1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

51. PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT THỨ NĂM MƯƠI MỐT

(Hán bộ từ quyển 126 đến quyển 129)

Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật tại tháp lớn mà từ cổ xưa chư Phật thường an trụ, chư đại Bồ Tát cùng khen ngợi, đất ấy sạch sẽ vi diệu tối thắng, có pháp tọa của chư Phật, hàng Trời, Rồng, Càn Thát Bà v.v… luôn ca tụng. Nơi ấy lại có thể làm tăng trưởng vô lượng thiện căn, thường có ánh sáng vi diệu của chư Phật thành tựu vô lượng vô biên công đức, là chỗ đầy đủ sở hành của chư Phật.

Đức Như Lai thành đạo Bồ đề rồi chuyển pháp luân vi diệu hàng phục vô lượng vô biên chúng sanh được tự tại nơi tất cả pháp. Đức Thế Tôn ở trong tất cả pháp được trí huệ vô ngại, khéo biết rõ tất cả chúng sanh căn tánh lợi hay độn, đức Phật đã dứt hẳn tất cả phiền não tập khí, trang nghiêm biết rõ tất cả pháp.

Có đại Tỳ Kheo Tăng sáu vạn tám ngàn người đều là Phật tử đã dứt phiền não tập khí, khéo hiểu thâm nghĩa, đều là phước điền, hay dứt sanh tử được quả tịnh giới bất sanh bất diệt.

Còn có vô lượng Bồ Tát Tăng đủ trí vô ngại trí thậm thâm trí vô tri, đại từ đại bi tuôn mưa pháp, hay ban bố tất cả pháp vi cam lộ, đối với tất cả chúng sanh lòng các Ngài như mặt đất tăng trưởng thành tựu các pháp trợ Bồ đề. Trí huệ các Ngài sáng rỡ hay phá tan tối tăm, đều có thể soi rõ đường thiện ác, có thể làm cho hoa sen tâm lành của chúng sanh đều nở, hay làm cho căn lành của chúng sanh thành thục, tăng trưởng mầm lành, làm khô lầy phiền não.Các Ngài có đủ cảnh trí huệ bay trong hư không vô ngại như mặt nhựt. Các Ngài khéo có thể làm cho chúng sanh thêm lành bớt ác như mặt nguyệt. Các Ngài là gốc lành cao vững như núi Tu Di. Lòng các Ngài tịch tĩnh tu hành hạnh thanh tịnh chẳng bị thế luận làm động chuyển, thường an trụ pháp xuất thế vô thượng, thường thấy chư Phật và tất cả Phật độ. Các Ngài chứa tạng pháp lành như biển cả. Các Ngài thành tựu đầy đủ các môn đà la ni, thánh hạnh tịch tĩnh và đại từ bi. Các Ngài trang nghiêm thanh tịnh hai mắt định và huệ. Từ lâu các Ngài đã xa lìa sự sợ hải pháp thậm thâm. Từ vô lượng kiếp các Ngài tu hạnh Bồ đề, pháp nào chưa được rốt ráo thì trọn chẳng thôi nghỉ? Các Ngài đã thành tựu những công đức mà bực Bồ Tát phải có.

Danh hiệu của các Ngài là: Huệ Quang Vô Ngại Nhãn đại Bồ Tát, Kiến Nhứt Thiết Điền

Trang Nghiêm Anh Lạc đại Bồ Tát, Bất Đoạn Như Lai Tánh Xuất Thế Ý Đại Bồ Tát, Vị Chư Chúng Sanh Thị Hiện Tế Hạnh Thần Túc đại Bồ Tát, Vô Lượng Lạc Thuyết Vô Ngại Thần Túc Tràng Danh Xưng đại Bồ Tát, Tịnh Chúng Quang Tự Tại Vương đại Bồ Tát, Thiện Năng Luận Giải Tự Nghĩa Quảng Thuyết Luận Nghị Thần Túc đại Bồ Tát, Vô Lượng Công Đức Trí Huệ Trang Nghiêm Trụ đại Bồ Tát, Chư đại Bồ Tát như vậy thường chung ở với đức Như Lai. Đức Như Lai thường vì chư Bồ Tát nầy mà phân biệt tuyên nói các pháp môn mà Bồ Tát thật hành.

Lúc bấy giờ đức Như Lai thành Chánh đẳng Chánh giác được mười sáu năm, biết rõ trong đại chúng nhiều người tu phạm hạnh đều đến tập họp có thể thọ trì tạng pháp Bồ Tát.

Bấy giờ đức Như Lai nghĩ rằng: Nay ta nên vì vô lượng chúng đại Bồ Tát nầy mà tuyên nói các pháp sở hành của chư Bồ Tát. Ta nên trước thị hiện đạI thần thông lực của chư Phật Như Lai để cho chư đại Bồ Tát biết cảnh giới sâu rộng của chư Phật.

Đức Thế Tôn liền nhập tam muội. Tam muội ấy có tên là Phật Cảnh Thần Thông Thiệt Kiến Chúng Sanh.

Do công đức oai thần lực của Phật, ở chặng giữa hai cõi Dục và cõi Sắc suất hiện phường đình lớn rộng bằng cả Đại Thiên thế giới, từ hai sức định và phước làm thành, nơi đây có thể làm chỗ ở của Phật Như Lai. Đức Phật lại phóng quang minh thanh tịnh lớn chiếu khắp thế giới chư Phật mười phương, Quang minh nầy có thể làm cho chúng sanh được tâm tri túc còn hơn cả ở cung trời, lại có thể khuyến tấn chư Bồ Tát phóng dật ở mười phương.

Phường đình được hiện ra đây, bốn phía giáp vòng có đại thọ bạch lưu ly, tường vách bằng chơn kim, nhà bằng công đức bửu, rèm rũ bằng ngọc mã não, lan can bằng các thứ châu báu, có lưới kết bằng bạch chơn châu giăng trùm lên trên, các thứ phan lọng báu để trang nghiêm, các thứ hương thơm rưới rải trên đất, xông đốt gỗ thơm quý. Bao nhiêu những món thượng diệu trang nghiêm của chúng sanh trong mười phương thế giới đều hiện cả trong ấy.

Trong phường đình được hiện ra ấy đặt để vô lượng trăm ngàn vạn ức pháp tọa sư tử, trải nệm êm dịu vô lượng màu sắc đẹp sáng, ai thấy cũng đều sanh lòng vui thích. Các tứ thiên hạ đều riêng có bốn thềm thang bằng thất bửu, ngang rộng mười do tuần, lúc có người bước đi trên ấy liền phát ra âm thanh vi diệu. Như tứ thiên hạ, cả Đại Thiên thế giới cũng đều có thềm bực thất bửu như vậy cả.

Bấy giờ đức thế Tôn từ tam muội dậy, cả Đại thiên thế giới chấn động sáu cách, cũng phóng ra ánh sáng lớn tối thắng. Đức thế Tôn cùng các chúng Thanh Văn, Bồ Tát sau trước vây quanh muốn đến phường đình ấy. Tất cả hàng chư Thiên tôn trọng ngợi khen rải các thứ hoa tròi như hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, cũng xông đốt các thứ hương thơm, rải các thứ bột hương để cúng dường Phật và Thánh chúng. Quang minh của đức Phật phóng ra chấn động cả mười phương, soi sáng khắp mọi nơi vô lượng vô biên thế giới, thị hiện thần thông phước đức của chư Phật.

Lúc bấy giờ, tại núi Kỳ Xà Quật, bỗng nhiên đại chúng chẳng còn hiển hiện, tất cả đều lên thềm bực thất bửu đi trên hư không. Có vô lượng ức Bát Bộ Quỷ Thần, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La già cùng các chúng Quỷ Thần Vương cũng theo hầu cận đức Phật, đều mang hoa trời hương trời để cúng dường.

Tứ Thiên Vương quỳ dài chấp tay hướng lên đức Phật nói kệ tán thán:

Như Lai quang minh hơn tất cả

Hay phá tối tăm ba ác đạo

Chúng tôi quy y thích y chỉ

Đấng vô thượng tát bà tất đạt

Nói kệ xong, Tứ Thiên Vương cùng chúng trời thần của mình liền đứng hầu sau Phật.

Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn cùng chư Thiên trời Đao Lợi đem hoa hương cúng dường đức Phật mà nói kệ tán thán:

Như Lai đầy đủ mọi thần thông

Đức đại từ bi không ai hơn

Công đức Phật trang nghiêm mười phương

Chúng tôi kính lạy đấng vô thượng

Nói kệ xong, Thiên Đế cùng chư Thiên trời Đao Lợi liền đến hầu sau đức Phật.

Dạ Ma Thiên Vương cùng chư Thiên trời Dạ Ma đem hương hoa cùng kỹ nhạc trời cúng dường và nói kệ tán thán đức Phật:

Trí huệ vô biên vô chướng ngại

Biết việc ba đời của chúng sanh

Một tâm biết rõ vô lượng tâm

Nay tôi kính lạy đấng vô thượng

Nói kệ xong, Dạ Ma Thiên Vương và chư Thiên Dạ Ma đứng hầu sau Phật.

Đâu Suất Thiên Vương và chư Thiên trời Đâu Suất đem hoa hương kỹ nhạc trời cúng dường và nói kệ tán thán đức Phật:

Phật biết các pháp như ảo huyễn

Không thọ không làm không chữ lời

Thương người nên nói chẳng thể nói

Ghi nói vô ngã biết pháp tánh.

Nói kệ xong Đâu Suất Thiên Vương và chư Thiên trời Đâu Suất liền đứng hầu sau đức Phật.

Hóa Lạc thiên Vương cùng chư Thiên trời Hóa Lạc đem hương hoa kỹ nhạc trời cúng dường và nói kệ tán thán đức Phật:

Như Lai được đầy đủ thập lực

Biết các pháp giới như hư không

Không tướng vì thương mà hiện tướng

Tâm Phật bình đẳng dạy chúng sanh

Như Lai thường làm việc chư Phật

Vì chúng sanh làm việc thế gian

Khai thị pháp giới vô phân biệt

Nay tôi kính lễ Thiên Nhơn Sư.

Hóa Lạc Thiên Vương và chư Thiên trời Hóa Lạc nói kệ xong liền đến hầu sau đức Phật.Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương cùng chư Thiên trời Tha Hóa Tự Tại đem hương hoa kỹ nhạc trời cúng dường đức Phật và nói kệ tán thán:

Giới hạnh thanh tịnh trụ tịch tĩnh

Thành tựu tam muội tối vô thượng

Trí Phật vô biên vô chướng ngại

Tôi lạy bực cứu cánh giải thoát

Đại từ đại bi lời vi diệu

Hay biết đúng thiệt đạo phi đạo

Dũng kiện tinh tiến lực vô thượng

Chúng tôi kính lạy đấng vô động

Phật đã thành tựu ba giải thoát

Không ai khen hết công đức Phật

Quạ hay dầu chẳng đồng KIM SÍ

Cũng tùy sức mình mà bay liệng

Nay tôi như quạ tùy sức khen

Xin Phật xót thương nhận lời mọn

Không gieo không gặt không kết quả

Chẳng khen đức Phật không giải thoát

Từ bi làm cộng trí huệ lá

Chánh định cánh tua giải thoát nở

Ong chúa Bồ Tát hút cam lồ

Nay tôi lạy Phật hoa sen pháp

Đại bi trí huệ quang minh đủ

Hay phá vô minh của chúng sanh

Giới hạnh thanh tịnh người thích xem

Nay tôi kính lạy Phật pháp nguyệt

Tâm Phật bình đẳng như hư không

Ngợi khen chê mắng lòng không hai

Hay sạch cấu nhơ vô lượng chúng

Nay tôi kính lạy sông Phật pháp.

Nói kệ xong, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương cùng chư Thiên trời Tha Hóa Tự Tại liền đứng hầu sau đức Phật.

Chúng chư Thiên cúng dường nói kệ tán thán xong, đức Thế Tôn liền thị hiện vô lượng thần thông đạo lực lần lẩn đến phường đình thất bửu. Như người tứ thiên hạ thấy đức Phật đi lên, khắp cả Đại Thiên thế giới cũng đồng thấy như vậy. Vào phường đình rồi đức Phật lên ngự tòa sư tử thất bửu, hàng Thanh Văn và chư Bồ Tát cũng lên ngồi tòa báu.

Lúc bấy giờ đức thế Tôn nhập tam muội. Tam muội ấy có tên là Vô ngại giải thoát. Khắp thân đức Phật tất cả lỗ lông đều phóng vô lượng ánh sáng lớn chiếu suốt mười phương vô lượng thế giới. Loài chúng sanh trong các địa ngục nhờ ánh sáng soi đến đều được dứt khổ. Các chúng sanh khác thì trừ lòng tham gian giận thù mê si, mỗi mỗi sanh lòng thương coi nhau như cha với con.

Do công đức của Phật nên trong ánh sáng ấy nói lên lời kệ để khuyến hóa các Bồ Tát phóng dật:

Như Lai tinh tiến vô lượng biên

Quá vô lượng kiếp thường tinh tiến

Ai hay khen Phật quang minh đức

Chỉ có chư Phật ở mười phương

Vì khuyên mười phương chư Bồ Tát

Ưa thích phóng dật chẳng tu thiền

Thích Ca Như Lai phóng quang nầy

Với chư Bồ Tát về đây họp

Thành tựu đầy đủ Phật thập lực

Phá được ma vương các thế giới

Thế giới chẳng nhơ dường hoa sen

Quang minh Phật phóng vô biên lượng

Như Lai chuyển pháp vô thượng nầy

Chư Thiên cùng người không làm được

Vì các chúng sanh chuyển pháp luân

Như xưa pháp luân chư Phật chuyển

Hôm nay Như Lai họp đại hội

Khó thấy dường như hoa ưu đàm

Nếu ai lòng tin được thành tựu

Đều vì nghe pháp đến chỗ Phật.

Lời kệ tụng trong quang minh của Phật phóng ra vang rộng khắp mười phương khuyên bảo các Bồ Tát làm chấn động tất cả thế giới đại địa, làm cho chúng sanh tất cả đều được an vui, hay sạch tất cả phiền não của chúng sanh, hay phá si tối của tất cả chúng sanh, hay khuất tất cả cung điện của thiên ma. Ánh sáng ấy chiếu khắp mười phương rồi trở về nhập vào đỉnh đầu của đức Phật.

Bấy giờ phương Đông có thế giới tên Vô Lượng Công Đức Bửu Tụ Thần Thông, Phật hiệu Tịnh Đại Bửu Hoa Quang Vương, nơi ấy có Bồ Tát hiệu Pháp Tự Tại Công Đức Hoa. Được quang minh chiếu đến, Bồ Tát nầy liền cùng hằng hà sa số đại Bồ Tát đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn, đầu mặt lạy chưn Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu Phật một vạn vòng rồi đem hoa hương vi diệu cúng dường ở trước Phật nói kệ tán thán:

Tất cả công đức đều rốt ráo

Thường được mười phương Phật ngợi khen

Danh hiẹu vô ngại khắp mười phương

Đại từ đại bi Thích Ca Phật

Như Lai pháp giới vô sai biệt

Vì kẻ căn độn nói sai biệt

Tuyên nói một pháp thành vô lượng

Như nhà ảo thuật bày sự ảo

Chư Bồ Tát nói kệ khen Phật xong cúi lạy chưn Phật rồi dùng sức thần thông của mình ở phía Đông của đức Phật hóa ra các tòa báu theo thứ tự mà ngồi.

Phương Nam có thế giới tên là Phật Quang, Phật hiệu là Vô Lượng Công Đức Bửu. Cõi ấy có Bồ Tát hiệu Bửu Trượng. Bồ Tát nầy được quang minh chiếu đến liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng rồi dâng cúng hương hoa vi diệu, ở trước đức Phật nói kệ khen ngợi:

Đại từ mây pháp tuôn mưa pháp

Thường nói vô thường không vô ngã

Dùng nước bát chánh dứt lửa kiết

Tăng trưởng căn lành cho chúng sanh

Phật quang hay phá tối vô minh

Khuyên dạy chư Bồ Tát phóng dật

Hay đốt giống ái trong tam giới

Hay dạy chơn thiệt đạo phi đạo.

Nói kệ và đảnh lễ Phật xong, chư Bồ Tát nầy dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Nam của đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.

Phương Tây có thế giới tên là Quang Minh, Phật hiệu Phổ Quang. Cõi ấy có Bồ Tát hiệu là Xưng Lực Vương được quang minh chiếu đến liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường, ở trước đức Phật nói kệ khen rằng:

Phát nguyện lành trong vô lượng kiếp

Do đây được thân vô lậu tịnh

Công hạnh của Phật như hư không

Âm thanh vô ngại khắp mười phương

Như Lai tiếng phạn như sấm vang

Tiếng nầy vô nghiệp cũng vô nhơn

Không nghe không nhận không chúng sanh

Đại bi cớ chi vang tiếng nói

Chư đại Bồ Tát nầy nói kệ và đảnh lễ chưn đức Phật xong, dùng thần lực của mình ở phía Tây đức Phật hóa ra tòa báu rồi theo thứ tự mà ngồi.

Phương Bắc có thế giới tên Bửu Trang Nghiêm, Phật hiệu là Vô Lượng Công Đức Trang Nghiêm. Cõi ấy có Bồ Tát hiệu là Đại Hải Trí. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Hải Trí liền cùng mười hằng hà sa số đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, dâng cúng hoa hương rồi nói kệ khen ngợi:

Như Lai vô thượng ánh sáng vàng

Hay phá tối tất cả thế gian

Nếu có chúng sanh gặp sáng nầy

Phiền não liền trừ được an lạc

Dầu ai thân cao quá Đại Thiên

Thần thông đạo lực vô biên tế

Cũng chẳng thấy được đảnh tướng Phật

Nhiều kiếp Thế Tôn tu hạnh gì.

Nói kệ khen xong, chư Bồ Tát lạy chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Bắc đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.

Phương Đông Nam có thế giới tên Vô Ưu Phật hiệu là Năng Hoại Nhứt Thiết Ám. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Vô Thắng Quang. Được quang minh chiếu đến, dại Bồ Tát Vô Thắng Quang liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đinh báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng dâng cúng hoa hương rồi nói kệ ngợi khen:

Vô lượng cõi vào một lỗ lông

Cũng chẳng nhiễu hại các chúng sanh

Cảnh giới của Phật khó biết được

Thần thông đạo lực chẳng nghĩ bàn

Hay làm một thân thành vô lượng

Mà chơn thân Phật không tăng giảm

Dầu vì chúng sanh hiện thần biến

Mà nội tâm Phật thường bình đẳng.

Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát lạy chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Đông Nam đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.

Phương Tây Nam có thế giới tên là Thiện Kiến, Phật hiệu là Tâm Bình Đẳng. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Đại Bi Tâm. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Đại Bi Tâm liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi nói kệ khen rngợi:

Trong vô lượng đời gìn cấm giới

Như mao ngưu quý trọng đuôi mình

Thấy ai phạm giới lòng xót thương

Cũng chẳng kiêu mạn tự khen ngợi

Tâm của Phật như núi Tu Di

Mười phương ma tà không động được

Trí Phật rất sâu không thể lường

Khó nghĩ bàn được như biển cả

Phật tự giải thoát tất cả cõi

Cũng khiến chúng sanh được giải thoát

Được quả giải thoát thiệt không khác

Tùy lúc hành đạo có dị biệt.

Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát lạy chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Tây Nam đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.

Phương Tây Bắc có thế giới tên là Hoại Ám, Phật hiệu là Thần Thông Vương. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Bửu Võng. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Bữu Võng liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước đức Phật mà nói kệ ngợi khen:

Như Lai Thế Tôn dường ảo huyễn

Mà vì chúng sanh nói sự huyễn

Vì không vật thiệt nên nói huyễn

Không có chúng sanh nói chúng sanh

Như người chiêm bao thấy các cảnh

Thức dậy thiệt ra không cảnh sắc

Vì độ chúng sanh hiện thế gian

Như Lai chơn thiệt không thế gian.

Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Tây Bắc đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.

Phương Đông Bắc có thế giới tên là Tịnh Trụ, Phật hiệu là Tâm Đồng Hư Không. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Vô Biên Tịnh Ý. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Vô Biên Tịnh Ý liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng dùng hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước đức Phật nói kệ ngợi khen:

Phật biết các pháp thậm thâm

Thường thích tịnh tĩnh tu vô tưởng

Biết rõ tâm tưởng của chúng sanh

Cũng nói các pháp như hư không

Trụ trong một tâm biết tam thế

Cũng biết rõ rằng các chủng nghiệp

Chẳng sanh tâm tưởng chúng sanh tưởng

Vô lượng đời tu vô tướng tưởng

Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Đông Bắc đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.

Hạ phương có thế giới tên là Lạc Quang, Phật hiệu là Bửu Ưu Bát Hoa. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Trang Nghiêm Lạc Thuyết. Được quang minh chiếu đến, dại Bồ Tát Trang Nghiêm Lạc Thuyết liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước đức Phật nói kệ khen ngợi:

Vô lượng bực trí chơn Phật tử

Số như vi trần trong mười phương

Ở vô lượng kiếp học hỏi Phật

Chẳng hết nghĩa một chữ của Phật

Trí huệ Như Lai rộng vô biên

Công đức tổng trì cũng như vậy

Danh xưng lực thế vô biên tế

Dường như đại hải ở mười phương

Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phương dưới đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.

Thượng phương có thế giới tên là Anh Lạc Trang Nghiêm, Phật hiệu là Đại Danh Xưng. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Nhứt Thiết Pháp Thần Thông Vương. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Nhứt Thiết Pháp Thần Thông Vương liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu lạy chưn đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước đức Phật nói kệ ngợi khen:

Thân Phật thân nghiệp vô biên tế

Ý nghiệp khẩu nghiệp cũng vô biên

Chỉ Phật biết được Phật ba nghiệp

Người khác chẳng biết như hư không

Như lai đầy đủ vô sư trí

Vì vậy chúng sanh gọi Đại Sư

Chư Phật pháp giới chẳng nghĩ bàn

Thành đạo chuyển pháp nhập Niết Bàn.

Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phương trên đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.

Trong khoảng một niệm thời gian, vô lượng chư đại Bồ Tát ở mười phương thế giới đồng thời vân tập trong phường đình báu lớn.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn từ tam muội an tường dậy, tiếng dặng hắng của đức Phật vang suốt mười phương, tất cả chúng sanh đều được nghe, nghe rồi đều sanh lòng kính tin Phật Pháp và Tăng Tam bửu.

Thế giới mười phương có bao nhiêu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, hoặc là người hoặc hàng phi nhơn nghe tiếng của đức Phật rồi thì thân tâm của họ liền tịch tĩnh. Do sức oai thần công đức của Phật nên họ đều ngó thấy những thềm bực bảy báu, trong khoảng một niệm họ đều được lên thềm báu vào trong phường đình báu lớn theo vị thứ của mình mà ngồi.

Nghe thanh âm của đức Phật, tất cả chư Thiên: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Phạm Vương Thiên, Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm Thiên, Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên, Phước Ái Thiên, Phước Sanh Thiên, Vô Tưởng Thiên, Quảng Quả Thiên,, Vô Phiền Thiên,, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên, trong thời gian một niệm đồng đến phường đình báu lớn lễ Phật cúng dường hóa ra tòa báu rồi theo thứ tự mà ngồi.

Thấy đại chúng đã tập họp xong, đức Thế Tôn phóng bạch hào tướng quang giữa hai chặng mày. Quang minh nầy có tên là Thị Bồ Tát Lực, xoay quanh đại chúng Bồ Tát bảy vòng rồi nhập vào đảnh đầu chư Bồ Tát.

Trong đại hội có một đại Bồ Tát hiệu là Chư Pháp Tự Tại Công Đức Hoa Tử nhập tam muội tên là Anh Lạc Trang Nghiêm. Do sức tam muội nầy hóa ra tòa sư tử cao bằng tám vạn ức cây đa la, tòa nầy bảy báu trang nghiêm trải các thứ danh hoa, hay làm cho người thấy phải ưa thích và thâm tâm đều thanh tinh.

Dùng sức tam muội hóa hiện tòa sư tử như vậy rồi, đại Bồ Tát Chư Pháp Tự Tại Công Đức Hoa Tử xuất định an tường đứng dậy đầu mặt lạy chưn đức Phật, cung kính chắp tay ở trước đức Phật nói kệ ngợi khen:

Ánh sáng nhựt nguyệt phá hiện tối

Phật quang hay phá tối ba đời

Như Lai đầy đủ sức thần thông

Sáng hơn tất cả ánh sáng trời

Phật rõ pháp giới không tri giác

Như trăng trong nước không khứ lai

Không sanh không thọ không tác giả

Chơn thiệt biết rõ dạy lại người

Biết trong sắc tâm không sắc tâm

Phương tiện dạy người nói sắc tâm

Thần thông Như Lai dường ảo huyễn

Biết các pháp giới cũng ảo huyễn

Tất cả chúng sanh tâm thường tịnh

Có lúc khách trần phiền não nhiễm

Chư Phật Như Lai được giải thoát

Thị hiện thần thông như huyễn ảo

Hư không không nơi không chỗ ở

Tâm Phật rỗng không cũng như vậy

Vì chúng nên Phật lên tòa ngồi

Nói pháp cam lộ như chư Phật

Tất cả đại chúng không khứ lai

Không có người nói nghe nhận lấy

Các pháp thảy đều như hư không

Nguyện Phật tuyên nói pháp chơn thật

Thế Tôn nhận ngồi tòa tôi hiện

Nguyện vì chúng sanh rống sư tử

Thương người nên phát phạm âm thanh

Đèn sáng trí huệ phá si tối

Đại chúng mười phương đến nghe pháp

Đều đã tập họp phường đình nầy

Nguyện Phật ban cho đại pháp thí

Phá khối nghèo cùng vô lượng đời.

Vì lòng đại bi, đức Thhế Tôn lên ngồi trên tòa sư tử báu của đại Bồ Tát Chư Pháp Tự Tại Công Đức Hoa Tử dâng hiến. Đức Thế Tôn muốn nói pháp môn vô ngại sở hành của Bồ Tát. Hành pháp môn nầy sẽ được đầy đủ Phật pháp thập lực, tứ vô sở úy, nhập pháp môn tất cả pháp tự tại đà la ni, nhập pháp môn tứ vô ngại trí, nhập pháp môn đại thần thông bất thối chuyển pháp luân, bất thối trụ xứ nhiếp tất cả thừa, nhiếp tất cả pháp giới chơn thiệt pháp giới, vô phân biệt pháp giới, biết rõ tâm căn của tất cả chúng sanh, nhập pháp giới chơn thiệt kiên cố, hay phá tất cả tứ ma, điều phục tất cả ác kiến phiền não, được bất cộng thiện quyền pbương tiện, được tâm bình đẳng vô nhị, được chỗ mà tất cả chư Phật đồng vào, chỗ không chướng ngại vì nói tất cả pháp chơn thiệt, tất cả pháp phi giác phi phi giác, vì nói mười hai nhơn duyên bình đẳng, vì dầy đủ trí huệ đại trang nghiêm, vì trang nghiêm thân Phật và âm thanh Phật, vì ý niệm vô tận hiện hành trí huệ, vì diễn nói tứ Thánh đế chơn thiệt hay làm cho hàng Thanh Văn thân tâm thanh tịnh, hay làm cho hàng Bích Chi Phật phát khởi đại trí, hay làm cho hàng Đại thừa Bồ Tát được tự tại nơi tất cả pháp, vì nói rộng công đức của chư Phât, vì giải nói chỉ dạy tất cả pháp, vì nói công đức lớn rộng của chư đại Bồ Tát, vì phá rách lưới nghi của chúng sanh, vì dẹp trừ tất cả tà luận, vì tăng trưởng chánh pháp của Như Lai, vì hiển bày thần lực của Phật cho chúng sanh thấy. Vì tất cả nhơn duyên như vậy mà đức Thế Tôn lên ngồi bửu tòa sư tử.

Bấy giờ có đại Bồ Tát hiệu là Bửu Trượng thừa thần lực của đức Phật mà nhập tam muội Phật anh lạc trang nghiêm, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được các thứ anh lạc trang nghiêm.

Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Xưng Lực Vương nhập liên hoa tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được hoa đẹp cúng dường đức Phật và chư đại Bồ Tát.

Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Đại Hãi Huệ Trí nhập diệu hương tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được có hương thơm cúng dường Phật và chư đại Bồ Tát.

Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Bửu Vỏng cũng nhâp quang minh tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được than mình có ánh sáng đẹp.

Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Bi Tâm nhập vô thuấn tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng chiêm ngưỡng đức Thế Tôn chẳng hề chớp mắt.

Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Vô Biên Tịnh Ý nhập hỉ lạc tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng vui thích nghe pháp.

Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Trang Nghiêm Lạc Thuyết nhập tịch tĩnh ý tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng xa lìa ngũ cái.

Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Nhứt Thiết Pháp Thần Túc Vương nhập bất vong tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng chuyên nhớ Bồ đề chẳng quên mất.

