chẳng khác là. Cái chẳng khác đề cập ở đây cũng chẳng phải chẳng khác, như luận Biện Trung Biên có bài kệ:

Không hữu vô nên không

Không hữu chẳng phải đồng (không)

Không một cũng chẳng khác

Ấy là không tướng pháp

Nay nói sắc – không nương nhau hiển bày làm cho ý nghĩa càng thêm sáng tỏ để phá trừ nghi chấp. Như trên nói Ngài Quán Tự Tại dạy phải tôi luyện tâm; ở đây nói sắc không khiến trừ bốn chấp, một nhị thừa tự hài lòng hạn hẹp trong việc tự lợi không muốn lợi tha, hai đối với Đại thừa khởi tâm ngờ vực nên rơi vào chỗ điên đảo, ba đối với Văn, Tư, Tu nói Ngã ngang nhiên khởi lên vô số pháp chấp, bốn hài lòng yên tâm với cái hiện có chấp sắc v.v… cho đến Bồ Đề vướng nơi phân biệt. Bây giờ nói sắc v.v… không khác không – sắc tức là không – làm cho nhị thừa bỏ chấp hẹp hòi mà được trí vô phân biệt thành hạnh xuất thế.

– “Thọ, tưởng, hành, thức… cũng đều như vậy”. Lời xưng tán: e kẻ nghi chấp cho sắc chẳng khác không, chỉ thể sắc là không, ngoài ra pháp không phải vậy. Vì thọ, tưởng, hành… cũng giống sắc, có thể tiếp nhận cảnh mà khởi lên khổ vui. Bỏ thọ có thể chấp nơi cảnh, có tướng, không tướng, nhỏ, lớn, nhiều, ít do chỗ phân biệt gọi là tưởng. Suy nghĩ tạo nghiệp lành, nghiệp ác, nghiệp không thiện không ác (vô ký) và cùng các tâm sở khác chu lưu gọi là hành. Tâm – Ý – Thức cả ba đều rành rõ riêng khác cùng gọi chung là thức, nghĩa là bốn sự nhận thức cột trụ và có thể định thức như sắc đưa vào, nhờ đưa vào mà biết, do biết mà tác dụng, vì tác dụng mà rõ, cho nên sắc, thọ v.v… thứ tự đều như vậy song do người đời chấp ngã sự việc thêm phức tạp có năm như cho rằng: thân ta đầy đủ, ta thọ dụng, ta nói năng, ta tạo tác, tự thể ta. Nay nêu rõ uẩn chỉ là công năng của pháp, không thật có tự tánh, không ngã và cái thuộc ngã nên nói năm uẩn không tăng không giảm. Kẻ ngu không biết phá ngã chấp đối với không uẩn mượn cho là uẩn, bèn chấp có, ở đây muốn phá chấp ấy nên nói Không. Nhị Thập Luận cho rằng: nói không có ngã hữu tình chỉ nhân pháp mà có. Chữ vân vân có nghĩa gồm xứ, giới v.v… năm loại thiện xảo nhưng Đại Kinh Phật dạy “sắc không cho chí Bồ Đề cũng không. Giá có pháp đạt đến Niết Bàn Ta cũng nói như huyễn như hóa”, cho nên vân vân nói đây bao hàm chung hết thảy. Thắng không phải đủ hai pháp như đã giải thích trên. Tiếp theo Đại Kinh rằng thọ, tưởng, hành, thức tự tánh Không, chẳng phải từ không nên cần phải nói rộng ra thọ, tưởng, hành, thức là Không; Không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Tại sao vậy? Vì đây chỉ có danh gọi Bồ Đề, nghĩa là Không nên đây cũng chỉ có danh gọi sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

– “Này Xá Lợi Tử”, đó là các pháp không tướng, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm”. Lời tán: trước bảo thể mọi pháp là không, ở đây cho hay pháp nghĩa là không. Đó là các pháp, chỉ các pháp sắc, thọ, tưởng v.v… đã nói trước không, vốn không nay có tên nên tạm có rồi hoàn không gọi là diệt, do chướng nhiễm nên dơ; chữ tịnh nghĩa rộng có thể dịch là tăng, hay cũng gọi là giảm. Với người tu thắng giải nói y sự thật thế tục cho sắc v.v… là có, vì có sanh ra vậy. Theo thắng nghĩa đế (sự thật tuyệt đối) sắc, thọ, v.v… vốn không. Tại sao hư không lại có sanh? Phải biết sanh diệt vô tướng đều Không. Như đúng phải nói: tánh giả lập (biến kế sở chấp) và tánh tùy thuộc như đã nói tự nhiên pháp bản tánh vốn không. Pháp tánh sắc v.v… thể đều không hoàn toàn không giống như chấp không của nhị thừa mà có phần sai khác nên nói không tướng, không sanh, không diệt… Ngoài ra, nếu chấp pháp hữu vi chu biến hẳn phải có sanh có diệt, pháp vô vi trong ràng buộc mà ra khỏi buộc nên cá biệt thật có dơ, sạch. Người chưa chứng chân như và người đã ngộ các pháp hữu vi, vô vi, đắp đổi nhau (bổ sung) có tăng giảm. Như thế kẻ chấp đều vin vào chỗ chấp nên nói thể-tướng đều không. Thà như lối chấp cho rằng hữu vi có sanh diệt, vô vi có dơ sạch chung cả hai bên có tăng giảm. Như thấy sóng dợn mà chấp là nước, nước đây vốn không làm sao sanh khởi? Không phải không sóng dợn mà dường như nước có sanh. Nên nêu thêm vấn nạn: nếu y cứ nơi tánh tùy thuộc thì sắc v.v… đều là không như kia, sanh diệt đây cũng vậy. Lời giải đáp cho rằng như trong hư không sắc tuy có sanh diệt mà vô tướng Không. Như thế tánh tùy thuộc tùy có sanh diệt chân không không phải vậy. Lại nêu thêm câu hỏi rằng, nếu tất cả pháp đều là chân không, không tướng trùm tham, sân… dơ, sạch, tín v.v… ở trong tịnh, ứng với dơ sạch. Giải đáp: như trong hư không có sắc, dơ, sạch, tướng, không không phải vậy. Như thế các pháp tuy có dơ sạch mà vô tướng Không như bài kệ sau:

Không nhơ không chẳng nhơ

Không sạch không chẳng sạch

Tự tánh vốn tịnh thanh

Bị nhiễm khách trần thành.

Như có người nói: nếu pháp thuần không có tướng riêng nên Thánh giáo giải thoát đã có sự tăng giảm mà chân không ứng hợp như vậy. Ở đây theo thắng nghĩa đáp rằng: như trong hư không sắc tướng tăng giảm, tướng không chẳng phải vậy. Thánh giáo tuy có tăng giảm như vậy nhưng vô tánh không, đều do sự tướng, thể tướng riêng nên nếu tất cả pháp duy chân như không, làm sao mọi pháp có sanh diệt được. Trở lên nói chung chẳng phải chỉ có sắc thể không khác tức là không, trên sắc sản sanh vô số sự sai biệt nghĩa cũng không khác Không. Ở đây chung riêng lược nêu ba cấp, mà kỳ thật không tướng chẳng phải một cấp. Dẫn giải theo Đại Kinh như sau: như thế tự tánh không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Bồ Tát khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa như thế không còn thấy có sanh diệt, nhiễm tịnh. Tại sao thế? Vì chỉ tạm mượn danh riêng, riêng đối với pháp mà khởi phân biệt, như khởi tưởng cho rằng như vậy, như vậy nên sanh chấp vướng. Bồ Tát khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa trong tất cả ý niệm đó chẳng thấy, vì không thấy nên không bám chấp.

