QUYỂN 3
ĐÀM-VÔ-SẤM
Đàm-vô-sấm còn gọi là Đàm-ma-sấm. Sư người Thiên Trúc, lên sáu đã mồ côi cha, sống với mẹ, được sa-môn Đạt-ma-da-xá thâu nhận làm đệ tử, cho học pháp Tiểu thừa. Sau, sư gặp được thiền sư Bạch Đầu mới học Đại thừa. Năm hai mươi tuổi, sư thông thuộc hơn hai trăm vạn lời kinh Đại thừa và Tiểu thừa. Anh họ của sư có tài điều phục voi, nhưng làm chết con đại tượng tai trắng của vua cưỡi. Vua tức giận sai người giết và ra lệnh:
– Ai đến dám đến nhận thân nhân, sẽ bị tru di tam tộc.
Quyến thuộc chẳng ai dám đến, chỉ có sư khóc lóc chôn cất. Vua tức giận định giết sư, sư nói:
– Bệ hạ vì luật pháp giết người này, tôi cũng lấy tình thân mà chôn cất người này, chẳng ai trái đại nghĩa, cớ sao lại giận tôi?
Những người xung quanh đều khiếp sợ, riêng sư vẫn thản nhiên. Vua kính phục trước chí khí của sư, bèn giữ lại để cúng dường. Sư rất giỏi chú thuật, cầu nguyện điều gì cũng được linh nghiệm, vì thế người Tây Vực gọi là Đại Chú Sư.
Một hôm, cùng vua lên núi, vua khát mà không có nước uống, sư thầm đọc chú thì trong đá tuôn ra một dòng nước. Nhân đó sư nói:
– Ân đức của đại vương cảm đến đá cũng sinh nước.
Dân nước lân cận nghe vậy đều ca ngợi đức độ vua. Bấy giờ, mưa thuận gió hòa, bá tánh an vui.
Sau khi biết được việc ấy là do đạo thuật của sư, vua càng thêm quý trọng. Nhưng không bao lâu, sự ân sủng giảm dần, sư cho rằng nếu ở lại đây lâu vua sẽ chán ghét, bèn từ giả đến nước Kế-tân. Sư muốn truyền bá Đại thừa tại nước này, nhưng không thích hợp, nên lên đường đến Qui-tư, rồi sang Cô Tang. Vào nghỉ trọ tại một lữ quán, vì sợ mất nên sư gối đầu lên kinh ngủ. Đêm đó có người kéo sư xuống đất, thức giấc cứ nghĩ là kẻ trộm. Trải qua ba đêm như thế, sư bỗng nghe trên không trung có tiếng nói vọng xuống: “Đây là tạng giải thoát của Như Lai, cớ sao lại đem gối đầu!”. Sư mới hiểu ra, liền đem kinh an trí ở trên cao. Tối hôm đó có kẻ đến trộm, nhưng hắn nhấc mãi mà kinh không hề lay động. Đến khi trời sáng, sư cầm kinh lên một cách nhẹ nhàng, kẻ trộm thấy vậy cho sư là thánh nhơn, liền đến lễ lạy sám hối.
Bấy giờ, Hà Tây vương Thư Cừ Mông Tốn chiếm đất Lương. Có lần sư bảo Mông Tốn rằng:
– Ta thấy ma quỷ vào làng xóm, ắt sẽ xảy ra nhiều nạn dịch bệnh.
Mông Tốn không tin muốn đích thân chứng nghiệm. Sư liền dùng chú thuật giúp Mông Tốn nhìn thấy, Mông Tốn thấy được, vô cùng kinh hải. Sư nói:
– Phải chí thành trai giới, rôi dùng thần chú xua đuổi.
Sư tụng chú suốt ba ngày rồi nói với Mông Tốn:
– Ma quỷ đã đi rồi.
Trong vùng có người có khả năng thấy được quỷ ông ta cho biết:
– Tôi thấy mấy trăm quỷ dịch bệnh tranh nhau bỏ chạy.
Nhờ đó, nhân dân vùng này được yên ổn.
Bấy giờ, vương nước Ngụy là Thác Bạt Đảo, nghe sư có đạo thuật bèn sai sứ giả sang nghinh đón. Mông Tốn phụng sự sư đã lâu nên không nỡ xa. Sau đó, sứ giả nước Nguỵ lại dùng lời lẽ ôn hòa xin được thỉnh đón sư, Mông Tốn luyến tiếc không cho, nhưng lại sợ sự hùng mạnh của nước Ngụy.
Đến tháng 9 niên hiệu Nghĩa Hòa thứ ba, sư xin sang Tây Vực để tìm thỉnh phần sau của bộ kinh Niết-bàn kinh Hậu phần. Mông Tốn tức giận muốn giết sư, nên ngầm lập mưu để hại, giả vờ đến đưa tiển và tặng sư nhiều của cải quí báu. Ngày lên đường, sư rơi lệ nói với mọi người:
– Nghiệp phải trả nay đã đến rồi, các vị thánh cũng không thể nào cứu được. Nhưng ta đã lập thệ, quyết không bỏ cuộc!
Đến ngày sư lên đường, quả thật Mông Tốn đã cho thích khách chặn đường giết. Sư mất lúc mới 49 tuổi, bấy giờ nhằm niên hiệu Nguyên Gia thứ mười (433) đời Tống. Mọi người xa gần đều thương tiếc.
Sau đó, ngay giữa ban ngày các cận thần của Mông Tốn thường thấy quỷ thần lấy kiếm đâm Mông Tốn. Đến tháng tư năm sau, Mông Tốn mắc bệnh trầm trọng rồi qua đời.
BÔI ĐỘ
Không rõ sư tên họ là gì, mọi người thường thấy sư cưỡi bát gỗ qua sông, nên gọi là Bôi Độ.
Ban đầu, sư ở Kí Châu, không tu tế hạnh, nhưng thần lực siêu việt, thế gian không ai lường được.
Có lần, sư nghỉ lại qua đêm tại một gia đình ở phía bắc. Trong nhà có một tượng Phật bằng vàng, sư lén mang đi. Chủ nhà thức dậy, cho người đuổi theo. Sư đi rất chậm mà họ phi ngựa đuổi theo không kịp. Đến sông Mạnh Tân, sư lại thả bát gỗ xuống nước để sang sông, tuy không có gió thổi mà đi nhanh như bay. Không bao lâu, sư sang đến bờ, vào kinh đô. Năm đó, sư khoảng 40 tuổi.
Sư thường mặc áo quần rách rưới lam lũ, không đủ che thân, nói năng tùy tiện, mừng giận bất thường. Có lúc trời giá lạnh mà tắm gội, hoặc mang giày cỏ lên non, hoặc đi chân trần vào phố chợ, chỉ mang theo một giỏ sậy, không có vật gì khác. Có lần sư đến chùa Diên Hiền, đạo nhơn Pháp Ý tiếp đãi sư ở một phòng riêng.
Một hôm, sư muốn sang sông Qua Bộ, đến gặp chủ thuyền xin đi nhờ nhưng ông ta không cho. Sư bèn đặt chân vào trong bát gỗ, nhìn quanh, ngâm thơ ê a, cái bát tự nhiên trôi thẳng, đưa sư sang tới bờ.
Đến Quảng Lăng, sư gặp hội bát quan trai tại nhà họ Lý trong thôn. Dù không quen biết, nhưng sư vẫn đi thẳng vào ngồi trong trai đường, đặt giỏ sậy giữa nhà. Mọi người thấy sư rách rưới sinh tâm bất kính. Ông Lý thấy giỏ sậy nằm chắn lối đi, muốn dời qua chân tường, nhưng mấy người nhấc lên cũng không nổi. Thụ trai xong, sư đến lấy mang đi nhẹ nhàng, và cười nói:
– Tứ thiên vương, Lý gia!
Khi ấy, một đứa bé nhìn thấy trong giỏ sậy có bốn tiểu nhi cao vài tấc, mặt mũi khôi ngô, áo quần đẹp đến tìm thì không thấy đâu.
Vài ngày sau, mọi người thấy sư ngồi dưới tàng cây rậm rạp ở phía đông nhà, ông Lý đến lễ bái thỉnh sư về, cúng dường mỗi ngày. Sư không ăn chay mà lại uống rượu ăn thịt chẳng khác gì người thế tục, bá tánh cúng dường, có lúc nhận lúc không.
Lưu Hưng Bá người nước Bái làm thứ sử Duyện Châu, sai sứ giả sang thỉnh. Sư mang theo giỏ sậy, Hưng Bá cho người nhấc lên xem thử, nhưng hơn mười người vẫn không nhấc nổi. Hưng Bá đích thân đến nhìn, chỉ thấy một chiếc áo rách và một cái bát gỗ.
Sau, sư trở về nhà họ Lý, ở lại đây hơn hai mươi ngày. Sáng sớm hôm ấy bỗng nhiên sư nói:
– Ta muốn một chiếc cà sa, trưa nay phải có.
Ông Lý hết lòng lo liệu, nhưng đến trưa vẫn chưa có. Sư nói:
– Ta đi đây một chút!
Đến tối, không thấy sư trở về, cả thôn thoảng nghe có mùi hương lạ, mọi người nghi ngờ, chia nhau đi tìm khắp nơi. Đến chân núi phía bắc, mọi người thấy sư nằm trên tấm cà-sa rách, an nhiên thị tịch, nơi đầu và chân đều mọc lên hoa sen thơm ngát, suốt một ngày mới héo. Người khắp vùng chung nhau lo lễ an táng sư. Vài hôm sau, một người từ phương bắc đến kể:
– Tôi gặp sư quảy giỏ sậy đến Bành Thành.
Nghe thế, mọi người đào quan tài lên, chỉ thấy còn lại một đôi giày.
Khi sư đến Bành Thành, cư sĩ Hoàng Hân là người tin sâu Phật pháp đến đảnh lễ và thỉnh về nhà. Gia đình ông ta rất nghèo, chỉ ăn lúa mì mà thôi, nhưng sư vui vẻ ở lại đây nửa năm, một hôm sư nói với Hân:
– Hãy tìm ba mươi sáu cái giỏ sậy, ta cần dùng đến nó.
Hân thưa:
– Nhà con chỉ được mười cái, vì không có tiền nên không mua thêm được, e rằng con không lo đủ cho thầy!
Sư nói:
– Ông hãy tìm kỹ lại, trong nhà ắt có đủ.
Hân bèn lục tìm khắp, quả đủ ba mươi sáu cái, rồi bày ra hết trong sân. Tuy có đủ, nhưng nhiều cái đã hư rách. Đến khi Hân lần lượt xem lại tất cả đều thành đồ mới. Sư âm thầm đậy giỏ lại rồi bảo Hân mở ra, thì thấy trong các giỏ đều đầy ắp tiền bạc lụa là. Người hiểu biết cho rằng sư đã phân thân đến nước khác nhận vật cúng dường, trở về bố thí cho Hân. Hân thụ nhận tất cả rồi dùng vào việc tu tạo công đức.
Khoảng một năm sau, sư từ biệt ra đi. Hân chuẩn bị nhiều lương thực cúng dường, nhưng sáng hôm sau nhìn thấy lương thực vẫn còn nguyên, không biết sư đi đâu.
Sau, Trên đường đến Ngô quận, sư gặp người câu cá, liền đến xin. Ông ta đưa một con cá chết, sư cầm lật qua lại rồi thả xuống sông, cá sống lại bơi đi. Một lát sau, gặp ông chài, sư lại đến xin cá. Ông chài tức giận mắng chửi, không cho. Sư nhặt hai viên đá ném xuống sông, bỗng có hai con trâu húc nhau trong lưới, khi lưới rách nát, trâu biến mất sư cũng không còn ở đó. Đến Tùng Giang, sư lật ngửa dù làm thuyền để qua sông. Sư đến huyện Diệm ở Cối Kê rồi lên núi Thiên Thai, ở đây được vài tháng, lại trở về kinh đô. Sư ở đâu cũng chỉ một thời gian ngắn, đến đi không cố định, được người thỉnh mời có lúc đến, lúc không.
Bấy giờ, ở Nam Châu có một gia đình họ Trần rất giàu. Khi sư đến, cả nhà đều hết lòng kính phụng. Nghe ở kinh đô lại có một Bôi Độ, năm cha con họ Trần không tin, tìm đến xem, quả rất giống sư Bôi Độ đang ở nhà mình. Ông Trần dọn ra một hộp mật gừng, một con dao và một chiếc khăn tay ướp hương huân lục. Sư ăn hết mật gừng, những thứ còn lại đem để trên đùi. Mọi người đều nghi là sư Bôi Độ ở nhà mình, liền cho hai người em ở lại theo dõi, ba người còn lại quay về nhà, thấy sư Bôi Độ ở nhà cũng có cây dao, khăn thơm.v.v..chỉ khác là không ăn mật. Sư bèn nói với ông Trần:
– Cây dao này lụt quá, ông mài lại giúp tôi!