Thừa thần lực của đức Phật, Dũng Kiện đại Bồ Tát nhập vô thắng tam muội, do sức tam muội nầy đều làm cho đại chúng xô dẹp các ma.

Thừa thần lực đức Phật, đại Bồ Tát Phá Ma nhập hoại ma tam muội, do sức tam muội nầy mà một ức vị ma vương trong Đại Thiên thế giới được vời đến tập họp tại phường đình báu lớn, tất cả một ức vị ma vương đầu mặt lạy chưn đức Phật, cung kính chắp tay đồng bạch rằng: « Nguyện đức Như Lai vì các chúng sanh mà khai thị pháp môn cam lộ. Chúng tôi nhơn sức oai thần của đại Bồ Tát Phá Ma nên sẽ được xa lìa tất cả nghiệp ma không còn có lòng trở ngại đại chúng ».

Đức Phật nói: « Lành thay lành thay! Các thiện nam tử, nay các ngươi đã lìa được nghiệp ma, do nhơn duyên nầy ở đời vị lai các người cũng lại được lìa tất cả nghiệp ma. Nầy các thiện nam tử! Ví như trong nhà tối trăm năm, được các đèn sáng thì tất cả tối tăm đều mất. Cũng vậy, từ nhiều kiếp các ngươi bị vô minh làm đen tối, nay thì được phá tan mê lầm mà an trụ trong bửu quang nhựt nguyệt tín giới trí huệ thiền định. Các ngươi hôm nay thỉnh Phật thuyết pháp, do nhơn duyên nầy các ngươi sẽ phá được tối vô minh mà làm đèn sáng trí huệ cho các chúng sanh”.

Bấy giờ trong đại chúng có một đại Bồ Tát hiệu là Pháp Tự Tại Vương bạch rằng: ” Bạch đức Thế Tôn! Cảnh giới của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao? Vì đức Như Lai có tâm muốn thuyết pháp mà có thể làm cho tất cả đại chúng vân tập vì Bồ đề mà làm đại trang nghiêm đại pháp thần thông, vô lượng thế gian được đại danh xưng thân tâm tịch tĩnh được đại giải thoát và được pháp giới bất khả tư nghị, được mười phương chư Phật ngợi khen, đầy đủ tất cả mười Ba la mật, thành tựu thông đạt thiện quyền phương tiện, hay phá rách lưới nghi của tất cả các ma, hay dứt tất cả tà luận của các chúng sanh, hay khéo phân biệt tất cả pháp giới, đến được đầy đủ trí huệ vô ngại, đầy đủ trí huệ niệm ý hành, đầy đủ sức dũng kiện, đầy đủ bốn trí vô ngại, khéo biết các căn lợi hay độn của các chúng sanh, biết rõ chúng sanh giới mà tùy ý thuyết pháp, thường hay tuyên nói pháp giới thanh tịnh, khéo hiểu tất cả ngữ ngôn của các phương thế gian, hay được tất cả phạm âm thanh tịnh, thành tựu đầy đủ tâm đại từ bi, các tà thuyết dị kiến không làm lay động được, như núi Kim Cương không gì phá hoại được, trọn đủ ba tướng, dựng nên tràng pháp, đã qua khỏi sông sâu mười hai nhơn duyên, đã dứt hai biên kiến, hay điều phục đại chúng, trong vô lượng kiếp được khối pháp bất khả tư nghị, hay trị lành các bịnh như đại y vương, làm cho đại chúng nghe pháp thậm thâm không kinh sợ, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươì vẻ đẹp trang nghiêm thân đã thành tựu viên mãn ba mươi bảy phẩm trợ pháp Bồ đề và đầy đủ tám giải thoát, thân khẩu và ý đã thuần thiện không còn tạp xen có thể khiến tất cả chúng sanh đều mến thích đến nghe pháp, các pháp thế gian không ô nhiễm được, thường thọ an lạc, thường trụ pháp giới, ban cho pháp bửu, với pháp không nhàm, với pháp có không hề nhiễm dính như cánh hoa sen không thấm nước, sáng hơn tất cả nhựt nguyệt đèn châu, trí sâu hơn biển, nối tánh Tam bửu, điều phục chúng sanh giới, hay khai phát Phật tạng, hộ trì Phật pháp, đầy đủ vô lượng công đức trí huệ. Trong vô lượng kiếp tu tập trang nghiêm vô lượng công đức, thường muốn chứng được nhứt hạnh nhứt tâm nhứt sắc nhứt xứ. Chư Bồ Tát có đủ công đức như vậy nay đều đến tập họp nơi pháp hội nầy. Nguyện đức Như Lai nói pháp môn vô ngại công hạnh của Bồ Tát để làm lợi ích cho chúng Bồ Tát quá khứ vị lai và hiện tại, để cho hàng sơ phát tâm chẳng thối chuyển, hàng phát tâm lâu thì được tăng trưởng, hàng hành đạo Bồ để thì được ý thanh tịnh, hàng bất thối Bồ Tát thì học pháp Phật, hàng bổ xứ Bồ Tát thì được anh lạc trang nghiêm, hàng tối hậu thân Bồ Tát thì được Vô thượng Bồ đề, chúng sanh định tánh thì thêm lớn nhơn duyên, kẻ chưa định tánh thì làm nhơn duyên kẻ chưa vào Phật pháp thì làm cho họ vào Phật pháp, kẻ vào Phật pháp thì thêm kính Phật pháp, vì người thích ba thừa mà nói nhứt thừa, ban cho thế gian phước lạc trời người.

Bạch đức Thế Tôn! Như Lai xuất thế có bao nhiêu sự bất khả tư nghị như vậy?

Bạch đức Thế Tôn! Nay trong đại chúng nầy, mỗi vị Bồ Tát đều có thể thị hiện các đại thần thông. Vì vậy nên chư Phật và chư Bồ Tát đều chẳng thể nghĩ bàn.

Bạch đức Thế Tôn! Tại sao các chúng sanh vô minh ái nặng dầu được thấy đại thần thông của chư Bồ Tát như vậy mà vẫn sanh lòng ty hạ ham pháp Thanh Văn hay pháp Duyên Giác.

Bạch đức Thế Tôn! Lúc mới phát tâm Bồ đề, Bồ Tát đã hơn hàng Thanh Văn và Duyên Giác.

Bạch đức Thế Tôn! Ví như có người vứt bỏ ngọc lưu ly mà lượm lấy thủy tinh. Cũng vậy, chúng sanh bỏ Đại thừa mà thích thừa Thanh Văn và Duyên Giác. Nếu có chúng sanh đã phát hay muốn phát tâm Vô thượng Bồ đề thì sẽ được tất cả công đức thần thông như đã nói ở trên”.

Nghe Pháp Tự Tại Vương đại Bồ Tát bạch đức Phật xong, trong pháp hội có ba mươi ức na do tha trăm ngàn muôn ức chúng sanh Trời và Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn đã biết chư Bồ Tát đã vân tập, đức Phật nghĩ rằng hôm nay các thiện nam tử nầy đều muốn được nghe thiệt nghĩa của các pháp, họ đều có thể thọ trì tạng pháp thậm thâm của Phật, họ đều muốn nghe pháp môn vô ngại công hạnh của Bồ Tát.

Nghĩ như vậy, đức Phật liền phóng bạch hào tướng quang giữa hai chặng mày. Quang minh nầy có tên là vô sở úy nhiễu bên hữu quanh chư đại chúng đủ bảy vòng rồi nhập vào đảnh đầu của đại Bồ Tát Đà La Ni Tự Tại Vương.

Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Đà La Ni Tự Tại Vương hóa ra lọng báu lớn khắp đại Thiên thế giới trang nghiêm với bảy thứ báu. Lọng báu nầy che ngay trên pháp tòa của đức Phật.

Hóa lọng báu lớn xong, Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát đầu mặt lạy chưn đức Phật rồi quỳ dài chắp tay cung kính nói kệ tán thán:

Như Lai tự tại tất cả pháp

Phật quang hay phá tối thế gian

Thế Tôn Phật nhãn không chướng ngại

Hay thấy nghĩa chơn thiệt các pháp

Đầy đủ vô lượng các công đức

Không thầy tự ngộ các pháp giới

Như Lai phóng quang vì chúng sanh

Nhập vào đầu tôi có cớ gì

Trước đây trí biết chưa được tỏ

Mắt đà la ni tôi cũng vậy

Phật quang nay nhập vào thân tôi

Làm tôi biết rõ các pháp giới

Lại thêm thân tâm được thanh tịnh

Thọ vui vô thượng vô biên lượng

Nay tôi đã biết cảnh giới Phật

Cũng được lạc thuyết vô ngại biện

Khó được hầu gần mười phương Phật

Người gặp cũng không thờ làm thầy

Nay vì nương thần lực của Phật

Muốn hỏi chút pháp lợi chúng sanh

Nhơn duyên gì phát Bồ đề tâm

Còn có duyên gì Phật xuất thế

Duyên gì phóng quang chiếu mười phương

Còn duyên gi hiện thần thông lớn

Duyên chi Phật vì chúng thọ ký

Nguyện Phật chỉ dạy cho chúng rõ

Nay đại chúng này bực thắng thượng

Có thể thọ trì Phật pháp giới

Chúng đây không ma không nghiệp ma

Xin Phật khai thị pháp tạng Phật

Trí tôi thiển cận có mé bờ

Đâu có khả năng thưa thỉnh Phật

Nay hỏi Như Lai vô biên trí

Làm sao biết được các phương tiện

Nguyện Phật dạy bảo hảng đệ tử

Tôi học đã được pháp tự tại

Đã có khả năng thuyết đại pháp

Sẽ báo ơn chư Phật mười phương.

Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật Như Lai bất khả tư nghị, công hạnh Bồ Tát không có ngằn mé, vì vậy nên nay tôi kính hỏi đấng Như Lai Vô thượng Pháp Vương đại từ đại bi, để đem lại sự lợi ích cho chúng sanh về pháp thậm thâm.

Thế nào gọi là Bồ Tát hạnh? Dùng gì làm anh lạc trang nghiêm mà công hạnh của Bồ Tát được thanh tịnh? Làm sao có thể phá được tối ngu si? Làm sao có thể dứt hết lòng nghi lầm? Bồ Tát vì chúng sanh tu tâm từ bi thế nào? Bồ Tát ùng hộ chúng sanh thế nào? Thế nào là Bồ Tát hay tu Bồ Tát nghiệp, thiện nghiệp và bất thối nghiệp? Nguyện đức Như Lai xót thương tuyên dạy cho. Đại chúng trong pháp hội nầy đều có lợi căn trí huệ có thể hiểu lời Phật. Có thể biết pháp giới, có thể thấu đạt pháp môn vô ngại sở hành của Bồ Tát, có thể phá hoại tất cả ma và nghiệp ma, có thể trừ hết lòng nghi, có thể hiểu cảnh giới thậm thâm của Phật, có thể biết chúng sanh giới và chúng sanh tâm tánh, có thể thấy vô lượng chư Phật thế giới, có thể hộ trì Như Lai vô thượng chánh pháp, có thể được đại tự tại nơi tất cả pháp ».

Đức Thế Tôn khen Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát rằng: Lành thay lành thay! Thiện nam tử có thể hỏi đức Như Lai về những nghĩa thậm thâm, có thể hay thật hành vô lượng Phật hạnh, ông có thể biết hỏi đức Phật như vậy. Nay ông nên lắng nghe, đức Như Lai sẽ vì ông mà tuyên nói nếu Bồ Tát thành tựu đầy đủ những công hạnh như vậy thì được đại tự tại nơi tất cả pháp.

Nầy thiện nam tử! Bồ Tát có bốn anh lạc trang nghiêm, đó là giới anh lạc trang nghiêm, tam muội anh lạc trang nghiêm, trí huệ anh lạc trang nghiêm và đà la ni anh lạc trang nghiêm.

Giới anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là đối với chúng sanh không có lòng làm tổn hại, nếu Bồ Tát không có tâm ác hại thì tất cả chúng sanh đều vui mừng thích thấy. Còn có hai thứ, đó là đóng bít ác đạo và mở rộng cửa lành. Còn có ba thứ, đó là thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh và ý thanh tịnh. Còn có bốn thứ, đó là sở cầu đều được, sở nguyện đầy đủ, sở nguyện thành tựu, chỗ muốn thì đều có thể làm được. Còn có năm thứ, đó là tín, giới, định, niệm và huệ. Còn có sáu thứ, đó là chẳng phá giới, chẳng lậu giới, chẳng tạp giới, chẳng hối giới, tự tại giới, và vô lậu giới. Còn có bảy thứ, đó bảy thanh tịnh: bố thí thanh tịnh, nhẫn nhục thanh tịnh, tinh tiến thanh tịnh, thiền định thanh tịnh, trí huệ thanh tịnh, phương tiện thanh tịnh và thiện phương tiện thanh tịnh. Còn có tám thứ, đó là tám cụ túc: vô tác cụ túc, địa cụ túc, bất vong tâm cụ túc. bất huởn cụ túc, chư căn cụ túc. Phật thế cụ túc, ly nạn cụ túc và thiện hữu cụ túc. Còn có chín thứ, đó là bất động, bất úy, định trí, tịch tĩnh, chí tâm, thanh lương, kiết huởn, điều tâm và an trụ điều phục địa. Còn có mười thứ, đó là thân thanh tịnh vì có đủ ba mươi hai tướng tốt, khẩu thanh tịnh vì lời nói không hai, ý thanh tịnh vì đã giải thoát, điền thanh tịnh vì làm cho chúng sanh đầy đủ phước đức, tâm thanh tịnh vì điều phục chúng sanh, cõi nước thanh tịnh vì giáo hóa chúng sanh, danh hiệu thanh tịnh vì được công đức Như Lai, huệ thanh tịnh vì có đại thần thông, phương tiện thanh tịnh vì phá các ma chúng, và giới thanh tịnh vì có đủ pháp bất cộng. Nầy thiện nam tử, các sự như vậy gọi là giới anh lạc trang nghiêm.

Nầy thiện nam tử! Tam muội anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là vì chúng sanh mà tu tập từ tâm. Còn có hai thứ, đó là chất trực và nhu nhuyến. Còn có ba thứ, đó là chẳng hư dối, chẳng thô bạo và chẳng tà siểm. Còn có bốn thứ, đó là chẳng tham ái, chẳng sân hận, chẳng bố úy và chẳng si mê. Còn có năm thứ, đó là xa lìa năm cái chướng tam muội. Còn có sáu thứ, đó là tu tập lục niệm tam muội. Còn có bảy thứ, đó là tu tập thất giác chi tam muội. Còn có tám thứ, đó là tu tập bát chánh đạo tam muội. Còn có chín thứ, đó là Bồ Tát tu tập tâm Bồ dề và tâm đại từ bi ở nơi tất cả chúng sanh mà tu tập niệm tâm xa lìa tất cả pháp ác dục có giác có quán tịch tĩnh hỉ lạc được Sơ thiền, xa lìa giác quán nội tâm được hỷ lạc chí tâm tư duy vô giác vô quán định sanh hỷ lạc được đệ Nhị thiền, lìa hỷ tu xả đầy đủ niệm tâm không có phóng dật thân thọ an lạc được đệ Tam thiền, xa lìa khổ lạc diệt trừ tâm ưu hỷ, chẳng phải khổ chẳng phải lạc tu tập xả niệm tịch tĩnh, niệm dược đệ Tứ thiền, xa lìa sắc tướng tu tập vô lượng không tưóng, xa lía không tướng tu vô lượng Thức tướng, xa lìa thức tướng tu Vô sở hữu tướng, xa lìa vô sở hữu tướng tu Phi tưởng phi phi tưởng tướng và mặc dầu chưa thành tựu trí thiện quyền phương tiện, mà dùng sức tam muội giáo hóa chúng sanh. Còn có mười thứ, đó là quán pháp không có sai lầm, thành tựu đầy đủ xa ma tha, tinh tiến không ngừng nghỉ, khéo biết rõ thời tiết, chí tâm thọ trì pháp lành, tâm tịch tĩnh, quán thân vô tướng, thường quán pháp giới và tâm được tự tại và chứng được Thánh tánh. Đây gọi là tam muội anh lạc trang nghiêm.

Nầy thiện nam tử! Trí huệ anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là tâm không còn nghi. Còn có hai thứ, đó là xa lìa tâm nghi và xa lìa tâm sân. Còn có ba thứ, đó là xa lìa vô minh, phá vỏ vô minh và làm ánh sáng lớn. Còn có bốn thứ, đó là biết khổ, dứt tập, chứng diệt và tu hành đạo phẩm. Còn có năm thứ, đó là giới tụ thanh tịnh, định tụ thanh tịnh, huệ tụ thanh tịnh, giải thoát tụ thanh tịnh và giải thoát tri kiến tụ thanh tịnh. Còn có sáu thứ, đó là thanh tịnh bố thí Ba la mật có ba: một là nội thanh tịnh quán pháp như huyễn, hai là chúng sanh thanh tịnh quán pháp như mộng và ba là Bồ đề thanh tịnh chẳng cầu quả báo. Thanh tịnh giới Ba la mật có ba: một là quán thân như bóng, hai là quán khẩu nhu vang và ba là quán tâm như huyễn. Thanh tịnh nhẫn Ba la mật có ba: một là nghe chê chẳng sân, hai là nghe khen chẳng mừng và ba là lúc bị chặt chém giết hại thường có thể quán pháp giới. Thanh tịnh tinh tiến Ba la mật có ba: một là chẳng tưởng, hai là vững chắc và ba là chẳng thấy pháp có tướng. Thanh tịnh thiền Ba la mật có ba: một là chẳng trụ trước các pháp, hai là tâm chẳng thối chuyển, ba là duyên cảnh thanh tịnh. Thanh tịnh phương tiện Ba la mật có ba: một là nhiếp lấy chúng sanh để cho được giải thoát, hai là thanh tịnh đà la ni để thọ trì chánh pháp và ba là sở nguyên thanh tịnh để tịnh Phật quốc độ. Còn có bảy thứ trí huệ anh lạc trang nghiêm, đó là tu Tứ niệm xứ chẳng lấy chẳng chấp, tu Tứ chánh cần chẳng xuất chẳng diệt, tu Tứ thần túc thân tâm thanh tịnh, tu Ngũ căn biết căn không có căn, tu Ngũ lực hay phá phiền não, tu Bồ đề phần biết pháp giới chơn thiệt và tu tập Thánh đạo không có khứ lai. Còn có tám thứ, đó là tu tam muội chánh định để được rốt ráo thanh tịnh, tu tri để phá si ám, tu trí biết ngũ ấm để biết pháp tu, tu trí biết thập bát giới để hiểu pháp giới đồng hư không, tu trí biết thập nhị nhập để biết pháp tánh bình đẳng, tu trí biết Mười hai nhơn duyên để quán vô ngã và không có ngã sở, tu trí biết tứ Thánh đế để phá bốn điên đảo kiến và tu trí phân biệt biết pháp giới để biết chơn thiệt vậy. Còn có chín thứ, đó là quán vô thường, quán vô thường khổ, quán khổ vô ngã, quán ăn bất tịnh, quán thế gian không gì đáng vui thích, quán trong vòng sanh tử có nhiều lỗi họa, quán giải thoát, quán lìa tham và quán tận diệt vậy. Còn có mười thứ, đó là quán các pháp như ảo huyễn, quán các pháp như mộng, quán các pháp như dương diệm, quán các pháp như âm vang, quán các pháp như thân cây chuối, quán các pháp như mặt trăng trong nước, quán các pháp như bóng, quán pháp giới không có tăng giảm, quán các pháp không có đi hay ở và quán các pháp vô vi không có sanh diệt vậy. Đây là huệ anh lạc trang nghiêm.

Nầy thiện nam tử! Đà la ni anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là chẳng mất niệm tâm. Còn có hai thứ, đó là trước thì ghi nhận và sau thì rốt ráo có thể giữ vững. Còn có ba thứ, đó là biết nghĩa, biết chữ và biết nói. Còn có bốn thứ, đó là nói lời chơn chánh, nói lời rõ ràng, nói lời vô ngại và nói lời không lầm lỗi. Còn có năm thứ đó là ngũ y chỉ: y chỉ nơi nghĩa chẳng y chỉ nơi chữ, y chỉ nơi trí chẳng y chỉ nơi thức, y chỉ kinh liễu nghĩa mà chẳng y chỉ nơi kinh bất liễu nghĩa, y chỉ nơi chánh pháp mà chẳng y chỉ nơi người và y chỉ xuất thế chẳng y chi thế tục. Còn có sáu thứ, đó là đúng như lời nói chơn chánh mà làm, lời nói ra đều thành thiệt, phát ngôn được người thích nghe, lời nói đầy ý xót thương, lời nói sanh pháp lành và lời nói hạp thời tiết. Còn có bảy thứ, đó là lời nói lợi ích, lời nói trang nghiêm, lời nói vô ngại, lời nói không trệ, lời nói không có hai, lời nói đã có biết trước và lời nói rõ ràng rành rẽ. Còn có tám thứ, đó là biết lời nói của các địa phương, biết lời nói của các quỷ thần, biết lời nói của chư Thiên, biết lời nói của các loài Rồng, biết lời nói của Thần Càn Thát Bà, biết lời nói của hàng A Tu La, biết lời nói của hàng Kim sí điểu và biết lời nói của các loài súc sanh. Còn có chín thứ, đó là lời nói không e sợ, lời nói không rụt rè, lời nói không vấp váp, biết lời nói giải thoát, biết lời nói đúng pháp, biết lời nói rộng rãi, biết lời nói theo thứ tự, biết lời nói thuyết vô thường và lời nói không cùng tận. Còn có mười thứ, đó là lời nói phá lưới nghi, lời nói khai thị về pháp giới, lời nói khai thị về pháp môn, lời nói mở mang trí huệ, lời nói phá mê tối, lời nói hiểu mỗi mỗì chữ, lời nói khen ngợi Phật, lời nói quở trách phiền não, lời nói phân biệt căn tánh lợi hay độn và lời nói vi diệu khai thị công đức của đức Phật. Đây là đà la ni anh lạc trang nghiêm vậy ».

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy nên nói tụng rằng:

Bốn anh lạc trang nghiêm

Hay trang nghiêm Đại thừa

Là giới định trí huệ

Và đà la ni vô thượng

Làm cho ba nghiệp tịnh

Mọi người đều mến thích

Dứt hẳn ba ác đạo

Gọi là giới anh lạc

Được đầy đủ sở nguyện

Được thân người thân trời

Hay tu tập tinh tiến

Gọi là giới anh lạc

Hay tu định vô thượng

Được hai thứ giải thoát

Thấy Niết bàn vô thượng

Gọi là giới anh lạc

Giới chẳng phá chẳng lậu

Vô thượng giới chẳng tạp

Hay được đại tự tại

Giới anh lạc trang nghiêm

Giới tịnh hay tịnh thí

Giới tịnh hay tịnh nhẫn

Giới tịnh ngũ độ tịnh

Giới anh lạc trang nghiêm

Tịnh giới tịnh ba cõi

Giới tịnh bất phóng dật

Vô úy tâm chẳng hối

Gọi là giới anh lạc

Giới định được Thánh tánh

Cũng làm thân tâm tịnh

Nhập được vô biên định

Gọi là giới anh lạc

Chẳng kính sợ chẳng động

Chắc được cõi thanh tịnh

Hay dứt dây phiền não

Gọi là giới anh lạc

Hay điều người khó điều

Hay được danh tiếng lớn

Trang nghiêm tâm tự tại

Gọi là giới anh lạc

Hay làm đúng như lời

Hay sạch miệng bốn nghiệp

Xa lìa các phiền não

Giới anh lạc trang nghiêm

Hay thanh tịnh Phật độ

Hay điều phục chúng sanh

Hay tu đại từ bi

Gọi anh lạc trang nghiêm

Chẳng làm các nghiệp ác

Tu các hạnh Bồ Tát

Được thập lực vô úy

Gọi anh lạc trang nghiêm

Hay nghiêm đại Niết bàn

Hay được đại nhơn quả

Từ tâm khắp chúng sanh

Gọi anh lạc trang nghiêm

Hay lìa lòng tham dối

Tu tập bốn nhiếp pháp

Dứt ái sân bố si

Gọi anh lạc trang nghiêm

Hay phá năm cái chướng

Tu tập đại niệm tâm

Trợ đạo chẳng phóng dật

Gọi anh lạc trang nghiêm

Đầy đủ hai phước trí

Đúng pháp tu duy nghĩa

Lạc hỷ trụ tịch tĩnh

Gọi anh lạc trang nghiêm

Với pháp không có nghi

Cũng không tâm si loạn

Chơn thìệt hiểu tứ đế

Gọi anh lạc trang nghiêm

Trì giới tâm không chấp

Cũng chẳng lòng kiêu mạn

Chẳng thấy giới người giữ

Gọi anh lạc trang nghiêm

Vô thượng huệ tịnh định

Chẳng biết hai tịnh huệ

Hay rõ biết ba cõi

Gọi anh lạc trang nghiêm

Ý tịnh chẳng kiêu mạn

Thấy bất tịnh chẳng khinh

Biết pháp bất khả thuyết

Gọi anh lạc trang nghiêm

Huệ hay trang nghiêm trí

Trí cũng trang nghiêm huệ

Tự tha Bồ đề tịnh

Gọi anh lạc trang nghiêm

Biết pháp như mộng huyễn

Chẳng nói pháp không có

Khéo tùy thuận thế gian

Gọi anh lạc trang nghiêm

Huệ hay trang nghiêm giới

Giới hay trang nghiêm huệ

Thân khẩu Bồ đề tịnh

Gọi anh lạc trang nghiêm

Thấy pháp như thủy nguyệt

Cũng như nắng lúc nóng

Thuyết pháp xem như vang

Như thành Càn Thát Bà

Phi pháp chẳng làm pháp

Gọi là huệ anh lạc

Huệ hay trang nghiêm nhẫn

Nhẫn cũng trang nghiêm huệ

Thân khẩu Bồ đề tịnh

Gọi anh lạc trang nghiêm

Pháp giới chẳng tăng giảm

Biết rồi điều chúng sanh

Chí tâm quán pháp thân

Gọi anh lạc trang nghiêm

Huệ hay trang nghiêm cần

Tinh tiến trang nghiêm huệ

Tâm định chẳng hối động

Gọi anh lạc trang nghiêm

Huệ hay trang nghiêm định

Định cũng trang nghiêm huệ

Hay thuyết thậm thâm pháp

Được vô thắng thần thông

Hay biết các phương tiện

Được vô thượng tổng trì

Pháp độ chúng sanh tịnh

Gọi anh lạc trang nghiêm

Biết các căn lợi độn

Phá phiền não các ma

Thân tâm được tự tại

Gọi anh lạc trang nghiêm

Đạo không có khứ lai

Cũng không người khứ lai

Chẳng quá khứ vị lai

Chẳng hiện tại người tu

Chẳng phân biệt pháp giới

Hay tịnh tất cánh định

Biết các ấm nhập giới

Gọi tên huệ anh lạc

Ấm nhập giới như không

Không ngã không ngã sở

Sanh diệt do mười hai

Gọi là huệ anh lạc

Biết thiệt đệ nhứt nghĩa

Cũng biết ấm nhập giới

Với pháp chẳng tranh luận

Biết tam thế vô ngại

Phân biệt ba khối chúng

Vì họ nói ba thừa

Dùng Tam bửu giáo hóa

Tu ba vô tưóng định

Vô tướng biết nhứt tướng

Chẳng huyễn biết như huyễn

Vô thuyết hay diễn thuyết

Thuyết không nơi bất không

Các pháp phi thường biến

Chẳng hủy hoại pháp giới

Vì nhơn duyên hòa hiệp

Lưu bố trong pháp giới

Đây gọi là chơn trí

Chẳng phân biệt pháp giới

Biết rõ động bất động

Biết rõ cạn và sâu

Biết rõ thường vô thường

Gọi là đại tịnh trí

Thường chẳng mất tịnh tâm

Biết rõ nơi pháp giới

Biết chữ cũng biết nghĩa

Nơi thế đế không tối

Nghe rồi hay thọ trì

Hiểu rõ tiếng mọi loài

Hay phá các tà đạo

Tu tập trí vô thượng

Y tứ y vô thượng

Là tổng trì anh lạc

Phật nói tràng công đức

Trang nghiêm Bồ đề tâm

Trong chúng vô úy thuyết

Hiểu rõ thiên thần ngữ

Hay phá các lưới nghi

Hay khai các pháp giới

Hay khen ngôi Tam bửu

Khuyên người đồng cúng dường

Kề cận Phật và Tăng

Tu tập trí vô thượng

Phật nói bốn anh lạc

Trang nghiêm Phật Bồ Tát

Nếu người chí tâm tin

Liền được anh lạc nầy.

Lại nầy thiện nam tử! Đại Bồ Tát có tám ánh sáng lớn, do ánh sáng nầy mà hay phá được các sự tối tăm làm cho công hạnh của Bồ Tát thanh tịnh.

Những gì là tám? Đó là niệm quang, ý quang, hành quang, pháp quang, trí quang, thiệt quang, thần thông quang và vô ngại trí quang vậy.

