Kinh Chữa Bệnh Trĩ
Đường Nghĩa Tịnh dịch,
Bản Việt dịch (1) của Nguyên Thuận,
Bản Việt dịch (2) của Thích Nguyên Chơn
*
Kinh Chữa Bệnh Trĩ
Việt dịch: Nguyên Thuận
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 500 vị đại Tỳ-kheo ở trong vườn Trúc Lâm gần đại thành Vương Xá.
Bấy giờ có rất nhiều vị Tỳ-kheo mắc bệnh trĩ, thân thể gầy gò. Suốt ngày lẫn đêm, họ phải chịu thống khổ đau xiết không ngừng.
Khi thấy việc như vậy, Tuệ mạng A-Nan đến chỗ của Thế Tôn. Sau đó, ngài đảnh lễ với trán chạm sát đôi chân của Phật, rồi đứng qua một bên và bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn! Hiện đang có rất nhiều Tỳ-kheo ở thành Vương Xá mắc bệnh trĩ, thân thể gầy gò. Suốt ngày lẫn đêm, họ phải chịu thống khổ đau xiết không ngừng.
Bạch Thế Tôn! Làm sao mới chữa khỏi các bệnh trĩ đó?”
Phật bảo ngài A-Nan:
“Ông hãy nghe Kinh Chữa Bệnh Trĩ này, đọc tụng thọ trì, ghi nhớ vào lòng và chớ lãng quên, rồi cũng rộng tuyên giảng cho người khác, thời các bệnh trĩ đó tất sẽ trị lành.
Các bệnh trĩ như là: ung nhọt do phong, ung nhọt do nhiệt, ung nhọt do tâm khởi, hoặc ung nhọt do ba thứ trên hợp lại, ung nhọt do máu, ung nhọt trong bụng, ung nhọt trong lỗ mũi, ung nhọt ở răng, ung nhọt ở lưỡi, ung nhọt ở mắt, ung nhọt ở tai, ung nhọt ở đầu, ung nhọt ở tay chân, ung nhọt ở lưng, ung nhọt ở hậu môn, và ung nhọt phát sinh ở các đốt xương khắp toàn thân.
Nếu ai muốn các ung nhọt phát sinh như thế thảy đều khô ráo, rơi rụng, diệt trừ, và lành hẳn hoàn toàn, thời họ đều nên tụng trì thần chú như vầy.
Đức Phật liền nói chú rằng:
“đát điệt tha, át lan đế, át lam mê, thất li bệ, thất lý thất lý, ma yết thất chất, tam bà bạt đổ, sa ha
Này A-Nan! Từ đây về hướng bắc có một ngọn núi chúa Tuyết lớn. Ở nơi ấy có một cây sa-la rất to tên là Nan Thắng. Nó có ba thứ hoa:
1. hoa hé nở
2. hoa nở rộ
3. hoa héo tàn
Đây cũng như khi lúc các bông hoa kia héo tàn rơi rụng, các bệnh trĩ cũng lại như vậy. Chúng sẽ chẳng còn chảy ra máu hoặc mủ nữa, trừ dứt cơn đau đớn, và thảy đều khô ráo.
Lại nữa, nếu ai thường tụng Kinh này thời sẽ đắc Túc Mạng Thông. Họ có thể nhớ những việc trong bảy đời quá khứ và thành tựu Pháp trì chú.
Đức Phật lại nói chú rằng:
“đát điệt tha, chiêm mễ, chiêm mễ, xả chiêm mễ, chiêm một nễ, xả chiêm nê, sa ha”
Khi Phật thuyết Kinh này xong, Tuệ mạng A-Nan cùng các đại chúng đều rất hoan hỷ và tín thọ phụng hành.
*