1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25

QUYỂN 558

V. PHẨM XÁ-LỢI

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Giả sử xá-lợi của Phật đầy dẫy cả châu Thiệm-bộ này làm một phần, có người biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu làm một phần, thì trong hai phần ấy ông nhận phần nào?

Trời Ðế Thích thưa:

– Bạch Thế Tôn! Ý của con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu. Vì sao? Vì chẳng phải con không tin nhận, cung kính, cúng dường xá-lợi của chư Phật, nhưng thân của chư Phật và xá-lợi là đều nhân nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu mà sanh ra; đều do công đức uy lực đã huân tu pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu nên mới được tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… cung kính, cúng dường.

Kính bạch Thế Tôn! Như con ngồi trên tòa Thiên đế, trong điện Thiện pháp, ở cõi trời Ba mươi ba, khi tuyên thuyết chánh pháp cho các trời, có vô lượng các Thiên tử v.v… đi đến chỗ con nghe thuyết pháp, cung kính, cúng dường, nhiễu quanh bên phải rồi đi. Khi con không có ở trên pháp tòa kia, nhưng các Thiên tử v.v… đi đến chỗ đó, mặc dù không thấy con nhưng họ vẫn cung kính, cúng dường như khi con đang ở tại đó. Họ nói: “Chỗ này là tòa của trời Ðế Thích ngồi thuyết pháp cho chư Thiên v.v… Chúng ta nên cúng dường cung kính, xem như Thiên chủ hiện đang ở đó”, rồi nhiễu quanh bên phải lui ra.

Xá-lợi của Phật cũng như vậy. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu làm cho sự nương tựa phát sanh trí nhất thiết trí, nên được tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… cung kính, cúng dường. Thế nên con nói: Trong hai phần, ý của con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu.

Kính bạch Thế Tôn! Giả sử xá-lợi của Phật đầy dẫy cả thế giới tam thiên đại thiên làm một phần, có người biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu làm một phần, thì trong hai phần ấy, ý của con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu. Vì sao? Vì chẳng phải con không tín thọ, cung kính, cúng dường xá-lợi của Phật, nhưng thân và xá-lợi của chư Phật là đều nhân nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu mà sanh ra vậy. Đều do công đức uy lực đã huân tu của pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu nên mới được tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… cung kính, cúng dường.

Kính bạch Thế Tôn! Như người mắc nợ, sợ hãi chủ nợ, liền gần gũi hầu hạ quốc vương, nương dựa thế lực của vua, khỏi sợ hãi. Trái lại còn được chủ nợ sợ hãi, cúng dường. Vì sao? Vì người kia nương cậy vào thế lực của vua, được vua che chở nên có nhiều uy thế vậy.

Vua, dụ cho Bát-nhã ba-la-mật-đa. Xá-lợi của Phật, dụ cho kẻ nương vua. Do nương Bát-nhã ba-la-mật-đa nên được thế gian cung kính, cúng dường. Chư Phật được đắc trí nhất thiết trí là cũng nương Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu, nên con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như thần châu đại bảo vô giá, đủ vô lượng uy đức thù thắng vi diệu; bất kỳ chỗ nào có thần châu này thì nhơn phi nhơn v.v… không thể làm hại:

Giả sử có nam tử hoặc nữ nhơn bị quỷ thần gây hại, thân tâm buồn khổ, có người đem thần châu này bảo cho người đó biết, do uy lực của thần châu nên quỷ liền bỏ đi.

Có các bệnh nhiệt, bệnh phong, bệnh đàm, hoặc hai, hoặc ba thứ hòa hợp làm bệnh, nếu có người nào buộc thần châu này nơi thân thì các bệnh như thế đều được trừ diệt hẳn.

Thần châu này để ở chỗ tối tăm, có thể làm cho chỗ đó được soi sáng. Khi nóng bức có thể làm cho mát mẻ. Khi lạnh có thể làm cho ấm áp.

Bất kỳ địa phương nào có thần châu này thì ở đó thời tiết điều hòa, không lạnh, không nóng.

Nếu địa phương nào có thần châu này thì các thứ độc như: rắn, rết, bọ cạp v.v… đều không dám nương ở.

Giả sử có nam tử hoặc nữ nhơn nào bị trúng độc, đau đớn khó chịu, nếu có người đem thần châu này cho những người kia thấy, thì nhờ thần lực của thần châu nên các độc liền tiêu diệt.

Nếu các hữu tình nào bị bệnh hủi, ghẻ dữ, ghẻ nhọt, bủng thủng, mắt mù lòa v.v… và bệnh mắt, bệnh tai, bệnh mũi, bệnh lưỡi, bệnh yết hầu, bệnh nơi thân, bệnh nơi các lóng đốt… mà đeo thần châu này thì đều được khỏi hẳn các bệnh.

Nếu trong các ao suối, giếng v.v… nước trong đó đục dơ, hoặc sắp khô cạn, đem thần châu này để vào trong đó, nước liền đầy tràn và trong trẻo, sạch sẽ, thơm tho, đủ tám công đức.