Niệm quang có tám: một là chẳng mất pháp lành quá khứ, hai là làm pháp lành vị lai, ba là nghe pháp chẳng quên, bốn là tư duy thiệt nghĩa, năm là chẳng bị sáu trần nhiễm hư, sáu là nhớ giữ chánh pháp như người giữ của, ngăn pháp ác và vì pháp lành mà giữ cửa thành thiện pháp, bảy là chẳng bị tà pháp gạt lầm và tám là có thể làm thêm lớn những pháp thuần thiện vậy.

Ý quang cũng có tám: một là nghĩa ý chẳng phải ý chữ, hai là trí huệ ý chẳng hình thức ý, ba là chánh pháp ý chẳng phải ý người, bốn là thiệt ý chẳng phải hư ý, năm là Bồ Tát ý chẳng phải Thanh Văn ý, chẳng phải Duyên Giác ý, sáu là thượng ý chẳng phải hạ ý, bảy là Phật ý chẳng phải thối thất ý và tám là lân mẫn ý chẳng phải hại ý vậy.

Hành quang cũng có tám: một là pháp hành, hai là nhứt thiết hành, ba là chúng sanh hành, bốn là chúng sanh tâm hành, năm là thập nhị nhơn duyên hành, sáu là quảng thuyết hành, bảy là công hạnh hành và tám là nhứt thiết Phật pháp hành vậy.

Pháp quang cũng có tám: một là thế pháp quang, hai là xuất thế pháp quang, ba là vô lậu pháp quang, bốn là vô vi pháp quang, năm là giải thoát pháp quang, sáu là tâm giải thoát pháp quang, bảy là tất cánh giải thoát pháp quang và tám là huệ phá vô minh pháp quang vậy.

Trí quang cũng có tám: một là nhập chánh trí quang, hai là Tu Đà Hoàn trí quang, ba là Tu Đà Hàm trí quang, bốn là A Na Hàm trí quang, năm là A La Hán trí quang, sáu là Bích Chi Phật trí quang, bảy là Bồ Tát trí quang và tám là Chánh Giác trí quang vậy.

Thiệt quang cũng có tám: một là chánh định hạnh, hai là được quả Tu Đà Hoàn, ba là quả Tư Đà Hàm, bốn là quả A Na Hàm, năm là quả A La Hán, sáu là quả Bích Chi Phật, bảy là Bồ Tát và tám là Phật Bồ đề vậy.

Thần thông quang cũng có tám: một là nhãn quang hay thấy chánh sắc, hai là nhĩ quang hay nghe chánh thanh, ba là niệm quang hay nhớ quá khứ vô số kiếp chúng sanh, bốn là tánh quang hay quan sát tâm tánh thanh tịnh của chúng sanh, năm là hư không quang dùng đại thần thông có thể đến vô lượng thế giới mười phương, sáu là phương tiện quang vì đủ có trí vô lậu, bảy là công đức trang nghiêm quang vì lợi ích tất cả chúng sanh và tám là trí huệ trang nghiêm quang vì phá lòng nghi lầm của tất cả chúng sanh vậy.

Vô ngại trí quang cũng có tám: một là trí quang, hai là ý quang, ba là huệ quang, bốn là Phật quang, năm là chánh kiến quang, sáu là làm thanh tịnh tâm chúng sanh quang, bảy là giải thoát quang và tám là tất cánh quang vậy.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy nên nói kệ rằng:

Tu tập sáng niệm tâm

Chẳng quên nghiệp thiện ác

Thích nghe tán tụng kinh

Tu tập chẳng phóng dật

Hay điều phục các căn

An trụ trong tịch tĩnh

Thêm lớn các pháp lành

Tu tập niệm quang minh

Hay ngăn dừng pháp ác

Như người giữ thành giỏi

Hay thủ hộ pháp thành

Chẳng cho bốn ma vào

Chẳng chạy theo âm thanh

Thường tư duy chơn nghĩa

Gần kề thiện tri thức

Hỉ lạc trụ đúng pháp

Trí huệ vô biên thượng

Dứt hẳn các phiền não

Tà pháp chẳng động đươc

Đời ác chẳng sanh chê

Thành tâm niệm Bồ đề

Chẳng nói tâm Tiểu thừa

Thường thích nhớ thượng ý

Vì người phá hạ ý

Chẳng sợ ma phiền não

Tu tập tâm từ bi

Chẳng nghĩ hại chúng sanh

Được đủ trí quang lớn

Hay phá các lòng nghi

Hiểu rõ nghĩa thậm thâm

Biết phương tiện chơn thiệt

Tu bốn trí vô ngại

Thích quán mười hai duyên

Là nhơn của chúng sanh

Biết vô tác vô thọ

Hay tu pháp quang lớn

Hay biết các Phật pháp

Tu hạnh thế xuất thế

Hay đến mười phương cõi

Biết rõ nghiệp Nhơn Thiên

Tu tập trí vô thượng

Ba thừa về nhứt thừa

Tu tập bát chánh đạo

Vì phá pháp ba đời

Như thiệt biết rõ rành

Pháp hữu lậu vô lậu

Lợi ích hàng Nhơn Thiên

Dạy họ dứt hữu lậu

Biết rõ đúng chơn thiệt

Pháp hữu vi vô vi

Tịch tĩnh quang vô ngại

Chẳng dính tướng hữu vi

Biết kiết nhập xuất duyên

Biết chúng tâm tánh tịnh

Nếu có Đại thừa định

Liền biết pháp như vậy

Thích trụ tánh vô lậu

Xong bốn quả Sa Môn

Biết Bồ Tát đạo hạnh

Nên tu vô ngại trí

Phá tà tu thiệt quang

Vào chứng vô sở úy

Thích nói nghĩa chơn thiệt

Vì phá pháp sanh tử

Nhãn nhĩ tịnh không chướng

Thấy nghe sắc thanh chánh

Quá khứ nhớ chẳng lầm

Cũng biết rõ tha tâm

Đến mười phương vô ngại

Biết pháp như hư không

Được vô lậu trí huệ

Vì điều phục chúng sanh

Đủ công đức trí huệ

Vì lợi ích chúng sanh

Ở trong vô lượng đời

Cầu hai trang nghiêm nầy

Thích thọ trì tịnh giới

Thích thủ hộ Phật pháp

Tu tập chơn thiệt quang

Vì trụ đúng chánh pháp

Phật nói vô lượng quang

Để cho chúng sanh được

Có ai tin kinh nầy

Liền được quang như vậy.

Lại nầy thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu tập đại bi có mười sáu sự.

Những gì là mười sáu?

Một là đại Bồ Tát thấy chúng sanh tham trước ngã kiến, do nơi ngã kiến mà sanh ra các kiến chấp nên luôn bị sanh tử trói buộc, vì vậy nên đại Bồ Tát tu tập đại bi, do tâm đại bi mà vì chúng sanh thuyết pháp giáo hóa để phá các kiến chấp hư vọng như vậy.

Hai là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh điên đảo nơi thường thì thấy là vô thường, nơi vô thường thì thấy là thường, nơi khổ thấy là vui nơi vui thì thấy là khổ, nơi tịnh thấy bất tịnh nơi bất tịnh thấy là tịnh, nơi ngã thấy vô ngã nơi vô ngã thấy ngã, do đây đại Bồ Tát tu tập tâm đại bi, do tâm đại bi mà vì các chúng sanh tuyên nói pháp yếu để phá bốn thứ mê chấp điên đảo như vậy.

Ba là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh có lòng kiêu mạn, thiệt không có vật mà cho là có vật, thiệt không có sự mà cho là có sự; do đây mà họ sanh ra bảy thứ kiêu mạn, do kiêu mạn mà sanh lớn các pháp ác. Vì vậy mà đại Bồ Tát tu tập tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá trừ lòng kiêu mạn của các chúng sanh.

Bốn là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh bị ngũ cái che trùm, vì bị che trùm nên lòng họ sanh nghi với chánh pháp nghĩa thậm thâm họ không hiểu được, vì các chúng sanh nầy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá năm cái chướng của các chúng sanh ấy.

Năm là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh chìm trong biển lục nhập: mắt họ duyên lấy tướng hình sắc, tai họ duyên lấy tướng âm thanh, mũi họ duyên lấy hơi hương, lưỡi họ duyên lấy tướng mùi vị, thân họ duyên lấy tướng chạm xúc và ý họ duyên lấy tướng các pháp, sự duyên lấy tướng như vậy gọi đó là bị chìm, vì các chúng sanh nầy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để vớt chúng sanh khỏi bị chìm trong sáu trần tướng.

Sáu là đại Bồ Tát thấy các chún,g sanh có bảy thứ mạn, đó là mạn, đại mạn, mạn mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, hạ mạn và tà mạn.Vì các chúng sanh nầy mà Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi, đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu chơn chánh để dứt các thứ mạn ấy của chúng sanh.

Bảy là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh rời lìa thánh đạo, họ thích làm thế tục đạo và ác đạo, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để dứt trừ thế tục đạo và ác đạo của các chúng sanh.

Tám là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh tạo nghiệp ác đạo, lệ thuộc vô minh ái, bị vợ con trói buộc nên chẳng được tự tại, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt sự hệ phược ấy cho chúng sanh xuất ly ác đạo.

Chín là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh gần gũi bạn xấu ác mà xa lìa bạn lành tốt, lòng họ cam đành tạo gây nghiệp ác, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để dứt nghiệp ác của chúng sanh khiến họ xa bạn ác và gần bạn lành.

Mười là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh gây tạo nghiệp xan tham nơi vô minh ái không biết nhàm đủ, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt xan tham vô minh và ái của các chúng sanh ấy và ban cho họ trí huệ.

Mười một là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh nhiều ngã kiến đoạn kiến, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu ban bố cho họ trí huệ chơn chánh mười hai nhơn duyên để dứt ngã kiến và đoạn kiến của các chúng sanh.

Mười hai là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm vó nhiều kiến chấp, đó là ngã kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, nhơn kiến, dị kiến, tà kiến, thủ kiến, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt trừ các kiến chấp của các chúng sanh, ban cho họ chánh kiến trí huệ.

Mười ba là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh ưa thích trong sanh tử, với thân ngũ ấm cho là thân thiết, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để cho chúng sanh thoát khỏi sanh tử trong ba cõi.

Mười bốn là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh bị ma trói buộc, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát vì chúng sanh tuyên nói chánh pháp để dứt phá lưới ma nghiệp ma của chúng sanh.

Mười lăm là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh ưa thích sự khoái lạc hư đối của thế tục mà chẳng biết được sự vui chơn thiệt và nhân của vui chơn thiệt, vì vậy mà đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp chỉ dạy nhơn hạnh của quả vui chơn thiệt cho chúng sanh.

Mười sáu là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh cầu cửa vào Niết bàn mà chẳng biết chỗ, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu mở cửa Niết bàn cho các chúng sanh.

Nầy thiện nam tử! Do mười sáu nhơn duyên như vậy mà đại Bồ Tát vì các chúng sanh tu tâm đại bi.

Lại nầy Đà La Ni Tự Tại Vương! Các loài chúng sanh có ba mươi hai nghiệp ác bất thiện. Vì thấy như vậy mà chư đại Bồ Tát tu tập nghiệp thiện để phá trừ các nghiệp ác ấy cho chúng sanh.

Những gì là ba mươi hai nghiệp?

Một là thấy có các chúng sanh nặng về vô minh ngủ nghỉ, đại Bồ Tát vì họ mà tu tập trí huệ để phá vô minh thùy miên ấy.

Hai là thấy có các chúng sanh hiểu biết thấp hạ mong muốn thấp hạ, đại Bồ Tát vì họ mà tu tập hiểu biết thắng thượng chí nguyện thắng thượng để đem pháp Đại thừa thắng thượng giáo hóa họ.

Ba là thấy có các chúng sanh thích những phi pháp, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để làm cho các chúng sanh ấy được đại tự tại nơi tất cả pháp.

Bốn là thấy có các chúng sanh ưa tà mạng, đại Bồ Tát tu tập chánh mạng để phá trừ tà mạng ấy.

Năm là thấy có các chúng sanh vào trong rừng tà, đại Bồ Tát tu tập chánh kiến để làm cho các chúng sanh và ra khỏi rừng tà.

Sáu là thấy có các chúng sanh ưa phóng dật, đại Bồ Tát tu tập bất phóng dật để làm cho các chúng sanh xa lìa phóng dật.

Bảy là thấy có các chúng sanh ưa thô bạo, đại Bồ Tát tu tập công hạnh đúng chánh pháp để làm cho các chúng sanh xa lìa thô bạo.

Tám là thấy có các chúng sanh tham lam bỏn xẻn, đại Bồ Tát tu tập hạnh bố thí rộng lớn để làm cho cac chúng sanh dứt tham lam bỏn xẻn.

Chín là thấy có các chúng sanh hay hủy phạm cấm giới, đại Bồ Tát tu trì tịnh giới để trừ lòng phá giới của các chúng sanh.

Mười là thấy có các chúng sanh lòng thường giận hờn, đại Bồ Tát tu tâm từ bi nhẫn nhục để phá lòng giận hờn của các chúng sanh.

Mười một là thấy có các chúng sanh đối với chánh pháp thiện pháp lười biếng thật hành, đại Bồ Tát tu tập siêng cần tinh tấn để trừ sự lười biếng ấy của các chúng sanh.

Mười hai là có các chúng sanh tâm tưởng tán loạn, đại Bồ Tát tu tập chánh định để trừ tâm tán loạn của các chúng sanh.

Mười ba là có các chúng sanh tà trí che tâm, đại Bồ Tát tu tập chánh trí để trừ tà trí ấy của các chúng sanh.

Mười bốn là có các chúng sanh nói nghĩa điên đảo, đại Bồ Tát tư duy chánh nghĩa để trừ sự điên đảo ấy của các chúng sanh.

Mười lăm là thấy có các chúng sanh ưa gây tạo sự nghiệp thế tục, đại Bồ Tát tu tập thiện quyền phương tiện để trừ lòng ưa thích tạo nghiệp thế tục ấy của các chúng sanh.

Mười sáu là thấy có các chúng sanh bị phiền não trói buộc, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp tự dứt trừ phiền não và để làm cho các chúng sanh cũng dứt trừ phiền não.

Mười bảy là thấy có các chúng sanh bị buộc chặt nơi ngã kiến, đại Bồ Tát trước tự trừ ngã kiến rồi sau trừ ngã kiến của các chúng sanh.

Mười tám là thấy có các chúng sanh các căn chẳng điều phục, đại Bồ Tát tu tập trước tự điều phục các căn rồi sau làm cho các chúng sanh điều phục các căn của họ

Mười chín là thấy có các chúng sanh nói không nghiệp nhơn không quả báo, đại Bồ Tát tuyên nói nghiệp nhơn quả báo để phá trừ tà kiến bác nhân quả của các chúng sanh.

Hai mươi là thấy có các chúng sanh chẳng biết ân nghĩa, đại Bồ Tát tuyên nói về ân nghĩa để trừ lòng chẳng biết ơn của các chúng sanh ấy.

Hai mươi mốt là thấy có các chúng sanh chưa được mà tự cho là đã được, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để trừ lỗi tăng thượng mạn của các chúng sanh ấy.

Hai mươi hai là thấy có các chúng sanh ác khẩu thô bạo, đại Bồ Tát tu tập thiện ngữ dịu dàng để trừ ác khẩu của các chúng sanh.

Hai mươi ba là thấy có các chúng sanh tham lam chẳng biết vừa đủ, đại Bồ Tát tu tập biết đủ để trừ lòng không biết đủ của các chúng sanh.

Hai mươi bốn là thấy có các chúng sanh chẳng cung kính cha mẹ và sư trưởng, đại Bồ Tát tu tập hiếu thuận để làm cho chúng sanh biết cúng dường cung kính tôn trọng các bực cha mẹ sư trưởng.

Hai mươi lăm là thấy có các chúng sanh nghèo cùng khốn khổ, đại Bồ Tát tu tập bảy thánh tài để trừ sự nghèo cùng khốn khổ của các chúng sanh.

Hai mươi sáu là thấy có các chúng sanh bị bốn loại rắn độc làm bịnh, đại Bồ Tát tu tập thân niệm xứ để làm cho các chúng sanh xa lìa bốn loại rắn độc ấy.

Hai mươi bảy là thấy có các chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm, đại Bồ Tát tu tập trí huệ để làm cho các chúng sanh ấy thắp đèn trí huệ..

Hai mươi tám là thấy có các chúng sanh thích nhà ngục tam giới, đại Bồ Tát tu tập pháp giải thoát xuất ly để dạy cho các chúng sanh biết xuất ly tam giới.

Hai mươi chín là thấy có các chúng sanh thường hành tà đạo, đại Bồ Tát tu tập chánh đạo để làm cho các chúng sanh trừ bỏ tà đạo.

Ba mươi là thấy có các chúng sanh tham ái thân mạng, đại Bồ Tát tu tập lòng chẳng tham ái thân mạng mình để dạy chúng sanh bỏ lòng tham ái thân mạng.

Ba mươi mốt là thấy có các chúng sanh chẳng biết cung kính cúng dường Tam bửu, đại Bồ Tát tu tập tâm tịnh tín để làm cho các chúng sanh phát lòng tin ngôi Tam bửu.

Ba mươi hai là thấy có các chúng sanh thiệt chẳng phải là Phật Thế Tôn mà tự xưng là Phật Thế Tôn, đại Bồ Tát tu tập sáu chánh niệm để làm cho các chúng sanh ấy biết pháp chơn thiệt vậy.

Nầy thiện nam tử! Trên đây là ba mươi hai nghiệp hữu lậu của chúng sanh, đại Bồ Tát thấy rồi tự mình tu tập pháp đối trị thành tựu đầy đủ pháp lành rồi phá các ác nghiệp khuyên các chúng sanh thật hành thiện nghiệp.

Nầy thiện nam tử! Đại Bồ Tát có vô lượng công hạnh, tại sao? Vì chúng sanh có vô lượng môn, vì đóng bít vô lượng cửa phiền não ấy mà đại Bồ Tát tu tập vô lượng công hạnh lành.

Nầy thiện nam tử! Như có chúng Thanh Văn và Bích Chi Phật đông bằng số cát sông Hằng, muốn đem số đông nầy so sánh với Bồ Tát sơ phát Bồ đề tâm thì chẳng bằng một phần trăm một phần ngàn, cho đến không thể lấy gì ví dụ được. Tại sao? Vì hàng nhị thừa vì giải thoát cho mình mà quán xét dứt trừ các phiền não. Còn Bồ Tát thì không phải như vậy. Các Bồ Tát luôn vì chúng sanh làm cho họ được giải thoát mà quán xét đối trừ các phiền não.

Nầy thiện nam tử! Các công nghiệp được làm của chư Bồ Tát là rất hơn công nghiệp của các phàm phu và hàng Nhị thừa. Tại sao? Vì việc làm của phàm phu tánh chất nó là phiền não là hữu lậu. việc làm của hàng Nhị thừa dầu tánh chất chẳng phải phiền não là vô lậu nhưng có biên tế, còn việc làm của Bồ Tát vô biên vộ lượng, vì vậy mà công hạnh của Bồ Tát hơn cả hàng Thanh Văn và Duyên Giác”.

Bấy giờ Đà La Ni Tự Tại Vương Bồ Tát nghe pháp ấy rồi lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng mà bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Rất là lạ lùng rất là đặc biệt, lời đức Phật dạy chẳng thể nghĩ bàn.

Đức Như Lai đã nói Bồ Tát anh lạc trang nghiêm, đức Như Lai đã nói Bồ Tát quang minh, Bồ Tát đại bi, Bồ Tát thiện nghiệp.

Nguyện cầu đức Như Lai tuyên nói chư Phật quán xét các chúng sanh mà sanh khởi tâm đại bi thế nào? Sao gọi là bi và bi có những công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do nhơn duyên gì mà sanh khởi, sao gọi là Phật nghiệp và Phật nghiệp có những công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do nhơn duyên gì mà phát khởi lên?

Lành thay đức Thế Tôn đấng Nhứt Thiết Trí, xin nói rộng về công nghiệp của Như Lai”.

Đức Phật phàn bảo: “Lành thay lành thay! Nầy thiện nam tử nay ông nên lắng nghe suy nhớ kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.

Nầy thiện nam tử! Tất cả chư Phật chỗ có đại bi chẳng phát xuất chẳng hiện hành, tại sao, vì thường chẳng biến đổi, vì trong vô lượng kiếp tu tập mà được đại bi, nên đại bi ấy chẳng hiện hành, chẳng chuyển khởi, chẳng tu tập chẳng rời bỏ mà có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Nầy thiện nam tử! Đại bi của chư Phật vô lượng vô biên, tâm ấy bình đẳng. Dầu dùng công sức của vô lượng cái lưỡi biện tài trong thời gian nhiều kiếp cũng không thể tuyên nói hết được.

Nầy thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn chưa có lúc nào xa lìa đại bi như vậy. Vô thượng Bồ đề và đại bi ấy, hai pháp như vậy bình đẳng không có sai khác.

Nầy thiện nam tử! Vô thượng Bồ đề của chư Phật Như Lai vô căn vô trụ. Chư Phật Như Lai biết căn biết trụ nên Vô thượng Bồ đề không có căn không có trụ. Tất cả chúng sanh thảy đều không có, không có căn không có trụ. Vì muốn ban cho chúng sanh Vô thượng Bồ đề vô căn vô trụ mà chư Phật Thế Tôn khởi tâm đại bi. Nơi đây, vì muốn cho chúng sanh biết vô căn vô trụ mà đức Như Lai tuyên nói chánh pháp.

Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh. Thế nào là thanh tịnh, thế nào là tịch tĩnh? Thanh tịnh gọi là trong, tịch tĩnh gọi là ngoài. Bên trong gọi là nhãn rỗng không, rỗng không gọi là không có ngã không có ngã sở, tại sao, vì tánh là một vậy. Như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng như vậy, tại sao, vì tánh là một vậy.

Đã biết nhãn rỗng không rồi thì không trụ trước nơi sắc hình, tâm chẳng trụ trước nơi sắc thì gọi là tịch tĩnh. Như sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng như vậy.

Vì tất cả chúng sanh chẳng biết Bồ đề thanh tịnh tịch tĩnh nên đức Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết vậy.

Nầy thiện nam tử! Tất cả chúng sanh tâm tánh bổn lai thanh tịnh. Vì tánh thanh tịnh nên tất cả phiền não kiết sử không nhiễm ô được. Như hư không chẳng thể nhiễm ô, tâm tánh và không tánh đồng nhau không có sai khác.

Chúng sanh vì chẳng biết tâm tánh thanh tịnh nên bị dục tham phiền não trói buộc, vì vậy mà đức Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho họ được biết vậy.

Nầy thiện nam tử luận về Bồ đề chẳng thủ chẳng xả. Thế nào là chẳng thủ? Chư Phật Như Lai chẳng thấy tất cả pháp có thử ngạn bỉ ngạn, tại sao, vì tất cả pháp rời lìa thử bỉ vậy. Chư Phật Như Lai biết thật như vậy nên gọi là bất thủ.

Thế nào là bất xả? Tất cả chúng sanh chẳng biết pháp giới, chư Phật Như Lai tuyên dạy cho họ biết rõ pháp giới, đây gọi là bất xả vậy. Vì duyên cớ nầy mà chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho chúng sanh biết rõ hai pháp bất thủ và bất xả như vậy.

Nầy thiện nam tử! Bồ đề vô tưởng vô duyên. Thế nào là vô tưởng? Chẳng thấy có nhãn thức cho đến ý thức, chẳng thấy có sắc tướng cho đến pháp tướng, đây gọi là vô tướng. Thế nào là vô duyên? Ở trong các pháp như vậy, vì chẳng biết chẳng thấy nên không có thủ trước, đây gọi là vô duyên. Vô tưởng và vô duyên gọi là thánh hạnh. Thế nào gọi là Thánh hạnh? Vì rằng chẳng hiện hành nghiệp hạnh tam giới vậy.

Nầy thiện nam tử! Chẳng hiện hành nghiệp hạnh giới như vậy gọi là thánh hạnh, tất cả thánh nhơn chẳng hiện hành nơi nghiệp hạnh ấy. Chúng sanh chẳng hiện hành thánh hạnh như vậy, nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho chúng sanh được biết.

Nầy thiện nam tử! Bồ đề chẳng phải là tam thế. Quá khứ ý, vị lai thức và hiện tại tham đây gọi là ba phần thời gian. Vì biết rõ được ba phần như vậy nên ý với thức và tham không có chỗ an trụ, vì vậy mà chẳng nhớ quá khứ chẳng cầu vị lai chẳng tham ái hiện tại. Nếu thấy tam thế đều bình đẳng thì gọi là chánh kiến. Vì muốn tất cả chúng sanh được chánh kiến bình đẳng như vậy nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp.

Nầy thiện nam tử! Bồ đề vô thân vô vi. Thế nào là vô thân? Chẳng phải nhãn thức giới cho đến chẳng phải ý thức giới, đây gọi là vô thân. Thế nào là vô vi? Bất sanh bất diệt bất tận bất trụ, không có ba tướng sanh trụ và diệt, đây gọi là vô vi.

Nầy thiện nam tử! Tất cả pháp tánh là vô tánh, nếu vô tánh thì không có sai biệt gọi là không có hai. Vì vậy nên Bồ đề không có thân không có vi tác. Tất cả chúng sanh chẳng biết Bồ đề vô thân vô vi, vì vậy nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ biết rõ như vậy.

Nầy thiện nam tử! Bồ đề không có phân biệt không có cú nghĩa. Thế nào là không có phân biệt? Thế nào là không có cú nghĩa?

Vô sở trụ gọi là không có phân biệt, chẳng nhiếp thuộc về chữ gọi là không có cú nghĩa.

Chẳng phải có hai gọi là không có phân biệt, chẳng nhập vào pháp giới gọi là không có cú nghĩa.

Không động dao gọi là không có phân biệt, chẳng biến đổi gọi là không có cú nghĩa.

Vì rỗng không nên gọi là không có phân biệt, vì chẳng thể nói được nên gọi là không có cú nghĩa.

Vì không giác không quán nên gọi là không có phân biệt, vì không có tướng nên gọi là không có cú nghĩa.

Vì chẳng phát khởi nên gọi là không có phân biệt, vì không có nguyện cầu nên gọi là không có cú nghĩa.

Biết chúng sanh giới đồng với hư không gọi là không có phân biệt, không có chúng sanh giới gọi là không có cú nghĩa.

Chẳng sanh gọi là không có phân biệt, chẳng trụ gọi là không có cú nghĩa.

Chẳng diệt gọi là không có phân biệt, vô vi gọi là không có cú nghĩa.

Chẳng hành gọi là không có phân biệt, bình đẳng gọi là không có cú nghĩa.

Biết bình đẳng gọi là không có phân biệt, tịch tĩnh gọi là không có cú nghĩa.

Vì chúng sanh chẳng biết như vậy, nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ biết rõ các nghĩa ấy.

Nầy thiện nam tử! chẳng thể dùng thân để được, chẳng thể dùng tâm để được, tại sao, vì thân tâm như huyễn vậy. Nếu có thể biết rõ được thân tâm chơn thiệt thì gọi là Bồ đề. Nói gọi là Bồ đề đó là vì để lưu bố thế tục, nhưng tánh và tướng Bồ đề thiệt không thể nói được.

Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề thì chẳng thể nói thân, chẳng thể nói tâm, chẳng thể nói pháp, chẳng thể nói phi pháp, chẳng thể nói có, chẳng thể nói không có, chẳng thể nói thiệt, chẳng thể nói rỗng không, tại sao, vì tánh chẳng thể nói được vậy.

Bồ đề không có trụ xứ chẳng thể tuyên nói được dường như hư không. Vì biết thiệt tất cả pháp chẳng thể tuyên nói được, trong chữ không có pháp, trong pháp không có chữ, chỉ vì lưu bố theo thế tục mà tuyên nói. Tất cả phàm phu chẳng biết chơn thiệt, nên chư Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho họ biết chơn thiệt.

Nầy thiện nam tử! Bồ đề vô thủ vô duyên. Thế nào là vô thủ, thế nào là vô duyên?

Biết nhãn chơn thiệt gọi là vô thủ, biết nhãn không có sắc cảnh gọi là vô duyên.

Biết nhĩ chơn thiệt gọi là vô thủ, biết nhĩ không có thanh cảnh gọi là vô duyên.

Biết tỷ chơn thiệt gọi là vô thủ, biết tỷ không có hương cảnh gọi là vô duyên.

Biết thiệt chơn thiệt gọi là vô thủ, biết thiệt không có vị cảnh gọi là vô duyên.

Biết thân chơn thiệt gọi là vô thủ, biết thân không có xúc cảnh gọi là vô duyên.

Biết ý chơn thiệt gọi là vô thủ, biết ý không có pháp cảnh gọi là vô duyên.

Như Lai Thế Tôn do nghĩa như vậy biết Bồ đề vì không có thủ trước nên gọi là không có nhãn, vì không có nhà cửa nên gọi là vô duyên. Nhãn thức chẳng trụ trong cảnh sắc kia gọi đó là không nhà cửa, nhẫn đến ý thức cũng như vậy.