– “Vì thế trong không trung không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức”. Tán thán: vì người tu giải không mà nói, ở trên lấy sắc v.v… thể tướng nói chung đối với Không rõ ràng không khác, sợ rằng nghĩa không sáng tỏ làm cho sự quán sát kỹ cho rằng hư không hoàn toàn rỗng không, tiếp ở trước mà nói như vậy; lời này chung cho việc chấp các pháp là không. Như đúng phải nói cả ba thừa cùng chung năm loại thiện xảo, nghĩa là uẩn, xứ, giới, duyên khởi, đế tùy “thừa” mà chỗ ứng hợp quán có viễn cận, do nhị thừa dựa vào chấp hữu, ở đây đối lại nói Vô. Do chấp thể hư không toàn rỗng không nên cũng chấp uẩn (chỗ chứa nhóm) bản tánh toàn không. Song Phật phương tiện trong pháp hữu vi thiết đặt uẩn để phá năm uẩn trong ta dần dẫn tới lời thật thiện xảo, mà không phải thật hữu, như bài kệ :

Như đèn huyễn sao mờ

Mây, điện, mộng, bọt bèo

Hòa hợp kết thành theo

Nên quán sát như kia

Pháp hữu vi không cố nhiên là uẩn, do chấp uẩn v.v… có lý gì thành chân được. Pháp tánh là chân không nên không phải tướng uẩn, cho nên hư không không có năm uẩn. Đại Kinh tiếp rằng, lại này Xá Lợi Tử chư Bồ Tát khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa (tu tuệ giác siêu việt rốt ráo) nên quán như thế, Bồ Tát chỉ hữu danh, tuệ giác siêu việt rốt ráo chỉ hữu danh, sắc, thọ, tưởng, hành, thức chỉ hư danh, cho chí nói rộng ra cũng như thế.

– “Không có nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”. Lời tán thán rằng, ở đây nói trong hư không không có 12 xứ, vì người tu thắng nghĩa nói: Phật nghĩ cách phương tiện nói có xứ dẫn dụ làm cho hành giả nhập vào chân, đã vào chân rồi cần y theo chân thật nghĩa nên nói không. Như đúng phải nói: do vì căn, cảnh có khả năng làm cho 6 hành nẩy sanh cánh cửa chắn nên nói là xứ. Song lấy tướng thấy, thăm thú, trang điểm, ăn uống, hầu hạ phân biệt ở đời nên Phật dạy xứ lần lượt là như thế. Do vì mắt, tai không thể đạt đến thủ đắc, 3 căn mũi, lưỡi, thân đến mới giữ lại và ý là tám thức quả nhiên hẳn bất định. Mắt, tai dùng vượt thường được gọi là thiên nhãn, thiên nhĩ, biến đổi không thật chỉ ở cõi dục, năm thức trước phải nương vào các thức sau. Nghiệp, duyên, chung, định, pháp lực đều sanh các pháp ứng dụng có hơn kém như sau đây là chín, tám, bảy, năm pháp duyên khởi: sắc có nghĩa là hình, biểu, thanh còn gọi là chấp thọ hay không chấp thọ, đầy đủ yếu tố là phát sanh. Hương đầy đủ sanh hòa hợp, biến đổi; vị là đắùng, chua, cay, ngọt, mặn, lạt. Xúc gồm bốn đại tiếp xúc với nó tạo thành, pháp là không đối với sắc và các tâm sở không xứng hợp, vô vi. Năm uẩn đầu chỉ có hai ngoài ra các uẩn khác chung với dị thục thức mà thành lưu chuyển. Dị thục thức chỉ có cõi dục, cõi sắc, hai thức sau chung ba cõi. Sắc, thanh có: biểu hiện, ý và pháp chung cả ba. Mười sắc chỉ là vô ký và thiện tức là bỏ theo hữu giả lập tạo danh, hết thảy đều chung pháp hữu lậu, vô lậu, như Duy Thức Nhị Thập Tụng có bài kệ:

Y kia chỗ khởi sanh

Mật ý Phật phân minh

Nói có sắc xứ cảnh

Chúng hữu tình hình thành.

Ý nói Phật vì kẻ vọng chấp ngã chìm đắm sâu trong sanh tử không có ý thú hướng cầu thoát ra, không phải xứ trong pháp nói đó là xứ, như chấp đoạn kiến nên nẩy sanh mật ý dẫn lối vào thật tế bỏ chấp ngã. Nhị thừa không rõ phương tiện lời nói chấp là thật hữu nên ở đây cần làm sáng tỏ chỗ chấp đó bản tánh vốn Không. Trong pháp nhân duyên đã chẳng có thật xứ; pháp tánh lý Không cũng không có tướng xứ, tiếp nghĩa trước mà tóm kết xứ là Không. Tiếp tục Đại Kinh dẫn rằng nhãn xứ chỉ hữu danh cho đến pháp xứ cũng chỉ hữu danh; nhãn xứ Không cho chí pháp xứ cũng Không.