Nếu đem áo thêu thùa đủ thứ màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, bích lục… gói thần châu này bỏ vào trong nước, nước tùy theo sắc của áo làm thành đủ thứ màu sắc khác nhau.

Thần châu đại bảo vô giá này oai đức vô biên, nói không thể hết. Nếu đựng trong rương, trong tráp cũng làm cho đồ đựng đó thành tựu đầy đủ vô biên uy đức. Giả sử rương tráp ấy trống không, nhưng do từng đựng thần châu nên rương tráp đó cũng được mọi người quý trọng.

Khánh Hỷ hỏi trời Ðế Thích:

– Thần châu như thế là chỉ riêng ở trên trời có, hay là trong nhơn gian cũng có?

Trời Ðế Thích thưa:

– Trong nhơn gian, trên trời đều có thần châu này. Nhưng ở trong nhơn gian thì hình dáng nhỏ mà nặng; còn ở trên trời thì hình dáng lớn mà nhẹ. Lại tướng của thần châu ở nhơn gian chẳng đầy đủ, còn tướng thần châu trên trời thì tròn đầy. Uy đức thần châu trên trời thù thắng gấp vô lượng vô số thần châu ở nhơn gian.

Bấy giờ, Trời Ðế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu cũng như vậy, làm cội gốc cho các đức, có thể diệt trừ vô lượng pháp ác bất thiện; bất kỳ để ở chỗ nào cũng diệt trừ đau khổ nơi thân tâm các hữu tình; nhơn phi nhơn v.v… chẳng thể làm hại. Như Lai đã đắc trí nhất thiết trí và vô lượng, vô biên công đức khác là đều nhân nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa; còn xá-lợi của Phật là do các công đức đã huân tu, làm vật nương tựa cho các công đức này vậy. Sau khi Phật Niết-bàn, nhận lãnh tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… cung kính, cúng dường. Thế nên con nói: Trong hai phần, ý con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu.

Kính bạch Thế Tôn! Giả sử thế giới như cát sông Hằng trong mười phương đầy dẫy xá-lợi của Phật làm một phần; có người biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu làm một phần, thì trong hai phần đó, ý con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu. Vì sao? Vì chẳng phải con không tin nhận, cung kính, cúng dường xá-lợi của Phật, nhưng thân và xá-lợi của chư Phật đều nhân nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu mà sanh ra vậy. Đều nhờ công đức uy lực đã huân tu pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa nên mới được tất cả thế gian, thiên, nhơn, A-tố-lạc v.v… cung kính, cúng dường.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu có thể sanh trí nhất thiết trí của Như Lai. Như Lai đắc được trí nhất thiết trí, có thể sanh thân và xá-lợi của Phật. Thế nên, cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy thì chính là cúng dường trí nhất thiết trí và xá-lợi chư Phật ba đời.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… muốn được thường thấy chư Phật trong mười phương thì phải tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Phật bảo trời Ðế Thích:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Như Lai cung kính, cúng dường.

Trời Ðế Thích thưa:

– Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là đại Vô thượng Ba-la-mật-đa. Tất cả Như Lai đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa mà biết được tâm hành sai khác của các hữu tình.

Phật bảo trời Ðế Thích:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Thế nên chúng Đại Bồ-tát luôn luôn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì biết đúng như thật tâm hành sai khác của các loài hữu tình.

Trời Ðế Thích bạch Phật:

– Các chúng Bồ-tát chỉ nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, hay là cũng nên hành năm Ba-la-mật-đa khác?

Phật bảo trời Ðế Thích:

– Các chúng Bồ-tát nên hành đủ sáu Ba-la-mật-đa rồi sau hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự; khi quán các pháp đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm trên hết.

Kiều-thi-ca! Như ở châu Thiệm-bộ có các thứ cây, nhánh, cành, cọng, thân, hoa, lá, quả, hạt… tuy có các thứ hình dáng không giống nhau nhưng bóng râm của nó thì hoàn toàn không khác. Sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy, tuy mỗi pháp có khác nhau nhưng nhờ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì, hồi hướng trí nhất thiết trí nên các tướng sai khác kia hoàn toàn không thể đắc.

Trời Ðế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thành tựu viên mãn rộng lớn vô lượng, vô biên công đức. Nếu có người nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế và trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu; lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, giữ gìn không xả bỏ. Lại có người biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, lại đem bố thí cho người khác thọ trì, đọc tụng, thì trong hai phước, phước nào nhiều hơn?

Phật bảo trời Ðế Thích:

– Ta hỏi ông, tùy ý ông trả lời: Các hữu tình nào từ nơi người khác thỉnh được xá-lợi của Phật, dùng đồ báu đựng đầy, tôn trí ở chỗ sạch sẽ, lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, giữ gìn không xả bỏ. Hoặc lại có người từ nơi người khác thỉnh được xá-lợi của Phật đem phân phát cho người khác, bảo người đó cúng dường. Ý ông thế nào? Trong hai phước này, phước nào nhiều hơn?

Trời Ðế Thích thưa:

– Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Thế Tôn dạy thì trong hai phước này, phước sau nhiều hơn.