Tất cả chúng sanh tâm không có chỗ trụ ở. Như Lai Thế Tôn như thiệt biết tâm không có chỗ trụ ở. Chỗ trụ ở có bốn thứ, đó là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn và hành uẩn. Nơi bốn thứ nầy tâm không có chỗ trụ ở, đây gọi là tâm không có chỗ trụ ở. Vì vậy mà gọi rằng tất cả các pháp đều không có chỗ trụ ở. Như Lai Thế Tôn như thiệt biết đó, mà vì các hàng phàm phu không thể biết được, nên Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp để cho họ được biết chơn thiệt vậy.

Nầy thiện nam tử! Bồ đề gọi là rỗng không, nhưng trong Bồ đề không có tướng rỗng không, đây gọi là rỗng không. Tất cả pháp rỗng không Bồ đề cũng rỗng không, Như Lai Thế Tôn chơn thiệt biết được rỗng không như vậy, nên Như Lai gọi là đấng biết rỗng không. Chư Phật gọi là đấng giác ngộ tất cả các pháp rỗng không trong rỗng không nhưng chẳng có giác tri, cũng hay biết rõ Vô thượng Bồ đề. Rỗng không và Bồ đề là nhứt như, rỗng không cùng Bồ đề là một chẳng phải là hai. Rời rỗng không mà Bồ đề có pháp riêng khác mới được nói là hai. Vì không có hai nên gọi đó là rỗng không, vì không có danh tự nên gọi đó là rỗng không. Vì không có tướng mạo nên gọi đó là rỗng không, vì không có oai nghi nên gọi đó là rỗng không, vì không có tu hành nên gọi đó là rỗng không, vì không có ngôn thuyết nên gọi đó là rỗng không.

Nầy thiện nam tử! Trong đệ nhứt nghĩa không có các pháp thế nào nói là rỗng không. Ví như hư không không có ngôn không có thuyết, vì không có ngôn thuyết nên gọi là hư không. Trong không có ngôn thuyết cũng không có ngôn thuyết, đây gọi là rỗng không.

Tất cả các pháp cũng như vậy, pháp không có danh tự nói là danh tự, danh tự như vậy cũng không có chỗ trụ ở. Nếu danh tự không có trụ ở thì các pháp dưới danh tự ấy cũng không có chỗ trụ ở.

Như Lai Thế Tôn chơn thiệt biết các pháp như vậy không có sanh không có diệt. Vì chơn thiệt biết nên được giải thoát.

Bổn lai không có hệ phược sao lại gọi là được giải thoát? Vì lẽ ấy nên Như Lai Thế Tôn không có hệ phược không có giải thoát.

Các pháp như vậy tất cả hàng phàm phu chẳng có thể biết được, vì thế nên chư Phật Thế Tôn khởi phát lòng đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.

Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề ấy đồng như hư không. Tánh hư không chẳng bằng chẳng thấp, Bồ đề cũng như vậy. Nếu pháp đã là không có tánh thì chẳng thể nói là có bằng có thấp. Như Lai Thế Tôn thiệt biết các pháp không có bằng không có thấp nhẫn đến vi trần không có bằng không có thấp.

Nếu pháp có tánh chính là như thiệt trí. Bực như thiệt trí biết tất cả pháp trước không nay có, đã có lại không, lúc sanh lúc diệt không chỗ hệ thuộc, theo duyên mà sanh, theo duyên mà diệt, do nghĩa nầy mà gọi là đạo. Do dứt đạo nầy nên gọi là Bồ đề.

Vì các hàng phàm phù chằng biết đạo chơn thiệt như vậy, nên chư Phật Thế Tôn phát khởi đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.

Nầy thiện nam tử! Bồ đề gọi là chơn thiệt cú, chơn thiệt cú ấy tức là Bồ đề. Hai cú như vậy đồng nhau không sai khác. Sắc cũng như vậy, thọ tưởng hành thức, địa thủy hỏa phong, nhãn giới sắc giới nhãn thức giới, nhĩ giới thanh giới nhĩ thức giới, tỷ giới hương giới tỷ thức giới, thiệt giới vị giới thiệt thức giới, thân giới xúc giới thân thức giới, ý giới pháp giới ý thức giới cũng đều như vậy, đây gọi là pháp lưu bố theo thế tục.

Như Lai chơn thiệt biết rõ các ấm nhập giới pháp như vậy không có điên đảo. Bực chẳng điên đảo biết pháp quá khứ bất sanh bất diệt, biết pháp vị lai bất sanh bất diệt, biết pháp hiện tại cũng bất sanh bất diệt, biết như vậy gọi là chẳng điên đảo, gọi là chơn thiệt cú, chơn thiệt cú ấy, như một pháp thì tất cả pháp cũng như vậy, như tất cả pháp thì một pháp cũng như vậy. Chơn thìệt cú nầy các hàng phàm phu chẳng biết, vì vậy nên chư Phật Như Laì phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.

Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề ấy, chẳng phải nội chẳng phải ngoại. Thế nào là nội, thế nào là ngoại?

Không bị tạo tác là chẳng phải nội, không bị giác tri là chẳng ngoại.

Nội ấy có nghĩa là trụ ở, ngoại ấy có nghĩa là tướng dạng. Thể của Bồ đề chẳng phải trụ ở chẳng phải tướng dạng, nên gọi Bồ đề chẳng phải nội chẳng phải ngoại.

Lại nữa, chẳng phải nội là chẳng phải ba nghiệp thân khẩu và ý, chẳng phải ngoại là chẳng phải ba nghiệp duyên.

Chẳng phải nội là vô tướng giải thoát môn, chẳng phải ngoại là không giải thoát môn.

Các nghĩa như vậy hàng phàm phu chẳng biết. Vì thế chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.

Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề là vô lậu là vô thủ. Thế nào là vô lậu và thế nào là vô thủ?

Vô lậu là xa lìa bốn lưu, đó là dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu và kiến lưu. Vô thủ là xa lìa bốn thủ, đó là dục thủ, hữu thủ, kiến thủ và giới thủ.

Các chúng sanh bị vô minh che trùm luôn đi nơi bốn thủ, do khát ái nên làm ngã và ngã sở.

Như Lai Thế Tôn biết rõ ngã không căn bổn nên ngã thanh tịnh, do ngã thanh tịnh nên có thể thanh tịnh chúng sanh. Ngã thanh tịnh thì chẳng giác tri tất cả các pháp cũng chẳng tư duy tất cả phi pháp, chẳng sanh khởi vô minh, do chẳng khởi vô minh nhơn duyên nên chẳng khởi mười hai nhơn duyên hữu, hữu nhơn duyên chẳng khởi thì bất sanh, vì bất sanh nên nhập vào quyết định tụ. Quyết định tụ ấy gọi là liễu nghĩa. Liễu nghĩ ấy gọi là đệ nhứt nghĩa. Đệ nhứt nghĩa ấy gọi là không có chúng sanh. Nghĩa không có chúng sanh gọi là nghĩa bất khả thuyết. Nghĩa bất khả thuyết chính là nghĩa mười hai nhơn duyên. Nghĩa mười hai nhơn duyên chính là nghĩa pháp. Nghĩa pháp ấy chính là Như Lai. Do nghĩa như vậy nên trong khế kinh nói nếu có ai thấy được mười hai nhơn duyên thì là người thấy pháp. Thấy pháp là thấy Như Lai. Thấy Như Lai ấy chính là không chỗ thấy. Chỗ thấy là tà, tà kiến ấy đó là pháp tướng số. Như Lai không có tưởng cũng không có tưởng số. Do nơi nghĩa nầy nên thấy Như Lai là không có chỗ thấy. Nếu thấy Như Lai không có tướng, không có tác, không có tri, không có giác, thì gọi là chơn thiệt thấy Như Lai.

Cũng vậy, đức Như Lai biết rõ tất cả các pháp bình đẳng như vậy, pháp giới vô lậu vô thủ.

Các hàng phàm phu chẳng thể rõ biết được như vậy, vì thế Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.

Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh. Thế nào là thanh tịnh, thế nào là tịch tĩnh, thế nào là quang minh và thế nào là vô tranh?

Chẳng xen tạp phiền não thì gọi đó là thanh tịnh. Không giải thoát môn thì gọi đó là tịch tĩnh. Vô tướng giải thoát môn và vô nguyện giải thoát môn thì gọi đó là quang minh. Vô sanh vô diệt thì gọi đó là vô tranh. Lại nữa, vô sanh ấy thì gọi đó là thanh tịnh. Vô diệt thì gọi đó là tịch tĩnh. Vô thủ thì gọi là quang minh. Bất xuất thì gọi là vô tranh.

Lại nữa, tánh thì gọi là thanh tịnh. Không có các phiền não thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.

Lại nữa, pháp giới gọi là thanh tịnh. Tánh chơn thiệt gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.

Lại nữa, tánh hư không gọi là thanh tịnh. Pháp giới vô phân biệt thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.

Lại nữa, nội ngoại thanh tịnh thì gọi đó là thanh tịnh. Nơi các pháp nội và ngoại chẳng thủ lấy chẳng trụ trước, thì gọi đó là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.

Lại nữa, chơn thiệt biết ngũ ấm thì gọi đó là thanh tịnh. Chơn thiệt biết thập bát giới thì gọi đó là tịch tĩnh là quang minh. Xa lìa lục nhập thì gọi đó là vô tranh.

Lại nữa, thấy quá khứ tận thì gọi là thanh tịnh. Thấy vị lai chẳng sanh thì gọi là tịch tĩnh. Thấy pháp hiện tại an trụ nơi pháp giới không có động chuyển thì gọi đó là quang minh là vô tranh.

Thanh tịnh tịch tĩnh quang minh và vô tranh, bốn pháp như vậy đồng nhập vào một giới một pháp và một câu. Ba pháp như vậy tức là Niết bàn. Vì xa lìa phiền não nên gọi là thanh tịnh, vì rốt ráo thanh tịnh nên gọi là tịch tĩnh, vì không tối tăm nên gọi là quang minh, vì bất khả thuyết nên gọi là vô tranh. Vì thế nên nói đức Thích Ca Như Lai nín lặng không chỗ nói.

Nầy thiện nam tử! Luận về Bồ đề ấy tức là hư không. Hư không ấy gọi là pháp. Như pháp, chúng sanh cũng vậy. Như chúng sanh, phước điền cũng vậy. Như phước điền, Niết bàn cũng vậy. Do nghĩa nầy nên tất cả pháp đồng với Niết bàn.

Đức Như Lai có thể biết rõ pháp giới như vậy nên gọi là Phật.

Tu tập đầy đủ thanh tịnh tịch tĩnh quang minh và vô tranh, bốn câu như vậy thì gọi đó là Phật”.

Vì đức Như Lai có thể biết rõ được thiện phương tiện nên lúc đầu mới được Vô thượng Bồ đề liền nín lặng an trụ không có tuyên nói để chờ Đại Phạm Vương thưa thỉnh. Lúc ấy, Thi Khí Đại Phạm Vương cùng sáu vạn tám ngàn vị Phạm Thiên đến chỗ Phật đầu mặt lạy Phật rồi chắp tay tôn kính bạch rằng: Cầu nguyện đức Như Lai vì các chúng sanh chuyển chánh pháp luân, lại tiến nói kệ rằng:

Phật pháp ly thanh tịnh, tịch tĩnh

Đại quang vô ngại, không có tranh

Không chữ, không tiếng cũng không nói

Chơn thiệt biết rõ như pháp giới

Phật vì chúng sanh vô lượng kiếp

Khổ hạnh thọ trì giới thế gian

Để thức tỉnh chúng sanh mê ngủ

Mãi làm phóng dật mê thiệt nghĩa

Còn vô lượng chúng trong hội nầy

Chứa căn lành nơi vô lượng Phật

Hay hiểu nghĩa sâu nghĩa chơn thiệt

Nguyện Phật chuyển pháp luân vô thượng

Chúng đây đã phục tất cả ma

Muốn đuợc mở bày cửa cam lộ

Đức Phật hiệu là chơn Đạo Sư

Chỉ đường vô thượng cho chúng sanh

Đức Phật dầu có đại từ bi

Thương mến chúng sanh như con một

Nay tôi thỉnh pháp là đúng thời

Phật chuyển chánh pháp luân vô thượng

Như xưa ba Phật chuyển pháp luân

Nguyện cầu Như Lai nay cũng vậy

Vô lượng Đạo Sư không thối chuyển

Dạy các chúng sanh đạo nhứt chơn

Như mưa nhuần lớn các cỏ cây

Làm cho chúng sanh hết nóng khát

Phật ban pháp vũ cho chúng sanh

Vì được vô lượng vô thượng quả

Lúc sơ sanh Phật có phát nguyện

Ta sẽ cứu khổ các chúng sanh

Chúng sanh khát mong vị cam lộ

Nguyện đại từ bi ban mưa pháp.

Bấy giờ đức Thế Tôn đã thọ thỉnh rồi liền đi qua thành Ba La Nại trong rừng Lộc Dã chỗ ở của các tiên nhơn mà chuyển chánh pháp luân. Pháp luân ấy, tất cả hàng chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương và các Sa Môn hoặc các Bà La Môn khác đều chẳng thể chuyển được. Lúc ấy đức Thế Tôn nói pháp Tứ đế, Tỳ Kheo Kiều Trần Như được pháp nhãn thanh tịnh. Tiếng pháp ấy vang khắp cả cõi Đại Thiên. Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Nghĩa pháp thậm thâm chẳng thể nói

Đệ nhứt nghĩa không tiếng không chữ

Tỳ kheo Trần Như nói các pháp

Chứng được bực tri kiến chơn thiệt

Chính ta thuở xưa vô lượng đời

Chứng được Bồ đề nay đã được.

Lúc đức Như Lai chuyển chánh pháp luân như vậy, vô lượng chúng sanh đều được điều phục. Đức Như Lai thị hiện đại bi thần thông như vậy các chúng sanh được thấy có vô số người phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Nầy thiện nam tử! Mười sáu đại bi của Như Lai như vậy, tất cả đều vì các chúng sanh mà tu tập. Do nhơn duyên đại bi ấy, đức Như Lai vì mỗi mỗi chúng sanh trải qua số kiếp như số cát sông Hằng ở trong đại địa ngục thọ những khổ não mà tâm không thối chuyển, tâm đại bi ấy cũng không bị tổn giảm. Vì nghĩa ấy nên đại bi của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.

Nầy thiện nam tử! Lòng bi của hàng Thanh Văn và Duyên giác như vẽ trên da, đại bi của Bồ Tát như xẻ thịt, đại bi của Như Lai như chẻ xương thấu tủy. Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác tán thán sở tri của Phật, đại bi của Bồ Tát khuyên người thật hành, đại bi của Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ đề. Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác làm nhơn duyên cho lòng từ, đại bi của Bồ Tát vì điều phục chúng sanh, đại bi của Như Lai vì cứu cánh độ chúng sanh. Lòng bi của Thanh Văn và Duyên Giác do sự khổ thô thiển mà sanh, đại bi của Bồ Tát do lìa rời sự khổ mà sanh, đại bi của Như Lai do dứt trừ tất cả nhơn duyên mà sanh.

Nầy thiện nam tử! Đức Như Lai tu tập đại bi như vậy, nếu vì một người mà ở lại thế gian mà trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp đến vô lượng kiếp trọn chẳng rốt ráo nhập Niết bàn.

Nầy thiện nam tử! Đại bi của Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy.

Nầy thiện nam tử! Về quá khứ vô lượng vô biên vô số kiếp, nơi thế gian có đức Phật xuất thế hiệu là Chiên Đàn Quật, thế giới ấy tên là Đại Hương, kiếp ấy gọi là Thượng Hương. Đức Phật Chiên Đàn Quật trong ba trăm ba mươi hai vạn kiếp thường đem chánh pháp giáo hóa hàng Thanh Văn. Trên thân Phật Chiên Đàn Quật mỗi mỗi lỗ lông phát ra hơi hương khắp đầy cả Đại Thiên thế giới. Thế giới Đại Hương ấy không có danh từ hôi thúi, bao nhiêu cỏ cây đều có mùi chiên đàn, thân các chúng sanh trong cõi ấy cũng có mùi hương chiên đàn như vậy, tất cả đều không có thân khẩu ý ác. Đệ tử của đức Phật Chiên Đàn Quật nghe mùi hương nầy thì được tứ thiền. Sau đó kế tiếp có một vạn chư Phật nối nhau xuất thế đều đồng một hiệu là Chiên Đàn Quật, do cớ nầy mà kiếp ấy có tên là Thượng Hương.

Đức Chiên Đàn Quật Như Lai làm Phật sự xong muốn nhập Niết bàn quan sát chúng sanh coi có ai chưa điều phục thì Phật sẽ điều phục cho. Đức Phật Chiên Đàn Quật dùng tịnh nhãn thấy có một vị ở Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đã ở nơi Phật trước gieo giống thượng thiện căn quyết định sẽ nhơn pháp Phật mà được độ thoát chớ chẳng phải nhơn pháp Thanh Văn mà được giải thoát. Vị trời nầy quá tám vạn bốn ngàn kiếp tuổi thọ sẽ sanh xuống cõi Dục sẽ nghe kinh điển Đại thừa mà phát tâm Vô thượng Bồ đề an trụ bực bất thối chuyển. Đức Phật Chiên Đàn Quật do sức đại bi khởi đại phương tiện bảo các Tỳ Kheo giờ Niết bàn của ta đã đến, nói xong Phật liền nhập Bất Hối tam muội thị hiện cho chúng sanh biết Phật nhập Niết bàn, biết Phật nhập Niết bàn rồi đại chúng sắp bày rộng rãi sự cúng dường, chánh pháp trụ thế đủ sáu mươi tám vạn bốn ngàn năm, trong thời gian các đệ tử của Phật không có đến một người ở nơi chánh pháp mà sanh tưởng tà pháp. Do sức đại định, đức Phật Chiên Đàn Quật ẩn kín thân Phật qua tám vạn bốn ngàn kiếp chẳng cho đại chúng thấy. Quá kiếp số thọ mạng, vị trời ấy sanh xuống nhơn gian làm con trai nhà đại trưởng giả. Qua tám mươi năm, đức Phật Chiên Đàn Quật từ tam muội dậy đến nhà trưởng giả, mọi người trong nhà không ai thấy, chỉ có người con trai nầy một mình được thấy đức Phật và được nghe đức Phật thuyết pháp được chẳng thối chuyển tâm Vô thượng Bồ đề. Biết vậy, đức Phật Chiên Đàn Quật liền thọ ký rằng đời sau quá bảy vạn hai ngàn a tăng kỳ trăm ngàn kiếp ngươi sẽ được thành Vô thượng Bồ đề hiệu là Bửu Thượng Phật. Lời đức Phật Chiên Đàn Quật thọ ký ngoài người con trai trưởng giả nầy không ai được nghe, chỉ có một vạn hai ngàn chư Thiên nầy nghe rồi đều phát tâm Vô thượng Bồ đề đồng thanh bạch rằng: Cầu nguyện lúc đức Bửu Thượng Phật ra đời, chúng tôi sẽ ở trong pháp hội ấy thỉnh thọ chánh pháp và làm đệ tử. Đức Phật Chiên Đàn Quật nghe biết lời bạch của chư Thiên liền thọ ký rằng: Lúc Bửu Thượng Như Lai thành Phật, một vạn hai ngàn chư Thiên các ngươi sẽ làm thọ pháp đệ tử, cũng sẽ được Phật Bửu Thượng thọ ký Vô thượng Bồ đề. Việc làm nầy xong đức Chiên Đàn Quật mới cứu cánh nhập Niết bàn tất cả chư Thiên thiết lập cúng dường lớn”.

Đức Phật phán tiếp: “Nầy thiện nam tử! Chư Phật Như Lai có đủ đức đại bi như vậy, chẳng phải là chỗ biết được của hàng Thanh Văn và Duyên Giác. Thuở ấy, đức Phật Chiên Đàn Quật dầu ở tại thế đem pháp Thanh Văn giáo hóa mà cuối cùng vẫn làm cho giống Phật chẳng dứt. Nếu có chúng sanh nào cúng dường ngôi Tam bảo thì cũng như vậy”.

Lúc đức Phật Thế Tôn nói rộng công đức đại bi, trong chúng hội có ba hằng hà sa chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Nửa số chúng hội được thành vô sanh pháp nhẫn, phân nửa trong nửa số còn lại được có mười sáu đại bi như vậy, phần còn lại được Phật pháp nhẫn.

Tất cả chư Thiên và mọi người nghe pháp vui mừng đồng thanh khen rằng: “Lành thay, lành thay! Rất lạ lùng rất đặc biệt, đức Phật Thế Tôn tuyên nói pháp môn đại bi như vậy”.

Lại nữa, nầy Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát! Đức Phật Như Lai còn có ba mươi hai nghiệp.

Nầy thiện nam tử! Như Lai biết rõ thị xứ và phi xứ. Thế nào là Thị xứ và thế nào là phi xứ?

Nầy thiện nam tử! Nếu có người tạo tác thân khẩu ý ác mà được thọ quả an lạc thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu có người tạo tác thân khẩu ý thiện mà thọ quả an lạc thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Nếu có ngưòi quen làm việc tham lam bỏn xẻn mà được báo giàu to thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu có người ban ơn bố thí mà được báo giàu to thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Nếu là người hủy phạm giới cấm mà được báo thân cõi trời thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu là người hộ trì giới cấm thanh tịnh mà được báo thân cõi trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người hay sân hận mà được báo thân xinh đẹp thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người thường nhẫn nhục mà được báo thân xinh đẹp thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người lười nhác trong pháp lành lớn mà được đại thần thông thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người siêng tinh tiến nơi pháp lành lớn mà được đại thần thông thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người phóng tâm tán loạn mà được bực chánh định thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người nhiếp tâm bất loạn mà được bực chánh định thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người ngu si mà dứt tập khí phiền não thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người tu hành trí huệ dứt tập khí phiền não thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người tạo tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người không tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Thân người nữ mà làm Chuyển Luân Thánh Vương thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Thân nam tử làm Chuyển Luân Thánh Vương thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Như làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm Thiên Đế Thích, làm Phạm Vương và làm Phật cũng như vậy.

Nếu là chuyển Luân Thánh Vương mà dùng phi pháp để trị nước thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Chuyển Luân Thánh Vương dùng chánh pháp trị nước thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người Châu Uất Đơn Việt sau khi chết mà đọa vào ba ác đạo thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người Uất Đơn Việt thọ chung sanh lên cõi trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người thường sát hại sanh mạng chúng sanh mà được báo trường thọ thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Còn do cớ nầy mà thọ mạng yểu ngắn thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Người có tà kiến mà chứng thánh đạo thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người có chánh kiến mà chứng được thánh đạo thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.

Bực Tu Đà Hoàn mà còn có thọ sanh đời thứ tám thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Bực Tu Đà Hoàn mà liền nhập Niết bàn cũng không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bực A Na Hàm mà thọ sanh trong cõi Dục thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bực A La Hán mà thọ thân đời sau thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Người Hiền Thánh mà học hỏi nơi các dị sư thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bực bất thối nhẫn mà còn thối chuyển Bồ đề thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bồ Tát đến ngồi dưới cây Bồ đề chưa chứng quả Bồ đề mà dậy đi thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bực Phật Như Lai mà có tập khí phiền não thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Bực Phật Như Lai mà trí còn có chướng ngại thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Nếu có ai thấy được đỉnh đầu của đức Phật thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Nếu có chúng sanh biết được cảnh giới nội tâm của đức Phật thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Tâm của đức Phật mà chẳng thường định cũng không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Chư Phật Thế Tôn mà có nhị ngữ thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Như Lai Thế Tôn mà còn có lỗi lầm thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.

Nầy thiện nam tử! Đây gọi là nghiệp thứ nhứt của Phật Thế Tôn.

Đức Phật nói kệ rằng:

Đại địa được nói tướng chuyển động

Gió mạnh được nói tướng dừng lặng

Hư không được nói tướng có sắc

Phật chẳng nói xứ là phi xứ

Phật diễn nói xứ và phi xứ

Phần hạ trung thượng đều chơn thiệt

Chẳng nói xứ phi xứ là một

Hai xứ như vậy riêng không hai

Như Lai cũng nói hạ trung thượng

Đều riêng không có ba thứ tướng

Phật biết thị xứ phi xứ rồi

Có thể tuyên nói pháp vô thượng

Như Lai biết rõ lòng chúng sanh

Khéo hay phân biệt tướng vi tế

Sa Môn phạm chí đi trong tối

Chẳng biết nhơn thị xứ phi xứ

Chúng sanh chằng biết xứ phi xứ

Do đó nên chẳng được giải thoát

Như Lai biết rõ xứ phi xứ

Đó là hiệu Phật đấng Vô Thượng

Nếu là chúng sanh không pháp khí

Như Lai với họ tu tâm xả

Lập đại phương tiện chờ thời tiết

Vì cho họ được chơn giải thoát

Như Lai Thế Tôn trí vô thượng

Đây thì gọi là pháp thứ nhứt

Thanh tịnh nghiệp thứ nhứt như vậy

Vì làm chúng sanh được điều phục

Như Lai nói lực thứ nhứt nầy

Rất sâu khó lường không biết được

Diệu pháp như vậy khó biết được

Vì phá tà kiến thương xót nói

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai khéo biết những nghiệp được có của các chúng sanh hiện tại và các chúng sanh vị lai, biết rõ nghiệp, biết rõ báo, biết rõ nhơn, biết rõ xứ. Nếu nghiệp quá khứ là nhơn bất thiện thì đức Như Lai biết rõ là đời vị lai được quả bất thiện. Nếu nghiệp vị lai có nhơn duyên thối chuyển thì Như Lai biết rõ là nhơn thối chuyển. Nếu nghiệp vị lai hay làm tăng trưởng pháp thì đức Như Lai biết rõ do nhơn duyên nầy hay làm tăng trưởng pháp. Nếu nghiệp hiện tại hoặc tiến hoặc thối thì đức Như Lai biết rõ do nhơn duyên nầy nên có tiến có thối. Nếu có nghiệp được làm là nhơn Thanh Văn là nhơn Duyên Giác, là nhơn Bồ Tát, là nhơn Như Lai, thì đức Như Lai đều biết rõ do nhơn duyên nầy mà thành là nhơn Thanh Văn, là nhơn Duyên Giác, là nhơn Bồ Tát, là nhơn Như Lai. Đây gọi là nghiệp thứ hai của đức Như Lai ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai chứng được trí Vô thượng

Nên biết rõ được nghiệp nhơn quả

Biết nhiếp tam thế chẳng tam thế

Biết được tam thế nghiệp chúng sanh

Khéo biết chúng sanh nhơn an lạc

Phật cũng biết rõ nhơn khổ não

Phật phá tà kiến không nhơn quả

Do đây tu tập nghiệp thứ hai

Thông đạt nhơn hai pháp tiến thối

Nghiệp quả thiện ác cũng như vậy

Như Lai tri kiến không chướng ngại

Như xem trái cây trong bàn tay

Biết tướng chơn thiệt thượng trung hạ

Sở nhơn ba thừa cũng như vậy

Như Lai biết rõ nghiệp chúng sanh

Cũng biết các nghiệp quả thiện ác

Chúng sanh nghiệp quả thuộc tam thế

Biết rõ chẳng sai gọi Chánh Giác.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn biết rõ các loại dục giải của chúng sanh: hoặc là tham dục, hoặc là sân hận, hoặc là ngu si, đời hiện tại tham dục khởi đời vị lai tham sân si, đời hiện tại sân hận khởi đời vị lai tham sân si, đời hiện tại ngu si khởi đời vị lai tham dục sân hận ngu si. Đức Như Lai biết rõ các chúng sanh hiện tại trụ ở thiện dục vị lai ác dục, hiện tại trụ ác dục vị lai thiện dục. Đức Như Lai biết rõ các chúng sanh đời hiện tại trụ hạ dục đời vị lai hạ trung thượng phần, đời hiện tại trụ trung dục đời vị lai hạ trung thượng phần, đời hiện tại trụ thượng dục đời vị lai hạ trung thượng phần. Đức Như Lai biết rõ chúng sanh tà tụ có thể làm chánh tụ, chúng sanh bất định tụ an trụ ở chánh định tụ. Đức Như Lai biết rõ chúng sanh cõi Dục có dục giải cõi Sắc, cõi Vô Sắc. Đức Như Lai biết rõ người Thanh Văn có dục giải Duyên Giác có dục giải Phật. Vì đức Như Lai chơn thiệt thông đạt biết rõ nên vì họ mà thuyết pháp. Đây gọi là nghiệp thứ ba của Như Lai ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Dục giải của chúng sanh có nhiều loại

Ý đó có nhiều chẳng phải một

Phật chơn thiệt biết rõ các dục

Nên hay tùy ý diễn nói pháp

Tánh tham dục sân hận ngu si

Theo tướng biết rõ không sai lầm

Hạ trung thượng phẩm cũng biết rõ

Thiện ác nghiệp nhơn quả chơn thiệt

Thông đạt ba tụ chẳng nhứt định

Tất cả ba thừa cũng bất định

Biết tam thế chẳng nhiếp tam thế

Lực thứ ba vì chúng sanh nói.

