QUYỂN 562
XV. PHẨM NHƯ LAI 02
Khi ấy, Thiên tử Phạm Thế cõi Dục cung kính chấp tay đồng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa, rất khó tin hiểu. Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng rất sâu xa, rất khó tin hiểu!
Phật bảo các Thiên tử:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy thì Vô Thượng Bồ-đề chẳng phải khó tin, khó đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn Không, nên trong Không không có pháp tín chứng pháp khác. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp đều Không. Nếu vì dứt hẳn pháp như thế nên nói pháp như thế, thì pháp này cũng Không. Do nhân duyên này, đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật, năng chứng, sở chứng, năng tri, sở tri, tất cả đều Không, vắng lặng. Thế nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng phải khó tin hiểu, chẳng phải khó chứng đắc, do tất cả pháp hoàn toàn Không. Tin hiểu như thế thì liền chứng đắc.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Người có thể tin chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng thể đắc, vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng phải thật có; vì không chứa nhóm nên nói khó tin, khó đắc.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:
– Do tất cả pháp hoàn toàn Không, nên Vô thượng Bồ-đề rất khó tin, khó đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không có tự tánh, đều như hư không. Ví như hư không không nghĩ: Ta sẽ tin, sẽ đắc Vô thượng Bồ-đề, các pháp cũng vậy, thế nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề rất khó tin, khó đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Phật Bồ-đề chẳng phải khó tin, khó đắc thì không nên có các chúng Bồ-tát hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhiều như cát sông Hằng, sau lại thối lui, nên Phật Bồ-đề rất khó tin, khó đắc.
Thiện Hiện thưa:
– Ý Tôn giả thế nào? Sắc đối với Bồ-đề có thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
– Thọ, tưởng, hành, thức đối với Bồ-đề có thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
– Lìa sắc, có pháp nào đối với Bồ-đề thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
– Lìa thọ, tưởng, hành, thức, có pháp nào đối với Bồ-đề có thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
– Chơn như của sắc, đối với Bồ-đề có thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
– Chơn như của thọ, tưởng, hành, thức đối với Bồ-đề có thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
– Lìa chơn như của sắc, có pháp nào đối với Bồ-đề có thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
– Lìa chơn như của thọ, tưởng, hành, thức có pháp nào đối với Bồ-đề có thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
– Chơn như đối với Bồ-đề có thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
– Lìa chơn như đối với Bồ-đề có thối lui không?
Xá-lợi Tử đáp:
– Thưa Thiện Hiện, không.
Cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:
– Nếu tất cả pháp chắc thật, tồn tại, hoàn toàn không sở hữu, đều chẳng thể đắc, thì nói những pháp nào đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để có thể thối lui?
Xá-lợi Tử thưa:
– Như lời thầy nói: Thật không có pháp, cũng không có hữu tình có thể nói có sự thối lui Bồ-đề. Nếu vậy thì vì lẽ gì Phật thuyết ba hạng trụ Bồ-tát thừa, chỉ nên nói một? Lại không nên lập có ba thừa khác, chỉ nên có một thừa Chánh đẳng giác?
Khi ấy, Mãn Từ Tử thưa với cụ thọ Xá-lợi Tử:
– Nên hỏi Thiện Hiện: Có phải là chỉ có một Bồ-tát thừa chăng? Rồi sau đó mới có thể nạn vấn: Lẽ ra không nên kiến lập ba thừa sai khác, chỉ nên có một thừa Chánh đẳng giác.
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Có phải chỉ có một Bồ-tát thừa chăng?
Thiện Hiện hỏi:
– Lẽ nào chơn như có ba hạng Bồ-tát và ba thừa ư?
Xá-lợi Tử thưa:
– Thiện Hiện, chẳng phải vậy!
– Lẽ nào chơn như có một Bồ-tát thừa, một Phật thừa chăng?
Xá-lợi Tử thưa:
– Thiện Hiện, chẳng phải vậy!
– Lẽ nào chơn như có một pháp có thể thấy, gọi là một Bồ-tát và một thừa chăng?
Xá-lợi Tử thưa:
– Thiện Hiện, chẳng phải vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bảo với Xá-lợi Tử:
– Nếu tất cả pháp chắc thật, tồn tại, hoàn toàn không sở hữu, chẳng thể đắc thì ba thừa Bồ-tát cũng như thế. Như thế, thì vì lẽ gì gạn hỏi có một, có ba? Nếu các Bồ-tát nghe thuyết tướng chơn như không sai khác, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm, thì các Bồ-tát này mau chứng Bồ-đề, nhất định không thối lui.
Khi ấy, Thế Tôn khen Thiện Hiện:
– Lành thay! Lành thay! Ông có thể vì các Bồ-tát thuyết điều cốt yếu của chánh pháp. Sự giảng thuyết của ông nương vào oai thần của Phật, tất cả Như Lai đều tùy hỷ về sự giảng thuyết của ông. Nếu các Bồ-tát đối với tướng không sai biệt của các pháp chơn như, hết lòng tin hiểu, thì nghe thuyết chơn như của các pháp như thế chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm. Các Bồ-tát này mau chứng quả vị giác ngộ cao tột, nhất định không thối lui.
Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát thành tựu pháp này thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chăng?
Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Các Bồ-tát này nhất định chẳng rơi vào địa vị Thanh văn v.v…
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát muốn chứng Bồ-đề, nên trụ như thế nào? Nên học như thế nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Nếu các Bồ-tát muốn chứng Bồ-đề thì đối với các hữu tình nên trụ bình đẳng, nghĩa là đối với loài kia nên phát sanh tâm bình đẳng, tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, tâm không sai khác, tâm khiêm tốn, tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm không sân hận, não hại, tâm như cha mẹ… cũng dùng tâm này nói với họ.
Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát muốn chứng Bồ-đề thì nên trụ như thế, nên học như thế.
XVI. PHẨM BẤT THỐI
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ dùng tướng hành trạng nào để biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Nếu các Bồ-tát có thể biết như thật địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Như Lai thì mặc dù nói có sai khác nhưng ở trong tánh chơn như của các pháp, không thay đổi, không sai khác, hoàn toàn không hai, không hai phần. Các Bồ-tát này mặc dù chân thật ngộ nhập chơn như các pháp, nhưng đối với chơn như không có sự phân biệt. Mặc dù nghe chơn như cùng tất cả pháp không hai, không sai khác, nhưng không ngăn ngại. Mặc dù nghe các pháp nhiều thứ tướng sai khác, nhưng đối với trong đó không chấp trước. Các Bồ-tát này không bao giờ phát ngôn một cách khinh xuất, nói ra những lời gì đều đưa đến lợi ích; hoàn toàn chẳng xem những điều tốt xấu, hay dở của người khác. Thương yêu bình đẳng và thuyết pháp cho họ. Nếu các Bồ-tát thành tựu các tướng hành trạng như thế thì nhất định chẳng còn thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này chẳng xem xét lời nói, hình tướng của các Phạm chí Sa-môn ngoại đạo; nghĩa là người đó thấy đúng, biết đúng pháp, hoặc có thể trình bày pháp môn chánh kiến, thì không có lẽ đó; hoàn toàn chẳng lễ kính thiên thần ngoại đạo, cũng chẳng cúng dường để cầu phước báo thù thắng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này chẳng đọa nẻo ác, chẳng thọ thân người nữ, cũng chẳng sanh trong dòng họ ti tiện, ngoại trừ vì muốn độ thoát loài hữu tình kia nên thị hiện sanh đồng loại để phương tiện giúp đỡ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này thường ưa thích thực hành mười thiện nghiệp đạo, cũng thường phương tiện khuyến khích người khác thực hành, cho đến trong mộng cũng không trái phạm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này, các sự thọ trì, tư duy, đọc tụng vô số kinh điển làm cho thông suốt hoàn toàn là vì lợi lạc cho tất cả hữu tình, thường nghĩ: Ta đem pháp này giảng thuyết chỉ dạy cho các hữu tình, sẽ nguyện khiến cho tất cả pháp được đầy đủ. Lại đem căn lành pháp thí như thế bình đẳng trao cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng về sở cầu trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này đối với pháp môn sâu xa mà Phật đã thuyết, nhất định chẳng nghi ngờ, do dự, cũng chẳng mê mờ hoang mang, mà hoan hỷ tin nhận. Những lời nói ra đều vì lợi ích, biết chừng mực mà nói, lời nói nhỏ nhẹ êm ái, ít ngủ nghỉ, không hiện phiền não; ra vào qua lại tâm chẳng mê lầm, thường luôn an trụ chánh niệm chánh tri; đi đứng oai nghi cũng đều như thế. Dạo bước đi đến đâu cũng đều quán sát nơi ấy, an tường buộc niệm, nhìn thẳng mà đi. Nói năng, cử động thường không gấp gáp, vụt chạc. Các đồ dùng về ngọa cụ, y phục luôn sạch sẽ, thơm tho, không có các mùi hôi hám, cũng không cáu bẩn, hay có các loài trùng như rận, rệp v.v… Thường ưa thanh nhàn, luôn không tật bệnh, trong thân không có tám vạn loại trùng. Vì sao? Vì căn lành của Bồ-tát này càng tăng, vượt khỏi thế gian. Căn lành như thế dần dần tăng trưởng; như thế như thế thân tâm thanh tịnh.
Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Tâm Bồ-tát này vì sao thanh tịnh?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Các Bồ-tát này căn lành như thế dần dần tăng trưởng, trong tâm vĩnh viễn không còn tất cả những việc nịnh hót, quanh co, kiêu căng, lừa dối; đều như thế, như thế … Do nhân duyên ấy, tất cả phiền não và bất thiện khác vĩnh viễn dứt hết, cũng vượt qua địa vị Thanh văn và Độc giác, mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do vậy nên biết, tâm thường thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này không trọng lợi dưỡng, không màng tiếng khen, tâm xa lìa keo kiệt, ghen ghét; thân không lỗi lầm, nghe pháp sâu xa tâm không hề nhầm lẫn, trí tuệ càng bền vững, cung kính tin nhận. Theo sự lắng nghe đều có thể hội nhập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Các việc tạo tác sự nghiệp ở thế gian cũng nương phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hội nhập pháp tánh, không thấy có một việc nào ra khỏi pháp tánh. Giả sử có thì không tương ưng với pháp tánh, cũng thường phương tiện hội nhập lý thú sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy không thấy ra khỏi pháp tánh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này giả sử có ác ma hiện trước mặt, hóa làm tám địa ngục lớn, trong mỗi địa ngục hóa làm vô lượng trăm ngàn Bồ-tát, đều bị lửa dữ xen nhau đốt cháy, bảo Bồ-tát: “Các Bồ-tát này đều do được thọ ký đắc Bất thối chuyển nên đọa trong địa ngục lớn như thế, thường chịu khổ lớn dữ dội như thế. Các bạn đã được thọ ký Bất thối chuyển, sẽ như hạng này, chịu khổ lớn như thế. Thế nên các bạn hãy mong chóng rời bỏ tâm đại Bồ-đề mới có thể thoát khỏi khổ này, sẽ được sanh lên trời hoặc sanh trong loài người, giàu sang phú quý, tự do thọ lãnh các thú vui.”
Khi ấy, các Bồ-tát thấy nghe việc này, tâm Bồ-tát chẳng lay động, cũng chẳng kinh sợ, chỉ nghĩ: Nếu các Bồ-tát đã được thọ ký Bất thối chuyển Bồ-đề mà lại đọa nẻo ác, chịu các khổ não như phàm phu ngu si thì chắc chắn không có lẽ đó. Việc thấy nghe này nhất định là do ác ma tạo ra, nói ra, đều chẳng phải có thật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này giả sử có ác ma giả làm Sa-môn, đi đến chỗ người đó nói thế này: “Bạn trước đây đã nghe và thọ trì, đọc tụng kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đều là tà thuyết. Nên mau xả bỏ, chớ cho là chơn thật. Các bạn nếu có thể mau xả bỏ thì ta sẽ dạy các bạn Phật pháp chơn tịnh, làm cho các bạn mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Những gì bạn đã nghe trước đây chẳng phải thật là lời của Phật dạy. Những văn tụng như thế ghi chép luống dối. Những điều ta nói mới đúng là lời Phật dạy.”
Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát nghe lời như thế, tâm dao động, kinh sợ, nghi ngờ, thì nên biết chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu các Bồ-tát nghe lời như vậy, tâm chẳng sợ hãi, nghi ngờ, chỉ theo pháp tánh vô tác, vô tướng, vô sanh mà an trú, thì nên biết đã được thọ ký Bất thối chuyển. Các Bồ-tát này có làm việc gì, chẳng tin lời người khác, chẳng theo sự chỉ dạy của người khác mà bị chuyển theo; như A-la-hán làm việc gì chẳng tin lời người khác, luôn chứng pháp tánh, không nghi, không lầm, tất cả ác ma chẳng thể lay động. Bồ-tát Bất thối cũng thế, tất cả Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo, các ác ma v.v… chẳng thể phá hoại làm cho thối lui Bồ-đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này giả sử có ác ma đi đến chỗ họ, dối hiện làm bạn thân, dối nói thế này: “Việc các bạn thực hành là pháp sanh tử, chẳng phải là hạnh Bồ-đề. Nay các bạn nên tu đạo tận khổ, mau dứt các khổ, được Bát Niết-bàn, thân khổ hiện tại còn nên nhàm chán, xả bỏ, huống lại ưa thích chịu thân khổ đương lai? Nên suy xét kỹ, bỏ sự tin tưởng trước đây.”
Các Bồ-tát này khi nghe lời ấy, tâm chẳng kinh sợ, nghi ngờ, chỉ nghĩ: Nói như thế, nhất định là ác ma.
Ác ma lại bảo Bồ-tát: “Muốn nghe hạnh vô ích của Bồ-tát chăng? Nghĩa là các Bồ-tát trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, đem vô lượng các thứ đồ thượng diệu cúng dường chư Phật đầy đủ. Lại ở chỗ chư Phật nhiều như cát sông Hằng, tu vô lượng các phạm hạnh khó thực hành, gần gũi phụng thờ chư Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng. Thưa hỏi vô lượng, vô biên Bồ-tát việc nên tu học, nên an trú thế nào, nên hành thế nào, nên học thế nào, các đạo Bồ-tát? Chư Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, như điều thưa hỏi, thứ tự giải đáp. Các Bồ-tát kia như lời dạy mà an trú, như lời dạy mà thực hành, như lời dạy mà học tập, trải qua vô lượng kiếp còn chẳng thể chứng sở cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, huống nay các bạn có thể chứng đắc?”
Bấy giờ Bồ-tát nghe nói như thế, nhưng tâm chẳng dao động, cũng chẳng nghi ngờ. Khi ấy ác ma ở ngay chỗ ấy lại hóa làm vô lượng hình tướng Bí-sô, bảo Bồ-tát: “Các Bí-sô này ở quá khứ trải qua vô số kiếp, tu vô lượng các pháp hạnh khó thực hành, nhưng không thể đắc Vô thượng Bồ-đề, nay đều thối lui, trụ quả A-la-hán, thì làm sao các bạn có thể chứng Bồ-đề?”
Các Bồ-tát này thấy, nghe việc như vậy xong, liền nghĩ: Nhất định đây là ác ma vì quấy rối ta nên làm những việc như thế. Nhất định không có Bồ-tát tu hạnh Bát-nhã ba-la-mật-đa đạt đến địa vị viên mãn mà chẳng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lui trụ địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…
Lại nghĩ: Nếu các Bồ-tát như lời Phật đã dạy, tu hạnh Bồ-đề mà chẳng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì chắc chắn không có lẽ đó. Nên biết, những điều thấy, nghe của ngày hôm nay nhất định là của ác ma làm ra, nói ra.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này giả sử có ác ma làm ra hình tướng Bí-sô đi đến chỗ vị ấy nói thế này: “Trí nhất thiết trí cùng hư không đồng nhau, lấy không tánh làm tánh, tự tướng vốn không. Các pháp cũng như thế, hoàn toàn không sở hữu, trong đây không có pháp nào có thể gọi là năng chứng, cũng không có pháp nào có thể gọi là sở chứng, nơi chốn chứng, thời gian chứng và do đây chứng, đều không thể đắc. Tất cả pháp cùng hư không đã đồng nhau, lấy không tánh làm tánh, tự tướng vốn không, thì các bạn vì lẽ gì cam chịu khổ nhọc cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề một cách luống uổng? Trước đây bạn đã nghe các chúng Bồ-tát, nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đều là ma nói, chẳng phải thật là lời của Phật dạy. Các bạn nên bỏ tâm đại Bồ-đề, chớ dối vì người luống chịu khổ nhọc.”
Khi nghe người kia nói, các Đại Bồ-tát này có thể biết như thật đó là việc của ác ma muốn làm thối thất tâm đại Bồ-đề của ta. Ta phải nên bền vững tâm chí, chẳng nên tin lời ác ma nói.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này nếu muốn điều tâm, nhập bốn tịnh lự, tùy ý có thể nhập, an trú tự tại; vì độ hữu tình nên sanh trở lại cõi Dục, tuy sanh lại cõi Dục nhưng chẳng nhiễm dục, cũng chẳng thối mất sự tu tịnh lự.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này chẳng quý danh tiếng, chẳng đắm khen ngợi, đối với các loài hữu tình không có tâm sân giận, thường muốn làm cho hữu tình được lợi ích an vui thù thắng, qua lại vào ra tâm không tán loạn, đi đứng tới lui oai nghi thường trụ chánh niệm, vì hữu tình nên tuy ở tại nhà nhưng chẳng tham đắm nơi đó, mặc dù hiện thọ dục lạc nhưng thường chán sợ, như đi qua đường nguy hiểm tâm luôn kinh sợ, dù có sự ăn uống nhưng lo sợ chẳng yên, chỉ nghĩ: Khi nào mới ra khỏi chỗ hiểm nạn này! Tuy hiện thọ dụng các thứ của báu nhưng chẳng tham ái, chẳng dùng tà mạng phi pháp để nuôi sống. Thà tự vẫn mà chết, không tổn hại người. Vì sao? Vì các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, là tôn quý trong loài người, là thiện sĩ trong loài người, là long tượng trong loài người, là hoa sen trong loài người, là Điều ngự trong loài người, là dõng kiện trong loài người; vốn vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình, hiện ở tại nhà phương tiện làm lợi ích, đâu vì việc tự nuôi sống mà làm tổn hại người. Vì sao? Vì các Bồ-tát này được năng lực phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này có chủ thần Dược-xoa cầm chùy Kim cang thường theo hai bên âm thầm bảo vệ, không để tất cả oai lực tà mị của nhơn phi nhơn v.v… làm tổn hại thân tâm. Do nhân duyên này, các Bồ-tát này mới đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thân ý thư thái, thường không cuồng loạn, đủ tướng trượng phu, các căn viên mãn, tâm thực hành đều thiện, thường tu tịnh mạng, chẳng hành huyễn thuật, xem tướng tốt xấu, chú cấm quỷ thần, hòa hiệp thuốc thang, dụ gạt tôi tớ, kết thân với người giàu sang, khinh lờn Thánh hiền, gần gũi nam nữ, chẳng vì danh lợi mà khen mình chê người, chẳng đem tâm nhiễm nhìn ngắm, cười giỡn, giới kiến thanh tịnh, chí tánh thuần chất.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này đối với văn chương, kỹ nghệ của thế gian tuy giỏi giang, khéo léo, nhưng chẳng ưa đắm, vì thấu đạt tất cả pháp chẳng thể đắc vậy; đều xa lìa sự thu nhiếp của lời tạp uế, tà mạng. Ðối với các sách luận của thế tục ngoại đạo, tuy cũng biết tất cả nhưng chẳng ưa đắm, vì thông đạt tất cả pháp bản tánh là Không. Lại các sách luận của thế tục ngoại đạo lý sự thuyết ra có nhiều tăng giảm, chẳng phải tùy thuận đạo Bồ-tát vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này có các tướng hành trạng khác, Ta sẽ phân biệt, chỉ dạy cho ông. Đó là: Bồ-tát kia hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đạt các pháp đều Không, nên chẳng ưa quan sát, luận nói các việc, như là việc vua, việc giặc, việc quân, việc chiến tranh, thành ấp, xóm làng, voi ngựa, xe cộ, y phục, ăn uống, giường nệm, hương hoa, nam nữ tốt xấu, vườn rừng, ao, hào, núi, biển… Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc của quỷ thần, Dược-xoa, La-sát-sa v.v… Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc ở ngã tư đường, chợ búa, hàng quán, lầu gác, cửa hàng buôn bán… Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc ca múa, hát xướng, đùa giỡn… Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc đảo lớn, đảo nhỏ, thuyền bè, cầu cống, châu báu… Chẳng ưa quán sát, luận nói các việc ngày giờ, sao hạn, gió mưa, lạnh nóng, tốt xấu… Chẳng ưa quán sát, luận nói vô số các việc nghĩa pháp, văn tụng trái nhau… Chẳng ưa quán sát, luận nói các việc tương ưng với phàm phu, Độc giác, Thanh văn. Chỉ ưa quán sát, luận nói các việc tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát này thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường chẳng xa lìa tâm trí nhất thiết, chẳng ưa trái chống, ưa giảng hòa việc tranh tụng, thường mong cầu chánh pháp, chẳng ưa phi pháp, thường hâm mộ bạn tốt, chẳng ưa bạn xấu, ưa nói pháp, xa lìa nói phi pháp, vui được thấy Như Lai, mừng được gặp chúng xuất gia. Cõi nước trong mười phương có Phật Thế Tôn tuyên thuyết pháp yếu, nguyện được sanh đến đó, gần gũi cúng dường, lắng nghe chánh pháp. Các Bồ-tát này phần nhiều từ cõi trời Dục giới, Sắc giới sanh đến cõi người trong nước châu Thiệm-bộ, giỏi về kỹ nghệ, chú thuật, kinh thơ, địa lý, thiên văn và nghĩa lý các pháp; hoặc sanh ở biên giới của thành lớn, nước lớn, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này hoàn toàn chẳng tự nghi: Ta thối chuyển hay là Bất thối chuyển. Ðối với pháp ở địa vị của mình cũng chẳng sanh nghi ngờ là có hay là không có. Ðối với các việc ma, có thể hiểu rõ hoàn toàn. Như Dự lưu, đối với pháp ở địa vị của mình hoàn toàn chẳng nghi ngờ. Giả sử có ác ma dùng đủ cách mê loạn cũng chẳng thể làm lay động. Như có tạo tác nghiệp vô gián thì tâm vô gián kia thường theo đuổi luôn cho đến chết, chẳng thể rời bỏ. Giả sử khởi lên tâm khác cũng chẳng thể ngăn chận được. Các Bồ-tát này cũng như thế, tâm chẳng thối chuyển, thường theo đuổi, luôn an trụ địa vị của Bồ-tát Bất thối chuyển. Trời, người, A-tố-lạc v.v… trong thế gian chẳng thể lay động, phá hoại pháp của mình đã đắc. Ðối với các nghiệp ma, có thể biết rõ hoàn toàn, trong sự chứng pháp thường chẳng nghi ngờ. Tuy sanh đời khác, cũng chẳng phát sanh tâm tương ưng với Thanh văn, Độc giác. Cũng chẳng tự nghi: Ta ở tương lai có thể chứng Vô thượng Phật Bồ-đề. Chẳng an trụ ở địa vị của mình, chẳng theo duyên khác. Ðối với pháp ở địa vị của mình chẳng thể phá hoại. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thành tựu trí không động, không thối chuyển, nên tất cả duyên xấu chẳng thể lay động. Tâm người đó bền vững giống như Kim cang.
Giả sử có ác ma giả hình tướng Phật, đi đến chỗ người đó bảo: “Bạn nên cầu quả A-la-hán, dứt sạch các lậu, nhập Niết-bàn, bạn chưa thể nhận thọ ký đại Bồ-đề, cũng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, bạn chưa có các tướng hành trạng của địa vị Bất thối chuyển. Như Lai chẳng nên thọ ký cho bạn Vô thượng đại Bồ-đề.” Khi các Bồ-tát này nghe lời ấy, tâm không biến động, cũng chẳng thối thất, không kinh, không sợ, chỉ nghĩ: Ðây nhất định là ma hoặc quyến thuộc của ma hóa làm hình tướng Phật đi đến chỗ ta nói như thế. Nếu thật là lời Phật nói thì lẽ ra không nên sai khác.