– “Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới”. Tán thán: trong phần này nói: hư không không có 18 giới. Vì người tu nghĩa không nói: nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhỉ giới, thanh giới, nhỉ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới gọi là 18 giới. Ở đây nêu lên không trước sau kể cả trung gian 18 giới, thế gian nói Có, thắng nghĩa nói Không vì chỉ có giả danh. Tự tánh không nên đúng ra phải nói: do căn, cảnh năng giữ sáu thức, nó cũng lại tự giữ lấy nhân quả, tánh ấy gọi là giới. Xứ nói trên thứ tự thức giới tùy đó sanh nên 18 giới thứ tự như thế. Hay chấp giữ nơi cảnh là sáu nội giới, tướng, mắt v.v… bị cảnh thu nhiếp là sáu ngoại giới tướng. Nương căn duyên cảnh mà cơ hồ cảnh liễu biệt là sáu thức giới tướng. Trong đó ý giới là tâm ý thức, tâm nghĩa là thức thứ tám có công năng giữ gìn hạt giống cất chứa hướng đến sự phát sanh. Thiện tánh, tánh không thiện không ác (vô phú) có khả năng biến thân cơ làm chỗ nương của chúng sanh, có ba danh để gọi: 1. Ngã ái chấp tàng gọi là A Lại Da Thức. Tàu dịch là tạng (chỗ, kho chứa) có ba nghĩa: năng tàng, sở tàng, chấp tàng (hay chứa, bị chứa, chấp có) 2. Thiện ác nghiệp quả vị gọi là Tỳ Thẩm Ca – dịch là Dị Thục Thức: tạo tác thiện hay bất thiện nghiệp đều thu vào 3. Tương tục chấp trì gọi là A Đà Na, dịch là trì hay chấp giữ thân không để cho mất. Ý có nghĩa là thức thứ bảy, nhiễm chấp tướng Ngã vì nương theo pháp hữu lậu (phiền nhiễu) dung dị bình đẳng, tánh nó thiện có che giấu, cũng có ba danh để gọi: 1. Ngã chấp tương ưng vị gọi là hữu phú mạt na duyên thức A Lại Da chấp làm ngã 2.Pháp chấp tương ưng vị là vô phú mạt na duyên Dị Thục thức chấp làm pháp. 3. Tư lương tánh vị chính danh Mạt Na duyên A Lại Da v.v… khởi suy lường gồm năng duyên, sở duyên, đoản trường, bình đẳng. Vì thế thức 7 và 8 mỗi thức có 3 danh, hai danh trước đều hữu lậu (phiền não), danh sau thông với vô lậu. Thức có nghĩa là sáu thức do hiển lộ đều chung ba tánh, đến Phật quả chuyển Dị Thục Thức thành Viên Cảnh Trí. Chín dụ hình ảnh hiện trong đó tùy ứng hợp sơ địa chuyển hai thức Mạt Na thành Bình Đẳng trí hàm đủ 10 công dụng thù thắng. Chuyển năm thức trước thành Thành Sở Tác Trí khởi phát 10 nghiệp đầy đủ bổn nguyện. Do phần nhiều phân biệt lấy Thức làm chủ, quả nhất định phải nêu Trí làm danh. Tám thức trước này là bảy tâm giới, bốn tâm thiện hàm nhiếp pháp giới, ba chiếu tỏ Hữu – Vô đủ chân tục trí thành sự soi chiếu tục trí là phi chân. Trí Viên Cảnh, Bình Đẳng luôn luôn bất động, trước hằng quán chiếu gọi là Nhứt Thiết Trí, Trí Diệu Quán là việc có khi bị gián đoạn. Tuy bốn trí này có đầy đủ tánh đức nhưng tùy tướng tăng khởi sanh bất định. Nhưng Phật nói pháp có rộng hẹp khác nhau, đối với uẩn lược nói sắc, thức, nói rộng xứ, giới. Uẩn tâm sở và xứ, giới nói lược, vì người mê cả ba nên nói uẩn là hữu vi, xứ nói hai chấp, giới tăng tướng chấp. Cơ hội mong muốn phá ngã còn lại thực tế là giới; nhị thừa không nắm rõ bèn chấp cho là thật… chỗ chấp đó hoàn toàn đều không, hết thảy không thật là giới, cho nên tiếp trên đi tới kết quả là Không.

– “Không vô minh cũng không có cái hết vô minh, cho chí không già chết, cũng không hết già chết”. Tán thán: vì người tu quán Không nói: trên không quán xa, dưới không quán gần, pháp quán này không phải chung quanh vị Độc Giác quán sát. Khế Kinh nói rằng, vì người cầu Độc Giác nói ứng hợp pháp mười hai duyên khởi. Kinh cũng nói rằng, vô minh cho đến già chết chỉ có giả danh, tự tánh Không nên ở đây nói là Không. Hết tức có nghĩa là Không và Không cũng là Không, nên nói không hết vô minh cho chí không hết già chết. Pháp 12 nhân duyên (khởi) không hữu đều Không, nên biết ngoài ra các pháp khác cũng đều như vậy, tưởng cần làm sáng tỏ như đúng phải nói như Ngài Từ Thị bảo rằng, trong đây đối với pháp nhiễm tịnh đều có sự thuận nghịch khác nhau. Pháp nhiễm thuận quán dựa theo dòng sanh tử lưu chuyển (biến); nghịch quán dựa theo pháp gia hạnh mà thuyết minh. Thanh tịnh thuận quán y cứ căn bổn pháp dứt trừ phiền não mà nói, nghịch quán dựa vào chỗ đã đoạn pháp trọng chướng. Quán pháp tạp nhiễm thuận trước nhất phải biết rõ bản chất của 12 nhân duyên như thế nào.