Phật khen trời Ðế Thích:

– Lành thay! Lành thay! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Người biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc tự mình cúng dường, hoặc chuyển cho người khác thọ trì, đọc tụng thì trong hai phước này, phước sau nhiều hơn.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… có thể đem nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa phân biệt giảng thuyết đúng đắn cho người thì đạt được phước lại càng nhiều hơn phước đem bố thí cho người khác gấp trăm ngàn lần. Nên kính vị pháp sư này như kính Phật.

VI. PHẨM KINH ĐIỂN

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, làm cho an trụ mười thiện nghiệp đạo, lần lượt cho đến giáo hóa khắp các loài hữu tình ở thế giới của chư Phật như cát sông Hằng v.v… trong mười phương, làm cho an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Ðế Thích thưa:

– Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật bảo:

– Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác đọc tụng, thì đạt được phước lại càng nhiều hơn.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, làm cho an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông, lần lượt cho đến khắp các loài hữu tình ở thế giới chư Phật như cát sông Hằng v.v… trong mười phương, làm cho đều an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này do nhân duyên như vậy đạt được phước có nhiều không?

Trời Ðế Thích thưa:

– Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật bảo:

– Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các báu, đem bố thí cho người khác đọc tụng thì đạt được phước càng nhiều hơn trước.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, tự mình thường đọc tụng thì không bằng như có người biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu và đem bố thí cho người khác đọc tụng.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu và đem bố thí cho người khác đọc tụng thì không bằng có người hiểu biết đúng nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa và giảng thuyết cho người.

Trời Ðế Thích lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nên giảng thuyết nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các loài hữu tình nào?

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào không biết nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên giảng thuyết cho họ. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì ở đời đương lai có thiện nam tử, thiện nữ v.v… cầu hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nghe người giảng thuyết tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa bèn mê lầm nên giữa đường lui mất.

Khi ấy, trời Ðế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo:

– Kiều-thi-ca! Đời đương lai có các Bí-sô ngu si điên đảo, mặc dầu muốn tuyên thuyết chân thật Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng nói đảo ngược bằng pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thế nào là Bí-sô nói ngược bằng pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa? Nghĩa là: Bí-sô kia nói cho người phát tâm Vô thượng Bồ-đề: Sắc hoại nên gọi là vô thường chứ chẳng phải thường không, nên gọi là vô thường. Nói thọ, tưởng, hành, thức hoại, nên gọi là vô thường chứ chẳng phải thường không, nên gọi là vô thường. Lại nói: Nếu người cầu như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca! Như vậy gọi là nói ngược bằng pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Kiều-thi-ca! Không nên căn cứ vào sắc hoại để quán sắc là vô thường. Không nên căn cứ vào thọ, tưởng, hành, thức hoại, để quán thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, mà căn cứ vào thường không để quán sắc cho đến thức là vô thường. Do vậy, này Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… biết rõ nghĩa thú của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và giảng thuyết cho người thì phước của người đó rất nhiều.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào giáo hóa tất cả hữu tình ở châu Thiệm-bộ, làm cho đều trụ quả Dự lưu, hoặc Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc Bồ-đề của bậc Độc giác; lần lượt cho đến giáo hóa khắp tất cả hữu tình ở thế giới như cát sông Hằng v.v… trong mười phương, làm cho đều trụ quả Dự lưu cho đến Bồ-đề của bậc Độc giác, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

– Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Có thiện nam tử, thiện nữ v.v… biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác đọc tụng, răn bảo, chỉ dạy hữu tình kia: “Ngươi nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa tương ưng với Phật pháp, nhất định sẽ chứng đắc trí nhất thiết trí.” Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này đạt được phước càng nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì tất cả quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và Bồ-đề của bậc Độc giác đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa này lưu xuất vậy. Nghĩa là người kia chứng đắc trí nhất thiết trí, giáo hóa vô lượng, vô biên hữu tình, làm cho thành tựu Dự lưu cho đến Độc giác không giới hạn.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các loại hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lần lượt cho đến tất cả hữu tình ở thế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thiện nam tử, thiện nữ v.v… biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng. Ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Ðế Thích thưa:

– Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho một người đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, bảo siêng năng tu học, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v… này đạt được phước càng nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy mau được viên mãn, làm cho Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được lưu bố rộng rãi khắp nơi.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lần lượt cho đến tất cả hữu tình ở thế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thiện nam tử, thiện nữ v.v… biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng. Lại dùng văn nghĩa hay đẹp để giải thích, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Ðế Thích thưa:

– Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại đem bố thí cho một người đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, bảo đọc tụng. Lại dùng văn nghĩa hay đẹp để giải thích, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v… này đạt được phước càng nhiều hơn trước.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lần lượt cho đến tất cả hữu tình ở thế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thiện nam tử, thiện nữ v.v… biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Ðế Thích thưa:

– Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Trong các Bồ-tát đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có một Bồ-tát nói thế này: “Con ưa thích mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để cứu vớt các khổ sanh tử cho hữu tình.” Có thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào vì muốn thành tựu việc kia nên biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v… này đạt được phước càng nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lần lượt cho đến tất cả hữu tình ở thế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lại có thiện nam tử, thiện nữ v.v… biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo tụng đọc tụng, lại dùng văn hay nghĩa đẹp để giải thích, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Ðế Thích thưa:

– Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Trong các Bồ-tát đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có một Bồ-tát nói thế này: “Con ưa thích mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để cứu vớt các khổ sanh tử cho hữu tình.” Có thiện nam tử, thiện nữ v.v… vì muốn thành tựu việc kia nên biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng, lại dùng văn nghĩa hay đẹp để giải thích, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v… này đạt được phước càng nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Trời Ðế Thích bạch Phật:

– Đúng như vậy! Kính bạch Thế Tôn. Đúng như vậy! Kính bạch Thiện Thệ. Đại Bồ-tát như thế càng gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nên đem Bát-nhã ba-la-mật-đa ân cần răn bảo, chỉ dạy. Nên đem các thức ăn uống, y phục, đồ nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ đồ dùng khác cung kính, cúng dường, làm cho không bị thiếu thốn. Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào có thể dùng pháp thí, tài thí như thế để giúp đỡ cúng dường Đại Bồ-tát kia, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v… này do nhân duyên như vậy đạt được phước vô lượng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát kia chính nhờ pháp thí, tài thí cúng dường bảo vệ như thế mà mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Khi ấy, Thiện Hiện khen trời Ðế Thích:

– Lành thay! Lành thay! Ông có thể bảo vệ, khuyến khích, hỗ trợ tốt các Đại Bồ-tát, làm cho mau chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kiều-thi-ca! Ông đã làm việc đáng nên làm của Thánh đệ tử đức Phật. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì tất cả các Thánh đệ tử của Như Lai muốn làm lợi ích cho các hữu tình, theo pháp thì cần phải giúp đỡ, khuyến khích, hỗ trợ các Đại Bồ-tát, làm cho mau chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Vì sao? Vì tất cả thắng sự của Như Lai và Thanh văn, Độc giác ở thế gian đều do chúng Đại Bồ-tát mà được hiện bày

Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì nếu không có Đại Bồ-tát phát tâm Bồ-đề thì không có Đại Bồ-tát có thể tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa. Nếu không có Đại Bồ-tát tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa thì không có Đại Bồ-tát có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu không có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì không có sự thắng của Như Lai và Thanh văn, Độc giác ở thế gian.

Thế nên, các Thánh đệ tử của Như Lai vì muốn làm lợi ích an vui cho các hữu tình, theo pháp thì phải giúp đỡ khuyến khích, hỗ trợ các chúng Bồ-tát, làm cho tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa để có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình cùng tận đời vị lai.

VII. PHẨM HỒI HƯỚNG

Khi ấy, Bồ-tát Từ Thị bảo Thiện Hiện:

– Bồ-tát tùy hỷ hồi hướng tương ưng với các việc phước nghiệp thì đối với các việc phước nghiệp về bố thí, trì giới, tu tập v.v… của các hữu tình khác là tối, là thắng, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Thiện Hiện hỏi Bồ-tát Từ Thị:

– Nếu các Bồ-tát phát tâm tùy hỷ hồi hướng, duyên khắp vô lượng vô số thế giới, mỗi một thế giới có vô lượng vô số chư Phật Thế Tôn đã nhập Niết-bàn, từ khi các ngài mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, lần lượt cho đến nhập Bát Niết-bàn, và như vậy cho đến lúc chánh pháp sắp diệt tận, trong thời gian đó có các căn lành tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa, hoặc những việc phước nghiệp bố thí, trì giới, tu tập v.v… và những căn lành vô lậu, hữu học và vô học của các đệ tử; hoặc giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của Phật; hoặc đại từ, đại bi và vô lượng, vô biên Phật pháp khác làm lợi ích an vui cho các hữu tình; hoặc là các căn lành về giảng thuyết pháp yếu và tu học theo pháp yếu; hoặc các căn lành mà các hữu tình đã trồng sau khi Phật Niết-bàn nhóm họp một cách đầy đủ, hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Lại đem tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp như thế bình đẳng ban cho các hữu tình để cùng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện căn lành này cùng loài hữu tình phát sanh quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia với sự việc như thế, phát sanh hành tướng như thế, tâm tùy hỷ hồi hướng như thế là có sở đắc với sự việc như thế. Vậy Bồ-tát ấy có sự chấp tướng không?