Nếu khi các Bồ-tát nghe lời kia, nên quán sát, nhớ nghĩ như vầy: Đây nhất định là ác ma hóa làm hình tướng Phật, làm cho ta xa lìa Bát-nhã sâu xa, làm cho ta rời bỏ Vô thượng Bồ-đề. Vì thế, ta không nên nghe theo lời nói kia. Khi ấy, ác ma kinh sợ, liền ẩn mất, thì các Bồ-tát này nhất định đã an trụ địa vị Bất thối chuyển. Chư Phật quá khứ từ lâu đã thọ ký cho người kia đại Bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đầy đủ các tướng hành trạng của địa vị Bất thối chuyển, nên có thể biết rõ việc làm của ác ma, làm cho ma ẩn mất, không còn xuất hiện.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng, huống là của báu, bạn bè, quyến thuộc khác. Vì hộ trì chánh pháp nên tinh tấn, dõng mãnh, thường nghĩ: Chánh pháp này chính là pháp thân thanh tịnh của chư Phật, tất cả Như Lai cung kính, cúng dường. Ta hộ trì chánh pháp này chính là hộ trì pháp thân chư Phật.
Lại nghĩ: Chánh pháp như vậy thuộc về chư Phật Thế Tôn ba đời. Ta cũng dự vào số Phật ở đời vị lai. Phật đã thọ ký cho ta đại Bồ-đề. Chánh pháp của chư Phật chính ta đã có. Chính nay ta hộ trì chánh pháp của mình. Trong tương lai, khi được thành Phật, ta cũng tuyên thuyết pháp này cho hữu tình. Các Bồ-tát này thấy lợi ích như thế, hộ trì chánh pháp Như Lai đã thuyết, không tiếc thân mạng, quyến thuộc, của báu, tài vật cho đến đạt được Bồ-đề thường không mỏi mệt.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này nghe thuyết pháp Phật không nghi, không ngờ. Nghe xong, luôn luôn thọ trì không quên.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này chỉ nghe lời Phật dạy không nghi, không ngờ, luôn không quên, hay là nghe chánh pháp của Bồ-tát và Thanh văn cũng có thể như thế?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Các Bồ-tát này nghe ngôn ngữ, âm thanh, văn tự, nghĩa lý của khắp tất cả hữu tình đều có thể thông đạt, không nghi, không ngờ, luôn không quên mất. Vì sao? Vì các Bồ-tát này ở trong các pháp đắc Vô sanh nhẫn, đã thông suốt hoàn toàn thật tánh các pháp, nghe đều thuận tai và không nghi ngờ. Lại đắc văn trì Đà-la-ni, thường hay nhớ nghĩ hoàn toàn không quên mất.
Thiện Hiện nên biết! Đây là các tướng hành trạng của Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.
XVII. PHẨM THAM HÀNH 01
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
– Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này thành tựu công đức lớn như thế. Thế Tôn có thể trải kiếp số như cát sông Hằng, thuyết các tướng hành trạng Bất thối chuyển. Cúi xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho các Bồ-tát an trụ trong đó, tu hạnh Bồ-đề mau được viên mãn.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Lành thay! Lành thay! Ông nay có thể hỏi việc như thế. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông.
Thiện Hiện nên biết! Nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, chẳng phải có, tịch tĩnh, lìa nhiễm, Niết-bàn, là sự biểu hiện của khái niệm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Chỉ có pháp này được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay là tất cả pháp đều được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Tất cả các pháp khác cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là sâu xa.
Thiện Hiện! Thế nào là sắc cho đến thức cũng gọi là sâu xa? Nghĩa là chơn như sâu xa nên sắc cho đến thức cũng gọi là sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc là chỗ không có sắc cũng gọi là sắc sâu xa, cho đến chỗ không có thức cũng gọi là thức sâu xa.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
– Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Đó là Phương tiện mầu nhiệm ngăn chặn năm uẩn, hiển bày Niết-bàn.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nếu các Bồ-tát thường quán sát kỹ nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì nghĩ: Ta nên y như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã chỉ dạy mà an trú. Ta nay nên như Bát-nhã ba-la-mật-đa đã giảng thuyết mà học. Các Bồ-tát này do thường nương tựa nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành cho đến trong một ngày số phước đức đạt được vô lượng, vô biên. Như có người tham dục, lại nhiều suy tư, cùng với người con gái đẹp hẹn hò. Người con gái kia bị trở ngại, không đến nơi đúng hẹn. Tâm mong mỏi của người ấy mãnh liệt, tuôn tràn.
Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Tâm mong muốn của người kia hướng về nơi nào?
– Kính bạch Thế Tôn! Tâm mong muốn của người này hướng về người con gái kia. Nghĩa là nghĩ: Nàng ấy khi nào mới đến đây gặp nhau để cùng ta đùa giỡn vui chơi.
– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Người đó ngày đêm phát sanh bao nhiêu mong muốn?
– Kính bạch Thế Tôn! Người đó ngày đêm phát sanh rất nhiều mong muốn.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, cho đến một ngày thì vượt thoát kiếp số trôi lăn sanh tử bằng với số lượng mong muốn phát sanh trải qua một ngày đêm của người tham dục kia.
Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này nương theo nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành thì tùy theo đó mà có thể giải thoát bao nhiêu tội lỗi thường làm trở ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, không lười nhác thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành trải qua một ngày đêm thì công đức đạt được, hơn công đức bố thí trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vô lượng, vô biên.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, trải qua một ngày đêm thì công đức đạt được, hơn công đức bố thí của các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, đem các đồ cúng dường bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vô lượng, vô biên.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, thì công đức đạt được, hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã vô lượng, vô biên.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm đem pháp vi diệu bố thí cho các loài hữu tình thì công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng đem pháp vi diệu bố thí cho các hữu tình vô lượng, vô biên.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần và các căn lành khác, công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần và các căn lành khác vô lượng, vô biên.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm tu các pháp tài thí, pháp thí, ở chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp tu trước kia, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu các pháp tài thí, pháp thí, an trú chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp tu trước kia, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vô lượng, vô biên.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm duyên khắp công đức thiện căn của ba đời chư Phật và các đệ tử, hoà hợp cân lường, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì công đức đạt được của các Bồ-tát này hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số kiếp như cát sông Hằng duyên khắp thiện căn công đức của ba đời chư Phật và các đệ tử, hoà hợp cân lường, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vô lượng, vô biên.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
– Như Lai thường thuyết: Chư hành đều là do phân biệt tạo ra, đều chẳng phải có thật, thì vì nhơn duyên gì các Bồ-tát này đạt được công đức vô lượng, vô biên?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Các Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng thường quán sát việc thiện đã làm là Không, không có sở hữu, hư vọng chẳng thật cũng như thế, chẳng có thể lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đúng như thật, chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Như vậy thì công đức đạt được ấy vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nghĩa vô lượng, vô biên, có gì sai khác?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Nói vô lượng là ở trong đó lượng của nó dứt hẳn. Nói vô biên là số đó không thể đếm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Có nhơn duyên nào, sắc cho đến thức cũng vô lượng, vô biên chăng?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Cũng có nhơn duyên sắc cho đến thức vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên nào, sắc cho đến thức vô lượng, vô biên?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Vì sắc cho đến thức đều tánh Không, nên vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức Không, hay tất cả pháp đều Không?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Ta nói tất cả các pháp, không pháp nào là chẳng đều Không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên là khái niệm về pháp nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Vô lượng, vô biên là khái niệm về không, vô tướng, vô nguyện.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên có phải chỉ là không, vô tướng, vô nguyện; hay là còn có nghĩ khác?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Ý ông thế nào? Ta đâu chẳng nói: Tất cả pháp môn, không pháp môn nào chẳng đều là Không?
Thiện Hiện thưa:
– Như Lai thường nói: Tất cả pháp môn, không pháp môn nào là chẳng đều Không.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Không, tức là vô tận. Không, tức là vô lượng. Không, tức là vô biên. Không, tức là nghĩa khác. Thế nên, Thiện Hiện! Tất cả pháp môn mặc dù có vô số lời nói sai khác nhưng nghĩa không khác.
Thiện Hiện nên biết! Lý không của các pháp hoàn toàn không thể nói. Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, hoặc nói vô biên, hoặc nói là không, hoặc nói là vô tướng, hoặc nói là vô nguyện, hoặc nói là vô tác, hoặc nói là vô sanh, hoặc nói là vô diệt, hoặc nói là chẳng phải có, hoặc nói là tịch tịnh, hoặc nói là lìa nhiễm, hoặc nói là Niết-bàn… Vô lượng các pháp môn như thế, nghĩa chơn thật chẳng khác, đều là Như Lai phương tiện diễn thuyết.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
– Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Thật tánh của các pháp phương tiện thiện xảo đều chẳng thể nói, nhưng vì hữu tình nên phương tiện chỉ ra. Như con hiểu nghĩa Phật dạy: Thật tánh các pháp đều không thể nói.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì tánh tất cả pháp đều rốt ráo Không, không ai có thể tuyên nói về rốt ráo Không ấy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nghĩa bất khả thuyết có tăng, có giảm chăng?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì đáng ra bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm. Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa này cũng không tăng, không giảm thì Bồ-tát vì lẽ gì dùng Ba-la-mật-đa không tăng, không giảm cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, luôn gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa của các Bồ-tát tăng giảm thì chẳng thể gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nghĩa bất khả thuyết của Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không thêm bớt, nhưng các Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng nghĩ sáu pháp Ba-la-mật-đa này có tăng, có giảm, mà nghĩ: Chỉ có danh, tướng; nghĩa là bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát này tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đem sáu pháp này tác ý tương ưng và nương vào đó phát khởi tâm và căn lành, bình đẳng ban cho các hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật nhiệm mầu sâu xa mà phát khởi hồi hướng. Do hồi hướng này, tăng thêm thế lực phương tiện thiện xảo, có thể chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thế nào là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Chơn như các pháp, gọi đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết! Chơn như các pháp không tăng, không giảm nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng không tăng giảm. Nếu các Bồ-tát thường an trụ tác ý tương ưng với chơn như như thế, thì gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như vậy, này Thiện Hiện! Nghĩa bất khả thuyết mặc dầu không thêm không bớt mà không thối thất tác ý chơn như. Bát-nhã ba-la-mật-đa mặc dầu không tăng, không giảm mà không thối thất sở cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các Bồ-tát an trú tác ý chơn như như thế, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thì liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này là tâm đầu tiên phát sanh có thể gần Bồ-đề; hay là tâm sau phát sanh có thể gần Bồ-đề? Nếu tâm đầu phát sanh gần Bồ-đề thì khi tâm đầu phát sanh, tâm sau chưa sanh. Như thế, không có nghĩa hòa hiệp. Nếu tâm sau phát sanh, có thể gần Bồ-đề thì khi tâm sau phát sanh, tâm đầu đã diệt mất, không có nghĩa hòa hiệp. Như vậy, pháp của tâm, tâm sở trước sau tới lui gạn tìm không có nghĩa hòa hiệp. Như thế thì làm sao có thể chứa nhóm được căn lành? Nếu các căn lành chẳng thể chứa nhóm được, thì làm sao Bồ-tát có thể gần Bồ-đề?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Ý ông thế nào? Như khi đốt đèn thì ngọn lửa đầu đốt cháy tim đèn, hay ngọn lửa sau đốt cháy tim đèn?
Thiện Hiện thưa:
– Bạch Thế Tôn! Như ý con hiểu thì chẳng phải ngọn lửa đầu có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa đầu. Chẳng phải ngọn lửa sau có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa sau.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Ý ông thế nào? Tim đèn có cháy chăng?
Thiện Hiện thưa:
– Bạch Thế Tôn! Thế gian hiện thấy cái tim đèn thật có cháy.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Bồ-tát cũng như thế. Chẳng phải tâm đầu phát sanh được gần Bồ-đề, cũng chẳng lìa tâm đầu. Chẳng phải tâm sau phát sanh được gần Bồ-đề, cũng chẳng lìa tâm sau, mà các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phương tiện thiện xảo làm cho các căn lành tăng trưởng viên mãn nên được gần Bồ-đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Duyên khởi như thế, lý thú sâu xa. Chẳng phải ngay các tâm phát sanh trước sau mà các Bồ-tát có thể gần Bồ-đề. Chẳng phải lìa các tâm phát sanh trước sau mà các Bồ-tát có thể gần Bồ-đề?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Ý ông thế nào? Nếu tâm diệt rồi thì có sanh không?
Thiện Hiện thưa:
– Kính bạch Thế Tôn, không. Tâm đó đã diệt thì không thể sanh lại.
– Ý ông thế nào? Nếu tâm đã sanh thì pháp có diệt không?
– Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Nếu tâm đã sanh thì nhất định có pháp diệt.
– Ý ông thế nào? Pháp có diệt, tâm chẳng phải diệt chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải. Pháp có diệt, tâm nhất định sẽ diệt.
– Ý ông thế nào? Pháp không diệt, tâm có thể sanh chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Pháp không diệt, tâm chẳng có nghĩa sanh.
– Ý ông thế nào? Pháp không sanh, tâm có thể diệt chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Pháp không sanh, tâm không có nghĩa diệt.
– Ý ông thế nào? Pháp không sanh diệt, tâm có thể sanh diệt chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, không. Pháp không sanh diệt, tâm không có nghĩa sanh diệt.
– Ý ông thế nào? Nếu pháp đã diệt rồi, diệt nữa được chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Nếu pháp diệt rồi thì chẳng thể diệt nữa.
– Ý ông thế nào? Nếu pháp sanh rồi, sanh nữa được chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Nếu pháp sanh rồi, chẳng thể sanh nữa.
– Ý ông thế nào? Thật tánh các pháp có sanh diệt không?
– Kính bạch Thế Tôn, thật tánh các pháp không sanh, không diệt.
– Ý ông thế nào? Tâm an trú là như tâm chơn như chăng?
– Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Tâm an trú như thế là như tâm chơn như.
– Ý ông thế nào? Nếu tâm an trú chơn như, thì tâm như thế là chơn như, tánh như thật tế, thường trụ chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, tâm này chẳng chơn như, tánh như thật tế, thường trụ.
– Ý ông thế nào? Có phải chơn như các pháp rất sâu xa chăng?
– Kính bạch Thế Tôn! Đúng như thế. Chơn như các pháp rất là sâu xa.
– Ý ông thế nào? Có phải chính chơn như là tâm chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.
– Ý ông thế nào? Có phải lìa chơn như có tâm chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.
– Ý ông thế nào? Có phải tâm tức là chơn như chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.
– Ý ông thế nào? Có phải lìa tâm có chơn như chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.
– Ý ông thế nào? Có phải chơn như có thể thấy chơn như chăng?
– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.
– Ý ông thế nào? Ông thấy có thật chơn như không?
– Kính bạch Thế Tôn, không.
– Ý ông thế nào? Nếu các Bồ-tát luôn hành như thế, có phải là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không?
– Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Nếu các Bồ-tát thường hành như thế thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.