1. Vô minh: ở trong ngu tối, ngoài si ngốc

2. Hành: hành động dù việc phước hay không phước đều bất động

3. Thức: tức là dị thục thức

4. Danh sắc: gồm đủ thân tâm của 5 uẩn (sắc, thọ, tưởng v.v…)

5. Lục nhập (xứ): sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý căn

6. Xúc: tiếp xúc trần cảnh phân biệt hơn kém

7. Thọ: lãnh thọ mọi sự khổ vui của đời sống

8. Ái: yêu đắm, tham chấp ba cõi

9. Thủ: chấp, nắm giữ phiền não

10. Hữu: Từ hành tới thọ sáu chi (nhánh) hạt mầm do ái chấp lan tràn đến Hữu và sau Hữu.

11. Sanh: quả khổ kết thành hiện thực

12. Lão tử: suy vi chung cuộc (chấm dứt, mạng hết)

Kế quán do si mê nên khởi tà hạnh tập thành tạo nghiệp thọ quả đời sau, biết tuớng năm uẩn khởi các căn đầy đủ, tiếp xúc, thọ chủng tử, cảnh giới đưa đến thành quả. Tham chấp, mong cầu nên phiền não càng sâu dày thấm thấu những nghiệp trước phải thọ khổ sanh, già, bịnh, chết, bi thương đeo đẳng, nên khế kinh nói rằng, vô minh duyên hành cho chí sanh duyên lão tử; thức v.v… năm chi vì không theo thứ tự nên y theo phần đang trình bày mà đề cập các duyên sau. Tạp – nhiễm, nghịch – thuận dựa theo tập nhiễm ban đầu để thiết lập sự thật, nghĩa là lão tử khổ, lão tử tập, lão tử diệt, lão tử hướng tới hành diệt cho chí tùy theo sự thích hợp trãi qua quá trình quán xét các sự thật. Do nhánh lão tử thâu kết khổ đế, đối pháp duyên khởi trước nghịch với sự quán sát, dùng ba tướng quán chi lão tử: 1. Nhân duyên tế (nhỏ nhiệm) 2. Nhân duyên thô 3. Không bất định. Nhân duyên cảm nhận thọ sanh gọi là tế (chi li tinh tế); trong khi ái, thủ, hữu, sanh ngay nơi tự thể gọi là thô, có nghĩa là chi phát sanh do hai chi sanh này mà có lão tử. Lão tử đời sau tế sanh là nhân, hiện tại lão tử là sanh nhân thô. Trừ hai chi sanh này ngoài ra ắt không có cái gì có thể sanh lão tử nên gọi là không bất định. Tuy quán lão tử thật là khổ đến ái trở đi cái khổ rắc vào tập đế chưa tạo vui đủ, bèn quán sát tập theo sau trong hiện tại vô vàn các khổ, nghĩa là quán nghịch, thọ, xúc, lục nhập, danh sắc và thức, quán xét khổ vị lai thật là cái khổ bây giờ. Quán cái nhân của tập đã có là đích thật tập đương thành, quán sự thật tập của khổ đời vị lai do ai mà có. Biết do từ trước tập khởi sanh thức làm giềng mối đưa tới có khổ hiện tại. Đã biết tập từ trước sanh khởi cũng không cần phải quán điều này tại sao có. Do thức, danh sắc ví như bị câu thúc đắp đổi sanh không ai là tác giả. Do đó quán sát thức lùi trở lại và như vậy là quán sát khổ, tập theo thuận nghịch chỉ trong 10 chi. Kế quán diệt đế trước từ lão tử đến vô minh, tại sao tất cả đều đang diệt sạch, vì do chẳng tạo vô minh làm duyên tạo nghiệp mới nên các khổ phải diệt. Tiếp theo mong tìm cầu chứng đạo, ghi nhớ thầy dạy pháp duyên khởi trước đây để thấy rõ pháp thế gian đúng chánh kiến hiện tại. Một đôi điều quán xét ấy làm cho cái thấy tăng thêm, ấy gọi là quán theo tạp nhiễm, thuận nghịch. Thanh tịnh thuận quán là do trước đây đã tập nhóm tư lương chánh kiến, nên với các đế lần lượt thâu đạt được hoặc hữu lậu hoặc vô lậu bằng cái biết thanh tịnh, mới không sót đoạn vô minh và ái. Các chi vô minh, xúc là duyên sanh ra thọ cũng lại phải đoạn nốt. Nơi các pháp hiện tại đạt đến huệ giải thoát, thọ tương ứng với tâm; tham ái, phiền não lìa hết không còn buộc nên tâm hoàn toàn được giải thoát. Vô minh dứt đoạn nên ứng hợp các hành, thức cho chí thọ đều chẳng sanh. Cho nên Kinh dạy rằng, vô minh diệt nên hành diệt cho chí xúc diệt, cho nên thọ diệt. Thọ ấy chẳng sanh Không do đấy khởi ái, và vì ái nên cũng nói: thọ diệt nên ái diệt cho chí sầu than, phiền lo đều diệt, chỉ có thức v.v… thanh tịnh trinh nguyên nơi cõi Hữu Dư Y Niết Bàn gọi là chứng đạt Niết Bàn hiện tại. Lại hữu lậu hết đạt đến chân thường gọi là cõi Vô Dư Niết Bàn. Thanh tịnh nghịch quán đã đoạn dứt xong quán sát ngược lại, do không ái nên lão tử không, do ái diệt nên lão tử diệt. Biết là vô tác do duyên sanh chủng tử hiện hữu, hai sanh không nên lão tử không, vô thường duyên sanh hai sanh diệt nên lão tử diệt. Như thế cho chí biết do vô tác duyên sanh phát khởi buộc chặt ba món thùy miên. Vô minh không nên hành không, vô thường duyên sanh ba vô minh diệt nên hành diệt, đó gọi là quán sát thanh tịnh thuận nghịch nương theo thuận nhiễm không nói chi sanh. Cơ hội chờ mong đến nên nói nghịch chỉ có 9 chi, lấy nghiệp làm thức không phải duyên kết tập nên hoặc quán mười một chi. Vô minh không vì trí kém nên đức Thế Tôn chỉ phương tiện như thế khiến hàng Độc Giác v.v… tự tu tập đạt giác ngộ, nhưng vì Độc Giác không thông suốt nên vọng chấp cho là có thật pháp nhiễm tịnh duyên khởi. Nay nói Độc giác Không làm cho họ lìa chấp, với pháp tạp nhiễm chỉ nói không vô minh cho chí không lão tử, với pháp thanh tịnh chỉ nói Không hết vô minh cho chí không hết lão tử. Mỗi chi chỉ cái Không thuận mà nêu lên Không nghịch; chỉ rõ không trước, sau trong phần liệt ra cũng Không nên đến địa thứ sáu dù dùng pháp quán này vẫn còn chấp thật hữu lưu chuyển hoàn diệt. Đến địa thứ bảy mới dứt được chướng sanh diệt, sanh là thuận nhiễm tức cái không bị vô minh đây cho chí lão tử diệt là thuận tịnh tức hết cái không bị vô minh này cho đến hết lão tử. Chỗ không nói đó nghĩa là không còn chỗ chấp tác giả thường kết trong hai mối duyên sanh chẳng phải không có công năng pháp duyên khởi diệt. Khế kinh nói rằng, không mất tục đế nhập vào chân đế. Không tác giả không người thọ song nghiệp đều không mất nên dựa theo đó không rõ được tướng duyên khởi. Chân lý cũng không diệt hết vô minh nên đều không. Nếu hết thảy nghiệp thiện ác đều không thì khế kinh chỉ nên nói pháp phi hữu, tại sao bao la phức tạp nói xa rằng chẳng phải Không. Đợi vào nhân duyên các pháp mới thành lập, tự việc đã trùng phức nên phải nghiên cứu kỹ.

– “Không khổ, tập, diệt, đạo”. Lời tán, vì người tu thắng không nói, cái không trên đây Độc Giác quán sát gần, đây không phải Thanh Văn cận quán nên Khế kinh cho rằng, vì người cầu Thanh Văn nói phải thích hợp pháp tứ đế, cũng thêm rằng, tứ đế chỉ có giả danh tự tánh vốn không, nên suốt trên dưới tới điểm này cũng là cảnh. Đối với pháp duyên khởi, cũng cần nên quán xét cẩn thận hàng đầu, sau mới nói lý thật Không. Như đúng phải nói như Kinh Thắng Man ghi rằng an lập bốn Thánh đế chẳng phải an lập bốn Thánh đế, tám Thánh đế như vậy chẳng phải chỗ hiểu của Nhị Thừa. Phần đoạn (từng phần) sanh tử là khổ, phiền não và nghiệp hữu lậu gọi là tập, trạch diệt là diệt. Sanh không trí gọi là đạo. Pháp thô lộ bày cho kẻ trí mỏng biết gọi là an lập đến Biến dịch sanh tử là Khổ, sở tri chướng (chướng ngại về sự hiểu biết) và vô lậu nghiệp phân biệt gọi là tập. Tự tánh thanh tịnh không trụ Niết Bàn gọi là diệt, pháp không trí gọi là Đạo. Tinh tế sâu ẩn khó biết không phải cảnh thô thiển chẳng thể an lập chân lý. Tóm tắt như thế này, pháp hữu lậu bức ngặt đều chiêu cảm lấy khổ sau đó mang danh là tập cho nên pháp vô ký hoàn toàn không phải tập đế. Đây lược nói nhân quả của sanh tử, bốn loại Niết Bàn gọi là diệt. Pháp vô lậu hữu vi vì đạt đến diệt nên gọi là đạo. Ở đây lược trình bày nhân quả xuất thế, như người trị bịnh biết bịnh và hiểu rõ nguyên nhân bịnh; bịnh lành, cách trị cũng dứt. Quán sát cái khổ của sanh tử: nguyên nhân khổ, khổ tận diệt, cách diệt khổ cũng như vậy. Chỉ bậc Thánh thật biết gọi là thánh đế hoặc theo sự quán sát hai pháp không chân như chẳng tạo tác quán riêng không phải an lập xa. Quán tứ đế mỗi pháp có bốn hành là vô thường, khổ, không, vô ngã, nhân, tập, sanh, duyên, diệt, tịnh, diệu, ly, đạo, như, hành, xuất; do khổ đế hành hay trừ bốn pháp điên đảo nên có chung cuộc, là nhập chân đế. Gần quán pháp gia hạnh không chỉ quán khổ, mà quán không an lập mới vào chân đạo. Đối không khổ v.v… mà Phật dạy là khổ, chúng Thanh Văn không nắm trọn vẹn lời dạy ấy nên khởi chấp. Nay phá chấp kia nên nói Không, theo như chấp ấy hẳn không có tướng khổ, tập v.v… chân lý do đâu có sai biệt ấy. Do đây hoàn toàn là Không nên địa thứ năm tuy quán theo đây vẫn còn chấp thật hữu của tướng nhiễm tịnh thô. Tới địa thứ sáu mới dứt được chướng nhiễm tịnh. Nhiễm là hữu lậu tức ở đây cho là không có hai sự thật khổ, tập, tịnh là vô lậu, tức là không còn diệt, đạo của hai chân lý soi sáng sự thật.