Hai người em trở về báo rằng sư Bôi Độ kia đã đến chùa Linh Thứu.
Một hôm sư nói với ông Trần là cần gấp hai tấm giấy màu vàng để làm sách, rồi viết lên mặt sau hai chữ Bất thành. Ông Trần bèn đến hỏi sư là viết sách gì thế. Sư không đáp, cuối cùng chẳng ai biết được ý sư.
Bấy giờ, sứ giả nước Ngô là Chu Linh Kỳ đi sứ Cao Ly, trên đường trở về gặp gió bão, thuyền phiêu bạt suốt chín ngày rồi lạc đến một hòn đảo, trên đảo có một ngọn núi rất cao. Linh Kỳ vào núi đốn củi, nhìn thấy một người đi đường, bèn dẫn mọi người lần theo để xin ăn. Đi hơn mười dặm, họ nghe tiếng khánh và mùi hương trầm, bèn cùng nhau lễ bái, niệm danh hiệu Phật. Chẳng mấy chốc, họ nhìn thấy một ngôi chùa rất tráng lệ, trang hoàn bằng bảy báu, lại thấy hơn mười người bằng đá, họ cùng lễ bái rồi quay trở về. Đi được mấy bước, họ nghe tiếng xướng đạo,[1] bèn quay lại nhìn kĩ vẫn là người đá. Linh Kỳ và mọi người đều cho là thánh tăng, bèn nói với nhau:
– Chúng ta là những ngưòi có tội nên không nhìn thấy được các ngài!
Họ cùng nhau chí thành sám hối, liền thấy được người thật. Chư tăng trong chùa dọn cơm nước tiếp đãi, thức ăn cũng là rau nhưng hương vị khác hẳn thế gian. Ăn xong, họ cùng nhau đảnh lễ, xin phép trở về quê nhà. bấy giờ có một vị tăng đến nói:
– Nơi này cách kinh đô hơn hai mươi vạn dặm, nhưng nếu chí tâm thì nhất định đi rất nhanh.
Vị tăng lại hỏi Linh Kỳ:
– Ông có biết ngài Bôi Độ không?
Linh Kỳ thưa:
– Dạ con biết!
Vị tăng chỉ lên vách phía bắc, ở đó có treo cái hồ lô, tích trượng, bình bát, và nói:
– Đây là chỗ ở của sư Bôi Độ, nay tôi nhờ ông mang bình bát và hộp thư này đến cho sư.
Rồi đưa riêng một cây gậy trúc và dặn:
– Ông ném cây gậy này xuống biển ngay trước mũi thuyền, đóng cửa ngồi yên không cần chèo chống, thuyền vẫn lướt nhanh.
Nói xong, vị tăng từ biệt và sai một sa-di tiển đến cổng, lại dặn dò thêm:
– Các vị theo lối này bảy dặm sẽ thấy thuyền, không cần đi theo lối cũ.
Theo lời vị tăng, mọi người đi về hướng tây khoảng bảy dặm thì đến nơi. Ông ta làm y như lời vị Tăng dạy chỉ nghe tiếng thuyền lướt qua cây cối, núi non, hoàn toàn không thấy nước. Ba ngày sau, thuyền dừng ở sông Hoài tại Thạch, thì không thấy cây gậy trúc nữa. Thuyền đi theo sông Hoài đến Chu Tước, mọi người thấy sư Bôi Độ ngồi trên chiếc thuyền lớn, cầm cành lan quất vào mạn thuyền nói:
– Ngựa! ngựa! Sao không đi?
Người bên đường đứng xem rất đông, Linh Kỳ và mọi người trên thuyền từ xa đỉnh lễ. Sư xuống thuyền nhận thư và bình bát, mở thư xem, nhưng chữ viết trong thư không ai hiểu được. Sư cười lớn nói:
– Bảo ta trở về ư!
Nói xong, sư ném bình bát lên mây rồi lại đón lấy, nói:
– Đã bốn ngàn năm, ta không nhìn thấy cái bát này!
Sư thường ở chùa Diên Hiền với sư Pháp Ý. Người bấy giờ cho cái bát đó là vật khác thường, nên tranh nhau đến xem.
Có nô tỳ tên Dữu Thường ăn trộm đồ vật rồi bỏ trốn, tìm bắt khắp nơi nhưng không được, họ đem việc này hỏi sư, sư đáp:
– Nó chết rồi! Chôn ở bên sông tại Kim thành.[2]
Họ đến xem quả đúng như vậy.
Khổng Ninh Tử đương thời làm quan thị lang, mắc bệnh lị, cho người mang thư đến thỉnh sư, sư chú nguyện xong và nói:
– Khó qua khỏi, vì ta thấy bốn quỷ đều bị thương.
Ninh Tử khóc lóc nói:
– Trước đây Tôn Ân làm loạn, nhà cửa bị quân lính tàn phá, cha mẹ và chú đều chịu cảnh khổ sở.
Không bao lâu, Ninh Tử qua đời.
Sau, mẹ của Tề Giai là Hồ thị bị bệnh, nhưng không ai trị khỏi. Gia đình thiết lễ trai tăng cúng dường, một vị tăng khuyên ông ta đến thỉnh sư, được sư chú nguyện, bệnh bà ấy lành hẳn, Tề Hài kính phục, xin làm đệ tử, nhân đó viết truyện ký về sư.
Những chuyện thần kỳ của sư, xưa nay không thể nào ghi hết. Tháng 9 niên hiệu Nguyên Gia thứ ba (427), sư từ biệt Tề Hài, đi về hướng đông và gởi lại Tề Hài một vạn lạng bạc thay sư sắm sửa lễ vật cúng dường chư tăng. Sư đi đến bờ hồ ở Xích Sơn thì mắc bệnh rồi viên tịch. Tề Hài làm lễ trai tăng như lời sư dặn và thỉnh nhục thân sư về an táng tại núi Phú Chu tỉnh Kiến Khang.
Niên hiệu Nguyên Gia thứ tư (428) có Thiệu Tín ở Ngô Hưng tôn sùng Phật pháp, mắc bệnh thương hàn, không ai dám chăm sóc. Ông ta buồn khóc niệm bồ-tát Quán Âm, bỗng thấy một vị tăng đến nói:
– Ông đừng đau buồn! Tôi là đệ tử sư Bôi Độ, thầy tôi sẽ đến trị liệu cho ông:
Thiệu Tín thưa:
– Sư Bôi Độ viên tịch đã lâu, sao đến đây được?
Vị tăng nói:
– Sống lại có khó gì?
Nói xong, vị tăng liền lấy trong đai ra một hộp thuốc đã tán nhỏ, cho uống, bệnh liền lành hẳn.
Lại có Đỗ Tăng Ai nhà ở chân núi phía nam, trước đây đã từng hầu hạ sư, con trai bị bệnh rất nặng, ông ta buồn tủi vì không còn được sư chú nguyện. Hôm sau, ông bỗng thấy sư đến nói chuyện như lúc sống còn chú nguyện cho con ông hết bệnh.
Tháng ba niên hiệu Nguyên Gia thứ năm (429), sư trở lại nhà Tề Hài. Lữ Đạo Huệ nghe nói rất xót xa, còn các vị như; Đỗ Thiên, Kỳ Thủy, Khâu Hy.v.v..nhìn thấy sư, họ đều kinh ngạc đến lễ bái. Sư nói với mọi người:
– Năm nay có đại nạn, phải siêng tu phước, sư Pháp Ý rất có đức, hãy đến nương theo, và tu sửa chùa chiền để trừ tai họa.
Một lát sau, ngoài cửa có một vị tăng gọi sư, sư bèn từ biệt, nói:
– Bần đạo sẽ về Giao Quảng, không trở lại nữa.
Tề Giai cùng mọi người lễ bái, ân cần đưa tiễn, thế rồi sư biến mất. Gần đây, mọi người bảo cũng có thấy sư.
THÍCH ĐÀM ĐẾ
Sư họ Khương, tổ tiên ở nước Khương Cư. Đời Hán Linh Đế, gia đình sư dời đến sống ở Trung Quốc, cuối đời Hiến Đế, đất nước loạn lạc nên phải dời đến Ngô Hưng. Cha sư tên Đồng làm chức biệt giá ở Kí châu. Mẹ sư họ Hoàng, một đêm mộng thấy vị tăng gọi bà là mẹ, rồi gởi lại cây phất trần và hai vật chấn giấy bằng sắt. Thức dậy, bà thấy những vật ấy bên cạnh, nhân đó mang thai sư.
Lúc lên năm, mẹ sư mang cây phất trần và vật chấn giấy ra, thấy vậy sư bảo:
– Đây là vật của vua Tần tặng con.
Mẹ sư hỏi:
– Con để chỗ nào?
Sư đáp:
– Con không nhớ.
Năm lên mười, sư xuất gia, tuy không theo thầy học hỏi nhưng do thông minh thiên phú nên hiểu biết tất cả. Sư theo cha đến Phàn Đặng,[3] gặp sư Tăng Lược ở Quan Trung, bỗng nhiên sư gọi tên vị tăng ấy. Vị tăng bảo:
– Này sa-di! cớ sao gọi tên của lão tăng?
Sư đáp:
-Vừa rồi, bất chợt tôi gọi như thế, là vì ngài là sa-di của Đế tôi. Khi xưa, nhân đi hái rau cho chúng tăng ngài bị heo rừng làm hại, bất giác la lớn.
Vị tăng ấy vốn là đệ tử của pháp sư Hoằng Giác, vì đi hái rau cho chúng tăng cũng bị heo rừng làm hại. Tăng Lược hoàn toàn không nhớ, nên đến gặp cha sư. Người cha kể lại đầu đuôi câu chuyện, mang hai vật chấn giấy và phất trần ra, vị tăng hiểu ra liền bật khóc, bảo:
– Đây chính là vật của tiên sư Hoằng Giác. Tiên sư từng đến kinh đô giảng kinh Pháp hoa cho Diêu Trường, lúc đó bần đạo làm đô giảng[4] cũng theo tiên sư, chính Diêu Trường đã tặng hai vật này, nay sao lại ở đây?
Tính lại ngày pháp sư Hoằng Giác viên tịch, chính là ngày mẹ sư nằm mộng thấy vị tăng đến gởi hai vật đó. Tăng Lược nhớ lại việc hái rau, lòng càng thương kính. Bản sư tánh thích cảnh núi rừng, nên sau đó trở về lại Ngô Hưng, vào núi Chương Côn, sống an nhàn thanh đạm hơn hai mươi năm.
Cuối niên hiệu Nguyên Gia nhà Tống, sư thị tịch, thọ hơn sáu mươi tuổi.
CẦU-NA-BẠT-MA
Cầu-na-bạt-ma, Trung Hoa dịch là Công Đức Khải. Sư thuộc dòng Sát-lợi, tổ tiên nhiều đời làm vua cai trị nước Kế-tân. Năm mười bốn tuổi, sư đã thông minh hiểu rộng trí tuệ uyên bác, bản tánh nhân từ hòa ái, tôn sùng đạo đức thích làm việc thiện. Có lần, mẹ sư muốn ăn thịt rừng, bảo sư làm. Sư đáp:
-Tất cả mọi loài đều tham sống sợ chết, nếu giết chúng thì chẳng phải là người nhân từ.
Năm hai mươi tuổi sư xuất gia, thụ giới, làu thông cữu bộ,[5] hiểu rộng bốn bộ A-hàm[6] tụng kinh hơn trăm vạn lời, hiểu sâu luật tạng, thấu đạt yếu chỉ thiền. Người đương thời gọi sư là Tam tạng pháp sư. Năm sư ba mươi tuổi, vua nước Kế-tân băng, nhưng không có người kế vị. Quần thần bàn bạc:
– Bạt-ma vốn dòng dõi vua chúa, tài đức lại song toàn, chúng ta nên đến thỉnh ngài hoàn tục để kế vị.
Quần thần kéo đến hơn trăm người, nhiều lần cầu thỉnh nhưng sư không nhận lời. Sư bèn từ biệt thầy và đại chúng đi khắp nơi, rồi ẩn cư trong rừng sâu. Sau đó, sư đến nước Xà-bà.
Trước lúc sư đến, thái hậu nước Xà-bà mộng thấy một vị đạo sĩ đi trên thuyền lớn vào nước mình. Sáng ra, quả thật sư đến. Thái hậu rất kính tin Tam bảo, nên cầu xin sư thụ trì năm giới. Nhân đó, thái hậu khuyên vua:
– Đời trước có phúc duyên rất lớn nên mới trở thành mẹ con, nay mẹ đã thụ giới rồi mà con không kính tin Tam bảo, e rằng đời sau chúng ta không còn được phúc duyên này.