Bồ-tát Từ Thị trả lời Thiện Hiện:

– Các Bồ-tát kia với sự việc như thế, phát sanh hành tướng tâm tùy hỷ hồi hướng như thế, thật không có sở duyên đắc được vậy, như là tướng của Bồ-tát kia chấp thủ.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Bồ-tát Từ Thị:

– Nếu không có các sự việc với sở duyên như thế, như là sự chấp thủ tướng của Bồ-tát kia thì tùy hỷ hồi hướng của các Bồ-tát chẳng lẽ đều thành tâm tưởng nhận thức điên đảo hay sao? Vì như có người chấp trước vào việc không có, như: vô thường cho là thường, thật khổ bảo là vui, không có ngã nói có ngã, bất tịnh nói là tịnh…; do đó phát sanh tâm tưởng nhận thức điên đảo, như sự việc này thật không có. Bồ-đề và tâm cũng y như thế. Nếu vậy thì tất cả đúng ra không sai khác. Như thế thì trong đây những gì là sự việc sở duyên? Những gì là tâm tùy hỷ? Những gì là Bồ-đề? Những gì là hồi hướng? Thế nào là Bồ-tát? Với sự việc như thế phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Bồ-tát Từ Thị trả lời Thiện Hiện:

– Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng như thế không nên nói ở trước Bồ-tát mới học Ðại thừa. Vì sao? Vì những người đó có tâm tin ưa, cung kính nghe, tùy hỷ hồi hướng như thế sẽ bị diệt mất. Pháp tùy hỷ hồi hướng như thế nên phân biệt chỉ dạy cho các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, hoặc người đã từng cúng dường vô lượng chư Phật đã từ lâu phát nguyện lớn, trồng nhiều căn lành và được nhiều bạn lành giúp đỡ. Vì sao? Vì người đó nghe, tùy hỷ hồi hướng như thế, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng lui, chẳng chìm. Các chúng Bồ-tát nên đem tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp như thế hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí. Ngay lúc ấy nên nghĩ: Sự đáng dụng tâm tùy hỷ hồi hướng, sự dụng tâm này tận diệt, xa lìa, biến đổi sự việc, sự duyên và các căn lành này cũng đều như tâm tận diệt, xa lìa, biến đổi, thì trong đây những gì là sự dụng tâm? Những gì là sự việc được duyên? Cùng các căn lành mà nói tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Tâm này đối với tâm đúng lý ra không nên có tùy hỷ hồi hướng. Do không có hai tâm đồng một lúc khởi lên vậy. Tâm cũng không thể tùy hỷ hồi hướng tự thể của tâm. Thế nên tâm tùy hỷ hồi hướng và sự việc được duyên đều không thể đắc.

Khi ấy, trời Ðế Thích bạch Thiện Hiện:

– Các chúng Bồ-tát mới học Ðại thừa nghe việc như vậy, tâm họ lẽ nào chẳng kinh sợ, thối lui? Làm sao Bồ-tát đối với sự việc được duyên phát sanh tâm tùy hỷ? Thế nào là tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp để hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Cụ thọ Thiện Hiện nương Bồ-tát Từ Thị thưa:

– Các chúng Bồ-tát duyên khắp tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương, cắt đứt con đường của các cõi, đoạn tuyệt nẻo hý luận, phá tan đám mây mù, dẹp sạch các chông gai, vứt bỏ các gánh nặng, đạt được lợi ích, chấm dứt kiết sử các cõi, chánh trí giải thoát, đạt đến tâm hoàn toàn tự tại hàng đầu, nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn. Từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, lần lượt cho đến nhập Bát Niết-bàn, như vậy cho đến chánh pháp sắp diệt mất, trong thời gian đó, có công đức và căn lành của các đệ tử đã trồng, tập họp đầy đủ hiện tiền, phát sanh tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Lại đem tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp như thế hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì các Bồ-tát này làm sao không rơi vào tâm tưởng thấy điên đảo?

Bồ-tát Từ Thị thưa Thiện Hiện:

– Nếu các Bồ-tát tự mình đã phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng, ngang đồng với các pháp không tâm, ngang đồng với tưởng thì không rơi vào tâm tưởng thấy điên đảo. Nếu các Bồ-tát tự mình đã phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng ngang đồng với các pháp có tâm, ngang đồng với tưởng thì liền rơi vào tâm tưởng thấy điên đảo.

Lại các Bồ-tát dùng tâm như vậy, tưởng niệm công đức căn lành của đệ tử Phật mà sanh tùy hỷ, biết đúng tâm này tận diệt, xa lìa, biến đổi, chẳng phải có thể tùy hỷ, biết đúng pháp kia tánh của nó cũng như vậy, chẳng phải sự tùy hỷ.

Lại hiểu biết rõ ràng về tâm hồi hướng, tánh của pháp cũng như vậy, chẳng phải có thể hồi hướng, và biết rõ đúng đắn pháp được hồi hướng, tánh của nó cũng như thế, chẳng phải sự hồi hướng.

Người nào có thể y vào sự giảng thuyết như thế mà tùy hỷ hồi hướng thì đó là chánh, chẳng phải là tà. Các chúng Bồ-tát đều nên phát khởi tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề như thế.