– “Không trí cũng không đắc”. Lời tán, với người tu thắng không nói, trên không Thanh Văn cận quán, đây Không Bồ Tát cận quán năng đạt đạo gọi là trí, sở ngộ cảnh gọi là đắc. Có trí năng chứng mới có sở đắc (chỗ đạt được), trí đạt được không có sở đắc cũng Không. Như Khế kinh nói rằng, vì người cầu Bồ Tát nên phải nói sáu pháp, đạt đến giải thoát rốt ráo, chỉ nói không có trí đắc.

Nói tóm một lời: như pháp chẳng phải không trước có chỗ thi hành, sau mới có đắc. Do vậy Đại Kinh nói rằng, hết thảy trí không cho chí Vô Thượng Bồ Đề cũng không. Đúng phải nên nói: Bồ Tát quán đúng duy không an lập nên nói chung gần cũng không có trí đắc, như có bài kệ sau:

Nương thức có chỗ đắc

Cảnh sở đắc không sanh

Nương cảnh không đạt thành

Thức không sở đắc sanh

Tu trí vô phân biệt ngộ đạt pháp chân như tâm cảnh thỏa hiệp bình đẳng bình đẳng, cái chấp, chỗ bị chấp thảy đều Không. Hậu đắc trí lìa các tướng kết buộc giả dối, vọng chấp phải lìa hai chấp, lại có bài kệ:

Do thức có nắm giữ

Cũng thành không sở đắc

Nêu hết hai hữu chấp

Không đắc tánh bình đẳng.

Các địa khác chấp do chưa dứt phiền não nên quán không rõ, có nghĩa là còn hai chấp thủ, phá bỏ năng thủ nói là vô trí, phá sở thủ lại nói vô đắc. Hơn nữa, đối với hai pháp có che hai chấp thủ, riêng che hai chấp thủ nói là vô đắc – năng đắc, sở đắc – che chỗ diệu dụng nên gọi vô trí, soi chiếu đoạn trừ nên ở đây giải thích trừ tánh giả lập, tánh tùy thuộc là việc huyễn (không thật) khẳng định trí đắc, thể chân như tĩnh lặng hoàn toàn không có hai tướng đều nương ba tánh nói vô vi. Không phải thật trí sanh nên chẳng có; nói trí và trí xứ đều là bát nhã mà thật không có tướng chấp hay tướng chẳng chấp.

– “Vì vô sở đắc cho nên”. Lời tán, vì người tu pháp Không nói rằng trước nói đúng nên trong Không không có sắc, v.v… dù hợp thành thượng sắc cũng chẳng khác không, không sanh diệt… nhưng chưa giải thích sắc là không chỗ y cứ; nay nêu rõ trong Không không có pháp nào làm chỗ y cứ. Nếu trong sắc v.v… thể nó phần nào Có phải nương thắng nghĩa có thiểu phần sở đắc. Tất cả đều là vô đắc nên vốn Không, như Đại Kinh thuyết rằng: tự tánh không nên tất cả đều không. Nếu đúng phải nói như luận Biện Trung Biên rằng, Bồ Tát tu pháp thập thiện quán pháp khéo léo: 1) Uẩn 2) Xứ 3) Giới 4) Duyên khởi 5) Xứ chẳng xứ 6) Căn 7) Thể 8) Đế 9) Thừa 10) Hữu vi, Vô vi, do Ngài Xá Lợi Tử chậm ngộ pháp Đại Thừa. Nên đây nêu Không của Ba thừa gồm: chung, riêng, gần, xa, gia hạnh, căn bổn là sáu pháp. Quán hai pháp chân đạt ngộ sự lý, sáu tướng chấp đều không sở hữu. Tánh tùy thuộc, tánh tuyệt đối không định sáu tướng nên lấy vô đắc giải thích chung như trên là Không. Đại Kinh thuyết rằng, sắc v.v… các pháp không chỗ đắc nên tuệ giác sâu xa cũng không sở đắc.

– “Bồ đề tát đỏa (giác hữu tình) y Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nên không có khủng bố xa lìa hết thảy điên đảo mộng tưởng đạt đến Niết Bàn rốt ráo”. Lời tán: vì người tu nghĩa không nói rằng: trên phá hai chấp, mở rộng hai không, dưới ca tụng hai pháp y đạt được hai lợi. Ở đây ca tụng nhân pháp y mà đoạn chướng nhiễm được lợi lạc. Y như trên nói là danh khác của hành, quái có nghĩa là chướng, ngại là câu thúc, khủng là sợ, bố là hốt hoảng. Vì chưa y tuệ trí đắm sắc hữu ràng buộc lăn lộn trong các khổ luôn phát sanh khiếp sợ. Do hư vọng điên đảo và mộng tưởng sanh tử, nhờ đó phấn chấn hướng đến Niết Bàn rốt ráo. Đã y bát nhã ngộ sắc v.v… là Không liền không còn gì trói buộc ngăn ngại; kể cả khổ, sợ, đảo, tưởng… Vì cho rằng sanh tử tức Niết Bàn còn vọng cầu Niết Bàn rốt ráo làm gì, cho nên y bát nhã là xa lìa tất cả. Như đúng phải nói rằng dưới trở ngại nương học đức tốt để được lợi lạc, hầu lìa khổ chứng chân vậy. Đây nhằm tán thán Bồ Tát nhân tu tập mà đạt lợi ích. Bồ Tát lúc thường hay giảng pháp nhân duyên, văn tự để quán chiếu tìm xét thật tướng làm quyến thuộc tu trì. Không mong cầu biết tất cả mọi cảnh giới gọi là y bát nhã (tuệ trí); quái còn có nghĩa là phiền não chướng làm cho không đạt được Niết Bàn, ngại tức là sở tri chướng (trở ngại chỗ hiểu biết) không đạt được tuệ giác, hoặc cũng nói quái tức là ngại (chướng ngăn) gồm chung hai chướng. Khủng bố có nghĩa năm thứ sợ: 1) sợ không sinh sống nổi, vì phân biệt ngã chấp khởi sinh ái 2) sợ ô danh, làm việc bất lợi nên khởi niệm lo 3) sợ chết, do ngã kiến niệm nghĩ mất thân 4) sợ đọa ác thú vì gặp được chư Phật mà khởi tạo ác nghiệp 5) sợ khiếp số đông, thấy mình thấp kém, người khác trội hơn nên sanh tâm lo sợ. Điên đảo có bảy loại như: 1) tưởng, 2) kiến (chấp) 3) tâm 4) đối vô thường cho là thường 5) đối với khổ cho là vui 6) đối với bất tịnh cho là tịnh 7) đối với vô ngã cho là ngã. Với bốn thứ vọng tưởng sau đây khởi niệm phân biệt là tưởng ngược như: có thể nhẫn dục lạc, kiến lập, chấp bám là thấy ngược lại. Tâm đảo có nghĩa là phiền não có ba loại: 1) Căn bổn hay gốc rễ tức là ngu si 2) Thể tánh: nghĩa là chấp một bên và chỉ thấy một phần; giới cấm thủ, kiến thủ và tham, tát ca da tà kiến; ba đẳng lưu tức là những phiền não khác. Mộng tưởng có nghĩa là chưa đạt thật trí biết thường trong mộng tưởng. Do đây Phật dạy rằng sanh tử là đêm dài; mộng ảo tưởng khởi nên gọi là mộng tưởng. Bảy loại điên đảo trên do vọng tưởng sanh, trong mộng mà hành xử nên gọi là mộng tưởng, hoặc có thể nói các đảo trên là nhân của sanh tử. Mộng tưởng này là quả của vấn đề sanh tử. Như trong cơn mộng phần lớn thuộc thân cảnh nên dựa quả nêu danh mộng tưởng. Niết Bàn là từ tiếng Phạn. Trung Hoa (Đường) dịch là viên tịch, tức thể nó châu biến tánh vắng lặng vậy. Tuy tánh chân như không hai không khác nhưng nương duyên diệt để nói thì Niết Bàn có bốn loại: 1. Tự tánh thanh tịnh Niết Bàn tức hết thảy các pháp là thật tướng chân như 2. Vô trụ xứ Niết Bàn có nghĩa tâm đại bi, tuệ thường bổ sung nhau như đôi cánh chim ngoài sở tri chướng là thanh tịnh chân như 3. Hữu dư y Niết Bàn tức tập đế hết là hiển lộ chân như. 4. Vô dư y Niết Bàn tức khổ đế hết là hiển lộ chân như. Hữu Y lần đầu nói vì hết thảy phàm thánh bình đẳng đều có; chúng sanh không sanh diệt bản lai (xưa nay) vắng lặng. Hữu y thứ nhì nói chư Bồ Tát trụ nơi không chỗ trụ và Thanh Văn không đạt đến Niết Bàn. Hữu y hai loại sau hết nói rằng ba thừa cũng được giải thoát. Ở đây nói chung, do chư Bồ Tát y Bát Nhã ngộ ba không tánh và do ngã pháp cả hai Không hiển rõ hết thảy đều không. Tâm hành giả không bị hai chướng làm ngăn chướng, năm sợ hãi khủng bố, bảy đảo thúc buộc, mộng tưởng lầm lạc mới có thể đạt ngộ Niết Bàn rốt ráo. Hoặc chư Bồ Tát do y Bát Nhã tu pháp không (thắng giải) mang tư lương vào đạo dần chế phục hai chướng phân biệt hiện hành; tới gia hạnh vị mới dứt hết, cũng có thể dần dần chế phục hai món căn bản phiền não. Tâm không còn ngăn ngại là vào kiến đạo, đoạn chấp phân biệt tùy nguyện sớm viên thành. Không còn sợ hãi đối với tu đạo vị, gia hạnh tăng thêm dứt hết mọi thứ điên đảo, xa lìa hết mọi sanh tử mộng tưởng nên không còn phải học nữa mới đạt Niết Bàn rốt ráo; Bốn vị đã sẵn sàng từ đó thêm tiến lên. Ngoài ra đến Cực hỷ địa hết thảy phiền não xấu ác và sở tri chướng bên ngoài thô trọng thảy đều đoạn dứt, mới có thể làm cho phiền não không hiện hành. Tâm không quái ngại, trước hết phải ngộ được trí vô lậu, vô công dụng và không chấp tướng hết thảy mọi chướng ngại không còn những phiền não đạt vô sanh pháp nhẫn và sở tri chướng thô phù bên ngoài đều đoạn dứt. Hết thảy phiền não hoàn toàn không còn hiện tiền nên không còn sợ hãi. Nhân từ quả có danh, quả đã đoạn nên tối thượng viên thành Bồ Tát địa. Mọi phiền não thói quen, ngủ nghỉ và các sở tri chướng cốt lõi thô trọng thảy đều đoạn dứt. Nhập Như Lai địa gọi là xa lìa mọi điên đảo vọng tưởng, tức đã đoạn sạch hai chướng và ba trụ tâm, do đây tới quả Phật đạt Niết Bàn rốt ráo.