Lại nầy thiện nam tử! Đức Như Lai biết rõ vô lượng thế giới, hoặc tu thiện hạnh, hoặc hành ác pháp, hoặc hành vô ngại hạnh, thế nào gọi là biết, vì là nội không ngoại không và nội ngoại không vậy.

Lại nữa, Đức Như Lai biết rõ nhãn, biết rõ sắc và biết rõ nhãn thức, thế nào mà biết, vì là như hư không vậy.

Lại nữa, đức Như Lai biết rõ Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, thế nào mà biết, vì như giác quán vậy.

Lại nữa đức Như Lai biết rõ nơi hành giới, thế nào mà biết, vì như tánh của hành vậy.

Lại nữa, đức Như Lai biết rõ phiền não giới, thế nào mà biết, vì là tánh khách trần vậy.

Lại nữa, đức Như Lai biết rõ giới chẳng nhiễm ô, thế nào mà biết, vì tánh của các pháp bổn thanh tịnh vậy.

Lại nữa, đức Như Lai biết rõ giới sanh tử, thế nào mà biết, vì vô minh nhơn duyên vậy.

Lại nữa, đức Như Lai biết rõ giới Niết bàn, thế nào mà biết, vì là chơn thiệt tư duy vậy.

Lại nữa, đức Như Lai biết rõ các giới: thế trụ, thế ái, thế sân, thế si, thế thanh tịnh, thế thanh tịnh tâm.

Vì biết rõ các giới nên có thể như thiệt thuyết pháp, đây gọi là nghiệp thứ tư của đức Như Lai”.

Đức Như Lai nói kệ rằng:

Phật là sư tử Vương trong đời

Hay chơn thiệt biết chúng sanh giới

Như Lai trí huệ không bờ mé

Nên biết thế gian không bờ mé

Biết hạnh thiện ác hạnh giải thoát

Cũng biết nhãn sắc và nhãn thức

Thông đạt tất cả vô lượng pháp

Tánh nó bổn lai thường thanh tịnh

Nội ngoại chơn thiệt vô sở hữu

Ngũ ấm lục nhập thập bát giới

Thân khẩu ý nghiệp và tứ đại

Các pháp như vậy đều không thiệt

Biết rõ chúng sanh giới như vậy

Tất cả đều đồng cảnh hư không

Tam giới tánh tướng không chơn thiệt

Các phiền não giới cũng không chơn

Phiền não tánh tướng không bền vững

Vô lậu giải thoát cũng như vậy

Như Lai dầu biết chơn thiệt giới

Trọn chẳng vì biết mà kiêu mạn

Hư không vô lượng vô biên tế

Tất cả chúng sanh giới cũng vậy

Như Lai trí huệ vô biên tế

Xa lìa ba tướng của hữu vi

Trí Phật vô thượng rất sâu diệu

Tất cả chúng sanh chẳng biết được

Như Lai vì thương xót chúng sanh

Tuyên nói lực thứ tư như vậy.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai biết rõ tất cả chúng sanh các căn lợi độn. Thế nào mà biết? Như Lai biết rõ là thượng trung hay hạ, biết là tăng, biết là giảm, cũng biết tham dục có một ức thứ, sân hận và ngu si cũng đều có một ức thứ, biết là tham dục nặng, biết là tham dục nhẹ, biết là ngu si nặng, biết là ngu si nhẹ, biết một loại căn hay tăng thêm sanh tử biết một loại căn hay giảm bớt sanh tử; biết thiện căn biết căn bất thiện biết căn chẳng thiện chẳng bất thiện, biết căn giải thoát biết căn sáu tình thức, biết căn nam, căn nữ, căn mạng, căn khổ, căn lạc, căn ưu, căn hỉ, căn xả, căn tín, căn tiến, căn niệm, căn định, căn huệ, căn vị tri dục tri, căn tri, căn dĩ tri. Biết rõ nhơn nhãn căn, nhơn nhĩ căn, nhơn tỷ căn, nhơn thiệt căn, nhơn thân căn, nhơn ý căn. Biết rõ nhơn nhĩ căn làm duyên nhãn căn, nhơn tỷ căn làm duyên thiệt căn, nhơn ý căn làm duyên thân căn, biết rõ giới trang nghiêm thì có thể tu hạnh bố thí, biết rõ thí trang nghiêm thì có thể tu giới trang nghiêm. Đức Như Lai biết rõ ai có thể nói được thí, ai có thể nói được giới, ai có thể nói được nhẫn, ai có thể nói được tinh tiến, ai có thể nói được thiền, ai có thể nói được huệ, ai có thể nói được tứ niệm xứ, ai có thể nói được tứ chánh cần, ai có thể nói được tứ thần túc, ai có thể nói được ngũ căn, ai có thể nói được ngũ lực, ai có thể nói được thất giác chi, ai có thể nói được bát chánh đạo phần, ai có thể vì chúng sanh nói Thanh Văn thừa, ai có thể vì chúng sanh nói Duyên Giác thừa, ai có thể vì chúng sanh nói vô thượng Phật thừa. Đức Như Lai biết rõ căn Duyên Giác học Thanh Văn thừa, căn Chánh Giác học Thanh Văn thừa học Bích Chi Phật thừa, biết người hạ căn có thể tu thượng căn, biết người thượng căn tu hạ căn. Đức Như Lai biết rõ các chúng sanh mà căn chưa có thể điều phục được thì sanh xả tâm, biết chúng sanh tâm có thể điều phục được thì vì hạng nầy mà nói chánh pháp. Đức Như Lai biết rõ căn thục mà chẳng thục, căn chẳng thục mà thục, căn chẳng thục chẳng thục, căn thục có thục. Đức Như Lai biết rõ căn sanh tử, căn giải thoát, căn trang nghiêm, căn cụ túc. Tất cả căn tánh nhơn duyên quả báo Phật đều biết rõ thấy rõ, đây gọi là nghiệp thứ năm của chư Phật Như Lai”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Như Lai biết căn đã rốt ráo

Nên biết trình độ các chúng sanh

Cũng biết rõ căn hạ trung thượng

Gồm đến các nghiệp cũng biết rõ

Biết rõ phiền não căn nặng nhẹ

Các căn khó điều hay dễ điều

Biết căn sanh tử căn giải thoát

Biết rõ nhãn căn đến ý căn

Biết căn hành xứ và diệt xứ

Biết rõ các căn ba thừa

Chuyển được hay chẳng chuyển được

Căn chúng sanh thục hay chẳng thục

Theo đúng căn cơ mà thuyết pháp

Khéo lời trách dịu để điều phục

Biết kẻ chẳng thể dạy bảo được

Vì hạng nầy mà tu tâm xả

Như Lai khéo biết các phương tiện

Để phá phiền não trang nghiêm trí

Vì phá phiền não của chúng sanh

Nên nói lực thứ năm của Phật.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai chơn thiệt biết chí xứ đạo. Biết thế nào?

Đức Như Lai biết là chánh định tụ, biết là tà định tụ, biết là bất định tụ, biết nghiệp nhơn lực và quả báo lực, biết nhơn duyên phước đức đời quá khứ, biết nhơn duyên trang nghiêm đời hiện tại, biết khó điều hay dễ điều, biết nói lược mà giải rộng, biết nói rộng mà lược giải, biết là chúng sanh có thể được giải thoát, biết là chúng sanh chẳng được giải thoát, biết là người bất định gặp thiện tri thức thì trụ ở chánh định tụ, nếu chẳng được thiện tri thức thì không giải thoát, biết rồi đức Như Lai theo đúng ý nguyện mà vì người đó thuyết pháp, người ấy nghe rồi nhiếp niệm tư duy chứng được thiện quả. Đức Như Lai xuất thế chỉ vì hạng bất định tụ mà trọn chẳng vì hạng tà định thuyết pháp, tại sao, vì họ chẳng phải là pháp khí họ chẳng thể được chơn giải thoát, vì vậy mà ở nơi hạng nầy đức Như Lai tu tập tâm xả. Đại Bồ Tát biết thiệt rõ rồi siêng tu trang nghiêm để phá chúng sanh tà định như vậy, do đây mà Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Đức Như Lai khéo biết tham có ba loại: một là vì do thấy đẹp sạch, hai là vì nhơn duyên nhận thọ, ba là vì nhơn duyên trước. Biết sân cũng có ba loại, đó là nhơn duyên sân, nhơn duyên thọ và nhơn duyên trước. Biết si cũng có ba loại, đó là nhơn duyên vô minh, nhơn duyên ngã kiến và nhơn duyên lưới si mê.

Lại nữa, đức Như Lai biết các chúng sanh khổ trì được thông, khổ tốc được thông. Biết người khổ trì có thể được lạc tốc, biết người lạc tốc có thể được khổ trì, biết người lạc trì có thể được lạc tốc, biết là người có tu lực, biết là người có trí lực. Lại biết có đạo có đủ tu lực mà chẳng đủ trí lực, có đủ trí lực mà chẳng đủ tu lực; có đủ tu lực và có đủ trí lực, chẳng có đủ tu lực và chẳng có đủ trí lực. Lại biết có đạo có thể tâm thanh tịnh mà chẳng thể trang nghiêm, có thể trang nghiêm mà không thể tâm thanh tịnh, có thể tâm thanh tịnh và có thể trang nghiêm, không thể tâm thanh tịnh và không thể trang nghiêm. Lại biết có đạo có thể thanh tịnh thân mà chẳng thể thanh tịnh khẩu ý, có thể thanh tịnh khẩu ý mà chẳng thể thanh tịnh thân, có thể thanh tịnh cả thân khẩu ý, chẳng thể thanh tịnh cả thân khẩu ý. Đây gọi là lực thứ sáu của Như Lai”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai biết rõ đạo chỗ đến

Cũng biết nhơn duyên các chúng sanh

Cũng hay biết rõ định bất định

Thông đạt rõ ràng điều chẳng điều

Chẳng vì tà định mà nói pháp

Cũng chẳng điều phục căn chưa thục

Biết rõ tham sân si ba loại

Cũng biết các kiết tướng khinh trọng

Biết rõ bốn đạo chuyển chẳng chuyển

Vì thế Phật biết đạo rốt ráo

Chơn thiệt biết tu lực trí lực

Hạ trung thượng lực biết rõ

Biết thân khẩu ý tịnh chẳng tịnh

Tâm tịnh trang nghiêm cũng biết rõ

Chúng sanh các căn phiền não giới

Như Lai biết rồi vì họ phá

Vì chúng sanh vô minh tối kia

Nói nghiệp thứ sáu của Như Lai

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai biết thiền giải thoát, tam muội phiền não giải thoát, biết thế nào?

Đức Như Lai biết các chúng sanh do nhơn duyên mà thích sanh tử, biết các chúng sanh do nhơn duyên mà ưa Niết bàn. Thế nào gọi là nhơn và thế nào gọi là duyên?

Nếu các chúng sanh tư duy bất thiện đây gọi là sanh tử nhơn duyên. Do bất thiện tư duy mà sanh trưởng vô minh, vì vậy bất thiện là nhơn và vô minh là duyên. Do vô minh mà sanh hành, vì vậy vô minh là nhơn và hành là duyên. Do hành mà sanh thức, vì vậy hành là nhơn và thức là duyên. Do thức mà sanh danh sắc, vì vậy thức là nhơn và danh sắc là duyên. Do danh sắc mà sanh lục nhập, vì vậy danh sắc là nhơn và lục nhập là duyên. Do lục nhập mà sanh xúc, vì vậy lục nhập là nhơn và xúc là duyên. Do xúc mà sanh thọ, vi vậy xúc là nhơn thọ là duyên. Do thọ sanh ái, vì vậy thọ là nhơn và ái là duyên. Do ái sanh thủ, vì vậy ái là nhơn và thủ là duyên. Do thủ sanh hữu, vì vậy thủ là nhơn và hữu là duyên. Do hữu sanh sanh, vì vậy hữu là nhơn mà sanh là duyên. Do sanh thì có các khổ lão tử v.v…vì vậy sanh là nhơn và lão tử là duyên. Phiền não là nhơn và các nghiệp là duyên. Các kiến chấp là nhơn và ái kiết là duyên. Phiền não là nhơn và ngũ cái là duyên. Như vậy gọi là nhơn và gọi là duyên. Các chúng sanh do những nhơn và duyên nầy mà tham ưa sanh tử.

Do nhơn duyên gì mà ưa thích Niết bàn?

Có hai nhơn và hai duyên làm cho chúng sanh ưa thích Niết bàn. Những gì là hai?

Một là vui mừng nghe chánh pháp, hai là thích chánh tư duy.

Một là xa ma tha, hai là tỳ bà xá na.

Một là trí bất khứ, hai là trí bất lai.

Một là quán sanh tử, hai là quán Niết bàn.

Một là thọ trì đúng pháp, hai là được chứng nhập.

Một là tu giải thoát môn, hai là được quả giải thoát.

Một là tận trí, hai là vô sanh trí

Một là tứ đế trí, hai là quán thập nhị nhơn duyên.

Trên đây gọi là nhơn và gọi là duyên, mà các chúng sanh do các nhơn duyên nầy ưa thích Niết bàn.

Đức Như Lai biết rõ các loại thiền tam muội giải thoát. Đã biết rõ rồi lìa bỏ các pháp dục ác bất thiện có giác quán ly sanh hỉ lạc nhâp vào sơ thiền, nhập sơ thiền xuất diệt tận định, nhập diệt tận định xuất sơ thiền, nhẫn đến bát giải thoát cũng nhập xuất như vậy. Tất cả chúng sanh đều chẳng thể biết được chỗ nhập chỗ xuất của Như Lai. Đức Như Lai biết rõ trụ định bình đẳng, cho đến thượng và hạ. Các chúng sanh bảo rằng đức Phật nhập một tam muội, mà thiệt thì đức Phật nhập tất cả tam muội. Các chúng sanh thấy đức Phật khởi tất cả định, mà thiệt thì đức Phật nhập một chánh định. Tam muội của đức Như Lai không có thứ đệ, mà chẳng phải là chẳng chánh định. Tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát đều chẳng biết được.

Đức Như Lai lại biết rõ nhơn duyên thuyết pháp gì được Thanh Văn tam muộì, nhơn duyên thuyết pháp gì được Duyên Giác tam muội, nhơn duyên thuyết pháp gì được Bồ Tát tam muội, biết rõ rồi đức Như Lai tùy ý vì họ mà thuyết pháp. Đây gọi là nghiệp thứ bảy của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai biết rõ nhơn sanh tử

Cũng thông đạt nhơn duyên giải thoát

Biết rõ rồi vì đại chúng nói

Phá hoại nhơn bất thiện sanh tử

Bất thiện tư duy vô minh nhơn

Vô minh nhơn duyên lớn sanh tử

Phiền não nhơn duyên thọ nghiệp quả

Các kiết nhơn duyên tăng ái kiết

Nếu được gần kề thiện tri thức

Chí tâm nghe nhận pháp vô thượng

Quán sát nội ngoại không tam muội

Có thể vượt khỏi biển sanh tử

Tu tập vô thượng định và huệ

Quán pháp bình đẳng không khứ lai

Nếu hay quán thấy không sanh diệt

Thì được mắt tịch tĩnh sáng suốt

Tu tập vô thượng giải thoát môn

Có đủ tận trí vô sanh trí

Đã tự mình được trí vô ngại

Lại hay vì chúng sanh thuyết pháp

Nhập sơ thiền xuất diệt tận định

Nhập diệt tận định tùy ý xuất

Như Lai tam muội không thứ đệ

Nên gọi Như Lai thường ở định

Các chánh định được Như Lai nhập

Cùng các pháp giới không sai khác

Nhị thừa chẳng biết chỗ Phật trụ

Bồ Tát chẳng biết chỗ Phật thâm định

Chúng sanh thường ở vô minh tối

Chẳng biết chỗ nhập xuất của Phật

Vô thượng Thế Tôn thương chúng sanh

Vì họ mà nói nghiệp thứ bảy.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai biết rõ những nghiệp đời quá khứ của mình, một đời hai đời đến vô lượng đời, một thời gian tam tai đến vô lượng thời gian tam tai, một kiếp đến vô lượng kiếp. Đức Như Lai nhớ rõ sanh ra danh tánh, ăn uống, hình sắc, dung mạo, khổ vui, thọ mạng cõi nầy chết sanh đến cõi kia. Đức Như Lai cũng nhớ biết rõ đời trước của người khác như nhớ biết rõ của mình vậy.

Đức Như Lai biết rõ nghiệp nhơn của các chúng sanh, các chúng sanh ấy tạo nghiệp nhơn ấy được thân ở cõi kia, các chúng sanh ấy tạo nghiệp nhơn ấy được thân ở cõi nầy.

Đức Như Lai biết tâm và nhơn duyên tâm của các chúng sanh, tâm nầy diệt rồi thứ đệ sanh tâm.

Các sự như vậy, tất cả chúng sanh đều không thể biết rõ được.

Trí túc mạng của đức Phật biết rõ sự việc thỉ chung của tất cả tam thế. Túc mạng trí nầy chẳng thể suy lường được.

Đức Như Lai khuyên các chúng sanh: Nay ngươi nên nhớ biết sự việc thiện ác đã trải qua trong đời quá khứ. Do Phật lực nên chúng sanh nhớ biết được vô lượng thiện căn đã được vun trồng từ đời trước, hoặc ở bên Phật mà vun trồng, hoặc ở bên Bồ Tát hay ở bên Thanh Văn và Duyên Giác mà vun trồng. Chúng sanh ấy đã nhớ biết rồi, đức Như Lai tùy ý thuyết pháp cho họ chẳng thối chuyển. Đây gọi là nghiệp thứ tám của đức Như Lai ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai nhớ biết vô lượng đời

Hoặc tự hoặc tha nghiệp thiện ác

Thấy rõ việc trong vô lượng kiếp

Như thấy rõ trái trong bàn tay

Dòng họ tên hiệu đều biết rõ

Hình sắc sanh tử cũng biết rõ

Biết rõ thọ mạng và chỗ ở

Nghiệp nhơn thìện ác cũng biết rõ

Biết tâm thứ đệ của chúng sanh

Biết chỗ sở nhơn tâm sanh diệt

Biết khắp đời trong vô lượng kiếp

Cũng chẳng cùng tận trí vô ngại

Phật trí vô lượng chẳng kể được

Nhị thừa chẳng biết cảnh giới Phật

Vì cho chúng sanh nhớ quá khứ

Nên Phật tuyên nói nghiệp thứ tám.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai thiên nhãn thanh tịnh vi diệu thấy rõ các chúng sanh sanh tử đọa lạc, hoặc kẻ thọ thân lành hoặc kẻ thọ thân ác, hoặc sanh cõi lành hoặc sanh cõi ác. Đức Như Lai cũng biết thấy rõ các nghiệp nhơn của chúng sanh. Biết chúng sanh nầy thân khẩu ý ác, chê bai thánh nhơn thêm lớn tà kiến, do nghiệp ác nên khi bỏ thân nầy phải đọa địa ngục. Biết các chúng sanh nầy thân khẩu ý lành, tôn kính thánh nhơn thêm lớn chánh kiến, do nghiệp lành nên bỏ thân nầy được sanh cõi lành.

Thiên nhãh của Như Lai thấy khắp mười phương thế giới không có ngằn mé như hư không, không có hạn lượng như pháp giới. Thấy rõ các chúng sanh lúc sanh lúc chết, thấy rõ các thế giới lúc thành lúc hoại. Cũng biết các chúng sanh phát tâm Bồ đề lúc sanh lúc chết. Cũng thấy tất cả chư Phật mới thành Chánh giác chuyển pháp luân nhập Niết bàn. Cũng thấy các bực Thanh Văn lúc chứng được giải thoát, được giải thoát rồi nhập Niết bàn. Thấy hàng Duyên Giác dùng sức thần thông để báo ơn tín thí của các chúng sanh. Các sự việc như vậy tất cả hàng ngũ thông Thanh Văn Duyên Giác và Bồ Tát đều không thấy biết được. Thiên nhãn của đức Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy. Do thiên nhãn ấy nhìn xem các chúng sanh ai đáng được Phật hóa độ, ai nên được Thanh Văn hoặc Duyên Giác hóa độ. Nếu là người đáng từ nơi Phật mà được độ thì đức Như Lai vì người ấy mà thị hiện thân Phật, các chúng sanh khác đều không ai thấy. Đây gọi là nghiệp thứ chín của đức Như Lai ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng

Tu nghiệp lành trong vô lượng kiếp

Phật được tịnh thiện nhãn như vậy

Thấy được mười phương các chúng sanh

Thành tựu được sắc thân thiện ác

Thầy các chúng sanh thượng trung hạ

Cũng thấy thọ thân cõi thiện ác

Biết được nghiệp lành thân khẩu ý

Nghiệp nhơn cảm được các quả báo

Cũng biết Thanh Văn Bích Chi Phật

Các bực Bồ Tát cảnh giới lành

Thấy mười phương Phật phá ma quân

Chuyển chánh pháp luân nhập Niết bàn

Thấy các Thanh Văn được giải thoát

Giáo hóa chúng sanh rồi diệt độ

Thấy Bích Chi Phật hiện thần thông

Để đền ơn đức của thí chủ

Chơn thiện pháp của Như Lai nói

Nghe rồi hay qua biển sanh tử

Bồ Tát Thanh Văn và Duyên Giác

Chẳng biết được chỗ thấy của Phật

Như lai thấy rõ các vi trần

Cũng thấy rõ vô biên thế giới

Như Lai giáo hóa các chúng sanh

Vì vậy nên nói nghiệp thú chín.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai Thế Tôn biết các lậu tận rốt ráo giải thoát, sanh tử ta đã hết, phạm hạnh ta đã lập, việc làm đã xong không còn thân đời sau. Trí lậu tận của Phật thanh tịnh vi diệu. Nói là thanh tịnh là không có các tập khí. Trí Thanh Văn hữu biên hữu lượng, tại sao, vì có tập khí vậy. Trí Bích Chi Phật cũng có biên có lượng, tại sao, vì không có đại bi vậy.

Trí lậu tận của Phật vô lượng vô biên, tại sao, vì biết tất cả hành vậy, vì thành tựu Nhứt thiết trí vậy, vì dứt hẳn tất cả tập khí vậy, đã nhiếp lấy đại từ đại bi, trang nghiêm tứ vô sở úy, nơi tất cả pháp không có tập khí duyên lấy tướng dạng, tất cả thế gian chẳng thế hơn được, đi đứng ngồi nằm không có lỗi lầm.

Như hư không thanh tịnh trong sáng chẳng xen tạp khói mây. Trí lậu tận của đức Phật cũng vậy, chẳng xen tạp tất cả phiền não tập khí. Đức Như Lai thành tựu thanh tịnh đầy đủ trí lậu tận ấy, có thể vì chúng sanh mở bày tuyên nói cho họ nghe rồi dứt các phiền não, chư Bồ Tát nghe rồi phát đại trang nghiêm để dứt các phiền não. Đây gọi là nghiệp thứ mười của đức Phật Như Lai ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Phật lậu tận trí không có biên

Thanh tịnh chẵng tạp phiền não tập

Nhị thừa còn tập khí phiền não

Nên trí lậu tận chẳng thanh tịnh

Như Lai đầy đủ đại từ bi

Vì vậy trí Phật không ngằn mé

Đầy đủ thành tựu tất cả hạnh

Nên biết chỗ lậu hạnh chúng sanh

Phật diễn nói vô thường vô ngã

Cho chúng biết rỗng không không vui

Tu thiện tư duy được tịnh nhãn

Biết không chúng sanh không tướng nhơn

Đại bi thương xót các chúng sanh

Đầy đủ thập lực tứ vô úy

Trí vô ngại vì dứt phiền não

Vì vậy tuyên nói nghiệp thứ mười.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai đầy đủ bốn vô sở úy mà thành Như Lai nghiệp.

Đức Như Lai biết rõ tất cả pháp, hoặc có Trời, hoặc có Người, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn nào mà có thể đúng thiệt nói rằng Như Lai chẳng biết pháp chẳng rõ pháp, thì không bao giờ có. Tại sao vậy, vì Như Lai Thế Tôn hiệu là bực Biến Chánh Giác, biết rõ pháp bình đẳng, hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp thánh nhơn, hoặc pháp Thanh Văn, hoặc pháp Duyên Giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc pháp Phật, hoặc pháp hữu học, hoặc pháp vô học, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp thiện, hoặc pháp bất thiện, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, các pháp như vậy đều bình đẳng biết rõ nên hiệu là đấng Biến Chánh Giác. Nói bình đẳng là thấy rỗng không bình đẳng vì pháp chơn thiệt vậy, là vô tướng bình đẳng vì hoại các tướng vậy, là vô nguyện bình đẳng vì chẳng trụ trước ba cõi vậy, là bất sanh bình đẳng vì tánh vô sanh vậy là vô hành bình đẳng vì tánh vô hành vậy, là vô xuất bình đẳng vì tánh vô xuất vậy, là vô chí xứ bình đẳng vì tánh vô chí xứ vậy, là chơn thiệt bình đẳng vì tánh không có tam thế vậy, trí giải thoát bình đẳng vì tánh không có vô minh vậy, là Niết bàn bình đẳng vì tánh không có sanh tử vậy. Thấy tất cả pháp như vậy thảy đều bình đẳng nên đức Như Lai hiệu là bực Biến Chánh Giác.

Thấy rõ như vậy rồi dùng đại từ bi đức Như Lai vì các chúng sanh mà tuyên dương thuyết pháp.

Hoặc có kẻ chẳng phải Thế Tôn mà tưởng là Thế Tôn, chẳng phải Chánh Giác mà tưởng là Chánh Giác, chẳng phải lậu tận mà tưởng là lậu tận. Đức Như Lai có đủ bốn vô sở úy có thể phá hoại các ác tưởng như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười một của Như Lai ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Phật biết tất cả pháp bình đẳng

Nên được hiệu là Nhứt Thiết Trí

Phàm thánh Bồ Tát và Phật hạnh

Thế gian xuất thế nghiệp thiện ác

Không vô tướng nguyện vô sanh diệt

Tất cả thấy rõ chơn thiệt ấy

Như Lai thấy rõ pháp bình đẳng

Vì chúng nói nghiệp thứ mười một.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai chơn thiệt dứt hết hẳn các lậu phiền não tập khí nên xướng lên rằng: Phật hết các lậu. Chẳng có hoặc là Trời, là Người, là Ma, là Phạm, hoặc là Sa Môn, là Bà La Môn nào có thể chơn thiệt nói rằng Phật chưa hết lậu.

Thế nào gọi là đức Như Lai lậu tận?

Đức Phật ở nơi dục lậu, tâm được giải thoát ở nơi hữu lậu, nơi vô minh lậu, nơi tất cả tập khí, nơi tất cả kiến lậu, tâm được giải thoát. Vì vậy đức Như Lai hiệu là bực lậu tận.

Trong đệ nhứt nghĩa, chơn trí của thánh nhơn, không có giác, không có đoạn, không có chứng, không có tu, vì lưu bố thế tục mà gọi là tận lậu. Tại sao, vì tận là vô sanh vô diệt vô tận không có thể tuyên nói được. Vì chẳng nói được nên gọi là vô vi. Luận về vô vi thì không có tướng sanh trụ diệt. Đức Phật hoặc xuất thế hoặc chẳng xuất thế, pháp tánh luôn thường trụ. Đức Như Lai chẳng thấy có ngã và ngã đoạn dứt, vì đại từ bi mà đức Như Lai vì chúng sanh nói ngã đoạn dứt. Đây gọi là nghiệp thứ mười hai của Như Lai ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai dứt hẳn các lậu kiết

Cũng dứt vô biên các tập khí

Vì vậy thế pháp chẳng nhiễm được

Như sen ở nước nước không thấm

Đấng Đại Bi Pháp Vương trong đời

Vì chúng sanh mà lưu bố nói

Chơn thiệt biết rõ không sanh diệt

Vô ngã ngã sở cũng biết thiệt

Tất cả các pháp không tăng giảm

Theo tánh tướng nó nói chơn thiệt

Như Lai được sức đại tự tại

Vì chúng nối nghiệp thứ mười hai

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai chơn thiệt nói pháp ngăn chướng đạo. Chẳng có hoặc Trời, Người, Ma, Phạm, hoặc Sa Môn Bà La Môn nào có thể chơn thiệt nói rằng pháp ấy chẳng thể ngăn chướng được đạo.

Thế nào gọi là ngăn? Thế nào là chẳng ngăn?