Vua liền vâng lời mẹ, thụ trì giới cấm, dần dần bỏ hết mọi dục nhiễm, tinh chuyên tu tập. Lúc ấy, nước láng giềng đem quân xâm lấn, vua nói với sư:
– Giặc bên ngoài cậy thế muốn xâm lấn đất nước, nếu ta giao chiến thì sẽ làm tổn thương rất nhiều người, còn nếu ta không chống trả thì đất nước này sẽ bị nguy vong. Nay chỉ nương theo thầy, chứ không biết phải làm sao!
Sư đáp:
– Thế giặc hung bạo thì phải chống trả, nhưng nên khởi lòng từ bi chớ có tâm sát hại!
Vua đích thân thống lãnh binh chinh phạt, cờ trống nổi lên, vừa giao chiến giặc đã chạy tán loạn, vua bị một mũi tên bay lạc xuyên qua chân, sư liền chú nguyện vào nước rồi rửa cho vua, chỉ hai ngày sau thì bình phục. Sau đó, vua xây tinh xá cho sư, và đích thân đẻo cây, bị thương ở ngón chân, sư lại chú nguyện để chửa trị, chỉ trong chốc lát liền bình phục. Bấy giờ, những sa-môn danh đức ở kinh đô như: Huệ Quán, Huệ Thông … từ xa kính ngưỡng đạo phong của sư nên đều muốn đến tham vấn.
Tháng chín, niên hiệu Nguyên Gia thứ nhất (424), mọi người xin Văn Đế thỉnh sư, Văn Đế liền lệnh cho thứ sử ở Giao châu đưa thuyền lớn đến đón. Sa-môn Huệ Quán… cũng sai các sa-môn như: Pháp Trường, Đạo Xung, Đạo Tuấn…đến thỉnh. Văn Đế biết sư đã đến Nam Hải, liền lệnh cho quan ở các quận huyện khắp nơi trợ giúp sư đến kinh đô. Đường đến Thỉ Hưng phải trải qua hơn một năm. Ở Thỉ Hưng có núi Hổ Thị cao sừng sững, sư bảo núi này tựa như Kì-xà-quật, nên đổi tên là Linh Thứu. Sư lập một thiền thất cách chùa vài dặm. Tuy không nghe được tiếng khánh, nhưng mỗi lần đánh kiền chùy thì sư đã có mặt, gặp trời mưa lớn cũng không ướt, hoặc đi lên bùn chân vẫn không dơ. Đạo tục đương thời càng cung kính sư. Trong chùa có điện Bảo Minh, sư dùng tay vẽ tượng La-vân[7] và bức tranh Định Quang Nho Đồng bố phát[8] ở bức tường phía bắc. Sau khi bức tranh hoàn thành, mỗi đêm đều phóng ra ánh sáng, rất lâu mới hết.
Bấy giờ, Thái Mậu Chi làm thái thú ở Thủy Hưng rất kính ngưỡng sư. Lúc ông sắp chết, sư đích thân đến thăm và thuyết pháp an ủi. Sau khi mất, người nhà mộng thấy ông ở chùa giảng pháp cho chư tăng.
Núi này có nhiều hổ, nhưng từ lúc sư đến ở, mọi người sớm tối đi về an ổn, có lúc gặp hổ, sư dùng tích tượng gõ nhẹ lên đầu, nó liền bỏ đi. Lần nọ, sư tọa thiền trong thất riêng nhiều ngày chưa xuất định, chư tăng trong chùa sai một sa-di đến hầu. Khi đến, sa-di thấy một con sư tử trắng đứng dựa cột, quanh thất mọc rất nhiều hoa sen xanh, sa-di kinh sợ kêu lớn, mọi người đến xem thì sư tử biến mất.
Trước khi thị tịch, sư làm bài thi kệ di chúc ba mươi sáu hàng, kể lại nhân duyên đã chứng nhị quả,[9] tự tay niêm lại và trao cho đệ tử là A-sa-la rồi dặn:
– Sau khi ta qua đời, ngươi hãy mang bức thư này đến cho chư tăng ở Thiên Trúc, đồng thời thông báo cho chư tăng vùng này biết.
Sau khi dặn dò xong, sư ngồi kiết già trên thằng sàng an nhiên thị tịch, dung mạo không đổi, như đang nhập định. Đạo tục hay tin kéo đến hơn ngàn người, hương lạ thơm ngào ngạt, mọi người đều thấy một vật giống như con rồng dài hơn một thất,[10] từ bên nhục thân của sư vọt thẳng lên trờ,i không trở lại. Mọi người liền thỉnh nhục thân sư làm lễ trà tì trước giới đàn Nam lâm, theo nghi thức nước ngoài. Sư thọ thế 65 tuổi.
THÍCH TĂNG LƯỢNG
Không rõ quê quán ở đâu, chỉ biết sư nổi tiếng về giới hạnh. Sư muốn tạo pho tượng Phật, nghe nói miếu Ngũ Tử Tư ở Tương châu có nhiều vật bằng đồng. Sư mượn thứ sử Trương Thiệu một trăm lực sĩ và mười thuyền lớn. Trương Thiệu đáp:
– Miếu đó rất linh nghiệm, nếu xâm phạm ắt sẽ chết. Vả lại, có dân man di canh giữ, sao có thể lấy được?
Sư bảo:
– Nếu được phước đức thì tôi và đàn việt cùng hưởng, còn như có tội thì riêng tôi gánh chịu hậu quả.
Trương Thiệu liền cung cấp người và thuyền. Sư và mọi người đi ba ngày mới đến được miếu. Trước miếu có hai cái vạc chứa hơn trăm đấu, trong đó có một con rắn lớn dài hơn mười trượng bò ra chắn đường, sư cầm tích trượng chú nguyện, nó liền ẩn mất. Chốc lát, có một người cầm cái hốt[11] bước ra bảo:
– Tôi nghe danh ngài đạo nghiệp phi phàm, chỉ lấy việc tạo phước làm trọng. Nay đặc biệt tôi tùy hỉ theo ngài.
Nói xong, ông ta sai người vận chuyển đồ đồng ở miếu xuống thuyền, đồ vật rất nhiều chỉ lấy một phần mười mà đã đầy, thuyền trở về thuận buồm xuôi gió. Dân man di biết được bảo nhau đuổi theo, nhưng không kịp, về đến kinh đô, sư cho đúc tượng, tượng thành tựu nhưng không phóng ánh sáng, Văn Đế liền tạo hào quang có dát vàng cho tượng, rồi tôn trí ở chùa Bành Thành. Khoảng niên hiệu Thái Thỉ (465) thời Minh Đế, tượng được thỉnh về chùa Tương Cung.
TRÚC ĐẠO SINH
Sư họ Ngụy, người Cự Lộc,[12] thuở nhỏ rất thông minh tài trí, cha sư biết con mình là bậc phi phàm nên rất yêu thương và quí trọng. Sau đó, sư gặp sa-môn Trúc Pháp Thái bèn bỏ tục xuất gia. Năm mười lăm tuổi, sư thăng tòa thuyết pháp, lời lẽ đối đáp trong sáng như châu ngọc, những học tăng nổi tiếng, danh sĩ đương thời đều bị sư chiết phục, chẳng ai dám phản kháng. Sau khi thụ cụ túc giới hiểu biết phật pháp càng sâu.
Sư vào ẩn tu ở Lô Sơn[13] bảy năm, thường cho huệ giải là căn bản vào đạo, nên thường nghiên cứu các bộ kinh, cầu thầy học đạo, dù xa vạn dặm vẫn không quản mệt nhọc. Sau đó, sư đến Trường An theo học với ngài La-thập, các vị tăng ở Quan Trung đều khen sư có sức ngộ như thần. Sau đó, sư trở về ở lại chùa Thanh Viên,[14] Thái Tổ Văn đế Hoàng nhà Tống rất kính trọng sư. Có lần, Thái Tổ thiết hội, đích thân cùng với mọi người ngồi trên chiếu trải trên đất. Do chuẩn bị thức ăn quá lâu, nên mọi người sợ trời chiều. Vua bảo:
– Mới trưa mà.
Sư bảo:
– Bầu trời trong sáng, thiên tử bảo mới trưa, thì nhất định là trưa!
Nói rồi, sư lấy bát cùng mọi người dùng cơm. Họ đều khen lời của sư nói rất thích hợp.
Lúc đó, Niết-bàn hậu phẩm[15] chưa truyền vào Trung Quốc, sư nói:
– Xiển-đề[16] đều có thể thành Phật, chỉ vì bộ kinh này chưa truyền đến đầy đủ mà thôi.
Các vị tì-kheo chấp văn tự cho sư là tà đạo, bèn đuổi đi.
Sư thệ trước đại chúng:
– Nếu lời của tôi không khế hợp với nghĩa kinh, thì xin đời này sẽ chịu ác báo, còn khế hợp với tâm Phật, thì nguyện đến khi bỏ thân này tôi sẽ ngồi trên tòa sư tử.
Nói rồi sư phất áo ra đi, vào núi Hổ Khâu[17] quận Ngô, dựng đá làm đồ chúng, để giảng kinh Niết-bàn, đến chỗ : “Xiển-đề có Phật tánh”. Sư hỏi:
– Lời ta nói có khế hợp với tâm Phật không?
Các viên đá đều gật đầu. Mùa hạ năm đó, sấm chấn động ở Phật điện chùa Thanh Viên, mọi người chợt thấy một con rồng bay lên trời, bóng hiện ở bức tường phía tây, nhân đó đổi tên chùa là Long Quang. Khi ấy, mọi người than rằng:
– Rồng bay rồi, Sư nhất định sẽ đi.
Không lâu, sư trở về Lô Sơn, ẩn tu trong hang núi, chúng tăng đều kính phục.
Sau đó, bản kinh Đại Niết-bàn đến Nam kinh, quả đúng trong kinh có thuyết: “Xiển-đề đều có Phật tánh”, rất trùng hợp với lời của sư. Sư đã tìm thấy bộ kinh này, liền thăng tòa giảng thuyết.
Đến niên hiệu Nguyên Gia thứ mười một (434) đời Tống, sư thăng tòa thuyết giảng kinh Niết-bàn ở Lô Sơn. Lúc giảng vừa xong, bỗng mọi người thấy cây phất trần khỏi tay. Sư an nhiên thị tịch trên pháp tòa.
ĐÀM-MA-MẬT-ĐA
Đàm-ma-mật-đa, Trung Hoa dịch là Pháp Tú. Sư người Kế-tân.[18] Mới bảy tuổi sư đã thông minh sáng suốt, mỗi lần thấy pháp sự[19] tự nhiên vui mừng, cha mẹ rất thương yêu quí trọng, bèn cho sư xuất gia.
Ở Kế-tân có nhiều bậc hiền tài, nên sư luôn được gần gũi các bậc minh sư, nhờ đó am tường tất cả các bộ kinh, đặc biệt rất thông thạo pháp thiền, thấu hiểu được những nghĩa lí sâu xa vi diệu. Sư là người sâu sắc có huệ giải, oai nghi chánh trực. Sư vốn có hai chân mày liền nhau, nên người đời thường gọi là: “Mi thiền sư”.
Thuở thiếu thời, sư thích du phương và lập chí giáo hóa, trải qua nhiều nước, cuối cùng đến Qui-tư. Trước khi sư đến một ngày, vua mơ thấy một vị thần báo mộng:
– Có một người phúc đức lớn, ngày mai sẽ vào nước này, ngài hãy cúng dường vị ấy.
Sáng ra, vua lệnh cho các quan ở biên ải:
– Nếu có người lạ đến, hãy nhanh chóng báo cho trẩm biết.
Không bao lâu, quả thật sư đến. Vua đích thân ra ngoài thành nghinh đón và thỉnh về hoàng cung. Từ đó, vua theo sư thụ giới và dâng cúng tứ sự. Tuy sư đã có nơi an trú, nhưng có thể đi bất cứ lúc nào, không xem trọng lợi dưỡng. Ở được vài năm sư có ý muốn đi. Vị thần lại đến báo mộng cho vua:
– Người phúc đức kia sẽ bỏ ngài ra đi.
Vua giật mình tỉnh giấc, liền cùng với quần thần tha thiết thỉnh sư ở lại, nhưng sư không nhận lời.
Sư vượt sa mạc đến Đôn Hoàng, lập tinh xá trên vùng đất trống, trồng cả ngàn cây Nại,[20] khai khẩn đến trăm mẫu vườn, xây dựng phòng xá, vườn rừng, ao hồ rất trang nghiêm. Một thời gian ngắn, sư lại đến Lương châu, trùng tu ngôi chùa nơi phủ quan. Đồ chúng theo sư tu học rất đông, khiến pháp thiền vô cùng hưng thịnh.