Lại các Bồ-tát duyên khắp công đức đạt được của chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại; hoặc căn lành có được của các đệ tử; hoặc căn lành có được của các phàm phu; hoặc căn lành có được của loài chúng sanh lắng nghe chánh pháp; hoặc là trời, rồng khác, nói rộng ra cho đến nhơn phi nhơn v.v… lắng nghe chánh pháp, phát tâm Bồ-đề. Tất cả như vậy đều tập họp đầy đủ, hiện tiền phát sanh tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Tùy hỷ xong, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ngay khi ấy, nếu hiểu đúng các pháp có thể tùy hỷ hồi hướng tận diệt, xa lìa biến đổi. Các pháp của sự tùy hỷ hồi hướng, tánh của nó cũng như thế, mặc dù biết như thế nhưng luôn tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại ngay khi ấy, nếu hiểu đúng hoàn toàn không có pháp có thể tùy hỷ hồi hướng, đối với pháp mặc dù biết như thế nhưng vẫn luôn tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì chẳng rơi vào tâm tưởng nhận thức điên đảo. Vì sao? Vì các Bồ-tát đối với tâm tùy hỷ hồi hướng và pháp được tùy hỷ hồi hướng không sanh chấp trước thì gọi là tùy hỷ hồi hướng vô thượng.

Các Bồ-tát nào đối với pháp tùy hỷ hồi hướng, phát sanh tưởng về pháp tùy hỷ hồi hướng; đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng, phát sanh tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng để phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì rơi vào tâm tưởng nhận thức điên đảo. Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng như vậy, hoàn toàn sai. Bồ-tát nên biết phương tiện để xa lìa.

Các Bồ-tát nào đối với sự tu tạo các việc phước nghiệp, biết rõ như thật tịch tĩnh, viễn ly; đối với tâm tùy hỷ hồi hướng cũng biết như thật tịch tĩnh viễn ly. Đã biết như thật rồi thì thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, ngay trong các pháp hoàn toàn không chấp trước, nhưng phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì không rơi vào tâm tưởng nhận thức điên đảo.

Các Bồ-tát nào đối với sự tu tạo các việc phước nghiệp không biết rõ như thật tịch tĩnh, viễn ly; đối với tâm tùy hỷ hồi hướng cũng không biết tịch tĩnh, viễn ly; đối với tất cả pháp chấp trước các tướng để phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì rơi vào tâm tưởng nhận thức điên đảo.

Các Bồ-tát nào đối với công đức căn lành của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử đã diệt độ, muốn phát khởi tùy hỷ hồi hướng đúng thì nên nghĩ: Giống như Phật Thế Tôn và các đệ tử đều đã diệt độ, tự tánh chẳng có thì công đức căn lành cũng như thế; sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng của ta và sự hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tánh tướng cũng vậy, hoàn toàn bất khả đắc. Đã biết như thật rồi thì đối với các căn lành phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, liền có thể không sanh tâm tưởng nhận thức điên đảo, vì không chấp thủ tướng nên được Phật chấp nhận, gọi là tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề đúng.

Các Bồ-tát nào dùng chấp thủ tướng làm phương tiện thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với công đức căn lành của Phật và đệ tử đã diệt độ, chấp thủ tướng tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề thì chẳng phải là tùy hỷ hồi hướng đúng.

Nếu các Bồ-tát không chấp thủ tướng làm phương tiện để thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với công đức căn lành của Phật và đệ tử đã diệt độ, lìa tướng tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề thì gọi là tùy hỷ hồi hướng đúng.

Bồ-tát Từ Thị hỏi Thiện Hiện:

– Thế nào là Bồ-tát đối với công đức căn lành của Phật và đệ tử v.v… đều không chấp thủ tướng mà vẫn luôn tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề?

Thiện hiện thưa:

– Nên biết, sự học phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa của Bồ-tát tuy không chấp thủ tướng nhưng được tạo thành; chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng có thể phát sanh tùy hỷ hồi hướng đúng. Thế nên, Bồ-tát muốn thành tựu việc làm thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bồ-tát Từ Thị bảo Thiện Hiện:

– Chớ nói như thế. Vì sao? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, công đức căn lành của Phật và đệ tử hoàn toàn bất khả đắc, sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề cũng bất khả đắc. Trong ấy Bồ-tát nên quán như vầy: Tánh công đức căn lành của Như Lai và các đệ tử quá khứ đã diệt; sự phát tâm tùy hỷ hồi hướng và tánh đại Bồ-đề đều vắng lặng. Nếu đối với sự việc kia ta phân biệt chấp thủ tướng để phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng thì sự việc ấy chư Phật Thế Tôn hoàn toàn không chấp nhận. Vì sao? Vì Phật và đệ tử của Phật v.v… đã diệt độ, chấp thủ tướng phân biệt tùy hỷ hồi hướng thì gọi đó là có sở đắc lớn, vì quá khứ đã diệt không còn. Phật và đệ tử v.v… vị lai, hiện tại chưa đến, không trụ, cũng bất khả đắc. Nếu bất khả đắc thì chẳng phải cảnh chấp thủ tướng. Nếu chấp thủ tướng đó để phát sanh tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề thì rơi vào điên đảo.

Thế nên Bồ-tát muốn phát sanh tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề đúng với công đức căn lành của Như Lai và các đệ tử thì không nên trong đó phát sanh tùy hỷ hồi hướng có sở đắc chấp thủ tướng phân biệt. Nếu trong đó phát sanh tùy hỷ hồi hướng có sở đắc chấp thủ tướng phân biệt thì Phật chẳng bảo người đó có lợi ích lớn. Vì sao? Vì tâm tùy hỷ hồi hướng như thế là vọng tưởng phân biệt, gọi là lẫn các chất độc vậy. Như thức ăn uống tuy có đầy đủ hương vị, màu sắc ngon đẹp thượng diệu, nhưng có lẫn thuốc độc, người ngu vì hiểu biết cạn cợt nên tham đắm, lấy ăn uống. Ban đầu tuy thích ý, nhưng sau lại rất khổ.

Một loại hữu tình như thế không thọ trì đúng, không quán sát đúng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thông suốt đúng nghĩa thú sâu xa, mà bảo hàng chủng tánh Ðại thừa: Thiện nam tử, đến đây! Bạn đối với giới v.v… năm uẩn và vô lượng, vô biên công đức khác của chư Phật Thế Tôn ba đời, hoặc căn lành của đệ tử Phật đã trồng, hoặc Phật Thế Tôn thọ ký chánh giác cho các Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác; hoặc căn lành của loài hữu tình kia đã trồng; hoặc căn lành của các trời, người, A-tố-lạc v.v… đã trồng… Tất cả như thế đều tập hợp đầy đủ hiện tiền tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề.

Sự nói về tùy hỷ hồi hướng như thế là dùng có sở đắc làm phương tiện. Vì như thức ăn uống có lẫn thuốc độc của thế gian, hữu tình thuộc chủng tánh Bồ-tát không nên học theo những việc như đã nói kia. Thế nên Ðại đức nên nói làm sao để thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa tùy hỷ hồi hướng công đức căn lành của chư Phật và các đệ tử v.v… ở mười phương ba đời có thể gọi là không độc?

Thiện hiện thưa:

– Các Bồ-tát nào muốn không hủy báng Phật mà phát tâm tùy hỷ hồi hướng thì nên nghĩ thế này: Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thông suốt đúng đắn công đức căn lành có tánh như thế, có tướng như thế, có pháp như thế, mà có thể tùy hỷ thì ta cũng nên tùy hỷ như thế. Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thông suốt đúng đắn nên đem các việc phước nghiệp như thế hồi hướng Bồ-đề, ta cũng nên hồi hướng như thế. Nếu làm việc tùy hỷ hồi hướng như thế thì không hủy báng Phật, không lẫn các độc, lìa các lỗi lầm, hoàn toàn thuận theo lời Phật dạy.

Lại nữa, Bồ-tát nên làm việc tùy hỷ hồi hướng như vầy: Như giới uẩn v.v… chẳng đọa ba cõi, chẳng thuộc ba đời, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như thế. Vì sao? Vì như các pháp kia tự tánh Không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng thuộc ba đời; tùy hỷ hồi hướng cũng lại như thế. Nếu ai có thể tùy hỷ hồi hướng như thế thì không lẫn các độc, không có sự hư hoại. Nếu ai không tùy hỷ hồi hướng như thế thì nên biết đó là tùy hỷ hồi hướng tà. Nếu các Bồ-tát nghĩ như thế thì giống các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thông suốt đúng đắn các công đức v.v… Có pháp như thế, có thể nương pháp này phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo. Ta cũng nên nương pháp như thế phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng. Đấy là phát tùy hỷ hồi hướng chánh.

Khi ấy, đức Thế Tôn khen ngợi Thiện Hiện:

– Lành thay! Lành thay! Ông có thể làm Phật sự lớn cho các Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Giả sử các loài hữu tình ở thế giới tam thiên đại thiên, tất cả đều được bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông v.v… công đức có tướng thế gian, xuất thế gian, sự phát sanh tùy thuận hồi hướng không điên đảo của một số Bồ-tát như thế thì đối với công đức kia là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu tình ở thế giới tam thiên đại thiên đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mỗi mỗi trụ kiếp số như cát sông Hằng, đem có sở đắc làm phương tiện, đem y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các nhạc cụ khác cung kính, cúng dường hữu tình ở thế giới như cát sông Hằng luôn không gián đoạn. Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

– Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Phước như thế nếu có hình sắc thì cả thế giới như cát sông Hằng trong mười phương cũng không thể dung chứa hết.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Một vị Bồ-tát nào nhờ sự hộ trì của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên phát tâm tùy hỷ hồi hướng không điên đảo thì hơn sự đạt được phước có tướng của Bồ-tát ở trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến cùng cực số lần.

Bấy giờ, bốn vị Đại Thiên Vương, mỗi vị cùng với hai vạn Thiên tử quyến thuộc đảnh lễ chân Phật, chấp tay cung kính bạch:

– Kính bạch Thế Tôn! Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo của các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì nên uy lực rộng lớn hơn sự bố thí có sở đắc đã nói ở trước gấp trăm ngàn lần.