Có một pháp hay ngăn đạo đó là phóng dật. Còn có hai pháp đó là vô tàm và vô quý. Còn có ba pháp đó là thân, khẩu, ý, ác. Còn có bốn pháp đó là tham dục, sân hận, kinh bố và ngu si. Còn có năm pháp đó là sát sanh, trộm cướp, tà dâm dục, vọng ngữ, và uống rượu. Còn có sáu pháp đó là chẳng kính trọng Phật, Pháp, Tăng, giới, tam muội và bất phóng dật. Còn có bảy pháp đó là mạn, đại mạn, mạn mạn, tà mạn, tà ngữ, tà mạng và tà niệm. Còn có tám pháp, đó là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng tà phương tiện, tà niệm và tà định. Còn có chín pháp, đó là có người muốn làm các điều ác hiện tại làm, làm rồi đổ cho người thân mình, có người đem điều lành muốn đang đã làm đổ cho kẻ oán mình, có người đem điều ác muốn đang đã làm đổ cho thân mình, đây gọi là chín pháp. Còn có mười pháp, đó là thập ác: sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, vô nghĩa ngữ, tham ganh, sân hại và tà kiến.

Nếu có Tỳ kheo khởi ác tư duy, do đây mà chẳng biết là có nhiều các lỗi lầm. Do chẳng biết mà sanh tâm điên đảo. Do tâm điên đảo mà thêm lớn ngũ cái. Do lớn ngũ cái làm cho các phiền não ngăn chướng pháp lành. Do phiền não mà thân khẩu ý tạo gây các điều ác. Đức Như Lai như thìệt biết các pháp như vậy hay ngăn chướng nơi đạo. Đã tự biết rõ rồi vì chúng sanh mà diễn nói để phá hoại các pháp ngăn đạo như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười ba của Như Lai ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Nếu ai quen hành theo phóng dật

Thì thiệt chẳng thể được giải thoát

Thân khẩu ý tạo các ác nghiệp

Vô tâm vô quí các phiền não

Gần gũi ác pháp thì ngăn đạo

Biết rõ đối trị chẳng đối trị

Để phá phiền não nên diễn nói

Nghiệp thứ mười ba của Như Lai

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai chơn thiệt nói thánh đạo rốt ráo.

Nếu có chúng sanh gần kề chánh niệm thì chắc được giải thoát. Chẳng có ai hoặc là Trời, Người, Ma, Phạm, hoặc là Sa Môn, Bà La Môn, Bà La Mộn nào mà có thể chơn thiệt nói rằng người tu tập thánh đạo chẳng được rốt ráo vô thượng giải thoát.

Những gì là chơn thiệt thánh đạo?

Có một thứ đó nhứt thừa. Còn có hai thứ, đó là xa ma tha và tỳ bà xá na. Còn có ba thứ, đó là không tam muội, vô tướng tam muội và vô nguyện tam muội. Còn có bốn thứ, đó là tứ niệm xứ. Còn có năm thứ, đó là ngũ căn. Còn có sáu thứ, đó là lục niệm xứ. Còn có bảy thứ, đó là thất giác chi. Còn có tám thứ, đó là bát chánh đạo phần. Còn có chín thứ, đó là sơ thiền đến diệt tận định. Còn có mười thứ, đó là thập thiện. Đây gọi là rốt ráo chơn thiệt thánh đạo.

Lại rốt ráo thánh đạo là không có thể làm tăng giảm lấy bỏ, không có nắm không có buông, chẳng phải chánh chẳng phải tà, chẳng phải một chẳng phải hai, đây gọi là thánh đạo rốt ráo chơn thiệt vậy. Vì thương xót các chúng sanh mà đức Như Lai tuyên nói thánh đạo như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười bốn của đức Như Lai.

Đức Như Lai nói kệ rằng:

Như Lai biết rõ pháp tịch tĩnh

Ai tu tập thì được giải thoát

Như Lai không thấy không ai dạy

Tự nhiên mà được vị cam lộ

Ai tu ba mươi bảy trợ đạo

Phiền não kiết dứt được giải thoát

Tư duy biết rõ pháp chơn thiệt

Chẳng trụ pháp tánh chơn giải thoát

Như Lai thấy pháp như hư không

Như huyễn như hóa như dương diệm

Đấng đủ thập lực vô biên thân

Vì chúng nói nghiệp thứ mười bốn

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Thân nghiệp Như Lai không có lầm lỗi. Hoặc kẻ ngu hoặc người trí không ai có thể chơn thiệt nói Phật có lỗi lầm. Tại sao, đức Như Lai hoặc đi hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đắp y, hoặc cầm bát, hoặc thọ ăn uống, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nói, hoặc nhập xuất thành ấp thôn lạc nhà cửa, bàn chưn Phật không đạp đất, thường bước đi trên hoa sen ngàn cánh. Nếu có chúng sanh nào gặp chạm bóng thân Phật thì trong bảy ngày an vui không nghĩ tưởng đến ăn uống, khi bỏ thân sanh về cõi lành. Y phục của Như Lai mặc lìa cách thân Phât bốn tấc, sức gió mạnh bạo không làm động được. Đức Như Lai dầu có những sự việc hành động nói năng như vậy, mà nội tâm Phật chưa lúc nào chẳng định. Vì vậy mà thân Như Lai không có lỗi lầm.

Nầy thiện nam tử! Như Lai khẩu nghiệp cũng không có lỗi lầm. Tại sao, vì đức Như Lai luôn là thời ngữ, chơn thiệt, ngữ chánh ngữ, kỳ ngữ, nghĩa ngữ, thanh tịnh ngữ, vi diệu ngữ, vô dị ngữ, nhất âm ngữ, lời nói chẳng nhiều, lời hiểu tất cả, lời đúng như làm. Vì vậy nên Như Lai khẩu không có lỗi lầm.

Nầy thiện nam tử! Như Lai ý nghiệp cũng không có lỗi lầm. Tại sao, vì đức Như Lai thường làm tất cả Phật sự luôn mà nội tâm Phật không hề có kiêu mạn. Đức Như Lai chẳng nhọc suy nghĩ mà biết rõ cùng tận hết tất cả pháp, nên gọi là Phật vô ngại trí. Vì vậy mà Như Lai ý nghiệp không có lỗi lầm. Vì thương xót chúng sanh nên đức Như Lai tuyên nói thân khẩu ý Phật không có lỗi lầm như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười lăm của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Thân khẩu ý Như Lai tịch tĩnh

Vì vậy nên không có lỗi lầm

Thiệt chẳng nói được mà tuyên nói

Nghiệp chẳng phải nghiệp nói là nghiệp.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai chẳng sanh việc tranh cãi với hàng Trời, Người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn. Tại sao, vì Như Lai rốt ráo lìa thương và giận vậy. Do đây nên tất cả thế gian cúng dường cung kính, tâm Phật chẳng cao ngạo cũng chẳng vui mừng. Tất cả thế gian khinh mạn chê bai, tâm Phật không có xúc động.Phàm việc được Phật làm thì không có sự nào là chẳng thành tựu. Phật hoàn toàn không có tạo tác nghiệp bất thiện. Đức Như Lai thiệt không có sự tranh luận với tất cả thế gian, cũng luôn an trụ vô tránh tam muội. Đức Như Lai không có ngã không có ngã sở hữu, vì phá sự thị phi tranh tụng của chúng sanh mà nói nghiệp nầy. Đây gọi là nghiệp thứ mười sáu của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai tu tập vô tránh định

Nên tâm Phật không giận không mừng

Như Lai vì dứt các phiền não

Nên tuyên nói nghiệp thứ mười sáu.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Tâm Như Lai không có quên lầm, với bát giải thoát không có mất niệm tâm. Như Lai thường quán ý hành của tất cả chúng sanh, quán rồi lại hay tùy nghi thuyết pháp. Với bốn vô ngại cũng không thất niệm. Ở trong tam thế nhớ biết không quên. Đã tự mình chẳng mất tâm nhớ biết lại vì chúng sanh mà tuyên nói pháp nhớ biết nầy. Đây gọi là nghiệp thứ mười bảy của Như Lai.

Đức Như Lai nói kệ rằng:

Như Lai tu tập bát giải thoát

Nên với các pháp chẳng thất niệm

Biết tâm chúng sanh tùy nghi nói

Cho chúng được niệm nói nghiệp nầy.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai chơn thiệt không có tâm bất định. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc nói, hoặc nín, thướng biết nghĩa thâm diệu của các pháp. Tất cả thế gian hoặc có người nhập định hoặc chẳng nhập định, không ai có thể biết được tâm Như Lai, chỉ trừ chư Phật gia đạo lực cho họ. Vì muốn cho vô lượng tất cả chúng sanh thường tại chánh định nên nói nghiệp Phật như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười tám của đức Như Lai.

Đức Như Lai nói kệ rằng:

Như Lai chánh giác thường tại định

Việc được Phât làm không tán loạn

Thường nhập tam muội không ai biết

Vì vậy tuyên nói nghiệp mười tám.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai chơn thiệt không có các loại suy tưởng. Đó là không có phân biệt là phước điền là chẳng phải phước điền, cũng không có phân biệt là chúng sanh là pháp là chánh giác là pháp giới, không có phân biệt là trì giới là phá giới, cũng không có phân biệt là oán là thân, là thọ nhận là chẳng thọ nhận, cũng không có tưởng phân biệt là chánh kiến là tà kiên. Vì vậy mà đức Như Lai không có các ý tưởng. Muốn phá các thứ tưởng phân biệt như vậy của các chúng sanh mà đức Như Lai tuyên nói nghiệp nầy. Đây gọi là nghiệp thứ mười chín của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai dứt hẳn tất cả tưởng

Do đây biết rõ các pháp giới

Vì phá chúng sanh ngần ấy tưởng

Nói nghiệp thứ mười chín của Phật.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai theo trí mà tâm xả. Không có chẳng biết mà xả, tại sao, vì tu thân vì tu giới vì tu định vì tu huệ vì dứt nghi vậy.

Tâm xả của Như Lai ra khỏi các thế gian, tức là thánh xả, là rốt ráo xả, là chuyển thanh tịnh phạm luân xả, là hai mươi tám đại bi xả, là lợi ích chúng sanh xả, là đối trị xả. Các đức xả như vậy không có tăng không có giảm, chẳng cao chẳng thấp, chẳng xen tạp phiền não, chẳng một chẳng hai, chẳng quán thời tiết, chẳng có đối không có ngại, chẳng dừng chẳng động, chẳng ẩn chẳng hiển, là chơn thiệt bất hư vậy.

Đức Như Lai thành tựu đức đại xả như vậy mà có thể vì các chúng sanh tuyên nói. Đây gọi là nghiệp thứ hia mươi của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai tu thân giới tâm huệ

Từ trí huệ mà tu tâm xả

Với các chúng sanh không thương giận

Chẵng động chẳng dừng chon thiệt xả

Đấng Vô thượng đại từ đại bi

Có đủ đức đại xả như vậy

Trí vô ngại điều phục chúng sanh

Nói nghiệp thứ hai mươi thanh tịnh.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Nghiệp thích muốn của đức Như Lai không có tăng không có giảm. Những gì gọi là thích muốn? Đó là thích muốn các pháp lành, những là đại từ đại bi thuyết pháp độ người an trụ tịch tĩnh khuyên dạy các Bồ Tát học đạo Bồ đề làm cho giống tam thừa nối nhau không dứt. Tất cả các thích muốn như vậy chẳng theo tâm thích muốn sanh, mà theo trí huệ sanh. Vì muốn cho tất cả chúng sanh có đủ Vô thượng Bồ đề nên Như Lai diễn nói chánh pháp nầy. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi mốt của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Đức muốn của Phật không tăng giảm

Do đại từ bi nên thuyết pháp

Chẳng dứt tam thừa vô biên thân

Vì chúng nói nghiệp Phật như vậy.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Đức Như Lai tinh tiến không có thôi nghỉ. Thế nào là chẳng thôi nghỉ? Đó là điều phục chúng sanh thuyết pháp giáo hóa. Giả sử có một người có thể trong thời gian vô lượng kiếp ở bên Phật nghe pháp đức Như Lai sẽ vì người nầy thuyết pháp không thôi nghỉ. Nếu có một Phật trong vô lượng kiếp thuyết pháp Như Lai cũng nghe mãi không có lòng nhác lười thôi bỏ. Nếu quá vô lượng hằng hà sa thế giới có một chúng sanh đáng được độ. Như Lai cần phải theo chẳng rời bỏ chẳng ăn chẳng nghỉ, chẳng hề sanh tâm mõi mệt hối hận thối chuyển, Phật thường khuyên bảo chúng sanh cho họ siêng năng tinh tiến. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi hai của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Đấng có đức tinh tiến Vô thượng

Ở trong đại chúng khen tinh tiến

Tinh tiến thuyết pháp không thôi nghỉ

Là nghiệp Phật thứ hai mươi hai.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai niệm tâm không có tăng không có giảm. Tại sao, lúc mới được Vô thượng Bồ đề, Như Lai quán khắp tâm tất cả chúng sanh quá khứ vị lai hiện tại, sau đó lúc thuyết pháp chẳng mất niệm trước, nhớ rõ ba tụ trước và ba loại căn tánh, phàm lúc Như Lai thuyết pháp không lúc nào chẳng niệm. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi ba của Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai lúc mới được Bồ đề

Quán khắp chúng sanh tâm đúng thiệt

Phàm lúc thuyết pháp chẳng thất niệm

Phật nói nghiệp thứ hai mươi ba.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai tam muội với tất cả pháp bình đẳng không có giảm, vì vậy nên chư Phật tất cả bình đẳng, nơi tất cả một ức loại tham dục sân hận ngu si và một ức loại không tham sân si, tâm Phật bình đẳng không có sai biệt. Với tất cả loại hữu vi vô vi sanh tử Niết bàn cũng như vậy.

Như Lai tam muội bình đẳng như vậy chẳng rời nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý tứ đại tam giới, chẳng phải đây chẳng phải kia, cũng chẳng phải tất cả, chẳng phải tăng chẳng phải giảm. Vì làm cho chúng sanh được tam muội như vậy nên Như Lai tuyên nói chánh pháp. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi bốn của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai quán khắp tất cả pháp

Tâm Phật thường định không tán loạn

Chẳng bị nhiếp thuộc bởi tam giới

Sáu căn tứ đại cũng như vậy

Tất cả các pháp vô sai biệt

Bình đẳng quán sát thiện bất thiện

Vi muốn chúng sanh được định nầy

Nên nói nghiệp Phật thứ hai bốn.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai trí huệ thường không giảm ít. Dùng trí lực nầy biết tất cả pháp hay tùy ý thích của chúng sanh mà thuyết pháp. Như Lai được trí vô ngại biết tất cả nghĩa, biết tất cả chữ, biết tất cả câu, trong vô lượng kiếp diễn nói một câu pháp ra vô lượng nghĩa dứt tất cả nghi. Như Lai nói pháp tam thừa đến tám vạn bốn ngàn pháp môn. Đây gọi là vô lượng vô biên trí huệ. Vì cho chúng sanh được trí huệ như vậy mà đức Như Lai diễn nói chánh pháp. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi lăm của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Phật trí huệ vô ngại vô biên

Hay nói vô ngại vô biên pháp

Diễn một chữ làm vô lượng câu

Diễn một câu làm vô lượng nghĩa

Nói tám vạn bốn ngàn pháp môn

Cũng nói số khối pháp như vậy

Làm cho chúng được trí vô ngại

Nên Phật nói nghiệp hai mươi lăm.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai giải thoát không có giảm ít. Hàng Thanh Văn do nghe pháp nơi người khác mà được giải thoát. Hàng Duyên Giác từ nhơn duyên mà được giải thoát. Chư Phật Như Lai không có thấy tự nhiên giác ngộ dứt hẳn phiền não và tập khí. Với quá khứ chẳng xét, với vị lai chẳng dính, với hiện tại chẳng trụ, cũng chẳng tham trước hai pháp nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp. Như Lai biết rõ tâm tánh thanh tịnh nên xướng lên rằng, trong một niệm Như Lai được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì muốn chúng sanh trong một niệm được Vô thượng Bồ đề nên Như Lai diễn nói chánh pháp. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi sáu của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Thanh Văn do nghe được giải thoát

Duyên Giác nhơn duyên được tỏ ngộ

Như Lai giải thoát không sở nhơn

Chẳng trước tam thế tâm tánh tịnh

Phật diễn thuyết pháp vì giải thoát

Quán các chúng sanh Vô thượng đạo

Đại từ đại bi vì chúng nói

Nghiệp Như Lai thứ hai mươi sáu.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai thân nghiệp tùy trí huệ hành, luôn bao quanh bởi trí huệ, do thân nghiệp nầy mà Như Lai lúc thuyết pháp, lúc nín lặng, lúc đi đứng ngồi nằm, lúc uống ăn, lúc đi ra thành ấp tụ lạc, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu và tám mươi vẻ đẹp, chúng sanh thấy hay nghe đều được điều phục, vì vậy mà tất cả thân nghiệp Như Lai tủy trí huệ hành. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi bảy của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Thân nghiệp Như Lai vì chúng sanh

Nên hiện những tướng tốt vi diệu

Phàm có cử động lợi chúng sanh

Phật vì đại chúng nói nghiệp nầy.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai khẩu nghiệp tùy trí huệ hành, tại sao, vì thanh tịnh thuyết pháp vậy, vì không có thất thoát vậy, vì là lời chơn chánh, lời dễ hiểu, lời dễ biết, lời chẳng cao chẳng hạ, lời chẳng cong vạy, lời chẳng thô, lời chẳng ác, lời chẳng mờ tối, lời dịu dàng, lời chẳng khinh, lời chẳng mau, lời chẳng e sợ, lời chẳng phải chẳng hiểu nghĩa, lời chẳng phải tiếng ác, lời chẳng chậm, lời cam lộ, lời khả ái, lời có thứ đệ, lời trang nghiêm, lời cung kính, lời thích nghe, lời chẳng tham, lời chẳng nhơ, lời thanh tịnh, lời rốt ráo, lời chẳng lừa dối, lời chẳng si mê, lời vô ngại, lời rộng rãi, lời chơn thiệt, lời chẳng tạo tác, lời vô tận, lời an lạc, lời tịch tĩnh, lời tham tịch tĩnh, lời sân tịch tĩnh, lời si tịch tĩnh, lời phá ma, lời phá tà luận, tiếng phạm âm, tiếng ca lăng tần già, tiếng Đế Thích, tiếng hải triều, tiếng câu luân xà, tiếng khổng tước mùa thu, tiếng câu chỉ la, tiếng chim mạng mạng, tiếng nga vương, tiếng lộc vương, tiếng đờn, tiếng trống, tiếng ốc, tiếng nhạc, tiếng người thích nghe, tiếng nhĩ căn thích, lời tăng pháp lành, lời câu nghĩa vô tận, lời hiệp chữ câu nghĩa, lời đúng thời, lời lược gọn, lời tri túc, lời điều các căn, lời bố thí trang nghiêm, lời giới luật thanh tịnh, lời cùng chung với đức nhẫn nhục, lời tinh tiến thần thông, lời lìa xa dục giới, lời đầy đủ trí huệ, lời từ, lời bi, lời hỉ, lời xả, lời nói pháp Tam thừa, lời chẳng dứt tam bửu, lời giải thích ba tụ, lời giải thích tam thế, lời giải thích ba giải thoát, lời phân biệt tứ đế, lời tu tập, lời tán thán, lời Phật, lời thánh, lời vô biên, lời vô hành. Nầy thiện nam tử! Như Lai thành tựu những lời nói như vậy, nên khẩu nghiệp Như Lai là tùy trí huệ hành. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi tám của đức Như Lai.

Đức Như Lai nói kệ rằng:

Lời nói của Phật như tịnh châu

Thành tựu vô lượng các công đức

Tiếng Phật khắp cùng mười phương cõi

Nhứt âm hay làm mọi loài hiểu

Phàm lời diễn nói chẳng tác niệm

Lại chẳng xem cảnh giới chúng tâm

Như Lai âm thanh như tiếng vang

Không nói không nghe cũng như vậy

Đại từ đại bi lời thanh tịnh

Vì chúng giải thích các loại pháp

Muốn cho chúng sanh được như Phật

Nên nói khẩu nghiệp hai mươi tám.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai ý nghiệp tùy trí nghiệp hành. Tại sao, đức Như Lai biết rõ tâm ý thức của tất cả chúng sanh, cũng chẳng theo ý theo duyên theo tham sân si, xa lìa dối lầm, xa lìa ngã ngã sở vô minh tối tăm, bình đẳng thanh tịnh không có biên tế như hu không, đây là Như Lai ý nghiệp tùy trí huệ hành. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi chín của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Tâm Như Lai chẳng thể lường được

Như dùng sợi lông cất núi lớn

Thường quán chúng sanh tâm duyên cảnh

Xa lìa các ma lìa phiền não

Như Lai Pháp Vương nói nghiệp lành

Để phá chúng sanh các nghiệp ác

Vì tịnh chúng sanh thân khẩu ý

Nghiệp hai mươi chín nay đã nói.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai trí huệ biết đời quá khứ, trí ấy không có ngại cũng không có chướng. Trí ấy thế nào? Trí ấy biết vô lượng vô số chư Phật quá khứ cùng với các thế giới của chư Phật ấy, những là cỏ cây và số lượng chúng sanh, tâm cảnh của họ, các loại âm thanh ngôn ngữ của họ, cũng biết chư Phật quá khứ ấy nói những pháp gì, có bao nhiêu chúng sanh chứng được Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, Bồ Tát thừa, biết rõ chư Phật quá khứ ấy thọ mạng dài ngắn, số đại chúng nhiều ít, các thứ danh tự, sự ăn uống ngồi nằm, biết rõ chúng sanh ấy những là căn giới ý giới pháp giới tâm giới hành giới, tâm họ thứ đệ sanh diệt xuất hiện ẩn mất. Tất cả đều biết rõ như thiệt cho đến biết rõ số lượng, chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Đây gọi là nghiệp thứ ba mươi của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Phật trí vô ngại cũng vô chướng

Nên biết rõ được vô lượng cõi

Biết rõ tất cả các Phật sự

Chúng sanh các căn và pháp giới

Như Lai Pháp Vương biết quá khứ

Như xem trái cây trong bàn tay

Vì muốn chúng sanh được trí ấy

Phật nói nghiệp thứ ba mươi nầy.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai trí huệ biết đời vị lai, trí ấy vô ngại cũng vô chướng.

Trí ấy biết thế nào? Trí ấy biết tất cả thế giới thuở vị lai, hoặc thành hoặc hoại, mấy kiếp hỏa tai, mấy kiếp thủy tai, mấy kiếp phong tai, bao nhiêu Phật thế giới, bao nhiêu Phật xuất thế, trong thế giới có bao nhiêu vi trần, có bao nhiêu Thanh Văn, bao nhiêu Duyên Giác, bao nhiêu Bồ Tát, cũng biết sự ăn uống hành động đi đứng ngồi nằm của chư Phật ấy, bao nhiêu chúng sanh chứng Thanh Văn giải thoát, bao nhiêu chúng sanh chứng Duyên Giác giải thoát, bao nhiêu chúng sanh chứng Chánh Giác giải thoát, bao nhiêu chúng sanh tu tập các phẩm trợ đạo, tử bi hỉ xả, cũng biết rõ các chúng sanh thuở vị lai ấy bao nhiêu thứ đệ tâm sanh, tâm diệt. Tất cả sự việc như vậy đều biệt rõ chơn thiệt chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Đây gọi là nghiệp thứ ba mươi mốt của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai biết rõ đời vị lai

Sự sanh diệt của tất cả pháp

Biết các thế giới và chư Phật

Chúng sanh tâm thứ đệ sanh diệt

Lưu chuyển các đạo chứng tam thừa

Y báo chánh báo biết chơn thiệt

Vì muốn đại chúng được trí nầy

Phật nói nghiệp thứ ba mươi mốt.

Lại nữa, nầy thiện nam tử! Như Lai trí huệ biết đời hiện tại, trí ấy vô ngại cũng vô chướng.

Trí ấy thế nào? Như Lai biết rõ hiện tại mười phương các thế giới, số lượng chư Phật Bồ Tát Duyên Giác Thanh Văn, những nhựt nguyệt tinh tú cỏ cây vi trần địa thủy hỏa phong đại hải núi sông vườn rừng, các loại chúng sanh lông tóc hình sắc tâm ý thứ đệ sanh diệt ẩn mất. Cũng biết chúng sanh địa ngục ngạ quỷ súc sanh hiện nghiệp quả báo ở đời bao lâu lúc nào giải thoát, biết rõ phiền não giới, chư căn giới, ý giới, pháp giới. Tất cả sự việc hiện tại mười phương trí Như Lai biết rõ chơn thiệt, chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Đây gọi là nghiệp thứ ba mươi hai của đức Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai Vô thượng chẳng nghĩ bàn

Không ai biết Phật cảnh sở duyên

Chỗ biết của Phật như hư không

Vô lượng vô biên không thể nói

Phật nói vi diệu đệ nhứt nghĩa

Vì muốn chúng sanh được nghiệp Phật

Tự Tại Vương khéo hỏi Như Lai

Phật Thế Tôn đã tùy ý đáp.

Nầy thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn có đủ ba mươi hai nghiệp như vậy thì có thể điều phục tất cả chúng sanh.

Nầy thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn vì chúng sanh nói các nghiệp ấy, mà thiệt thì Như Lai vô lượng nghiệp Vô thượng không thể kể nói.

Nầy thiện nam tử! Nghiệp của Như Lai, tất cả thế gian chúng sanh chẳng suy nghĩ được, chẳng biết rõ được cũng chẳng tuyên nói được.

Nghiệp Như Lai ấy đều có thể bình đẳng biết khắp tất cả quốc độ như hư không. Tại sao? Vì mười phương chư Phật đều bình đẳng vậy.

Nầy thiện nam tử! Chư Phật Như Lai quan sát chúng sanh cùng thế giới giải thoát Niết bàn đều bình đẳng không sai khác. Đức Phật Thế Tôn quán pháp giới đều bình đẳng nhứt vị rồi chuyển chánh pháp luân chẳng chuyển được.

Nầy thiện nam tử! Ví như người thợ ngọc biết rành các loại châu báu, ở nơi núi báu được một viên bửu châu mang về ngâm trong nước, ngâm nước xong vớt ra ngâm dấm, rồi ngâm nước đậu, ngâm rượu đắng, ngâm xong để trong các chất nước thuốc, sau đó dùng nĩ nhuyễn mài chà thành chơn chánh thanh lưu ly châu.

Cũng vậy, vì biết chúng sanh giới chẳng sáng chẳng sạch nên Như Lai vì chúng sanh mà nói pháp Vô thường khổ bất tịnh để phá tâm tham ưa sanh tử của họ. Đức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ, lại vì chúng sanh nói pháp không vô tướng vô nguyện cho họ biết rõ chánh pháp của Phật. Đức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ lại vì họ thuyết pháp cho họ chẳng thối tâm Vô thượng Bồ đề biết tất cả pháp ba đời thành đạo Bồ đề, gọi là đại trân bửu Vô thượng phước điền lành tốt.

Vì vậy nên biết nghiệp của Như Lai chẳng thể tư duy chẳng thể cân lường chẳng thể tuyên nói được.

Đức Như Lai có đủ ba mươi hai nghiệp, dầu biết thân Phật như hư không mà ở nơi thế giới thị hiện thân Phật và cũng thuyết pháp chẳng thể thuyết được.

Đức Như Lai đã dứt hẳn nhơn duyên tất cả tâm nên biết rõ tâm giới của tất cả chúng sanh, cũng biết rõ cảnh giới của tất cả Bồ Tát.

Nầy thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn chơn thiệt nghiệp trọn chẳng đoạn tuyệt, thọ ký cho Bồ Tát. Đây gọi là nghiệp chơn thiệt của Như Lai”.

Lúc đức Thế Tôn nói nghiệp Phật trên đây rồi, mười phương thế giới chấn động sáu cách, quang minh lớn chiếu khắp nơi, vô lượng vô biên thứ hương thơm hoa đẹp từ trên không tuôn xuống. Đại chúng hiện tại trong phường đình báu lớn cho đến hàng Trời, Rồng,Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi Nhơn nghe lời đức Phật tuyên nói về nghiệp Như Lai, tất cà đều rất vui mừng. Đại chúng lại đem các thứ hương hoa, kỹ nhạc, bửu tràng, bửu phan, bửu cái, cúng dường, đức Phật. Trong pháp hội lại có các chúng đem đủ loại vàng ngọc châu báu cùng những vật trang sức, như là tràng chuổi thoa xuyến, những thanh lưu ly châu, liên hoa châu, kim sí điểu châu, diêm phù bửu châu, đế thích bửu châu, hỏa châu, quang châu, vô lượng quan châu, vô lượng sắc châu, nhu nhuyến thanh tịnh châu, kim cương bửu châu và bạch chơn châu, còn có đem các thứ hương quý như là hương bột, hương chiên đàn hòa với kim sa, hương da già la, hương trầm thủy, hương huân lục, hương di khư đa, hương ma la bạt, còn rải các thứ hoa, những là hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, hoa câu tỳ đà la, hoa ba lợi chất đa la, hoa hỉ lạc, hoa sa la, hoa đại sa la, hoa bách diệp, hoa thiên diệp, hoa nhiễu diệp, hoa đại quang, hoa hương, hoa lạc hương, hoa lạc kiến, hoa vô lượng sắc, hoa bất định sắc, các loại hoa sanh trong nước như là hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi các loại, các loại hoa trên đất như là hoa bà lợi sư, hoa ma lê, hoa tu mạn na, hoa dục kỳ, hoa đàn nội già lê, hoa a đề mục đa già, hoa chiêm bà, hoa a thúc ca, cũng cúng dường đức Phật các loại kỹ nhạc, các thứ phan lọng.