Sư thường đến kinh đô ở vùng Giang Tả và muốn hoằng truyền giáo pháp nơi đây. Niên hiệu Nguyên Gia thứ nhất (424) đời Tống, sư đến đất Thục, không bao lâu sư đến đất Thiểm, rồi dừng tại Kinh châu, xây dựng một ngôi thiền đường ở chùa Trường Sa, chí thành khẩn thiết muốn thỉnh xá-lợi. Hơn mười ngày liền có cảm ứng, từ một bình đồng phát ra âm thanh, ánh sáng tỏa khắp thiền đường. Từ đó tín tâm của đạo tục ngày càng dõng mãnh, mọi người đều gắng lòng.
Một thời gian sau, sư đến kinh đô, đầu tiên dừng ở chùa Trung Hưng[21], về già trụ ở Kì Hoàn. Sư giáo hóa khắp các nước, danh tiếng vang dội. Khi sư vừa đến, cả kinh đô đều kính lễ thăm hỏi, từ Tống Văn Đế cho đến Viên hoàng hậu, thái tử, công chúa, đều thiết trai ở cung quế[22] và truyền giới ở hậu cung. Vua sai sứ hàng tuần đến thăm hỏi sư. Ở chùa Kì-hoàn sư dịch được các bộ kinh như: Thiền kinh, Thiền pháp yếu, Phổ Hiền quán, Hư không tạng quán… Sư thường giảng dạy pháp thiền, mọi người dù ở xa ngàn dặm vẫn đến tham học. Dân chúng xa gần đều gọi sư là: “Đại Thiền Sư”.
Thái thú Cối Kê là Bình Xương Mạnh Khởi, tin sâu Phật pháp, hết lòng phụng sự Tam bảo, ngưỡng mộ pháp thiền. Khi đến vùng Triết hữu ông cũng thỉnh sư cùng đi, và xây cho sư một ngôi chùa trong núi ở huyện Mậu. Phía đông vùng này, dân chúng phần nhiều theo đồng bóng, từ khi sư đến giáo hóa, mọi người đều cải tà qui chánh, hết lòng tin phục.
Niên hiệu Nguyên Gia thứ mười (433), sư trở về kinh đô dừng lại chùa Định Lâm Hạ [23] ở Chung sơn. Bản tính sư trầm lặng, thích cảnh núi rừng. Sư cho Chung sơn trấn nhạc, đẹp sánh ngang với núi Tung Hoa,[24] nên thường than: “Nền móng chùa Hạ gần khe suối, thế đất nghiêng”.Sư liền chọn vùng đất cao xây dựng chùa Thượng.
Niên hiệu Nguyên Gia thứ mười hai (435), sư cho đốn cây, dọn đá tạo dựng chùa Thượng, dân chúng thán phục sư nên cúng dường rất nhiều vật liệu xây dựng. Thiền phòng, tự viện, điện đường rất hùng tráng.
Lúc đó, các vị sa-môn ở xa vạn dặm cũng tìm đến tham học, tụng tập trang nghiêm, học hỏi chí thành. Sư vang danh khắp nơi, thành tựu giáo hoá. Về sau Đạt thiên sư ở chùa Định Lâm là đệ tử xuất chúng của sư, đã truyền bá tông phong của thầy ngày càng hưng thạnh. Cho nên, truyền giáo đã lầu mà không ai có thể thay thế, sự nghiệp hiển vinh mà không bị suy tàn, đó là nhờ ân đức của sư để lại.
Bắt đầu từ Tây Vức đến Nam thổ, nơi nào đi qua sư đều lập đàn hội bố thí, diễn thuyết Phật pháp. Lúc từ Kế-tân lên đường, sư được vị thần Ca-tì-la theo hộ tống, trên đường đến Qui-tư vị thần muốn trở về, liền hiện hình thưa:
– Ngài thần lực vô biên, đến đi tự tại, tôi không thể cùng ngài đến Nam thổ được.
Nói xong thần liền ẩn mất.
Đến kinh đô sư họa lại bức tượng của vị thần trên vách tường chùa Thượng. Từ đó đến nay vẫn còn linh nghiệm, những người thành tâm đến cầu nguyện đều được như ý. Đến ngày mồng sáu tháng bảy, niên hiệu Nguyên Gia thứ mười chín (442), sư viên tịch tại chùa Thượng, trụ thế 80 tuổi.
CẦU-NA-BẠT-ĐÀ-LA
Cầu-na-bạt-đà-la Trung Hoa dịch là Giác Hiền. Sư người Trung Thiên Trúc, vì theo học Đại thừa nên mọi người gọi sư là Ma-ha-diễn.
Sư thuộc dòng Bà-la-môn, từ nhỏ đã học tập các bộ luận về Ngũ minh.[25] Về sau, nhân đọc được A-tỳ-đàm tạp tâm nên mới tỉnh ngộ, từ đó hết lòng kính tin Phật pháp. Tổ tiên sư nhiều đời theo ngoại đạo, không cho giao thiệp với sa-môn, nên sư bỏ nhà đi xa, tìm bậc minh sư, xuống tóc xuất gia, tinh chuyên tu học. Sau khi thụ cụ túc giới, sư thấu suốt Tam tạng. Khi sư đến nước Sư Tử thì các nước đều sai sứ mang phẩm vật cúng dường. Sư vốn có duyên với Đông độ, nên theo thuyền vượt biển. Một hôm gặp trời lặng gió, nước uống lại cạn, mọi người trên thuyền đều lo sợ, sư nói:
– Chúng ta phải cùng nhau nhất tâm gắng sức niệm mười phương chư Phật, và danh hiệu bồ-tát Quán Thế Âm, lẽ nào không cảm ứng!
Thế rồi, họ thầm tụng kinh chú, thành tâm lễ sám. Không bao lâu quả nhiên trời nổi gió, mây đen giăng kín, trời tuôn mưa lớn. Thế là mọi người trên thuyền đều được cứu thoát.
Thừa tướng nhà Tống là Tiều Vương Nghĩa trấn giữ Kinh Châu, xây giảng đường để thỉnh sư giảng các bộ kinh như Hoa nghiêm[26]…Sư lo buồn, và cảm thấy hổ thẹn vì không thông thạo tiếng Trung Hoa, nên ngày đêm sám hối cầu xin bồ-tát Quán Thế Âm cảm ứng. Không lâu sau, sư mộng thấy một người mặc y phục trắng, tay cầm thanh kiếm và mang một đầu người đến bên sư, hỏi:
– Vì sao lại buồn phiền?
Sư kể lại đầy đủ mọi việc. Nghe xong, người ấy nói:
– Không cần phải quá lo buồn!
Rồi dùng kiếm chặt đầu sư, đặt lên một cái đầu mới, bảo sư quay qua quay lại, và hỏi:
– Có đau không?
Sư đáp:
– Không đau.
Khi ấy, sư chợt tỉnh giấc, tinh thần trở nên vui vẻ phấn chấn. Sáng hôm đó, xem đọc kinh điển, thông suốt ngữ nghĩa thành thạo tiếng Trung Hoa. Nhân đây, sư thăng tòa thuyết giảng.
Cuối niên hiệu Nguyên Gia (khoảng năm 432), Tiều Vương nhiều lần mộng thấy những điều quái dị, ông ta đem việc này đến hỏi, sư đáp:
– Kinh đô sắp loạn lạc.
Quả thực, chưa đến một năm, Nguyên Hung mưu đồ phản nghịch.
Niên hiệu Hiếu Kiến thứ nhất (454), Tiều Vương âm mưu tạo phản. Sư tỏ vẻ không vui, chưa kịp nói ra thì Tiều Vương hỏi lý do. Sư hết lòng khuyên can, nhưng không được, nên rơi lệ cáo lui và nói:
– Ta thật sự không muốn! Bần đạo đây sẽ không đi theo.
Tiều Vương cho rằng lòng dân tin tưởng, nên ép sư cùng đi theo. Phản quân bị đại bại ở Lương Sơn. Thuyền chiến có đốt lửa truy đuổi gấp nhưng bờ còn rất xa. Đoán chắc không ai cứu giúp, sư chỉ biết nhất tâm xưng danh hiệu bồ-tát Quán Thế Âm, tay cầm gậy trúc lao mình xuống sông, nước chỉ ngập đến gối nhưng chảy xiết; sư bèn cắm gậy xuống nước. Bấy giờ, thấy một đồng tử từ phía sau đến, nắm tay dẫn đi, sư quay lại nói:
– Cậu chỉ là một đứa bé, làm sao cứu tôi được?
Trong lúc đang mơ hồ, sư cảm thấy hình như chỉ đi hơn mười bước mà đã đến bờ. Sư cởi áo bá nạp, định đền ơn đồng tử, nhưng quay lại tìm không thấy đâu, sư thấy rợn cả người.
Bấy giờ, Vương Huyền Mô thống lĩnh quân tiến đánh Lương Sơn, Thế Tổ ra lệnh quân lính phải bắt được sư, khéo sắp xếp đưa về kinh. Không lâu sau, sư bị bắt đưa về kinh đô. Thế Tổ liền ra lệnh đưa vào yết kiến, tận tình thăm hỏi. Vua nói:
– Trông mong đã lâu, nay mới gặp được ngài!
Sư đáp:
– Thân mang trọng tội lẽ ra phải chịu tan xương nát thịt. Nhưng nay được đại vương tiếp kiến, thật mang ơn nặng tái sinh.
Thế Tổ hỏi:
– Vì sao sư tạo phản?
Sư đáp:
– Người xuất gia không tham dự vào việc quân, thế nhưng Trương Sướng, Tống Linh Tú…đều ép bức bần đạo theo. Chỉ không ngờ do duyên đời trước mà nay gặp phải cảnh này.
Vua nói:
– Chớ nên lo sợ !
Hôm ấy, vua thỉnh sư đến ở hậu cung cúng dường phẩm vật, và cấp người phục vụ. Đến khi chùa Trung Hưng xây dựng xong, vua thỉnh sư đến trụ trì.
Về sau, sư dựng chùa tại phía tây lầu Phụng Hoàng ở Mạt Lăng, mỗi khi đến nửa đêm đều có tiếng gõ cửa và gọi, nhưng ra xem thì không thấy ai; lại thêm chúng tăng nhiều lần thấy ác mộng. Thấy thế, sư đốt hương chú nguyện:
– Đời trước các ngươi ở chốn này, nay ta dựng chùa để tu tập, lễ sám, đều là vì các ngươi; nếu các ngươi muốn ở nơi này thì làm thiện thần ủng hộ chùa, còn không thì đi ở đâu tùy ý.
Thế rồi, một đêm đạo tục hơn mười người đều mộng thấy hàng ngàn quỷ thần mang vác đồ đạc cùng nhau bỏ đi. Từ đấy, đại chúng trong chùa đều được yên ổn.
Niên hiệu Đại Minh thứ sáu (463), thiên hạ gặp hạn hán, cầu khẩn núi sông nhiều tháng vẫn không linh nghiệm. Thế Tổ thỉnh sư và nói:
– Ngài phải cầu được mưa, nếu không thì đừng gặp mặt trẫm!
Sư nói:
– Nương nhờ uy lực Tam bảo, và thiên uy của bệ hạ, ắt trời sẽ giáng mưa. Nếu cầu không được, tôi sẽ không gặp lại!
Nói rồi, sư đến Điếu đài ở Bắc Hồ đốt hương cầu nguyện, không màng ăn uống, chuyên tinh tụng kinh, thành tâm chú nguyện. Trưa hôm sau, phía tây bắc có đám mây nhỏ bằng lọng xe, đến chiều trời nổi gió, mây giăng kín rồi tuôn mưa mấy ngày liền. Sư vẫn cầm lư hương cầu nguyện không hề rời tay. Mỗi khi sư thụ thực chim bay đến đậu trên tay sư nhận thức ăn. Đến đời Thái Tông, lễ cúng cho sư càng thêm hưng thịnh.
Tháng giêng, niên hiệu Thái Thỉ thứ tư (467), vì thấy trong người không khỏe, sư cáo biệt Thái Tông và quan lại.
Trước lúc thị tịch ba ngày, sư đứng nhìn trời rất lâu và nói: “Ta thấy thiên hoa thánh tượng”. Đến giờ ngọ, sư thâu thần viên tịch, trụ thế 75 tuổi.
HUỆ ĐẠT
Sư họ Lưu, tên Tốt Hòa, vốn thuộc bộ tộc Kê Hồ, Định Dương, Tam Thành, đông bắc Hàm Dương. Lúc đầu sư không phụng thờ, cũng không hiểu một chút Phật pháp; do uống rượu mắc bệnh mà qua đời, thần thức nếm trải các nổi khổ ở địa ngục. Sau đó sống lại, xuất gia, đến ở quận Văn Thành.