Khi ấy, trời Ðế Thích cho đến Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, mỗi vị cùng với mười vạn Thiên tử quyến thuộc đều đem các thứ tràng hoa trời đẹp, các thứ hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi ngọc, tràng phan, cờ, lọng báu, cùng các thứ ngọc báu quí lạ và tấu âm nhạc trời để cúng dường Phật, đảnh lễ chân Phật, chấp tay bạch:

– Bạch Thế Tôn! Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo của các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì nên uy lực rộng lớn hơn sự bố thí có sở đắc đã nói ở trước gấp trăm ngàn lần.

Lúc ấy, Ðại Phạm Vương nói rộng ra cho đến trời Sắc cứu cánh, mỗi vị cùng với vô lượng trăm ngàn Thiên chúng đến trước chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật, chấp tay cung kính, đồng thanh thưa:

– Hiếm có thay! Kính bạch Thế Tôn! Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo của các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì nên uy lực rộng lớn hơn sự bố thí có sở đắc đã nói ở trước gấp trăm ngàn lần.

Khi ấy, Phật bảo các chúng trời Tịnh cư thiên v.v…

– Hãy để tất cả hữu tình đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ở thế giới tam thiên đại thiên qua một bên. Giả sử tất cả hữu tình như cát sông Hằng ở thế giới chư Phật trong mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mỗi mỗi trụ kiếp số như cát sông Hằng, đem có sở đắc để làm phương tiện, đều đem y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ nhạc cụ khác cung kính, cúng dường hữu tình ở thế giới như cát sông Hằng, thường không gián đoạn. Nếu có Bồ-tát duyên khắp giới uẩn, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến uẩn và vô lượng, vô biên Phật pháp khác của chư Phật Thế Tôn ba đời đã có, hoặc căn lành của các đệ tử có được, hoặc pháp lành khác hữu tình đã tu… Tất cả như thế đều tập hợp đầy đủ hiện tiền phát sanh tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Lại đem tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp như thế hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng như vậy đạt được phước hơn phước có tướng đã nói ở trước vô lượng, vô biên, không thể tính kể.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Như Thế Tôn dạy: Hiện tiền phát sanh tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu tương ưng với các việc phước nghiệp. Thế nào là tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu tương ưng với các phước nghiệp sự?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Các Bồ-tát nào chẳng thủ, chẳng xả, chẳng niệm, chẳng đắc pháp ba đời, biết không có pháp đã sanh, đang sanh, sẽ sanh; biết không có pháp đã diệt, đang diệt, sẽ diệt, như tánh thật của pháp phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như thế, gọi là tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, tương ưng với các việc phước nghiệp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát nào muốn tương ưng với căn lành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ và chánh giải thoát, giải thoát tri kiến của chư Phật Thế Tôn ba đời để phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo thì nên nghĩ:

Như bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ của chơn thật giải thoát, tương ưng với căn lành cũng lại như thế.

Như giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chơn thật giải thoát, tương ưng với căn lành cũng lại như thế.

Như thắng giải của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như tùy hỷ hồi hướng của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như tất cả các pháp quá khứ đã diệt của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như tất cả các pháp vị lai chưa sanh của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như tất cả các pháp hiện tại dời đổi của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như vô lượng vô số thế giới chư Phật Thế Tôn và các đệ tử v.v… quá khứ của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như vô lượng vô số thế giới chư Phật Thế Tôn và đệ tử v.v… vị lai chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như vô lượng vô số thế giới chư Phật Thế Tôn và các đệ tử v.v… hiện tại chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Tánh pháp chơn như của các pháp như thế không hướng đến, không quay lưng, không buộc, không mở, không nhiễm, không tịnh. Ta đối với công đức căn lành như thế hiện tiền tùy hỷ, đem không dời đổi và không hư hoại, không tướng, không đắc để làm phương tiện hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Như thế gọi là tùy hỷ hồi hướng tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu.

Thiện Hiện nên biết! Tùy hỷ hồi hướng không điên đảo như thế đạt được công đức tất cả hữu tình ở thế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mỗi mỗi trụ kiếp số như cát sông Hằng, đem có sở đắc để làm phương tiện, đều đem y phục, thức ăn nước uống, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ nhạc cụ khác cung kính, cúng dường.

Tất cả hữu tình ở thế giới như cát sông Hằng trong mười phương luôn không gián đoạn, sự được phước thí và tất cả hữu tình ở thế giới chư Phật như cát sông Hằng trong mười phương v.v… mỗi mỗi trụ kiếp số như cát sông Hằng, đem có sở đắc để làm phương tiện tương ưng với căn lành của sự tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ thì hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp cùng cực số lần.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 5 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 6 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 18 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 14 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 21 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 22 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 13 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 16 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 20 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 17 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 19 - Kinh Tạng
  • Kinh Bát Nhã Ba La Mật (Phẩm 46 đến 60) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 12 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 24 - Kinh Tạng
  • Kinh Bát Nhã Ba La Mật (Phẩm 61 đến 75) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 15 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 7 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 8 - Kinh Tạng