Lúc bấy giờ chư Bồ Tát đến từ thập phương thế giới đều thẳng lên hư không trên phường đình báu lớn rồi buông mình rơi xuống đất để cúng dường đức Phật, thân chư Bồ Tát ấy rơi xuống đất tan mất hóa ra lưới thất bửu trùm khắp trên phường đình, lại hiện thân các Ngài ở trong lưới báu ấy.

Lúc bấy giờ mười phương tất cả chư Phật đều riêng sai một cây ba lợi đến phường đình dùng để cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Do thấn lực Phật, mỗi mỗi cây ba lợi ấy đến trang nghiêm phường đình báu lớn.

Trong pháp hội có vô lượng chúng phát tâm Vô thượng Chánh Giác, vô lượng chúng được Vô sanh Pháp nhẫn.

Đức Thế Tôn đứng dậy ngắm nhìn hàng đại chúng như tượng vương nhìn mà tuyên lời rằng: Các thiện nam tử! Ai có thể thủ hộ các vật cúng dường nầy và cả phường đình báu lớn đây cho khỏi bị hủy hoại hư hao tổn thất, chờ đến Di Lặc thành Vô thượng Chánh giác rồi mười sáu năm sau sẽ cúng dường lên đức Phật ấy và cũng gìn giữ để cúng dường năm trăm đức Như Lai kế tiếp trong Hiền Kiếp.

Bấy giờ trong chúng hội có một đại Bồ Tát hiệu là Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương liền từ chỗ ngồi dậy quỳ chắp tay bạch rằng: ” Bạch đức Thế Tôn! Tôi có thể thủ hộ những vật cúng dường và phường đình báu lớn nầy chẳng cho hư không hủy hoại để chờ Di Lặc thành Phật được mười sáu năm sẽ cúng dường cho đức Phật ấy và cũng thủ hộ cúng dường cho năm trăm đức Phật kế tiếp trong Hiền kiếp nầy”.

Lúc ấy trong đại chúng có một ma vương hiệu là Thần Thông ở nước Tứ Thiên Hạ nói với đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương rằng nay Ngài để những vật cúng dường và bửu phường đình nầy ở trong khí cụ gì để thủ hộ cho khỏi hư hao hủy hoại?

Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: ” Nầy thiện nam tử! Phàm nói là khí cụ thì tánh nó là Vô thường, mà thân thể nầy của tôi luôn thường trụ không biến đổi. Nay Ngài nên nhìn kỹ thân của tôi”

Ma vương Thần Thông nghe xong liền y theo lời bảo mà nhìn kỹ thân của đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương, thấy trong rún có một thế giới tên là Thủy Vương Quang hiện tại có đức Phật Thế Tôn hiệu là Bửu Ưu Bát La, trong thế giới Thủy Vương Quang ấy có một bửu sơn lớn, Bửu Ưu Bát La Như Lai ở trong đại bửu sơn ấy ngồi Kiết già cùng chư Bồ Tát tuyên nói chánh pháp.

Thần Thông ma vương thấy rõ rồi trong lòng rất lấy làm lạ mà khen ngợi, liền lạy Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát mà bạch rằng: “Lành thay lành thay! Bạch Đại Sĩ! Nay tôi mới biết là Ngài có khí cụ vi diệu có thể hộ trì được các vật cúng dường và đại bửu phường đình nầy khỏi bị hư hao hủy hoại”.

Thần Thông ma vương lại đảnh lễ đức Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Từ trước tôi chưa từng thấy đại Bồ Tát như vậy, cũng chưa từng được nghe pháp vi diệu như vậy, nên tôi muốn học pháp Thanh Văn nhập Niết bàn. Nay tôi được thấy oai thần lực của Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát tôi liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Bạch đức Thế Tôn! Giả sử trong hằng hà sa số kiếp thân tôi chịu khổ nơi địa ngục, rồi sau mới được thành đạo Vô thượng, tôi quyết chẳng rời bỏ Bồ đề tâm”.

Đức Phật phán dạy: “Lành thay lành thay! Nầy thiện nam tử! Ông có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề tốt như vậy, ông cũng sẽ được Vô lượng thần thông lực như vậy”.

Lúc ấy trong pháp hội có một đại Bồ Tát hiệu là Sư Tử Tràng nói với Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát rằng: “Bạch Ngài, đại Bồ Tát được môn đà la ni gì mà có thể thọ trì tất cả lời chư Phật dạy, những chữ câu và nghĩa được diễn nói đều không cùng tận?”.

Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: « Bạch Ngài Sư Tử Tràng đại Bồ Tát, có tám môn đà la ni mà đại Bồ Tát nếu chứng được thì có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật và thuyết pháp chữ câu và nghĩa không có cùng tận.

Những gì là tám môn đà la ni?

Một là Tịnh Thanh Quang Minh đà la ni môn.

Hai là Vô Tận Khí đà la ni môn.

Ba là Vô Lượng Tế đà la ni môn.

Bốn là Đại Hải đà la ni môn.

Năm là Liên Hoa đà la ni môn.

Sáu là Nhập Vô Ngại Môn đà la ni môn.

Bảy là Tứ Vô Ngại Trí đà la ni môn.

Tám là Phật Trang Nghiêm Anh Lạc đà la ni môn.

Nếu có đại Bồ Tát an trụ trong tám môn đà la ni nầy thì có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật và thuyết pháp chữ câu nghĩa đều không có cùng tận ».

Sư Tử Tràng đại Bồ Tát nói: « Lành thay bạch Đại Sĩ! Xin Ngài nói rộng cho. Chư Bồ Tát nghe rồi sẽ được thọ trì tất cả Phật pháp ».

Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: « Nầy Ngài, xin lắng nghe kỹ tôi sẽ vì Ngài mà nói.

Môn Tịnh Thanh Quang Minh đà la ni ấy, nếu an trụ được thì đại Bồ Tát có thể ở nơi chỗ vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn mà thành tựu đầy đủ vô lượng công đức được, tứ đại thanh tịnh, do đây mà âm thanh vi diệu, lúc tuyên thuyết chánh pháp âm thanh ấy vang khắp một Phật thế giới, khắp hai Phật thế giới, khắp năm Phật thế giới, khắp mười Phật thế giới, khắp hai mươi ba mươi Phật thế giới, khắp bốn mươi năm mươi Phật thế giới, khắp trăm Phật thế giới, khắp ngàn Phật thế giói, cho đến khắp trăm ngàn vạn Phật thế giới không thể kể không thể đếm được. Pháp được đại Bồ Tát ấy nói ra đều được nghe khắp nơi. Lúc đại Bồ Tát ấy thuyết pháp, pháp tòa sư tử được ngồi hoặc rộng một do tuần, hoặc lớn như núi Tu Di, rộng lớn như bửu tòa Phạm Thiên Vương.

Giả sử có mười phương vô lượng chư Phật giảng tuyên đạo hóa đại Bồ Tát nầy đều nghe được khắp hết và thọ trì chẳng quên sót, hiểu rành chữ câu và ý nghĩa. Đồng thời tự mình thuyết pháp và nghe chư Phật thuyết pháp không có trở ngại cả hai sự việc. Ở trong một chữ diễn nói tất cả pháp, đó là chữ a. Chữ a là đầu của các chữ. Lúc đại Bồ Tát nầy nói chữ a liền có thể nói tất cả pháp. Chữ a có nghĩa là không có. Không có ấy là các pháp không có căn, không có sanh, không có sơ khởi, không có biên tế, không có tận cùng, không có tạo tác, không có lai, không có khứ, không có trụ, không có tánh, không có xuất, không có hành, không có tăng, không có cao, không có giảm, không có chữ không có tác dụng, không có nguyện cầu, không có hí luận cũng không giác quán, không nói, không nghe, không ở, không vào, các pháp không có ngã, không có chúng sanh, không tịnh, không mạng, không tên, không chủ, không sĩ phu, không nội, không ngoại, không thường, không tướng, không nhớ, không lường, không làm không dấu vết, không câu, không chữ, không ngại, không cùng chung, không theo mình, không theo người, không thâu, không phóng, không thủ, không xả, không số, không thân, không tịnh, không uế, không chuyển, không biến, không thọ nhận, không âm thanh, không tướng hình, không kiết gút, không nhơ, không cuồng, không lậu, không hữu, không che, không đục, không đối, cũng không có sắc thọ tưởng hành thức, không có nhơn quả, không có ấm nhập giới, không có nhơn duyên, không có cảnh giới, không có Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, không có thọ sanh, không có dẫn dắt, không có đen trắng, không cặn bã, không tư duy, không thời gian, không quy về, không thanh tịnh, không tạp uế, không thiêu đốt, không quên tập, không nhà cửa, không chi tiết, không lay động, không đứng ngừng, không bền chắc, không mỏng manh, không thấy được, không chạm được, không sáng, không tối, không lỗi, không tội, không thiệt, không hư, không si ngu, không quán huệ, không chứng không tu, không kiến, không văn, không giác, không trí, không xúc, không thúc.

Thưa Ngài Sư Tử Tràng! Đại Bồ Tát được đà la ni Tịnh Thanh Quang Minh như vậy thì ở một chữ có thể diễn nói tất cả pháp. Trong một chữ nầy nói vô lượng nghĩa không có sai lầm, chẳng hoại pháp giới, chẳng mất chữ nghĩa.

Đại Bồ Tát được đà la ni Tịnh Thanh Quang Minh nầy thì thân khẩu và ý đều thanh tịnh cả.

Cử động đi ở chúng sanh thích thấy, đó là thân thanh tịnh. Pháp được diễn nói chúng sanh thích nghe đó là khẩu thanh tịnh. Tu tập tâm từ bi hỉ xả đó là ý thanh tịnh.

Đại Bồ Tát được đà la ni nầy rồi thì có thể thanh tịnh hai bố thí, đó là tài thí và pháp thí. Có thể thanh tịnh giới hạnh, thấy kẻ phá giới chẳng sanh tâm chê ghét. Có thể thanh tịnh nhẫn nhục, thấy kẻ hại chúng sanh chẳng sanh lòng giận phiền. Có thể thanh tịnh tinh tiến, tu hành pháp lành không hề thôi nghỉ. Có thể thanh tịnh thiền định vì dứt kiêu mạn. Có thể thanh tịnh trí huệ vì trừ vô minh. Có thể thanh tịnh các nghiệp vì phá nhơn ác bất thiện. Có thể thanh tịnh nhãn căn vì được tam minh. Có thể thanh tịnh nhĩ căn vì được thiên nhĩ nghe tiếng nói của chư Phật. Có thể thanh tịnh tỷ căn vì ngửi biết giới hương thanh tịnh của chư Phật. Có thể thanh tịnh thiệt căn vì chẳng tham chất vị cam lộ. Có thể thanh tịnh thân căn vì được hóa thân. Có thể thanh tịnh ý căn vì tư duy lành tốt vậy. Có thể thanh tịnh hình sắc vì được ba mươi hai đại nhơn tướng. Có thể thanh tịnh âm thanh vì nói diệu pháp. Có thể thanh tịnh hơi hương vì giới văn thí v.v… thanh tịnh. Có thể thanh tịnh mùi vị vì được vị Vô thượng. Có thể thanh tịnh cảm xúc vì tu tập các tam muội Vô thượng. Có thể thanh tịnh pháp trần vì quán các pháp giới vô phân biệt. Có thể thanh tịnh ác niệm vì chẳng quên sót. Có thể thanh tịnh ý tưởng vì vĩnh viễn không hệ thuộc ca ma đảng. Có thể thanh tịnh các hành vì quán sát các pháp giới thậm thâm vậy.

Nầy thiện nam tử! Đại Bồ Tát an trụ nơi đà la ni Tịnh Quang Minh nầy rồi theo âm thanh được nói vang đến, chỗ nào thì ánh sáng từ trong thân của Bồ Tát ấy cũng chiếu đến nơi ấy.

Nầy thiện nam tử! Đà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.

Đại Bồ Tát an trụ Vô Tận Khí đà la ni rồi thì diễn nói sắc Vô thường chẳng thể cùng tận, nói sắc là khổ là vô ngã cũng chẳng thể cùng tận, nói sắc như bọt nước, như ảo như trăng trong nước, như mộng, như vang, như bóng, như dương diệm, cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc không có tánh, không có tướng là rỗng không cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc không nói được chẳng thể nguyện cầu chẳng thể tạo tác là bất sanh bất diệt chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải nội ngoại chẳng phải tịnh uế, chẳng phải ngã ngã sở, chẳng phải khứ lai, chẳng phải đối ngại, chẳng phải nhứt nhị, chẳng phải chúng sanh, thọ mạng, trượng phu, chẳng phải tham sân si, chẳng phải hữu vô, chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải hữu vi vô vi tất cả cũng đều chẳng phải cùng tận, nói sắc chẳng phải đui điếc, chẳng phải quẻ thọt, chẳng phải cuồng loạn, chẳng phải cỏ cây gỗ đá, chẳng phải địa thủy hỏa phong, chẳng phải nhà cửa, chẳng phải thành quách, chẳng phải thôn lạc lớn, chẳng phải núi gò, chẳng phải vườn rừng, chẳng phải phương hướng, chẳng phải sắc hương vị xúc, chẳng phải tạo tác chẳng phải lãnh thọ, chẳng phải tiếng, chẳng phải nghe, chẳng phải mười hai nhơn duyên tất cả cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải nhơn chẳng phải ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới,chẳng phải Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng phải đống dị, chẳng phải phiền não, chẳng phải tịnh uế, chẳng phải bằng, chẳng phải lõm, tất cả cũng đều chẳng thể cùng tận.

Nầy thiện nam tử! Đại Bồ Tát an trụ Vô Tận khí đà la ni nói sắc chẳng thể cùng tận như vậy. Lại còn vô lượng vô biên bất khả thuyết phần. Chia một phần nầy làm ngàn phần, ta ở nơi một phần ngàn ấy còn nói chẳng thể cùng tận.

Về Vô Lượng Tế đà la ni, chữ tế là nói thường kiến và đoạn kiến, vô lượng là nói mười hai nhơn duyên. Lại nữa, chữ tế là nói vô minh hành thức danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ hữu sanh và lão tử các sự khổ não nhóm họp, vô lượng là nói sanh và tử. Lại nữa, chữ tế là vô thỉ vô chung, là không có thủ xả, là không sanh không diệt, là không uế không tịnh vì tánh vốn thanh tịnh, là khả kiến, là danh sắc, là hữu vi vô vi, là hữu lậu vô lậu, là nghiệp quả nội ngoại trong ba đời, là không nghiệp nhơn quả báo thiện và bất thiện ngã và vô ngã sanh tử và Niết bàn.

Vô lượng là vi trần tế đó là địa thủy hỏa phong.

Đây gọi là Vô Lượng Tế đà la ni, đại Bồ Tát an trụ đà la ni ấy rồi ở trong vô lượng kiếp vì chúng sanh thuyết pháp, những tự cú nghĩa vị được nói đều chẳng thể cùng tận. Đà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.

Còn về Đại Hải đà la ni, nầy thiện nam tử! Ví như biển lớn, trong tứ thiên hạ có những hình sắc chúng sanh những cỏ cây dược thọ ngũ cốc mặt nhựt mặt nguyệt tinh tú mây rán sương mù sấm chớp quốc độ thành quách tụ lạc thôn ấp điện đường vườn rừng ao hồ núi sông v.v… tất cả hình sắc đều hiện bóng trong biển lớn.

Đại Bồ Tát an trụ đà la ni Đại Hải ấy cũng như vậy, tất cả chúng sanh thân khẩu ý nghiệp đều ấn hiện trong thân đại Bồ Tát, do đây mà những lời nói của đại Bồ Tát đều chơn thiệt cả. Chữ ấn ấy có nghĩa là vô sở hữu, đó là các pháp không có giác quán không có ngôn thuyết là vô biên vô tác vô tham, đây gọi là nghĩa đệ nhứt chơn thiệt. Còn có giá ấn, giá là nói nhãn, nhãn là vô thường có thể tịnh có thể thấy. Còn có na ấn, na là nói danh, vì tất cả các pháp nên danh thiệt vô danh. Còn có la ấn, la là nói thế, tất cả thế gian thuộc ái và vô minh. Còn có đà ấn, đà là nói thập, đức Phật Thế Tôn có thập lực hay hóa độ chúng sanh. Còn có ba ấn, ba là nói ngũ, đức Như Lai xa lìa trừ dứt ngũ dục chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn có sát ấn, sát là nói lục, vì đức Như Lai chơn thiệt biết rõ lục nhập nên có thể điều phục tất cả chúng sanh, vì đức Như Lai đủ lục niệm xứ nên được đại tự tại, vì đức Như Lai có lục thần thông nên dùng thần thông giáo hóa chúng sanh. Còn có bà ấn, bà là nói tả, vì đức Như Lai lìa tả đạo nên được Vô thượng Bồ đề. Còn có đa ấn, đa là nói thiệt, vì đức Như Lai biết rõ tánh chơn thiệt, nên gọi là Chánh Giác. Còn có na ấn, na là nói bỉ, vì đức Như Lai biết khắp các pháp thủ bỉ đều bình đẳng. Còn có bà ấn, bà là nói kiết, vì đức Như Lai xa lìa tất cả phiền não kiết sử nên gọi là a lê ha. Còn có xà ấn, xà là nói sanh lão, vì đức Như Lai đã khỏi phần sanh lão nên gọi là Thế Tôn. Còn có đàm ấn, đàm là nói pháp, đức Như Lai thuyết pháp thanh tịnh vô cấu. Còn có xa ấn, xa là nói xa ma tha. Còn có khư ấn, khư là nói hư không, đức Như Lai thấy biết tất cả các pháp đồng như hư không. Còn có ca ấn, ca là nói khổ hạnh, đức Như Lai xa lìa tất cả khổ hạnh. Còn có bà ấn, bà là nói chơn thiệt, tứ đế được đức Như Lai nói tức là chơn thiệt. Còn có ma ấn, ma là nói đạo, đức Như Lai hay nói pháp bát chánh đạo. Còn có già ấn, già là nói thâm, pháp được đức Như Lai nói nghĩa rất thậm thâm. Còn có sằn ấn, sằn là nói nhẫn, đức Như Lai có đủ nhẫn Ba la mật. Còn có hô ấn, hô là nói tán, đức Như Lai thường tán thán thập phương chư Phật. Còn có nhược ấn, nhược là nói biến tri, đức Như Lai biết rõ khắp tất cả pháp nên gọi là bực Nhứt thiết trí. Còn có bà ấn, bà là nói hữu, đức Như Lai đã thoát khỏi tất cả hữu. Còn có xa ấn, xa là nói dục, đức Như Lai muốn tất cả pháp lành. Còn có ba ấn, ba là nói tiền, đức Như Lai thường vì chúng sanh hiện tiền thuyết pháp. Còn có phả ấn, phả là nói quả, đức Như Lai thường nói bốn quả Sa Môn.

Nầy thiện nam tử! Nhơn chữ như vậy mà diễn nói các pháp, đó là các chữ đều ấn hiện nơi miệng đại Bồ Tát. Đây gọi là Đại Hải đà la ni.

Luận về Liên Hoa đà la ni ấy, đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy rồi chỗ thuyết pháp thường xuất hiện thất bửu liên hoa thanh tịnh vi diệu để làm pháp tòa, đại Bồ Tát ngồi bửu tòa ấy mà thuyết pháp giáo hóa, lại còn nhiều khi mưa tuôn vô lượng liên hoa, các liên hoa nầy cũng phát ra các thứ pháp âm thanh tịnh, âm thanh ấy sâu rộng diễn xuất nhiều phương tiện ví dụ. Những là pháp âm mười hai bộ kinh, pháp âm thanh tịnh, pháp âm dứt phiền não, lúc ấy đại Bồ Tát ngồi yên lặng mà các liên hoa đều có thể diễn xuất pháp âm. Cũng còn phát xuất vô lượng các loại quang minh mà tất cả chúng sanh đều thấy. Đại Bồ Tát ngồi trên đài các liên hoa mà làm Phật sự. Đây gọi là Liên Hoa đà la ni.

Luận về Nhập Vô Ngại Môn đà la ni ấy, đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy lúc nói một pháp không có chướng ngại, hoặc lúc nói hai pháp ba pháp bốn pháp trăm pháp ngàn pháp trăm ngàn vạn pháp vô lượng vô biên hằng hà sa số pháp cũng không có chướng ngại, cho đến lúc nói pháp số bằng số vi trần trong tứ thiên hạ, bằng số vi trần Đại Thiên thế giới, bằng số vi trần trong hằng hà sa chư Phật thế giới, nơi các chữ câu nghĩa không có chướng ngại, đây gọi là Nhập Vô Ngại Môn đà la ni vậy.

Luận về Tứ Vô Ngại Trí đà la ni ấy, đó là pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc thuyết vô ngại trí. Đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy, Đông phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai thưa hỏi pháp yếu, đại Bồ Tát theo đó dùng pháp vô ngại để giải đáp, Nam phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai hỏi nghĩa, đại Bồ Tát tùy thuận dùng nghĩa vô ngại để đáp, Tây phương vô lương thế giới chúng sanh có ai hỏi về từ, đại Bồ Tát tùy thuận dùng từ vô ngại để đáp, Bắc phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai hỏi lạc thuyết, đại Bồ Tát tùy thuận dùng lạc thuyết vô ngại để đáp. Đây gọi là Tứ Vô Ngại Trí đà la ni.

Luận về Phật Anh Lạc Trang Nghiêm đà la ni ấy, nếu có đại Bồ Tát được đà la ni thứ tám nầy thì trên đỉnh kế có tượng Phật màu chơn kim xuất hiện, tượng Phật ấy có ánh sáng lớn đủ ba mươi hai tướng đại nhơn tám mươi vẻ đẹp, bấy giờ đại Bồ Tát thân khẩu ý đều làm Phật sự, chỗ tư niệm như Phật tư niệm. Đại Bồ Tát có đủ Phật nghiệp như vậy có thể biết các loại tâm niệm của đại chúng, biết rồi tùy ý mà vì đại chúng thuyết pháp trong một ngày hai ngày cho đến vô lượng trăm ngàn vạn năm cũng chẳng thể cùng tận chỗ hiểu biết pháp môn văn tự cú nghĩa của đại Bồ Tát. Lại còn có đủ bốn thứ trí huệ, đó là biết tâm niệm của các chúng sanh, biết các tự cú, biết chỗ nói vô tận và biết chơn thiệt. Do có đủ bốn thứ trí ấy mà đại Bồ Tát có thể giáo hóa chúng sanh hướng đến Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Phật Anh Lạc Trang Nghiêm đà la ni.

Nầy thiện nam tử! Tám môn đà la ni ấy phần của nó vô lượng, trong vô lượng phần nầy đem một phần chia làm ngàn phần, trong ngàn phần ấy chỉ nói một phần còn chẳng thể cùng tận. Các đà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy”.

Muốn tuyên lại nghĩa ấy, Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói tụng rằng:

Như Lai nói tám đà la ni

Nếu đại Bồ Tát có được rồi

Hiểu được các nghĩa của khế kinh

Cú nghĩa từ chẳng thể cùng tận

Đầy đủ nghiệp lành được diệu thanh

Hay khiến vô lượng thế giới nghe

Chúng sanh nghe rồi tu pháp lành

Tu rồi chứng được chơn giải thoát

Vô lượng kiếp nói một pháp Vô

Nhơn một pháp Vô nói vô tận

Cũng do một chữ hiểu nhiều nghĩa

Đây gọi Phật nói tế tổng trì

Thế Tôn Pháp Vương dứt hai tế

Thuyết pháp đạo nghĩa vô biên tế

Có trí huệ bình đẳng quan sát

Dầu thành tổng trì không người được

Hình sắc bốn phương hiện trong biển

Tất cả tự ấn ấn Bồ Tát

Lúc thuyết pháp không có chướng ngại

Thành tựu Đại Hải đà la ni

Ngồi tòa liên hoa diễn thuyết pháp

Cũng mưa liên hoa rải đại chúng

Liên hoa cũng nói vô lượng pháp

Đây là liên hoa đà la ni

Nói một chữ không có chướng ngại

Nói vô lượng chữ cũng vô ngại

Nói vô lượng nghĩa không có trệ

Đây gọi Vô Ngại đà la ni

Nói pháp nghĩa sâu không cùng tận

Từ và lạc thuyết cũng vô biên

Hay phá chúng sanh lưới tâm nghi

Chứng được vô thượng trí tổng trì

Đảnh kế thường hiện tượng Như Lai

Thân khẩu ý cùng Phật không khác

Nếu có tổng trì thứ tám ấy

Cùng kiếp khen nói chẳng hết được

Đầy đủ tám tổng trì như vậy

Thế gian chẳng nhiễm như hoa sen

Thế gian cao nhứt như Tu Di

Chẳng thể đếm kể cũng như vậy

Tà luận chẳng động hay phá tà

Bồ Tát có đủ tổng trì nầy

Hay phá đạo các tà kiến

Như tiếng rống sư tử giữa rừng

Nếu được Vô thượng đà la ni

Hay đạt thế gian hạnh thanh tịnh

Hay tăng vô lượng các pháp lành

Cũng hay giáo hóa các chúng sanh

Có đủ đà la ni như vậy

Hay phá chúng sanh tối vô minh

Làm ánh sáng lớn như mặt trời

Cũng hay phá trừ những đen tối

Thuyết pháp vô ngại như hư không

Vì chúng mà đi như gió mạnh

Ban bố thuốc pháp trừ phiền não

Như thầy thuốc hay chữa lành bịnh

Nếu có đủ Vô thượng tổng trì

Ai khen công đức chẳng thể hết

Hay làm mát sáng như trăng thu

Tăng trưởng pháp lành cũng như vậy

Bồ Tát chứng được tổng trì nầy

Hay độ vô lượng các chúng sanh

Nếu đủ tám đà la ni nầy

Được đại tự tại như Thiên Vương

Hay độ chúng sanh hướng Đại thừa

Hay ban pháp tài phá bần cùng

Hay mưa pháp vũ như Long Vương

Phá nát phiền não như mưa đá

Nếu được tám đà la ni nầy

Hay độ chúng sanh đến Bồ đề

Không nói lỗi được như Đế Thích

Chữ nghĩa vô tận như hư không

Nếu được thành tựu đà la ni

Tất cả đại chúng thích thấy nghe

Tâm ý chẳng tán thường tại định

Tu tập vô lượng tâm từ bi

Phạm hạnh thanh tịnh hiện thần thông

Bốn vô lượng như Đại Phạm Vương

Nếu được thành tựu đà la ni

Liền hay cúng dường mười phương Phật

Nhìn xem thấy rõ mười phương cõi

Nơi thế giới ấy độ chúng sanh

Nếu được đủ đà la ni nầy

Liền được đầy đủ Phật công đức

Thường được mười phương Phật hộ niệm

Cũng như cha mẹ nhớ con một

Nếu Bồ Tát được tổng trì nầy

Hay khen Phật công đức vô lượng

Thành tựu đầy đủ giới định huệ

Hay hiểu chúng sanh tâm sở hành

Nếu được thành tựu đà la ni

Không còn kiêu mạn và xan tham

Giỏi biết phương tiện dạy chúng sanh

Tu tập từ bi phá phiền não

Thành tựu được đà la ni nầy

Phiền não chẳng nhiễm như hư không

Hiểu rõ chúng sanh lời tùy ý

Cũng hay tùy ý diễn thuyết pháp

Nếu có đủ đà la ni nầy

Hay biết rõ căn của chúng sanh

Hay hiểu chỗ hiểu của chúng sanh

Theo chúng sanh hiểu mà thuyết pháp

Theo môn đối trị vì họ nói

Ba mươi bảy phẩm dạy chúng sanh

Được có tám đà la ni nầy

Tu tập vô biên xa ma tha

Được có tám đà la ni nầy

Đủ sáu Ba la mật như Phật

Biết rõ tất cả giới phiền não

Thông đạt tịch tĩnh phiền não dứt

Thân khẩu ý nghiệp đều tịch tĩnh

Hành trụ tọa ngọa đều tịch tĩnh

Được thành tựu tám đà la ni

Không còn phiền não các tập khí

Được pháp thân thanh tịnh vô biên

Chẳng phải bị sanh thường hóa sanh

Thân khẩu ý theo trí huệ hành

Bao nhiêu định niệm cũng theo trí

Thành tựu được đà la ni nầy

Không ai tán thán cùng tận được.

SUA XONG 658

Lúc bấy giờ, đức Như Lai Thế Tôn khen Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát: « Lành thay, lành thay! Nầy thiện nam tử! Từ lâu ông đã được đà la ni nầy hay phân biệt giải nói bao nhiêu nghĩa vô lượng công đức.