Niên hiệu Thái Diên thứ nhất (435) đời Thái Vũ Đế nhà Nguyên Ngụy, chu du giáo hóa sắp xong, vì việc lợi quốc, sư ngược về hướng tây, đến đông bắc quận Phiên Hòa ở Lương châu, từ xa hướng về Ngự Cốc đảnh lễ; mọi người không ai hiểu được, bèn hỏi lý do, sư đáp:
– Nơi vách núi này sẽ xuất hiện một pho tượng, nếu linh tướng tròn đầy thì nước thịnh dân an, còn như khiếm khuyết thì nước loạn dân khổ.
Sau 87 năm, nhằm niên hiệu Chánh Quang thứ nhất (520), bỗng nhiên trời nổi mưa gió, sấm sét vang rền, chấn động núi non. Bấy giờ, một pho tượng đá xuất hiện, thân cao một trượng tám, hình tướng trang nghiêm, nhưng không có đầu. Mọi người lên núi chọn đá, nhờ thợ tạc cái đầu đặt lên, nhưng rồi vẫn rơi xuống, nên đành để như vậy. Không lâu, nhà Ngụy suy vong, mới thấy lời sư quả là linh nghiệm.
Đến năm thứ nhất (557) đời nhà Chu, sửa sang Lương châu. Một hôm, bỗng bên khe suối cách thành bảy dặm về phía đông, một luồng hào quang phóng ra, chiếu soi thấu đến các chỗ tối tăm, người nhìn thấy đều cho là thần kỳ, đến xem thì thấy chính là đầu của pho tượng kia, liền thỉnh đến an trí lên pho tượng trên núi, quả nhiên thật phù hợp, tướng hảo tròn đầy. Đất nước từ đây được thái bình thịnh vượng.
Niên hiệu Bảo Định thứ nhất (561), tại đây lập chùa, đặt tên là chùa Thụy tượng. Người biết mới nhận ra sự tiên đoán của sư quả là thần kỳ.
Sau, sư đến khe suối cách thành bảy dặm về phía tây thuộc huyện Tửu Tuyền-túc Châu, an nhiên thị tịch, xá-lợi từng hạt nhỏ kết lại như hạt hoa hướng dương, có thể xâu qua được. Ngày nay, tượng sư được tôn thờ tại một ngôi cổ tự phía tây thành
LẶC-NA-MẠN-ĐỀ
Sư người Thiên Trúc, vào thời Nguyên Ngụy đến ở chùa Vĩnh Ninh, kinh đô Lạc Dương. Sư giỏi về ngũ minh và pháp thuật.
Bấy giờ, có Kì Mẫu Hoài Văn làm thứ sử ở Tín Châu, thông minh tài trí, thành thạo mọi ngành nghề; công minh liêm chính nổi tiếng đương thời. Mỗi khi quốc gia kiến tạo cung điện, binh khí, ông đều tham gia. Vua lại có sắc lệnh cho ông sửa sang chùa Vĩnh Ninh. Hoài Văn thấy sư có pháp thuật kì đặc, nên thường mang nhiều phẩm vật cúng dường, để mong được học hỏi. Nhưng sư tiếp đãi ông rất bình thường, hoàn toàn không có gì đặc biệt. Hoài Văn rất tức giận.
Lúc ấy, tại Huyền Võ quán ở phía nam Lạc Dương có một vị khách tăng người thuộc bộ tộc Nhu Nhiên[27] là bạn cũ của sư ở Thiên Trúc, cưỡi ngựa, mặc áo da đến chùa. Hai vị rất tương đắc, cười nói tán dương suốt ngày không chán. Hoài Văn thấy vị tăng ấy nói tiếng Nhu nhiên, không hiểu được gì, mới đến thưa sư:
– Đệ tử rất muốn học hỏi, nên gần đây phụng sự cúng dường sư, chỉ mong được quan tâm, nhưng sư hoàn toàn không ban cho một lời. Còn vị tăng ấy là người Bắc địch mặt người dạ thú, sát sinh ăn thịt đâu đáng quí, đệ tử không muốn đối mặt để phải trở thành thù oán.
Sư nói:
– Ông chớ khinh thường vị ấy! Dù ông đọc vạn quyển sách, việc làm chưa chắc đã hơn.
Hoài Văn nói:
– Nếu ông ấy có khả năng, hãy tranh tài cùng tôi.
Sư nói:
– Ông có tài gì?
Hoài Văn đáp:
– Toán thuật thì không cần phải nói, còn bất luận nhìn núi, ngắm biển đều có thể tính biết độ cao, sâu và chu vi của nó, không sai một mảy may.
Sư cười, nói:
– Đây chỉ là trò đùa của trẻ con.
Trước sân có một cây táo rất lớn, kết rất nhiều quả. Bấy giờ là đầu tháng bảy, đương lúc quả chín. Sư ngước nhìn cây táo, nói với Hoài Văn:
– Ông có biết trên cây táo này có bao nhiêu quả không?
Hoài Văn ngạc nhiên, cười rồi thưa:
– Người tính toán biết được ắt phải dựa theo tiêu chuẩn đo đạc, thế thì thiên văn địa lí cũng có thể đoán biết. Nhưng cây cỏ ít nhiều đâu có tiêu chuẩn gì mà tính, nếu bảo tính được chỉ là nói khoác thôi.
Sư chỉ vị Tăng, nói:
– Vị ấy có thể biết.
Hoài Văn tức giận, không tin, liền lập giao ước tranh tài. Các vị tăng kì cựu đều đến xem để làm chứng. Sư nói rõ mọi việc với vị tăng ấy. Vị tăng mĩm cười chấp nhận.
Hoài Văn lại yêu cầu:
– Phải nói rõ bao nhiêu quả có hạt, bao nhiêu quả hư không hạt.
Sau khi chấp nhận việc đoán định, vị tăng rút trong cái đãy da trên lưng ra một vật giống như quả cân, dùng chỉ ngũ sắc để xỏ qua, lại xâu thêm một hạt bạch châu nữa. Vị tăng dùng vật này để đo đạc cây táo. Có lúc ngắm trên, ngắm dưới, đo trái, đo phải, rồi nhắm mắt, đi qua đi lại một hồi lâu. Sau đó vị tăng đến bên sư gật đầu cười và nói số lượng táo. Sư cho người hái hết, mời mọi người đến tra thì giống như kết quả vị tăng đã nói. Còn chưa tin Hoài Văn đích thân bổ ra xem có đúng số hạt chăng, kết quả rất chính xác. Hoài Văn xấu hổ cưỡi ngựa trở về.
Thường thấy người trong thành Lạc Dương lên Thiếu Thất ở Tung Sơn đốn củi, sư thầm nghĩ:
– Bá tánh phải gánh chịu bao nhiêu gian khổ như thế! Ta muốn dời tạm hai ngọn núi gối lên đầu sông Lạc,[28] đợi mọi người đốn đủ củi xong mang trả về, việc này không khó khăn gì, chỉ cần dùng vài thuật nhỏ là được. Nhưng sợ người thiếu hiểu biết, lầm cho ta là thánh nhơn, nên không dám.
Trước lúc lâm chung sư căn dặn đệ tử:
– Ta tạm nghỉ vài ba hôm để đi đến một nơi, các con phải nhớ tu tập theo chánh pháp, chớ quyến luyến!
Sau đó, sư bị cơn bệnh nhẹ, đóng cửa nằm nghỉ. Một người đệ tử lén nhìn qua khe cửa, thấy sư nằm ngửa, thân không chạm giường, liền gọi các huynh đệ đến xem. Một vị bất giác tằng hắng; nghe thế, sư nằm lại xuống giường như cũ, rồi nói vọng ra:
– Ai ngoài cửa đó! Sao không vào? Vì giường nóng quá, ta muốn mát một chút, ngươi chớ ngạc nhiên.
Vài ngày sau sư an nhiên thị tịch.
THÍCH TĂNG Ý
Không rõ người xứ nào, chỉ biết sư bản tính kiên định, sức tư duy sâu. Mỗi khi thăng tòa giảng thuyết, đều có hoa trời rải trên pháp tòa.
Đời Nguyên Ngụy, sư đến trụ tại một ngôi chùa ở Lãng Công Cốc, Thái Sơn. Trong chùa có bảy tôn tượng Phật nước Cao Li, đều được làm bằng đồng, tôn trí tại chính điện. Cửa chính điện thường mở, nhưng chim thú không dám vào. Sư một mình dốc lòng phụng thờ cúng dường.
Trước đêm lâm chung, sư thấy một sa-di chết đã lâu hiện đến đỉnh lễ, thưa:
– Từ khi rời thầy đến nay đệ tử luôn bị Thiên đế[29] sai khiến không lúc nào rảnh rỗi, bỏ bê tu tập. Không lâu nữa, Thiên đế sẽ đến thỉnh ngài giảng kinh, xin ngài nói giúp một lời cho đệ tử được thoát cảnh khổ này.
Sư liền tắm gội, đốt hương tĩnh tọa, trong thất đợi đến giờ. Đúng giờ, quả nhiên có người đến chùa vào phòng sư, áo mão đầy đủ, tùy tùng đều oai vệ trang nghiêm, chúng tăng trong chùa vừa nhìn thấy, thầm nghĩ: “Quí nhân nào hôm nay lại đến chùa tham vấn”, nên không tỏ vẻ ngạc nhiên. Ngay hôm ấy, sư không bệnh mà viên tịch, đại chúng mới biết đó là sự linh cảm.
THÍCH ĐẠO PHONG
Không rõ sư họ gì? Người đương thời khen sư là bậc đã đắc đạo. Sư cùng ba đệ tử ẩn cư ở Cổ Sơn, Tương Châu, không màng lợi dưỡng. Sư thông hiểu tất cả nghề nghiệp, phép thuật của thế gian. Tề Cao Đế mỗi khi đến Tinh Nghiệp thường tham vấn sư, sư tùy hỏi mà đối đáp không cần suy nghĩ.
Có lần, vua sai người mang rượu thịt đến mời, sư chẳng từ chối, mặc tình ăn uống. Vua cười lớn, không nói với sư lời nào. Sau khi vua về cung, sư bảo đệ tử:
– Con hãy vào dọn dẹp các thức ăn dưới giường!
Người đệ tử vào thu dọn, mới thấy những thức ăn vừa rồi vẫn còn nguyên.
Bấy giờ, tại chùa Thạch Quật có một vị tăng tu thiền, hàng ngày thường đến phía tây, thì thấy đỉnh núi phía đông xuất hiện một tượng Phật vàng cao một trượng tám. Vị Tăng mừng thầm, cho là điềm lành nên mỗi ngày đều đến lễ bái, suốt hai tháng như thế. Sau đó, lúc đang ngủ trong phòng, vị tăng nghe từ gối phát ra tiếng nói:
– Trong thiên hạ nơi nào có Phật? Nay ông đã thành đạo tức là Phật vậy! Ông nên làm cho tốt thân Phật, chớ khinh thường mình.
Nghe thế, vị ấy liền khởi tâm kiêu mạn, xem chúng tăng như cỏ rác, ở trước đại chúng lấy tay chỉ vào ngực mình nói:
– Các ông biết ta là Phật không? Những tượng họa đặt trong khám bằng đất kia không thể nói được. Các ông nghĩ gì mà thấy chơn Phật không chịu kính lễ? Nếu vẫn còn nhìn ta với cặp mắt như xưa thì sẽ đọa A-tỳ. Rồi giận dữ la hét bất thường.
Mọi người biết vị tăng bị loạn thiền nhưng chưa nặng, liền khiêng đến chỗ sư. Sư hỏi:
– Có phải hai tháng trước ông thường thấy trên núi phía đông xuất hiện tượng Phật sắc vàng phải không?
Vị tăng đáp:
– Vâng.
Sư lại hỏi:
– Ông nghe trong gối có tiếng bảo ông là Phật?
Vị ấy thưa:
– Thật đúng vậy.
Sư nói:
– Đây là do phong động làm tâm tính thất thường, nếu không sớm trị sẽ khó ngăn được điên cuồng.
Sư liền dùng kim châm vào ba chỗ, nhân đó vị tăng hết cuồng loạn.
Khi sắp viên tịch, sư bảo đệ tử:
– Ta ở núi này đã lâu, khiến các con phải lao nhọc gánh nước xa xôi. Nay ta ra đi mà không có gì, chỉ để lại một dòng suối, để không còn phải gánh nước cực khổ nữa. Các con phải nỗ lực siêng năng tiến tu đạo nghiệp!
Nói xong, sư dẹp bỏ một phiến đá vuông cạnh bếp, chỗ ấy liền hiện ra một dòng sâu nước trong vắt, không bao giờ đầy vơi. Dòng nước ấy đến nay vẫn còn.
THÍCH TĂNG TRÙ
Sư họ Tôn, quê ở Xương Lê, sau dời đến Anh Đào, Cự Lộc. Bản tánh sư cao thượng hòa nhã, các kinh luận chỉ cần xem qua một lần liền thông hiểu. Sư xuất gia và thụ sa-di từ nhỏ, mỗi khi nhàn rỗi thường cùng bọn trẻ thí võ làm vui, nhưng vì yếu sức nên bị chúng bạn khinh thường. Sư buồn tủi liền vào điện đóng cửa, ôm chân thần Kim Cang, thệ rằng:
– Sức con yếu kém nên bị chúng bạn làm nhục, ngài nổi tiếng có sức mạnh, xin ngài giúp con. Con xin đỡ chân ngài bảy ngày, ngài hãy cho con sức mạnh. Nếu không được như nguyện, dù chết con cũng không đổi ý.
Rạng sáng ngày thứ sáu, thần Kim Cang xuất hiện, cầm một bát gân bảo sư:
– Này tiểu tử! Ngươi muốn có sức mạnh thì hãy ăn bát gân này!
Vì giữ trai giới nên sư từ chối. Vị thần dùng chày dọa nạt, sư sợ quá liền ăn, ăn xong, thần bảo:
– Ngươi có sức mạnh rồi, nhưng hãy cố gắng siêng năng tu tập.
Nói rồi vị thần bỏ đi, trời cũng vừa sáng, sư trở về phòng. Hôm sau, sư cùng chúng bạn chơi đùa, cũng lại bị khinh thường, sư liền nói:
– Tôi đã có sức mạnh, e rằng các bạn không thắng được đâu!
Bọn trẻ liền đến kéo thử cánh tay của sư, thấy gân cốt cứng rắn, không giống người bình thường, chúng rất kinh ngạc. Sư bảo:
– Hãy tỉ thí với tôi!
Nói rồi, cùng nhau vào trong điện, sư đi ngang trên tường, từ tây sang đông đến vài trăm bước, lại vọt một cái đầu đụng xà nhà cao ba bốn nhận; lại có thể kéo vật nặng đến ba vạn cân. Sư mạnh mẽ, nhanh nhẹn khiến mọi người đều kinh hãi và kính phục.
Có lần sư ở chùa Tung Nhạc, nơi đây có khe nước chỉ đủ dùng cho trăm tăng chúng. Bấy giờ, một thiếu phụ xuất hiện, mặc y phục thô xấu cầm chổi ngồi bên thềm nghe chúng tăng tụng kinh. Mọi người không biết đó là vị thần bèn la mắng, đuổi đi. Thiếu phụ tức giận đưa chân đạp khe nước, lập tức dòng nước liền khô cạn và vị thần ấy cũng biến mất. Mọi người liền thưa với sư. Sư gọi:
– Ưu-bà-di!
Gọi đến ba lần thì thiếu phụ xuất hiện. Sư bảo:
– Đây là nơi chúng tăng tu hành, ngươi phải nên ủng hộ.
Thiếu phụ liền đưa chân khươi khe nước, lập tức nước vọt ra. Mọi người đều cho là việc kì lạ.
Sau đó, sư đến tịnh tu ở núi Vương Ốc[30] phía tây Hoài châu. Một hôm, nghe hai con hổ ẩu đả nhau, gầm rống chấn động cả núi rừng, sư liền cầm tích trượng đến can ra, chúng đều bỏ đi.
Lần nọ, sư bỗng thấy hai quyển kinh Tiên trên giường, liền bảo:
– Tôi tu theo Phật, há lại cầu trường sinh trong cõi này ư?
Sư nói xong, hai quyển kinh liền biến mất. Sau đó, sư dời đến núi Thanh La ở, được những người bệnh hủi đến cúng dường. Họ hôi hám, lở loét nhưng sư vẫn thụ nhận không chút e ngại. Lần nọ, sư ngồi lâu mỏi chân bèn duỗi ra, có vị thần đến đỡ, giúp sư trở lại ngồi kiết già. Từ đó, sư thường nhập định, mỗi kì bảy ngày.
Vua hạ chiếu triệu sư vào cung, nhưng sư không tuân chỉ. Vua dùng mọi phương cách tha thiết thỉnh mời, sư mới nhận lời. Hôm sư sắp ra đi, hai bên hang núi bỗng chấn động, vang ra những âm thanh bi thiết, khiến lòng người lo lắng sợ hãi, cầm thú hoảng hốt bay chạy tứ tán, suốt ba ngày như thế. Sư quay lại bảo:
– Loài cầm thú cũng có tánh chuộng đạo đức, giữ lòng nhân. Há chẳng phải ái tình dễ vướng mắc, còn tự tại thì khó ràng buộc ư?
Thế là sư không thuận theo tình cảm để ở lại mà chấn tích đến Chương Phủ.[31] Có lần một vị khách tăng cầm tích trượng đến, khi sắp đặt chỗ ở, sư hỏi hạ lạp của vị ấy.
Vị tăng đáp:
– Tôi thấy nơi đây đã ba lần xây dựng già-lam.
Nói rồi vị tăng biến mất. Sau đó, có người đào giếng nhặt được hai vật trang trí trên hai đầu nóc chùa ngày xưa.
Trước hang sư tọa thiền có một khe sâu. Một hôm có một người mặc áo lông, thân hình cao lớn, dung mạo như người Hồ, đặt chảo đốt lửa. Lúc nước sắp sôi, chợt có một con rắn lớn từ dòng nước bò ra muốn vào trong chảo, sư đưa chân hất chảo, rắn liền bò trở lại dòng nước, người mặc áo lông cũng biến mất.
Đêm đó, có một vị thần đến đảnh lễ sư, thưa:
– Con của đệ tử hàng năm bị ác thần ăn thịt, nay vì bọn trẻ tiếc mạng sống, không muốn dâng nạp, còn đệ tử già yếu sắp chết, nên tự đến thế mạng. Mong nhờ oai lực của ngài, giúp đệ tử được thoát nạn này.
Sư liền dùng nước phun lên, bỗng chốc biến thành sương mù.
Bấy giờ có người sàm tấu với Tuyên Đế là sư ngang bướng khinh thường vua. Tuyên Đế nổi giận đích thân muốn đến hại sư. Tuy trước đó sư chưa bao giờ đến nhà bếp, nhưng khi đoán biết được việc này, sư liền xuống dặn chúng tăng:
– Ngày mai có khách quí đến đây, hãy làm nhiều thức ăn để tiếp đãi.
Đến canh năm, sư chuẩn bị xe đến cửa núi cách chùa hơn hai mươi dặm, một mình đứng bên đường. Không bao lâu vua đến, kinh ngạc hỏi nguyên nhân, sư đáp:
– Tôi sợ máu mình làm ô uế chốn Già-lam, nên đến đây đợi ngài.
Vua bảo Thượng thư lệnh Dương Tuân Ngạn:
– Bậc chân nhân như vậy, sao có thể hủy báng ta!.
Vua quay lại nói với sư:
– Trẩm chưa từng thấy sự linh hiển của Phật pháp, ngài có thể cho trẩm thấy được không?
Sư đáp:
– Đó chẳng phải việc làm của sa-môn.
Nhưng vua cố nài thỉnh, nên sư bèn tung tấm ca-sa trên đất. Vua sai hơn mười người đến nhấc lên nhưng không hề lay động. Sư bảo một sa-di đến thử, vị ấy cầm lên một cách nhẹ nhàng.
Liễu thị vợ của Đỗ Xương ở Tung Dương,[32] tâm rất đố kị. Một hôm, Đỗ Xương gội đầu, bảo nô tì Kim Kinh chải tóc, Liễu thị ganh ghét liền chặt hai ngón tay của Kim Kinh. Không lâu, Liễu thị bị chồn cắn đứt hai ngón tay. Lại có nô tì Ngọc Liên, đàn hát rất hay, Đỗ Xương luôn khen ngợi, sủng ái. Liễu thị thấy vậy bèn cắt lưỡi cô ta, không lâu lưỡi của Liễu thị bị lở loét. Lúc bệnh nguy cấp, bà liền đến gặp sư xin sám hối. Sư biết trước việc này nên bảo:
– Phu nhân có tâm tật đố sâu nặng, ngày trước chặt hai ngón tay của nô tì, nên chính mình cũng bị mất hai ngón tay. Nay lại cắt lưỡi của người khác nên lưỡi của phu nhân mới bị như vậy. Nếu phu nhân chí thành sám hối thì có thể qua khỏi.
Liễu thị tha thiết lễ bái sám hối, qua bảy ngày sư lớn tiếng trì chú, ngay khi ấy, trong miệng Liễu thị có hai con rắn bò ra, dài hơn một thước. Sư trì chú liên tục nó liền rơi xuống. Sau đó, lưỡi của Liễu thị cũng bình phục.
Lúc sư sắp viên tịch, trong chùa có nhiều mùi hương lạ, người nghe đều khởi lòng cung kính. Trong ngày đó, vua lệnh cho bốn chúng[33], các chùa và hàng vạn nhân dân mang ngàn cây gỗ thơm đến chùa. Đúng trưa thì trà-tì, mọi người đều gào khóc thảm thiết chấn động cả núi sông. Bỗng có vài trăm con chim trắng tụ tập quanh trên chỗ trà-tì, kêu lên những tiếng bi ai, một hồi lâu rồi bay đi.
BẢO CÔNG
Sư người Cao Thê, Tung Sơn. Một sáng nọ, từ Lâm Lự sư lên núi Bạch Lộc. Do lạc đường, nên trời sắp trưa mới đến, bỗng sư chợt nghe tiếng chuông liền đi theo hướng đó. Vượt qua núi non hiểm trở, sư nhìn thấy một ngôi chùa sừng sững trong rừng sâu, quay về phía nam, uy nghiêm rực rở. Sư bước đến cửa, thấy tấm bảng đề “chùa Linh Ẩn”. Ngoài cửa có năm sáu con chó rất lớn, màu lông lốm đốm đen trắng, con chạy con nằm, lườm mắt nhìn. Sư sợ hãi định quay trở ra, liền nhìn thấy một vị tăng người Hồ từ ngoài đi vào, sư gọi nhưng vị ấy không đáp, cũng chẳng quay lại mà đi thẳng vào cửa, bầy chó cũng theo sau.
Một lát sau, sư thấy nhiều người lần lượt vào chùa. Phòng nhà bố trí bốn phía, nhưng đều đóng kín, sư đi vào giảng đường thấy nhiều tòa cao, liền đến ngồi trên tòa ở phía tây nam. Không lâu, bỗng nghe ở gian phía đông có tiếng động, sư ngước lên liền thấy một lỗ hổng bằng miệng giếng, khoảng năm sáu mươi vị tì-kheo lần lượt từ chỗ đó bay vào, thứ tự an tọa. Sau đó, mọi người hỏi nhau:
– Hôm nay quí vị thụ trai ở nơi nào mà đến đây?
Có người nói đến Dự Chương, người thì đến Thành Đô, hoặc Trường An, Lũng Hữu, Kế Bắc, Lĩnh Nam, Ngũ Thiên Trúc..v.v. khắp cả mọi nơi, có người đi xa cả ngàn vạn dặm.
Sau cùng, một vị tăng từ hư không bay xuống, mọi người cùng hỏi:
– Sao ngài đến muộn vậy?
Vị tăng đáp:
– Hôm nay, chùa Bỉ Ngạn phía đông thành Tương Châu, có buổi thuyết pháp của thiền sư Giám, nhiều người luận biện. Có một thiếu niên thông minh tài trí, gạn hỏi lời lẽ sắc bén, rất xuất sắc tôi mãi nghe nên quên mất thời gian!
Trước đây, sư là đệ tử của thiền sư Giám, khi nghe vậy liền muốn đến thăm hỏi, nhân đó sửa sang y phục, đứng lên bạch chúng tăng:
– Thiền sư Giám là thầy của bần tăng!
Chư tăng đều nhìn sư, bỗng chốc chùa Linh Ẩn và chư tăng đều biến mất, còn một mình sư ngồi dưới gốc cây tạc,[34] không một bóng người, chỉ thấy hang núi, chim muông bay liệng hót vang. Sư trở về, đem chuyện này kể lại cho pháp sư Thượng Thống. Pháp sư nói:
– Ngôi chùa đó do ngài Phật Đồ Trừng thời Thạch,[35] Triệu xây dựng, trải qua nhiều năm rồi, đó là nơi chỉ các bậc thánh hiền ở. Chư vị ấy lúc ẩn lúc hiện, đổi dời vô định.
Ngày nay, hành giả đến núi này còn nghe văng vẳng tiếng chuông.
SƯA NGỐC
Không rõ sư quê quán nơi nào, tên họ là gì; chỉ biết rằng trước khi Nhĩ Châu bị tiêu diệt, sư ở Tấn Dương đi khắp các thôn xóm. Sư không ở chùa, mà thường đi vào làng xóm đông người, nói năng kì dị, nhưng đều ứng nghiệm. Do đó mỗi khi sư đi vào chợ, thì người đi theo rất đông. Sư thường chỉ vào bụng mình rồi nói lớn:
– Thương thay cho bá tánh vô tri, không biết sư đầu hói ở Tinh Châu này!
Từ đó, mọi người gọi sư là A Ngốc.
Sau khi Thần Võ nhà Tề dời đô đến đất Nghiệp, ông cho vùng Tấn Dương là đất dụng binh, là nền tảng của vương nghiệp, nên luôn trấn giữ Tinh châu. Bấy giờ sư cũng đến Nghiệp đô. Những việc quân cơ bí mật chưa truyền khỏi quân doanh, nhưng sư đã tiết lộ cho dân chúng biết trước. Cuối năm đó, Thần Võ bắt sư nhốt trong thành, sai người canh giữ kĩ lưỡng, và bảo: “Nếu các ngươi để ông ta trốn thoát thì sẽ bị tội nặng”.
Ngay hôm ấy, ba cổng thành Tinh châu đều có bóng sư đi ra. Quan quân ra sức ngăn chặn nhưng vô hiệu. Không lâu, có người từ Bắc châu đến nói với mọi người:
– Ngày tám tháng tư, sư A Ngốc đã viên tịch ở Nhạn Môn, dân chúng địa phương mang hương hoa đến đưa sư an táng ở ngoài thành.
Mọi người ở Tinh Châu nghe vậy đều ngạc nhiên cười, nói:
– Ngày tám tháng tư, chúng tôi đều thấy sư A Ngốc đi từ Phần Kiều sang hướng đông, một chân đi dép một chân trần, nhưng không biết sư đi về xóm nào, sao ông lại bảo sư đã mất ở Nhạn Môn?
Nghe vậy, ông ta quay trở về Bắc châu báo lại với mọi người trong ấp. Họ cùng nhau đào mộ phần sư lên, quả nhiên chỉ thấy còn lại một chiếc dép.
Sau đó, sư trở về lại Tinh Châu. Thần Võ nhà Tề lấy lý do sư không tuân theo phép tắc, luôn nói lời càn rỡ làm loạn động đến muôn dân, nên ra lệnh dùng yêu pháp xử tử; vì sa-môn không tóc nên dùng dây buộc vào đầu. Ngày đưa ra pháp trường, toàn dân Tinh Châu đều đến xem, sư chỉ im lặng, mỉm cười.
Sáu bảy ngày sau, có người từ bộ lạc Hà Tây đến nói:
– Trên đường đến đây tôi đã gặp sư A Ngốc, hình dáng vẫn như xưa, chỉ mang theo một sợi dây buộc vào đầu sư. Tôi hỏi thăm nhưng sư không đáp, mà đi nhanh về phía tây.
THÍCH TĂNG ĐẠT
Sư họ Lý, người Thượng Cốc, xuất gia lúc mười lăm tuổi, đi tham vấn ở Bắc Đại, lấy việc nghe pháp và tu tập làm sự nghiệp.
Khi sư vừa rời chùa Doanh Sơn đi gần đến Cốc Khẩu, bỗng có một con hổ chắn lối, sư thầm nói:
– Bần đạo muốn dựng một ngôi chùa để tạo phúc cho chúng sinh khắp cõi âm. Nếu tùy thuận, xin ngươi hãy tránh đường.
Sư vừa dứt lời, hổ liền bỏ đi. Khi chùa xây dựng xong, chúng tăng khắp nơi về tu tập rất đông.
Sau đó, sư định trở về kinh đô Kiến Nghiệp, đêm ấy có một vị thần mặc áo vàng, đến quì trước sư đỉnh lễ và thưa:
– Đệ tử là Đới Sơn Hồ, cai trị vùng Tam Cốc này. Đệ tử đã chuẩn bị đủ phẩm vật cúng dường, xin ngài hãy ở lại.
Sư nói:
– Ở núi này làm lợi ích không nhiều bằng Kinh Châu. Bần đạo tùy cơ giáo hóa, xin chớ ngăn cản.
Đêm hôm sau, lại có người đến gõ cửa, tự xưng là vợ của sơn thần, cô ta thưa:
– Ban ngày con không có thời gian, nên giờ mới đến đảnh lễ ngài.
Nói rồi, cô ta dâng lên một giỏ bánh bột gạo và thưa tiếp:
– Chư tăng bình đẳng, khi lễ Phật tụng kinh, xin đọc tên cầu nguyện cho con!
Sư đáp:
– Cô nên mang bánh về. Sau này mỗi khi lễ Phật, bần đạo nhất định sẽ đọc tên cầu nguyện cho cô.
Từ đó, khi lễ Phật, mỗi lạy sư đều đọc tên cô ta. Sư còn dặn đệ tử Đạo Sảng tụng kinh Kim Quang Minh[36] để cầu nguyện.
Hơn một tháng sau, có con hổ đến bắt chó đi mất. Nghe tin, sư liền nói:
– Đây chắc là do tiểu đạo nhơn kia biếng nhác, không chịu tụng kinh hồi hướng cho đàn việt.
Sư hỏi, vị tiểu đạo nhơn kia đáp:
– Ngay hôm đó, con chỉ tụng kinh Duy-ma.[37]
Sư bèn đốt hương lễ Phật và nói:
– Hôm qua, tuy tụng kinh khác nhưng phúc đức kia cũng thuộc về đàn-việt. Nếu linh ứng thì xin thả chó trở về.
Đến sáng hôm sau, quả nhiên con chó quay về, trên đầu còn in một vết cắn.
Một hôm, sư mắc bệnh nhẹ, ngồi ngay thẳng trên giường, tụng Bát-nhã tâm kinh[38], thân tâm an tĩnh, an nhiên thị tịch ở Hồng Cốc Sơn tự, thọ thế 82 tuổi.
THÍCH HUYỀN SƯỚNG
Sư họ Triệu, quê Kim Thành, Hà Tây. Lúc sư còn nhỏ, gia đình bị giặc Hung Nô sát hại, khi họ định giết sư, thì tướng giặc ngăn lại, nói:
– Ánh mắt của đứa bé này chiếu ra ngoài, đây chẳng phải là đứa trẻ tầm thường.
Nói xong, ông ta liền tha. Nhân đây sư đến Lương Châu xuất gia. Về sau giặc Hung Nô bạo ngược, hủy diệt Phật pháp giết hại sa-môn, chỉ có sư được thoát nạn.
Đến ngày 17 tháng 5 nhuần, niên hiệu Nguyên Gia 22 (445), sư từ Bình Thành đến Thượng Cốc ở Đại quận, rồi đi về phía đông, vượt núi Thái Hành đến U Kí, lại theo hướng nam đến Mạnh Tân. Sư chỉ mang theo một bó dương chi[39] và lá hành. Khi Kị binh của Hung Nô sắp đuổi kịp, sư liền lấy bó dương chi tung cát mù mịt, khiến người, ngựa không thể tiến tới. Lát sau cát lắng xuống, giặc lại đuổi tiếp, sư liền lao xuống sông, đặt lá hành vào mũi để thở bơi qua sông.
Ngày mồng 1 tháng 8, sư đến Dương Châu. Bấy giờ, sư đã thông suốt kinh luật, hiểu sâu yếu chỉ thiền, có thể đoán biết những việc tốt xấu rất ứng nghiệm.
Cuối đời Tống, sư lên thuyền đi đến Thành Đô, trú ở chùa Đại Thạch, đích thân họa tượng mười sáu vị thần như: Kim Cương Mật Tích v.v. Niên hiệu Thăng Minh thứ ba (479), sư đi về phía tây ngoạn cảnh Mân Lãnh và đến huyện Quảng Dương phía bắc quận Mân sơn. Tại đây sư thấy núi Tề Hậu hùng vĩ nên sư có ý định trụ suốt đời, bèn kết cỏ làm am cạnh hang núi.
Về sau, đệ tử Pháp Kì thấy thần nhơn cưỡi ngựa mặc đơn y màu xanh, nhiễu quanh núi một vòng và trở lại chỉ nơi lập tháp.
Ngày 23 tháng 4 niên hiệu Kiến Nguyên thứ nhứt (479) nhà Tề, sư xây dựng chùa Tề Hưng. Sau đó, Huệ thái tử nhiều lần sai sứ mang chiếu chỉ đến thỉnh, thấy không thể từ chối nên sư lên thuyền đi về phía đông, giữa đường mắc bệnh. Sư vừa đến kinh đô, bốn chúng đều tôn kính, ít lâu sau sư thị tịch, thọ thế 69 tuổi.
THÍCH ĐÀM SIÊU
Sư họ Trương, quê Thanh Hà, thân cao tám thước, dung mạo đoan nghiêm tuấn tú, sư ăn uống rất đạm bạc, ngày chỉ một bữa, mặc áo vải thô.
Ban đầu, sư ở chùa Long Hoa tại kinh đô. Cuối niên hiệu Nguyên Gia (433) sư đi về phía nam đến Thủy Hưng, dạo xem khắp núi sông, thường ngủ một mình dưới cội tùng, nhưng hổ báo không làm hại.
Khoảng niên hiệu Đại Minh (457) sư trở về kinh đô. Khi Tề Thái Tổ lên ngôi, ban chiếu thỉnh sư đến Liêu Đông hoằng dương pháp thiền. Sư dừng ở đó hai năm hoằng dương giáo pháp.
Cuối niên hiệu Kiến Nguyên (483) sư trở về kinh đô, không bao lâu, lại đến núi Linh Ẩn[40] ở Tiền Đường[41]. Khi sư nhập định thường trải qua nhiều ngày, bỗng một hôm thấy một người đến lễ bái, thưa:
– Đệ tử ở thác nước cách đây bảy dặm, do dân chúng huyện Phước Dương đục khoét chân núi, làm tổn hại nhà ở của loài rồng, nên loài rồng rất phẫn nộ, thề trong ba trăm ngày không làm mưa. Nay đã một trăm ngày mà ruộng đất khô cạn, nên đệ tử thỉnh bậc có đạo đức đến cảm hóa loài rồng tuôn mưa lành thấm nhuần muôn dân, được thế công đức của ngài rất lớn.
Được sư nhận lời, vị thần liền ẩn mất. Đi về phía nam, năm ngày sau sư đến núi Xích Thành, chú nguyện cho loài rồng. Đêm ấy, bầy rồng hóa thành người đến lễ bái, sư thuyết pháp cho họ, nhân đây tất cả đều xin qui y, và tự nhận mình vốn là rồng. Sư bảo:
– Các ông hãy làm mưa.
Nhưng tất cả chỉ nhìn nhau, không đáp. Đêm đó rồng đến báo mộng:
– Do phẫn nộ nên chúng con mới lập lời thề như vậy. Nay ngài đã khai thị cho chúng con điều thiện, chúng con không dám trái lời. Trưa mai trời sẽ mưa.
Đúng như lời hứa, trưa hôm sau trời mưa rất lớn, nhờ thế năm ấy nhân dân được mùa.
Niên hiệu Vĩnh Minh thứ mười (492), sư thị tịch thọ thế 74 tuổi.
PHÁP ĐỘ
Sư quê Hoàng Long, vào đời Nam Tề dời đến Kim Lăng. Lúc đó, ở Tề Quận có cao sĩ Tăng Thiệu ẩn cư tại Nhiếp Sơn, Lang Da. Tăng Thiệu kính trọng sư là bậc chân tu, nên tiếp đãi như thầy.
Khi Tăng Thiệu qua đời, ngọn núi nơi ông ẩn cư được xây dựng thành chùa Thê Hà. Trước đây, một đạo sĩ đã từng chiếm đất chùa làm Đạo quán, nhưng khi ông ta đến ở, không lâu thì chết. Sau đó, đạo quán được sửa thành chùa, nhưng ai ở cũng bị yêu ma quấy nhiễu. Từ khi sư đến tình trạng ấy không còn.
Hơn một năm sau, bỗng nhiên sư nghe tiếng người ngựa, trống, tù và, vang lên, không bao lâu lại thấy một người đến bên sư, thưa:
– Đệ tử tên Cận Thượng.
Sư bảo:
– Hãy đến đây!
Cận Thượng dung mạo tuấn tú trang nhã, người theo hầu rất đông. Cận Thượng đỉnh lễ sư xong liền thưa:
– Đệ tử cai trị núi này hơn bảy trăm năm, thần linh có phép tắc riêng, loài khác không có được. Từ trước đến nay, những người đến ở, hoặc chẳng phải là bậc chơn chánh đều lần lượt bị bệnh chết, đó cũng là số mệnh của họ vậy. Pháp sư là bậc có đạo đức, đệ tử xin cúng dường và phát nguyện thụ tam qui, ngũ giới để kết duyên đời sau.
Sư đáp:
– Người và thần không giống nhau, khó có thể dung hợp, vả lại đàn-việt ăn máu thịt do người đời dâng cúng, đây là điều cấm kị trong năm giới.
Cận Thượng đáp:
– Như vậy, trước tiên đệ tử sẽ dặn đồ đệ bỏ việc sát sinh.
Nói rồi thần từ biệt ra đi.
Hôm sau, có một người đến trao sư một vạn tiền và hương nến .v.v.. thưa:
– Đệ tử Cẩn Thượng dâng cúng.
Ngày 15 tháng đó, sư vì Cẩn Thượng thiết lập trai đàn, ông ta cùng thuộc hạ đến lễ bái, kinh hành, thụ giới xong liền đi. Sau đó, những người đồng bóng ở miếu Nhiếp Sơn mộng thấy thần bảo:
– Ta đã thụ giới với pháp sư Độ, từ nay về sau cúng tế không được sát sinh!
Từ đó, trong miếu chỉ dâng cúng cơm rau mà thôi.
Có lần, sư làm việc mệt mỏi nên đã ngủ quên trên đất, thì thấy Cẩn Thượng từ ngoài đi vào, đưa tay sờ đầu và chân rồi đi ra. Không lâu, quay trở lại mang theo một bát lưu li đựng đầy nước, dâng sư. Sư uống vào, thấy vị ngọt và lạnh, tất cả mệt mỏi đều tan biến. Sự cảm ứng của sư như thế.
THÍCH HUỆ CHẤN
Không rõ sư họ gì, ở chùa Nguyên Môn, Thượng Đảng. Sư giữ kĩ luật, chuyên tu thiền định và sám hối. Sau đó, gặp lúc đất nước hủy diệt Tam bảo, sư liền mang kinh tượng vào ẩn nơi rừng sâu. Một hôm, có giặc đến muốn cướp, nhưng sư không hề hay biết. Bỗng thấy một người cao lớn, râu quai nón, dung mạo tuấn tú, y phục sang trọng cưỡi ngựa trắng bờm đỏ, từ đỉnh núi đi thẳng đến trước sư, xuống ngựa nói:
– Đêm nay có giặc đến, sư nên tránh gấp.
Lúc đó, sư đang ở bên vực thẳm, chung quanh không còn con đường nào khác. Sư nghĩ vị này là thần núi. Bèn nói:
– Nay Phật pháp bị hủy diệt, bần đạo không có chỗ dung thân, cho nên đến nương nhờ đàn-việt. Nếu hôm nay có giặc đến bần đạo chỉ biết đứng chờ chết, chẳng biết trốn vào đâu!
Thần nói:
– Sư từ xa đến đây, đệ tử sẽ hết lòng giúp đỡ.
Nói rồi vị thần liền biến mất. Đêm ấy, bỗng có mưa tuyết lớn, dày hơn cả trượng bít hết lối đi. Do đó, sư thoát được nạn giặc cướp. Hôm sau, trời quang mây tạnh, tuyết tan đường đi thông suốt, bọn giặc quay trở lại tìm sư. Thần bèn đến báo cho những thôn dân dưới chân núi:
– Giặc muốn giết sư Huệ Chấn, các ngươi hãy mau đến cứu giúp.
Dân làng đều cầm dao gậy vào núi chống trả với giặc, chúng kinh hãi bỏ chạy. Nhờ oai lực của vị thần mà sư sống an ổn trên núi. Sau đó, không biết sư viên tịch lúc nào.
TĂNG QUẦN
Sư sống đơn giản đạm bạc, chỉ ăn rau quả, chuyên lòng tụng kinh. Sư dựng một am tranh ở dưới chân núi Hoắc thuộc huyện La Giang. Núi này đứng độc lập giữa biển khơi, trên núi có một bát đá lớn, bát đá này chứa đến sáu thước nước, luôn luôn trong mát. Theo lời kể của các cụ già, đây là nơi ở của các tiên nhơn, sư nhân đây tuyệt thực.
Từ thất sư đến bát đá cách một khe nước nhỏ, sư lấy cây bắt ngang làm cầu đi lấy nước. Năm 130 tuổi, một hôm sư thấy một con vịt bị gãy cánh nằm trên cầu, sư định lấy gậy đỡ lên, nhưng sợ tổn thương, nên quay trở về. Từ đó, sư không chịu uống nước, vài ngày sau thị tịch, trước đó sư có bảo đệ tử:
– Thuở nhỏ tôi làm con vịt gãy cánh, nghiệm lại việc này đúng là điềm báo!
Chú thích:
[1] Xướng đạo 唱導 : giảng kinh, thuyết Pháp
[2] Kim thành 金城: kinh thành
[3] Phàn Đặng樊 鄧: Tên một vùng đất của nước Phàn thời Xuân Thu và địa phương Di Chỉ của nước Đặng, nay thuộc chợ Nhượng Phàn tỉnh Hồ Bắc và huyện Đặng thuộc tỉnh Hà Nam
[4] Đô giảng都講: Từ đời Ngụy Tấn về sau, trong Phật giáo mỗi lần khai đàn giảng kinh, thì có một người xướng kinh, một người giải thích. Người xướng kinh gọi là Đô giảng, người giải thích gọi là pháp sư.
[5] Cữu bộ九部: là chín bộ trong mười hai bộ kinh, trừ ba bộ: Phương Quảng, Thụ Kí và Vô Vấn Tự Thuyết.
[6] Bốn bộ A-hàm: 四 部 阿含: bốn bộ loại kinh trong tạng Tiểu thừa bản Hán: Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tăng Nhất A-hàm và Tạp A-hàm.
[7] La-vân 羅云: tên khác của La-hầu-la.
[8] Định Quang Nho Đồng bố phát定光儒童布髮: bức tranh Bồ-tát Nho Đồng trải tóc cho Phật Nhiên Đăng đi qua.
[9] Nhị quả二果: quả thứ hai trong bốn quả Thanh Văn, tức là quả Tư-đà-hàm.
[10] Thất匹: đơn vị đo chiều dài thời cổ Trung Quốc. đời xư tính dài bốn trượng là một thất.
[11] Bỉnh hốt秉笏: là tấm thẻ thật lớn, thời cổ làm bằng tre, sau làm bằng ngà voi, các quan cầm ở tay khi vào triều, muốn tâu điều gì với vua thì viết lên tấm hốt đó.
[12] Cự Lộc鉅鹿: xưa tên Hồ Trạch, nay thuộc phía bắc huyện Cự Lộc tỉnh Hà Bắc.
[13] Lô Sơn 廬山: tên một ngọn núi thuộc phía nam chợ Cửu Giang tỉnh Giang Tây.
[14] Thanh Viên tự青園寺: chùa ở chân núi Phúc Chu, thuộc ngoại ô thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, do hoàng hậu Chữ Cung Tư sáng lập vào đời Đông Tấn, ngài Trúc Đạo Sinh từng ở chùa này giảng về nghĩa Đốn ngộ thành Phật.
[15] Niết-bàn hậu phẩm 涅槃後品: phẩm sau của kinh Niết-bàn.
[16] Xiển-đề闡提: (gt: của nhất xiển-đề); chỉ cho chúng sanh ưa muốn sanh tử không mong cầu ra khỏi, nên kinh Lăng-già thường nói xiển-đề không bao giờ thành Phật. Thuyết xiển-đề thành Phật xuất xứ từ kinh Đại Bát-niết-bàn, tư tưởng căn bản của thuyết này cho rằng, Phật tính thường trụ và tất cả đều có, dù cho đoạn thiện căn nhưng Phật tính này vẫn thường trụ bất biến.
[17] Hổ Khâu Sơn虎丘山: núi ở phía tây bắc huyện Ngô, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.. Vào cuối thời Xuân Thu, vua Phù Sai nước Ngô mai táng phụ thân là Hạp Lư nơi đây, tương truyền sau khi mai táng ba ngày, có con hổ trắng xuất hiện trên nền mộ, cho nên gọi là Hổ Khâu. Một thuyết khác cho rằng, hình dáng núi này giống như con hổ ngồi, nên có tên đó.
[18] Kế-tân罽賓: cũng là nước Kiếp-tân, nước Yết-tân là tên nước Tây Vức thời Hán Triều.
[19] Pháp sự法事: nghi thức tu hành của tăng ni, như cúng Phật, sám hối, tụng kinh, giảng thuyết…
[20] Cây Nại柰: một loại táo tây.
[21] Trung Hưng tự中興寺: chùa ở Kiến Giang, tỉnh Giang Tô, nay là huyện Ninh Giang, Trung Quốc. Vào đời Tấn, Tì-kheo Trúc Pháp Nghĩa thị tịch an táng tại đây, đệ tử xây một ngôi nhà cạnh mộ, về sau trở thành ngôi chùa.
[22] Cung quế桂宮: chỉ cho hoàng cung.
[23] Định Lâm tự定林寺: chùa ở làng Tưởng Lăng, dưới chân núi Chung Sơn, thành phố Nam Kinh Trung Quốc, do ngài Huệ Giác xây cất vào năm 424. Chùa có hai ngôi: Hạ Định Lâm là chùa gốc và Thượng Định Lâm, do ngài Đàm-ma-mật-đa xây cất vào năm 433.
[24] Tung Hoa嵩華: là gọi chung của Hoa sơn và Tung sơn.
[25] Ngũ minh五明 (S: pañca vidyā-sthānāni): năm loại học thuật của Ấn Độ cổ đại. Đó là Thanh minh, Nhân minh, Y Phương minh, Công Xảo minh và Nội minh.
[26] Hoa nghiêm 華嚴: gt : (của Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh) bộ kinh trọng yếu của Phật giáo Đại thừa, cũng là pháp môn tự nội chứng mà Như Lai tuyên thuyết cho các bồ-tát thượng vị như bồ-tát Văn-thù, bồ-tát Phổ Hiền, sau khi Ngài thành đạo dưới cội bồ-đề.
[27] Nhu Nhiên蠕蠕: Tên một bộ tộc phương bắc Trung Quốc thời xưa.
[28] Lạc Thủy洛水: tên sông thời xưa, nay là sông Lạc Hà ở tỉnh Hà Nam.
[29] Thiên đế 天帝: vua cõi trời Đao Lợi, họ Thích Ca, nên gọi là Thiên Đế Thích.
[30] Vương Ốc 王屋: tên một ngọn núi, ở Dương Thành, Thiểm Tây.
[31] Chương Phủ漳滏: tên sông.
[32] Tung Dương 嵩陽: ở phía nam Tung Sơn.
[33] Bốn chúng四部: Còn gọi Tứ chúng.(S: Catasraḥ parṣadaḥ. P: Catasso parisā). Là Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hoặc 4 chúng xuất gia: Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni.
[34] cây tạc柞木: cây tạc, lá có răng nhọn, ngày xưa dùng làm lược chải đầu.
[35] Thạch石: tức Thạch Lặc.
[36] Kinh Kim Quang Minh 金光明經 (S:Suvarṇaprabhāsottama-sūtra): kinh, 4 quyển, do ngài Đàm-vô-sấm dịch vào đời Bắc Lương, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 16.
Nội dung gồm 19 phẩm, chủ yếu nói về sự hộ vệ quốc gia của chư Thiên và các Thiện thần.
[37] Kinh Duy-ma維摩經 ( S:Vimalakīrti-nirdeśa; Cg: Duy-ma-cật sở thuyết kinh, Duy-ma-cật kinh, Bất khả tư nghì giải thoát kinh): kinh, 3 quyển, 14 phẩm, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Dao Tần, được xếp vào Đại chính tạng tập 14.
Mục đích kinh này nói về pháp môn giải thoát không thể nghĩ bàn mà ngài Duy-ma đã chứng ngộ. Kinh này đặt trên tư tưởng “Không” của Bát-nhã để xiển dương chân lí và sự thực hành của Phật Giáo Đại thừa, đồng thời nói rõ vai trò của bồ-tát đạo và những công hạnh của cư sĩ tại gia.
[38] Kinh Bát-nhã般若經 ( S: Prajñāpāramitā-sūtra): kinh, đây là tên gọi tắt của bộ Thuyết Bát-nhã Ba-la-mật thâm lý chi kinh điển. Cựu dịch là Bát-nhã Ba-la-mật kinh, tân dịch là Bát-nhã Ba-la-mật-đa kinh. Có mười bộ, như Đại phẩm Bát-nhã kinh, Tiểu phẩm Bát-nhã kinh, Đại Bát-nhã kinh, Bát-nhã tâm kinh, Kim cang kinh…đều thuộc về kinh Bát-nhã.
[39] Dương chi楊枝:(S:danta-kāṣṭha; cg: Xỉ mộc) mảnh gỗ mỏng nhỏ dùng để đánh răng nạo lưỡi, là một trong tám vật mà Phật qui định cho hành Tì-kheo phải có.
[40] Linh Ẩn sơn 靈隱山 : (cg: Võ Lâm Sơn, Linh Uyển, Tiên Cư), nằm cạnh Tây Hồ, Hàng Châu, Tríêt Giang, là một trong năm ngọn núi của Phật giáo Trung Quốc.
[41] Tiền Đường 錢唐: tên huyện thời xưa, nay thuộc tỉnh Triết Giang.