“Ba đời chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa nên đạt vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Tán rằng, vì người tu nghĩa không nói, trên ca ngợi nhân y theo đoạn chướng nhiễm, dưới tán y quả mà đạt Bồ Đề vậy. Ba đời là quá khứ, hiện tại và vị lai, chư Phật là số nhiều không phải một. Chữ Phật tiếng Phạn là Phật Đà (Buddha), nay lược xưng là Phật lấy tuệ làm chính, dịch là bậc giác còn gọi là chứng đạt hơn. A là Vô, Nậu đa la là Thượng, Tam là chánh, Miệu là đẳng, Tam nữa là chánh, Bồ Đề là giác. Mạt già gọi là đạo mà ở đây không dùng từ này. Không pháp nào vượt qua nên gọi là Vô Thượng, lý sự biết hết gọi là chánh đẳng, lìa vọng chứng chân lại gọi chánh giác tức là Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đại Trí Độ luận rằng trí và trí xứ đều gọi là Bát Nhã, ba đời giác ngộ do y theo đây nên chứng trí ngộ Không gọi là đạt chánh giác, hoặc chỉ thuyết tánh Không gọi là Bồ Đề (tuệ giác). Như Lai thân tướng vi diệu tức là pháp thân, như đúng phải nói: xuất ly sanh tử mà chứng ngộ tuệ trí như từ mộng tĩnh hợp với pháp tánh mà khai triển, thí dụ như hoa nở có đủ chân tục trí được tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Phật tiêu biểu là bậc tuệ giác viên mãn tuy thấy không tu song duy trì không ngưng việc cứu giúp mọi loài chúng sanh. Do đó cũng có thể nói Phật y nơi Bát Nhã mà y tức là tu vậy. Phật từ ngôi vị y Bát Nhã thực hành đạt được giác ngộ, đoạn này có năm phần như sau: 1. Tịnh pháp giới tức có nghĩa pháp thân Phật là chân như Niết Bàn đầy đủ chân tánh, công đức tuyệt vời. Do quán lý Không mà đạt quả vị nên ngoài bốn trí khác gọi là đức hữu vi, tức là chỗ chứng thọ dụng Phật thân. Nhân tu tự lợi mà đạt quả nên vị đại Bồ Tát hiện thân tướng trang nghiêm thanh tịnh. Phật thân quảng đại gọi là tha thọ dụng vì hàng nhị thừa hiện thân uế tịnh. Bất định Phật thân gọi là biến hóa thân đủ việc lợi tha do chỗ thích nghi mà hiện. Tự thọ dụng thân có đủ 140 pháp bất cộng về thật đức, nghĩa là các đức Như Lai đủ 32 tướng đại trượng phu; 80 vẽ đẹp tùy hình, bốn tâm thanh tịnh, mười lực, bốn vô sở úy (pháp không sợ), ba niệm trụ, ba pháp chẳng phòng hộ, tâm đại bi, không quên mất pháp, vĩnh viễn dứt lìa tập khí, hết thảy diệu trí, và ngoài ra còn có tám pháp giải thoát, 8 thắng xứ, 9 thứ đệ định, 10 biến xứ, bốn vô lượng, 3 môn giải thoát, 3 pháp vô sanh nhẫn, 37 phẩm trợ đạo Bồ Đề, năm nhãn, sáu phép thông, 4 vô ngại giải, vô tranh, nguyện trí, luôn trụ trong tánh xả, 18 pháp bất cộng cho chí nhứt thiết trí, chủng trí, vô lượng công đức nói không thể hết được. Thân thọ dụng và thân biến hóa cũng có đủ mọi công đức tương tợ như vậy. Công đức hữu vi bốn trí thâu nhiếp, lấy trí làm chính gọi Bồ Đề trí, pháp thân chân như là Bồ Đề đoạn đều gọi là Bồ Đề, do vậy nên biết đều xưng tán Bồ Đề. Mượn gọi Phật tức là mượn chung để ngộ được pháp riêng nên nói chư Phật y Bát Nhã đạt Bồ Đề, như thế bao hàm mọi công đức. Trí đoạn viên mãn đạt thành vô thượng giác, sanh khác hiểu dón gọn là chánh giác. Nhị thừa chia chẻ trí đơn giản gọi đẳng giác, Bồ Tát trí chưa đầy đủ là chánh giác, chỉ Phật chứng đắc viên mãn riêng đạt toàn danh hiệu.

Kinh Kim Cang có đoạn thuyết rằng: hết thảy chư Phật từ kinh này ra, tất cả Như Lai từ kinh này sanh, do vậy ba thân Phật đều là tuệ giác – Bồ Đề. Phần Lý Thú thuyết rằng, người tin học kinh này chóng đạt thành các hạnh Bồ Tát, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề nên Chánh Đẳng Chánh Giác đều do đây mà đạt.

– “Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú”. Tán rằng, vì người tu pháp không mà nói, trên đã bày riêng hai y của nhân quả đạt đến hai điểm lợi, dưới ca ngợi chung cái dụng của Bát Nhã. Tiếp theo trước nêu phần tóm kết, nói nên biết, chỗ diệu dụng khôn lường nói là thần, không tối không đèn là minh, tối thắng đệ nhứt là vô thượng. Không thứ gì có thể so sánh nên gọi vô đẳng đẳng. Đức Đại sư (Phật) bí mật nói cương lãnh diệu pháp để phá tà hiển chánh, trừ ác khuyến thiện, oai linh kính ngưỡng hiền thánh tuân thủ oai lực gia trì nên gọi là chú. Như đúng phải nói: chú tiếng Phạn là Đà la ni, dịch là tổng trì nói lược có bốn loại: 1. Pháp: đem lược lời giáo huấn hàm trong cái sâu. 2. Nghĩa: đem lược nghĩa hàm trong cái rộng 3. Năng: đạt Bồ Đề vô sanh pháp nhẫn như đức Từ Thị thuyết rằng: một để mật để kiết để tỳ lê đê (2 lần), bát đà nị sá ha. 4. Chú: Như đại kinh thuyết rằng, nạp mộ bạt già phạt đế, nhứt bát thích hoại ba la nhỉ đa duệ (2 lần) đát điệt tha tam thất truật duệ, tứ thất truật duệ, ngũ thất truật duệ, lục thất truật duệ tế thất sá ha.

Chú này có thần lực quảng đại như Kinh nói. Hai năng lực niệm huệ hàm đầy đủ vạn đức, đây theo cách nói xưa nêu chung gọi là chú, tiếp theo trước tóm kết hai pháp hành, sau là phần trì chú, thuyết rằng “nên biết đó”. Do từ nghĩa tổng trì đây đi qua chúng sanh, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát bốn đường hoặc qua diệu dụng của văn tự quán chiếu tròn sáng, hàng quyến thuộc lợi ích hơn. Thật tướng không thí dụ hoặc bốn đường chung nên ở đây gọi Bát Nhã là thần chú. Hay cũng gọi chú Bát Nhã này là đại thần chú chí đến gọi là vô đẳng đẳng chú, thuyết để khuyến khích các hành giả đều phải nương kinh đây mà hành 10 pháp, như ngài Từ Thị có bài kệ:

Gọi biên chép cúng dường

Cho người nghe tụng thường

Đúng khai triển thọ trì

Đọc tụng lẫn tư duy

Mười pháp kẻ thọ trì

Được vô lượng phước đức

Hơn đó không hết được

Do trì chú không dứt

– “Hay trừ hết thảy khổ”. Tán rằng trước làm sáng tỏ các đức, nay làm rõ việc phá ác; người tin ngộ được lời nói dứt trừ hết thảy mọi chướng, che tâm đều không nhiễm. Dù người gây tạo nhiều ác nghiệp cực nặng nhưng có thể vượt qua các nẽo ác (thú), như giết chúng sanh ba cõi, không do việc này mà đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ. Giá như trong các nghiệp phiền não nhưng do sanh nơi liên hoa nên hoàn toàn không bị nhiễm mà luôn hòa hợp với những việc tốt. Trong đây chúng sanh được trí vô ngại hay khéo ngộ nhập các tánh bình đẳng. Tự phẩn nộ và làm người khác tức giận đều có thể điều phục; đối với mọi oán thù trong đời này đêàu khởi tâm từ, thường gặp chư Phật đạt được túc trí (trí biết trước). Như được nghe Phật Pháp, ấn chú không quên mất, được pháp hỷ lạc luôn hiện ra trước mắt, thường chuyên tinh tấn tu tập các thiện pháp nên bọn ác ma, ngoại đạo không thể xâm (phạm) hại. Trời Tứ Thiên Vương thường theo ủng hộ và tránh khỏi chết oan, chết yểu, tang nạn… Chư Phật, Bồ Tát luôn hộ trì làm cho mọi lúc tăng thiện giảm ác. Nơi Phật quốc của chư Phật tùy nguyện được vãng sanh không đọa ác thú cho tới khi chứng quả giải thoát, chóng đạt hạnh Bồ Tát viên mãn, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ Đề, tùy tâm đã nguyện không đâu chẳng thành tựu viên mãn. Nhờ vậy từ cung thành tới tứ chúng nên tụng niệm để mà hàng phục, cung trời dùng Thiên nhãn mới thọ trì mà oán tiêu tan, huống là tự mình tâm thành khẩn thiết gieo nhân lành gặt quả tốt, không rơi vào năm đường ác, theo gót 10 phương chư Phật mà làm chủ chưa hề có.

– “Chân thật không hư”: Tán rằng để dứt nghi vấn khuyên người phát lòng tin mà nói lại lời này: làm sao Phật từ bỏ địa vị luân vương giàu sang vào rừng sâu vắng vẻ và bỏ hết mọi thứ trang sức để được tôn xưng là Từ phụ pháp vương. Theo chân các đạo sĩ mà được vinh danh trong hàng long tượng, Ngài là người dẫn dắt trời, người, khuyến dẫn chúng sanh thật là chưa hề có. Do vậy kinh thuyết rằng Như Lai là chân ngữ nhẫn đến không nói lời sai khác, nên phải tin tưởng phụng hành chớ khởi niệm hồ nghi.

– “Nên nói Bát Nhã Ba La Mật Đa Chú; liền nói chú rằng: vượt nhanh thoát, vượt nhanh thoát, vượt thoát, thoát qua bờ bên kia đạt tuệ giác, sá ha”. Tán rằng trên nói pháp có hai nghĩa trì để khuyên người tin mà thực hành là muốn sự linh diệu chóng hiệu dụng nên nói “trì” vậy. Phật đã trãi qua một đại kiếp dùng bi trí khổ tu với lực thệ nguyện kiên cường mà ở đây lược bớt không nói hết. Ý kinh thâm viễn lời dạy vô cùng hàm dung nghĩa rộng không dễ gì tán dương hết được.

***

Chú Thích:

(30) Chuyển luân thánh vương: có nhiều tên gọi như chuyển luân thánh đế, luân vương. Theo Luận Trí Độ q.4 ghi: vị quốc vương khi lên ngôi do thiên cảm mà có được luân bào, rồi lại vận chuyển luân bào đó mà hàng phục bốn phương nên gọi là chuyển luân thánh vương. Có thể gìải thích chuyển luân thánh vương là vị quân vương có thế lực cai trị nhiều nước nhỏ chung quanh.

(31) Tứ châu: bốn châu là Đông Thắng Thần Châu, Tây ngưu hoá châu, Nam thiệm bộ hay còn gọi là Nam diêm phù đề là châu chúng ta đang ở và Bắc cu lô châu nơi miền bắc cực giá băng quanh năm hầu như không có ánh mặt trời.

(32) Cõi đại thiên tức là đại thiên thế giới: thế giới chia thành: tiểu thiên, trung thiên, và đại thiên. Gồm chung bốn đại châu, mặt trăng, mặt trời, chư thiên lại thành một thế giới. Một ngàn thế giới gọi là tiểu thiên, 1000 tiểu thiên thành một trung thiên thế giới. 1000 trung thiên thế giới thành một đại thiên thế giới hay cõi đại thiên.

(33) Các pháp trợ đạo bồ đề: gồm có 37 phẩm thứ tự như sau: – bốn chánh cần: điều ác chưa sanh, đừng cho sanh; điều ác đã sanh khiến cho tiêu diệt; điều thiện chưa sanh làm cho sanh, điều thiện đã sanh làm cho tăng trưởng. – bốn niệm xứ: quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ; quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. – bốn như ý túc: dục, tinh tấn, niệm, định như ý túc – năm căn: tín, tấn, niệm, định, huệ căn – năm lực: tín, tấn, niệm, định, huệ lực – thất bồ đề phần: trạch pháp, hỷ, tinh tấn, khinh an, niệm, định, xả – bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh mạng, chánh niệm, chánh định.

(34) Diệt tận định: còn gọi là diệt thọ tưởng định: Diệt tận tam muội là một trong 2 vô tâm định, là loại Định diệt tận tâm, tâm sở của lục thức mà không để bị trói buộc nữa. Đây là pháp Định rất cao của các bậc Thánh giả từ quả Bất Hoàn trở lên. Bậc Thánh vượt qua tầng trời Phi tưởng Phi Phi tưởng để nhập vào Niết Bàn. Loại Vô tâm định của ngoại đạo được gọi là Vô tưởng định, thuộc đệ tứ thiền.

(35) Đệ nhứt nghĩa: điều quan trọng nhất, điều đầu tiên của sự lý gọi là đệ nhứt nghĩa. Lý thâm diệu tuyệt đỉnh, không gì cao sâu hơn.

(36) Vô sanh nhẫn: an trụ ở cái lý không sanh không diệt mà không động. Đây là nhẫn thứ tư trong ngũ nhẫn theo kinh Nhân Vương Trí Độ luận quyển 50: “vô sanh nhẫn pháp là đối với thực tướng không sinh diệt của các pháp tin nhận thông suốt, không vướng mắc, không thoái lui, nên gọi là vô sanh nhẫn”.

(37) Pháp vương: vua pháp chỉ Đức Phật là vua của các pháp, bậc tự do tự tại không bị lệ thuộc ràng buộc vào bất cứ một pháp nào nên gọi là pháp vương.

(38) Pháp quán đảnh: lễ tôn giáo rưới nước lên đỉnh đầu. Ngày xưa ở Ấn Độ, khi vị tân vương lên ngôi, người ta tổ chức nghi lễ quán đảnh thật long trọng. Trong buổi lễ, vị đứng đầu Tăng chúng trong nước làm phép lành rưới nước của bốn biển lên đầu đức vua.

(39) Trong chư Tăng tại một số nước Phật giáo khi làm lễ truyền giới, truyền pháp, người ta cũng theo nghi thức vị sư trưởng rưới nước lành lên đầu người mới được thọ giới.

(40) Hạnh thắng giải: hạnh nhận biết rõ ràng, dứt khoát. Một trong 5 tâm sở biệt cảnh, theo môn Duy Thức học. Tác dụng của hạnh thắng giải là phá nghi, xóa hết nghi, trong nhận thức không còn phân vân nữa.

    Xem thêm:

  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 2) - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Cửu Tụng Tinh Nghĩa - Luận Tạng
  • Lược Giải Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa - Luận Tạng
  • Luận Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề - Luận Tạng
  • Luận Thích Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Phá Thủ Trước Bất Hoại Giả Danh - Luận Tạng
  • Luận Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Thích Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Tụng Kinh Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa - Luận Tạng
  • Luận Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Ý Nghĩa Quyết Định Của Pháp Hoa Huyền Tán - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Đại Thừa Khởi Tín Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ (Trọn bộ 5 tập) - Luận Tạng
  • Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn - Luận Tạng
  • Luận Đại Tông Địa Huyền Văn Bổn - Luận Tạng