Chẳng phải chỉ có hôm nay, mà đã ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ cũng phân biệt giải nói như vậy.

Nầy thiện nam tử! Quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Tịnh Quang Minh Như Lai, thế giới ấy tên Tịnh Kiếp cũng tên là Tịnh Thuần, thế giới ấy bằng tịnh lưu ly làm thành như gương sáng, mặt đất bằng phẳng, bao nhiêu rừng cây toàn bằng thất bửu, có hoa sen diệu bửu lớn như bánh xe, hoa sen ấy thanh tịnh tươi sáng ai thấy đều thích. Nhơn dân cõi ấy đều ở lâu các điện đường bằng thất bửu không khác cõi trời, đã lần nhẹ mỏng lòng tham sân si. Cõi ấy không có mặt nhựt mặt nguyệt chỉ có ánh sáng của đức Phật. Hoa sen sanh nở thì biết là đêm, hoa sen đỏ nở thì biết là ngày. Đại Bồ Tát Tăng có sáu trăm vạn ức, người xuất gia đông nhiều không thể kể đếm, tất cả đều có chí nguyện Vô thượng Đại thừa. Thế giới ấy không có tên Nhị thừa, tất cả đều là bực Bồ Tát bất thối chuyển. Đức Phật Tịnh Quang Minh thọ đủ nửa kiếp, người và chư Thiên đồng nhau không khác, ở đất thì là người, còn ở hư không là trời, không có vua chúa, chỉ có Phật là vị Pháp Vương Vô Thượng. Nhơn dân cõi ấy không có ai tôn thờ hay quy y với chư Thiên tà thần, cũng không có danh từ nữ nhơn và phá giới. Tất cả đều đủ ba tụ giới, đó là theo Chánh giới, theo định giới và theo huệ giới. Phát tâm Vô thượng Bồ đề nhàm chán sanh tử, đây gọi là theo chánh giới, tu tam muội huệ đây gọi là theo định giới, tu tập trí huệ được đại trí huệ đây gọi là theo huệ giới”.

Trong đại chúng ấy có một Bồ Tát hiệu là Quang Đảnh lễ Phật hữu nhiễu cung kính quỳ dài chắp tay bạch rằng: ” Bạch đức Thế Tôn! Nói đà la ni ấy, thế nào gọi là đà la ni. Bồ Tát an trụ trong đà la ni nào thì có thể thọ trì tất cả danh hiệu của chư Phật rồi vì các chúng sanh mà phân biệt giải nói ».

Đức Tịnh Quang Minh Như Lai nói: « Nầy Quang Đảnh! Có đà la ni tên là Bửu Cự, Bồ Tát an trụ trong ấy thì có thể thọ trì tất cả danh hiệu của chư Phật rồi vì chúng sanh mà phân biệt giải nói tùy theo các thứ ngữ ngôn của các loại chúng sanh ».

Quang Minh Bồ Tát bạch rằng: « Bạch đức Thế Tôn! Xin phân biệt nói rộng đà la ni Bửu Cự ấy. Chúng tôi nghe rồi sẽ thọ trì tu tập ».

Đức Tịnh Quang Minh Như Lai nói: « Lành thay lành thay! Ông chí tâm lắng nghe. Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói ».

Đức Tịnh Quang Minh Như Lai nói kệ rằng:

Xa lìa tất cả các phiền não

Thanh tịnh vô cấu như bửu châu

Tâm ấy hay làm đại quang minh

Đây tên Bửu Cự đà la ni

Thân khẩu ý nghiệp đều tịch tĩnh

Dường như trăng thu rất sáng sach

Tu tập đại từ tâm bình đẳng

Đây gọi Bửu Cự đà la ni

Tâm ấy không có các giác quán

Đều được xa lìa hai kiến chấp

Chẳng phải có tưởng không có tưởng

Đây gọi Bửu Cự đà la ni

Thành tựu đầy đủ niệm ý huệ

Hay nhập vô thượng đại pháp môn

Thanh tịnh vô cấu như hư không

Đây tên Bửu Cự đà la ni

Xa lìa ba loại trần lao nhơ

Thành tựu ba thứ thanh tịnh huệ

Đã được giải thoát cả ba cõi

Đây tên Bửu Cự đà la ni

Đã hay phá hoại tham sân si

Cũng xa lìa được phiền não trược

Trừ được vô minh các tà ám

Đây gọi Bửu Cự đà la ni

Chúng sanh âm thanh thượng trung hạ

Tất cả đều hay biết rành rẽ

Hay theo ý chúng mà thuyết pháp

Đây gọi Bửu Cự đà la ni

Đầy đủ thậm thâm vô lượng nghĩa

Tất cả chữ câu cũng đầy đủ

Xa lìa chấp ngã và ngã sở

Đây tên Bửu Cự đà la ni

Đầy đủ thành tựu pháp Tứ y

Cũng thành đủ bốn trí vô ngại

Tâm ấy thường ở trong Tứ thiền

Đây tên Bửu Cự đà la ni

Hay rộng phân biệt đệ nhứt nghĩa

Đầy đủ được toàn bốn Phạm hạnh

Tu tập đầy đủ ngũ thần thông

Đây gọi Bửu Cự đà la ni

Thọ trì chuyên nhớ Tứ niệm xứ

Tinh tiến tu tập Tứ chánh cần

Trang nghiêm thành tựu Tứ như ý

Đây gọi Bửu Cự đà la ni

Thành tựu ngũ căn và ngũ lực

Tà phong chẳng động hay phá tà

Tu tập vô thượng Thất giác phần

Đây tên Bửu Cự đà la ni

Thành tựu Định Huệ đủ hai cánh

Liệng bay tự tại Bát chánh đạo

Hướng đến vô thượng trí giải thoát

Đây tên Bửu Cự đà la ni

Hay đi trên đường Bồ Tát đi

An trụ vô thượng chơn giải thoát

Dứt hẳn tất cả phiền não tập

Đây gọi Bửu Cự đà la ni

Hay làm vô lượng đại quang minh

Dường như thế gian mặt nhựt nguyệt

Hay tịnh ba thứ thanh tịnh nhãn

Đây gọi Bửu Cự đà la ni

Hay sạch tất cả các phiền não

Cũng hay xa lìa các ma nghiệp

Quán xét tội lỗi ham ngũ ấm

Đây tên Bửu Cự đà la ni

Giỏi biết điều phục các chúng sanh

Lìa hẳn nhơn duyên của sáu căn

Vì chúng thuyết pháp cho được niệm

Đây tên Bửu Cự đà la ni

An trụ như vậy đà la ni

Hay đến mười phương Phật thế giới

Thấy Phật chí tâm nghe thọ pháp

Cũng hay nói rộng pháp như vậy

Đã nghe pháp rồi chí tâm trì

Hay vì chúng sanh nói tự nghĩa

Do nơi nhơn duyên sức niệm lớn

Hay hiểu chư Phật lời vi diệu

Hay nói vô thường khổ vô ngã

Các pháp đều từ duyên được quả

Quán sát tỏ rõ các pháp giới

Đây gọi Bửu Cự đà la ni

Thành tựu lạc thuyết vô ngại trí

Tam minh tam huệ cũng thành tựu

Nếu ai an trụ tổng trì nầy

Thì hay nhập được nghĩa giải thoát

Phật nói vô lượng đà la ni

Đều đến nhiếp vào tổng trì nầy

Nếu được như vậy đà la ni

Gọi là thành tựu vô lượng trì

Nếu nhập vô lượng các thiền định

Và được vô lượng các thần thông

Đều do sức tổng trì như đây

Nên hiệu vua trong các tổng trì

Như bốn đại hải không chướng ngại

Tất cả sông suối đều chảy vào

Các dòng chánh pháp cũng như vậy

Thảy đều về tự tổng trì nầy

Được thân vô biên ý vô tận

Hay rộng phân biệt nói pháp giới

Thành tựu vô lượng các công đức

Mới hay được đây đà la ni

Nếu được vi diệu tổng trì nầy

Thì được tướng tốt ba mươi hai

Sắc thân thù thắng thượng chủng tánh

Của cải nhiều dư được vô sanh

Hay rộng phân biệt các pháp nghĩa

An trụ bất động bất thối địa

Đều do được đà la ni nầy

Bồ Tát nếu muốn tu Bồ đề

Nên tu như vậy đà la ni

Được tổng trì rồi tu đạo tràng

Hay diễn thuyết pháp độ chúng sanh

Trong vô lượng kiếp lúc thuyết pháp

Hai thứ tự nghĩa chẳng thể hết

Hay sạch chúng sanh các phiền não

Do được như vậy đà la ni

Hay chuyển vô thượng chánh pháp luân

Hay làm chúng sanh thoát các khổ

Hay đưa chúng sanh vô thượng đạo

Do được như vậy đà la ni

Nếu có chúng sanh ngàn muôn miệng

Một miệng có đủ ngàn muôn lưỡi

Nói chẳng hết vô lượng công đức

Của Bồ Tát trụ tổng trì nầy

Lúc Tịnh Quang Minh Như Lai nói pháp ấy, Quang Đảnh Bồ Tát cùng ba vạn hai ngàn Bồ Tát đều chứng được Bửu Cự đà la ni.

Nầy Đà La Ni Tự Tại Vương! Ông có biết thuở xa xưa Quang Đảnh Bồ Tát là ai chăng, chính là thân ông hiện nay. Vì vậy mà hôm nay ông có thể rộng phân biệt đà la ni nầy. Trong pháp hội đây, người được đà la ni nầy, ông là người hạng nhứt vậy.

Bấy giờ trong pháp hội có một Bồ Tát hiệu Huệ Tự bạch Phật rằng: « Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát được Bửu Cự đà la ni, được rồi chẳng mất có thể dùng pháp ấy điều phục chúng sanh? ».

Đức Phật bảo Huệ Cự Bồ Tát: « Nầy thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát an trụ huệ căn tạo tác huệ nghiệp. Bồ Tát như vậy có thể được Bửu Cự đà la ni, được rồi chẳng mất và hay dùng pháp ấy điều phục các chúng sanh ».

Huệ Tự Bồ Tát lại bạch đức Phật: « Lành thay đức Thế Tôn! Xin nói rộng thế nào là huệ căn và thế nào là huệ nghiệp ».

Đức Phật phán bảo: « Lành thay lành thay! Nầy thiện nam tử! Ông nên lắng nghe kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.

Nầy thiện nam tử! Nếu có thiện nam thiện nữ chưa được trí huệ mà được nghe đó, đây gọi là căn, nghe rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Dùng huệ quán các pháp thì gọi là căn, quán rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp.

Lúc đầu quán thiện căn thì gọi là căn, quán rồi cộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Quán bất phóng dật thì gọi là căn, quán rồi đem dạy lại thì gọi là nghiệp. Điều phục tự tâm thì gọi là nghiệp. An trụ tịch tĩnh thì gọi là căn, thanh tịnh thân khẩu ý thì gọi nghiệp. Biết rõ nhứt thừa thì gọi là căn, vì chúng sanh diễn nói thì gọi là nghiệp. Tu xa ma tha thì gọi là căn, có đủ ba thứ huệ thì gọi là nghiệp. Tu tập ba môn giải thoát thì gọi là căn, chứng được ba thứ huệ thì gọi là nghiệp. Tu Tứ niệm xứ thì gọi là căn, chẳng niệm nơi niệm thì gọi là nghiệp. Tu tập Tứ chánh cần thi gọi là căn, lìa tánh phiền não thì gọi là nghiệp. Tu tập Tứ như ý túc thi gọi là căn, biết không có như ý thi gọi là nghiệp. Tu tập tín tâm thi là căn, phóng xả tất cả thì gọi là nghiệp. Tu vô sở úy thì gọi là căn, hay nói rộng đó thì gọi là nghiệp. Tu tập

Tam muội thì gọi là căn, biết chánh định thứ đệ thi gọi là nghiệp. Tu tập trí huệ thì gọi là căn, biết rõ tất cả pháp thì gọi là nghiệp. Trang nghiêm Bồ đề thì gọi là căn, lúc chứng được Bồ đề thì gọi là nghiệp. Chứng Khổ Tập Đạo đế thì gọi là căn, lúc chứng diệt đế thì gọi là nghiệp. Chẳng y bất liễu nghĩa thì gọi là căn, y kinh liễu nghĩa thì gọi là nghiệp. Ban đầu nghe thọ chánh pháp thì gọi là căn, y chỉ nơi người thì gọi là nghiệp. Chẳng y nơi người thì gọi là căn, y chỉ chánh pháp thì gọi là nghiệp. Thấy pháp vô thường thì gọi là căn, thấy pháp vô sanh vô diệt thì gọi là nghiệp. Biết các pháp khổ thì gọi là căn, biết pháp vô tác thì gọi là nghiệp. Biết pháp vô ngã thì gọi là căn, biết pháp tánh thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Biết Niết bàn thanh tịnh thì gọi là căn, biết pháp vốn thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Nghe chơn pháp chẳng sợ thì gọi là căn, y chỉ chơn pháp thì gọi là nghiệp. Biết chữ chẳng sợ thì gọi là căn, biết rồi thích nói thì gọi là nghiệp. nghe nói trí lực của vô ngại của Như Lai mà chẳng sợ thì gọi là căn,, y chỉ trí lực vô ngại của Như Lai thì gọi là nghiệp. Chúng sanh duyên từ bi và pháp tánh duyên từ bi hai duyên ấy gọi là căn, vô duyên từ bi thì gọi là nghiệp. Thương xót chúng sanh thì gọi là căn, hay làm cho chúng sanh thoát khổ thì gọi là nghiệp. Tư duy thiện pháp được mừng gọi là căn, chẳng trụ trước nơi pháp thì gọi là nghiệp. Không có ái tham, sân hận và ngu si thì gọi là căn, không có nhứt không có hai thì gọi là nghiệp. Niệm Phật gọi là căn, niệm Pháp thân thì gọi là nghiệp. Niệm Pháp gọi là căn, biết Pháp tánh thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Niệm Tăng gọi là căn, biết Tăng vô vi thì là nghiệp. Niệm giới gọi là căn, biết không có người trì giới gọi là nghiệp. Niệm bố thí thì gọi là căn, hay bỏ phiền não thì gọi là nghiệp. Niệm thiên gọi là căn, được thanh tịnh thiên thì gọi là nghiệp. Nghe chánh pháp rồi tư duy thì gọi là căn, chẳng nhiễm trước thế gian thì gọi là nghiệp. Biết trước không có hiện nay làm ra thì gọi là căn, biết không có tạo tác không có lãnh thọ thì gọi là nghiệp. Biết tên Niết bàn thì gọi là căn, được đại giải thoát thì gọi là nghiệp. Tự tại gọi là căn, tự lợi lợi tha thì gọi là nghiệp. Thọ trì tám vạn bốn ngàn pháp môn thì gọi là căn, thông đạt nghĩa của các pháp môn ấy thì gọi thì gọi là nghiệp. Hay diễn thuyết pháp thì gọi là căn, hiểu vô minh v.v… thì gọi là nghiệp. Khuyến hóa các chúng sanh hướng đạo Bồ đề thì gọi là căn, khuyến tu trí huệ phương tiện bất thối thì gọi là nghiệp. Chẳng sơ các cõi thì gọi là căn, nguyện sanh vào các cõi thì gọi là nghiệp. Từ nơi nghe chánh pháp mà đắc nhẫn thì gọi là căn, do tư duy mà đắc nhẫn thì gọi là nghiệp. Tùy ý đắc nhẫn thì gọi là căn, nhơn bất sanh mà đắc nhẫn thì gọi là nghiệp. Còn dư một đời thì gọi là căn, thân tối hậu thì gọi là nghiệp. Ngồi dưới Bồ đề thọ thì gọi là căn, giác ngộ tất cả pháp thì gọi là nghiệp ».

Lúc đức Thế Tôn nòi rộng về huệ căn và huệ nghiệp, tất cả mười phương chư Phật thế giới đến đại bửu phường đinh nầy đều chấn động sáu cách.

Huệ Tụ đại Bồ Tát bạch đức Phật: « Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà mười phương thế giới và cả hư không cùng thất bửu đại phường đình nầy đều chấn động sáu cách như vậy? ».

Đức Phật phán dạy: « Nầy Huệ Tụ! Vì huệ căn và huệ nghiệp nầy cũng được diễn nói nơi chư Phật quá khứ nên có sáu cách chấn động như vậy ».

Bấy giờ Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí Bồ Tát bạch đức Phật: « Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà Huệ Tụ đại Bồ Tát có tên là Tụ? ».

Đừc Phật phán dạy: « Nầy Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí! Thuở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp có Phật xuất thế hiệu là Công Đức Tạng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới ấy tên Thiện Sanh, kiếp ấy tên Vô Cấu, tất cả chúng sanh cõi ấy đều thuần thiện. Phật Công Đức Tạng có ba vạn hai ngàn đại Bồ Tát chúng, tám vạn bốn ngàn Thanh Văn chúng. Phật Công Đức Tạng muốn thử chư vị Bồ Tát với trăm ức sự hỏi rằng các thiện nam tử! Trong chúng có ai hiểu và nói được các nghĩa như vậy? Trong chúng có Bồ Tát bạch rằng tôi sẽ tư duy trong một thánh mới có thể hiểu được, hoặc có Bồ Tát bạch nửa tháng, hoặc bảy ngày, hoặc một ngày một đêm tư duy mới có thể hiểu được. Lúc ấy có một Bồ Tát tên Niệm Ý bạch Phật rằng: « Nay tôi chẳng rời chỗ ngồi nầy liền có thể hiểu nghĩa ấy. Bạch Phật xong, Bồ Tát Niệm Ý khởi sư tử hống làm cho đại địa chấn động sáu cách phóng đại quang minh khuyến cáo các địa thần cho đến Trời Sắc Cứu Cánh tất cả đều đến tập họp nơi đức Phật Công Đức Tạng. Chỗ ngồi của đại chúng lúc bấy giở rộng đủ trăm vạn do tuần. Niệm Ý Bồ Tát thấy đại chúng đã tập họp đông đủ liền dùng thần thông lực, trí huệ niệm lực, đà la ni lực, tứ vô ngại lực, vô sở úy lực, Phật thần lực trong trăm ức sự, mỗi mỗi sự giải nói trăm ức nghĩa, không tư duy trước không có đình trệ. Niệm Ý Bồ Tát nói nghĩa ấy rồi, trong đại chúng có sáu vạn chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ đề, bốn vạn chúng sanh đắc vô sanh nhẫn. Tứ chư địa thần, chư Thiên đến Trời Sắc Cứu Cánh, tất cả đều nghe tiếng Niệm Ý Bồ Tát thuyết pháp.

Nầy Cụ Túc tứ Vô Ngại Trí! Ông có biết thuở quá khứ xa xưa ấy Niệm Ý Bồ Tát là aì chăng?Chính là Huệ Tụ Bồ Tát đây vậy. Do nhơn duyên như vậy mà Bồ Tát có tên là Huệ Tụ ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Vì nghe thuyết pháp gọi là căn

Hay diễn thuyết pháp gọi là nghiệp

Tư duy pháp lành gọi là căn

Hiểu nói thâm nghĩa gọi là nghiệp

Như pháp mà ở gọi là căn

Theo nghĩa thuyết pháp gọi là nghiệp

Tu xa ma tha gọi là căn

Đủ ba thứ huệ gọi là nghiệp

Bốn thứ niệm xứ gọi là căn

Pháp tứ chánh cần gọi là nghiệp

Tín tiến niệm đinh huệ là căn

Năm thứ đắc lực gọi là nghiệp

Thất Bồ đề phần gọi là căn

Bát chánh đạo phần gọi là nghiệp

Chẳng y chỉ tự cú là căn

Y chỉ nơi nghĩa gọi là nghiệp

Chẳng y chỉ người gọi là căn

Y chỉ chánh pháp gọi là nghiệp

Chẳng y bất liễu gọi là căn

Y kinh liễu nghĩa gọi là nghiệp

Chẳng y nơi thức gọi là căn

Y chỉ trí huệ gọi là nghiệp

Biết rõ vô tác gọi là căn

Thông đạt vô sanh gọi là nghiệp

Sanh pháp hai duyên từ là căn

Từ bi vô duyên gọi là nghiệp

Vô sở úy pháp gọi là căn

Hay tuyên chánh pháp gọi là nghiệp

Sáu chánh niệm xứ gọi là căn

Nghĩa của lục niệm gọi là nghiệp

Hay tự lợi ích gọi là căn

Tự lợi lợi tha gọi là nghiệp

Thọ trì chánh pháp gọi là căn

Hay vì người nói gọi là nghiệp

Còn dư lại một đời là căn

Tối hậu thân thì gọi là nghiệp

Nếu tâm Bồ Tát được bất thối

Thì hay biết rõ huệ căn nghiệp

Có thể chứng được vô sanh nhẫn

Có thể mở cửa đại Bồ đề.

Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát bạch Phật: « Bạch đức Thế Tôn! Pháp được đức Phật nói chẳng thể nghĩ bàn, Vô thượng Bồ đề cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao, vì chẳng phải là danh tự để nói, vì chẳng nhiếp thuộc danh tự, vì pháp được Như Lai nói vô lượng vô biên, vì nhập vào vô lượng vô biên pháp môn, vì thập nhị nhơn duyên rất sâu khó hiểu, vì kẻ chấp thấy hai pháp thì chẳng biết được, vì người lợi trí lần lần biết, vì chẳng phải lục tình chỗ biết được, vì chẳng phải cảnh giới của trí huệ Nhị thừa.

Bạch đức Thế Tôn! Vô thượng Bồ đề như vậy đều là ấn của tất cả pháp, chẳng thể tạo tác được như hư không, rời lìa nhà cửa nên chẳng phải nhà cửa, biết tất cả hành cũng biết tất cả nhơn quả của tất cả chúng sanh. Nhứt thiết trí rộng lớn vô biên, trang nghiêm tất cả vô lượng pháp lành, hay vì pháp lành mà làm bát đựng thần thông để hiển bày cho người, với người ở nhị đạo dạy cho vô nhị, dạy cho hiểu chư Phật bình đẳng vô sai biệt, không có tự không có nghĩa chẳng thể tuyên nói được, chẳng thể lắng nghe được, hay dạy chúng sanh khối chánh Tam bửu và ba môn giải thoát, giải thoát ba cõi dạy cho ba thứ huệ, do kim cương định an trụ tất cả chánh pháp chư Phật, nghe trọn tất cả chư Phật trí huệ, lợi ích tất cả chúng sanh, cũng hay tuyên thuyết tất cả Phật pháp.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam thiện nữ có thể tán thán Bồ đề Vô thượng có bao nhiêu công đức như vậy được nghe kinh điển Đại thừa phương đẳng nầy, hay thọ trì đọc tụng biên chép diễn nói, thì gọi người ấy là có thể báo được ơn chư Phật ».

Đức Phật phán dạy: « Đúng như vậy, nầy Đà La Ni Tự Tại Vương. Như lời ông đã nói được vô lượng công đức.

Nầy thiện nam tử! Đem thất bửu đầy cả mười phương thế giới chư Phật dâng hiến lên Như Lai được công đức cùng người hay thọ trì kinh nầy và đọc tụng biên chép giải nói nghĩa kinh được công đức đồng nhau không khác”.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo chư Bồ Tát: ” Chư thiện nam tử! Trong đại chúng đây, sau khi Phật diệt độ, ai có thể hộ trì Vô thượng Bồ đề như vậy, và rộng nói nghĩa cho chánh pháp còn ở thế gian được lâu”.

Bấy giờ trong pháp hội đại chúng có chư Bồ Tát và chư Thiên chư Nhơn đều riêng sáu vạn ức đồng thanh bạch Phật: “Sau khi đức Như Lai Thế Tôn diệt độ, chúng tôi có thể hộ trì Vô thượng Bồ đề như vậy và rộng nói nghĩa cho chánh pháp được còn lâu. Nguyện cầu đức Như Lai Thế Tôn gia hộ nguyện lực cho”.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Nếu ta thiệt đồng thập phương Phật

Qua bản sanh tử biển khổ lớn

Công đức vô thượng pháp như vậy

Đáng phải còn lâu không diệt mất

Nếu ta vô lượng đời tu từ

Chơn thiệt vì lợi các chúng sanh

Xem chúng bình đẳng không có hai

Vì vậy chánh pháp được còn lâu

Nếu ta có đủ hai trang nghiêm

Trong vô lượng đời lợi chúng sanh

Đem hai trang nghiêm độ chúng sanh

Vì vậy chánh pháp được còn lâu

Nếu hay phá hoại phiền não kiết

Và cũng trừ diệt các tà kiến

Đầy đủ tất cả các pháp lành

Nên hay giỏi phát nguyện lực nầy.

Nầy chư thiện nam tử! Chẳng riêng gì các đại chúng tất cả Trời Người tất cả Ma Phạm đây, sau khi ta diệt độ đều có thể hộ trì chánh pháp như vậy. Nầy chư thiện nam tử! Hư không có thể làm hình sắc, hình sắc có thể làm hư không, thần thông nguyện lực của Phật không thể làm khác được.

Bấy giờ Tứ Thiên Vương xướng lên rằng: ” Nếu có người, sau khi đức Phật diệt độ, có thể thọ trì đọc tụng biên chép kinh nầy và giải nói nghĩa kinh, chúng tôi sẽ thường theo dõi để thủ hộ”.

Chư Phạm Thiên nói: ” Chúng tôi sẽ xả thiền định diệu lạc để thủ hộ người ấy”.

Trời Đâu Suất Đà cũng nói: ” Chúng tôi sẽ thủ hộ các đệ tử thọ trì kinh nầy”.

Ma Vương Ba Tuần bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người hay thọ trì kinh nầy thì tôi ở nơi người ấy trọn không gây ma nghiệp ma sự”.

Công Đức Tạng Thiên Tử nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tất cả chư Phật Vô thượng Bồ đề đều ở trong kinh nầy. Nếu có người hay thọ trì đọc tụng biên chép giải nói, nên biết người nầy sẽ được Bồ đề”.

Di Lặc Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi sẽ ở tại Trời Đâu Suất Đà rộng tuyên nói kinh điển vô thượng nầy”.

Tôn giả Đại Ca Diếp nói: ” Bạch đức Thế Tôn! Hàng Thanh Văn tôi trí huệ dầu kém cũng cần phải theo sức của mình mà thọ trì đọc tụng tuyên nói nghĩa kinh nầy”.

Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi ở nơi kinh nầy chơn thiệt thọ trì chẳng để mất một chữ một câu như từ miệng đức Phật phát ra không sai khác. Nếu có người phát tâm Bồ đề, tôi sẽ vì người ấy mà diễn nói rộng”.

Đức Phật phán rằng: ” Lành thay, lành thay, nầy chư thiện nam tử! Các ông đều có thể sau khi ta diệt độ hộ trì chánh pháp chẳng cho dứt mất.

Nầy chư thiện nam tử! Nếu có chúng sanh cầu pháp Đại thừa chưa được pháp nhẫn mà thọ trì kinh nầy, nên biết người nầy chẳng quá bảy đức Phật sẽ được thọ ký. Nếu là người Thanh Văn mà hay thọ trì kinh nầy, lúc Di Lặc xuất thế thành Phật, thì người ấy sẽ ở trong pháp hội đầu tiên.

Nếu là hàng Duyên Giác mà có người thọ trì kinh nầy, sau khi ta diệt độ, thì người ấy sẽ được thành đạo chúng”.

Lúc đức Thế Tôn nói pháp nầy, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng chúng sanh thành tựu pháp nhẫn, vô lượng thế giới chấn động sáu cách.

Chư Bồ Tát từ mười phương thế giới đến dự pháp hội mang hương hoa tốt và các loại kỹ nhạc phan lọng dâng cúng đức Phật đều xướng lên rằng: “Chúng tôi đến trong thất bửu đại phường đình nầy được lợi ích lành rất lớn, nếu chúng tôi mà có chút ít phước đức, nguyện đem phước lực ấy làm cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở lại lâu thế gian, kinh điển nầy lưu bố khắp mười phương thế giới không hề hư mất. Nếu có hàng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thọ trì kinh nầy, thì làm cho họ xa lìa ưu sầu sợ sệt không có các bịnh khổ”.

Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: « Bạch đức Thế Tôn! Chỗ thuyết pháp hôm nay vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn, tất cả tà pháp chẳng thể lay động được, đây là căn bổn của tất cả pháp lành, là căn bổn của tam thừa, lại là cửa vào của tất cả pháp.

Nếu có chúng sanh hỏi pháp nầy tên gọi là gì và thọ trì thế nào, thì sẽ đáp họ thế nào, xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho”.

Đức Phật phán bảo: ” Nầy thiện nam tử! Đây gọi là đại bi nói pháp đại bi tên là Như Lai nghiệp thọ ký cho Bồ Tát. Các ông phải thọ trì như vậy”.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, tất cả đại chúng Trời Người vui mừng đảnh đời tin thọ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 9 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 6 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 1 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 3 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (Trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 2 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 1 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư – HT Thích Trí Quảng soạn - Kinh Tạng
  • Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm – HT Thích Thanh Từ dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng