QUYỂN 563
XVII. PHẨM THAM HÀNH 02
Phật bảo Thiện Hiện:
– Nếu các Bồ-tát hành như thế là hành chỗ nào?
Thiện Hiện bạch:
– Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát hành như thế thì hoàn toàn không chỗ hành. Vì sao? Vì các pháp đang hành đều chẳng chuyển động vậy.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành nghĩa đế nào?
Thiện Hiện bạch:
– Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành Thắng nghĩa đế.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Ý ông thế nào? Nếu các Bồ-tát hành Thắng nghĩa đế thì đối với Thắng nghĩa đế là thủ tướng chăng?
Thiện Hiện bạch:
– Kính bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Thiện Hiện:
– Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế tuy chẳng thủ tướng mà hành tướng chăng?
Thiện Hiện bạch:
– Kính bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Thiện Hiện:
– Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với tướng Thắng nghĩa đế đã chẳng hành tướng thì hoại tướng chăng?
Thiện Hiện bạch:
– Kính bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Thiện Hiện:
– Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng hoại tướng thì khiển tướng chăng?
Thiện Hiện bạch:
– Kính bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Thiện Hiện:
– Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng hoại, khiển thì làm sao có thể dứt được tưởng chấp thủ tướng?
Thiện Hiện bạch:
– Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này chẳng nghĩ: Ta dứt tưởng tướng hoại, tướng khiển; cũng chưa tu học đạo dứt tưởng. Nếu các Bồ-tát tinh tấn tu hành đạo dứt tưởng mà chưa đầy đủ Phật pháp, thì đúng ra phải rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác. Các Bồ-tát này phương tiện thiện xảo nên mặc dù đối với các tướng và tưởng chấp thủ tướng biết là rất lỗi lầm, nhưng chẳng hoại, khiển để mau dứt tưởng này, chứng tướng không. Vì sao? Vì chưa viên mãn tất cả pháp Phật vậy.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy!
Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:
– Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng tu hành ba môn giải thoát thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có lợi ích chăng? Nếu khi các Bồ-tát thức, tu hành ba môn giải thoát, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã có lợi ích thì trong giấc mộng họ tu cũng có lợi ích. Vì sao? Vì Phật dạy: mộng, thức không sai khác vậy.
Thiện Hiện thưa:
– Nếu khi các Bồ-tát thức, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đã được gọi là an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì các Bồ-tát này trong giấc mộng, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng được gọi là an trụ ba môn giải thoát Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng có lợi ích như thế; hoặc mộng, hoặc thức, nghĩa không sai khác.
Xá-lợi Tử thưa:
– Bạch Thế Tôn! Trong giấc mộng tạo nghiệp có thành không?
Phật dạy:
– Các pháp chẳng thật như mộng, nên sự tạo ra các nghiệp ở trong mộng cũng không thành; cần phải đến lúc thức dậy, nhớ tưởng phân biệt mới thành.
Thiện Hiện thưa:
– Nếu các hữu tình trong giấc mộng thấy giết hại sinh mạng, đến khi thức dậy nhớ tưởng phân biệt, rất vui mừng, thì sự tạo nghiệp của người đó chẳng thành ư?
Xá-lợi Tử thưa:
– Việc không có sở duyên, hoặc nghĩ, hoặc buộc lòng tin, nghiệp chẳng thể sanh; cần phải có sở duyên suy nghĩ, nghiệp mới phát sanh. Nghiệp suy nghĩ trong giấc mộng duyên đâu mà sanh?
Thiện Hiện thưa:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy. Hoặc trong mộng, hoặc lúc thức, không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh. Cần phải có duyên suy nghĩ, nghiệp mới sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì cần phải đối với các tướng thấy nghe, hiểu biết, có tác động của sự hiểu biết, do đó mới phát sanh nhiễm hoặc phát sanh tịnh. Nếu không có các tướng: Thấy, nghe, hiểu biết thì không có tác dụng của sự hiểu biết, cũng không nhiễm tịnh. Do đó nên biết, hoặc trong mộng, hoặc lúc thức có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp mới sanh. Nếu không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh.
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Phật thuyết sở duyên đều lìa tự tánh. Như thế thì làm sao có thể nói có sở duyên suy nghĩ nghiệp mới phát sanh, không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh?
Thiện hiện đáp:
– Mặc dù các nghiệp suy nghĩ và sở duyên đều lìa tự tánh, nhưng do tự tâm chấp thủ tướng phân biệt, nên thế tục đặt bày nói là có sở duyên phát sanh các nghiệp suy nghĩ, chẳng phải sở duyên này lìa tâm riêng có.
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng làm việc bố thí. Bố thí xong, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các Bồ-tát này có phải là thật đem bố thí hồi hướng Bồ-đề Vô thượng Phật chăng?
Thiện Hiện đáp:
– Bồ-tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký đắc đại Bồ-đề, nên có thể thưa hỏi, nhất định Ngài sẽ đáp.
Xá-lợi Tử theo lời Thiện Hiện, cung kính thưa hỏi Bồ-tát Từ Thị.
Bấy giờ, Bồ-tát Từ Thị bảo Xá-lợi Tử:
– Những gì gọi là Bồ-tát Từ Thị mà bảo có thể đáp lời tôn giả hỏi?
Là sắc chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức chăng? Là sắc không chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức không chăng? Vả lại, sắc chẳng phải là Bồ-tát Từ Thị, nên cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Bồ-tát Từ Thị nên cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi.
Không của sắc, chẳng phải Bồ-tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi. Không của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải Bồ-tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời Tôn giả hỏi. Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào có thể gọi là Bồ-tát Từ Thị, cũng hoàn toàn chẳng thấy có pháp năng đáp, có pháp sở đáp, nơi chốn đáp, thời gian đáp và do đây đáp.
Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp thọ ký, có pháp bị thọ ký, nơi chốn thọ ký, thời gian thọ ký và do đây thọ ký. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì bản tánh tất cả pháp đều Không. Suy tìm rốt ráo chẳng thể đắc vậy.
Xá-lợi Tử hỏi Từ Thị:
– Pháp mà Nhân giả đã nói có phải là như chỗ đã chứng chăng?
Từ Thị đáp:
– Pháp tôi nói chẳng phải như chỗ đã chứng. Vì sao? Vì pháp tôi đã chứng chẳng thể nói vậy.
Xá-lợi Tử nghĩ: Bồ-tát Từ trí tuệ sâu xa, từ lâu tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới có thể nói như thế.
Khi ấy, Thế Tôn biết ý nghĩ của Xá-lợi Tử, liền bảo:
– Ý ông thế nào? Ông do pháp này thành A-la-hán thì có thể thấy pháp này là có thể nói chăng?
Xá-lợi Tử bạch:
– Kính bạch Thế Tôn! Chẳng thể.
Phật dạy:
– Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, pháp tánh đã chứng cũng như thế, chẳng thể tuyên thuyết. Các Bồ-tát này phương tiện thiện xảo, chẳng nghĩ: Ta do pháp này đã được thọ ký, đang được thọ ký, sẽ được thọ ký Đại Bồ-đề. Chẳng nghĩ: Ta do pháp này sẽ chứng Bồ-đề. Các Bồ-tát có thể hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với việc đắc Bồ-đề cũng không sợ hãi, quyết định tự biết: Ta sẽ chứng, nên các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe pháp sâu xa chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm.
Các Bồ-tát này nếu ở nơi đồng hoang, chỗ có thú dữ cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn lợi ích các hữu tình nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, thường nghĩ: Các thú dữ v.v… muốn ăn nuốt thân ta, ta sẽ bố thí giúp cho chúng được no đủ. Nhờ căn lành này khiến cho ta bố thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả bàng sanh, ngạ quỉ.
Các Bồ-tát này ở đồng hoang, chỗ có giặc ác cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn lợi ích các hữu tình nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, ưa tu các việc lành, đối với thân mạng, tài sản không chút luyến tiếc, thường nghĩ: Nếu các hữu tình đến tranh giành, cướp đoạt các của cải của ta, hoặc do như thế mà hại thân mạng của ta thì ta chẳng hận họ. Nhờ nhân duyên này làm cho ta an nhẫn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả oán tặc cướp hại. Do cõi Phật của ta rất thanh tịnh nên cũng không có các thứ xấu khác.
Nếu các Bồ-tát này ở đồng hoang, chỗ không có nước cũng không sợ hãi, nghĩ: Ta sẽ tuyên thuyết diệu pháp Vô thượng, dứt bệnh khát ái của các hữu tình. Giả sử ta do cơn khát này bức ngặt mà chết, đối với các loài hữu tình quyết chẳng rời bỏ ý đại bi, bố thí cho họ nước diệu pháp. Kỳ lạ thay! Hữu tình này bạc phước nên ở tại thế giới không có nước như thế. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả đồng hoang v.v… thiếu nước, cháy khát như thế. Ta sẽ phương tiện khuyên các hữu tình tu nghiệp thắng phước, tùy theo ở chỗ nào đều làm cho đầy đủ nước tám công đức.
Các Bồ-tát này ở chỗ đói kém cũng không sợ hãi, nghĩ: Ta sẽ tinh tấn nghiêm tịnh cõi Phật. Khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả sự đói kém như thế. Các loài hữu tình đầy đủ sự vui sướng, tùy ý cần dùng gì, nghĩ đến liền có ngay, như chư thiên nghĩ gì liền được. Ta sẽ phát khởi tinh tấn bền vững, làm cho nguyện ước của các hữu tình được đầy đủ. Tất cả thời gian, nơi chốn, tất cả hữu tình đối với tất cả của cải không thiếu thốn. Nếu các Bồ-tát không lo sợ việc này thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Các Bồ-tát này khi gặp bệnh dịch cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thường tư duy kỹ: Không có pháp gọi là bệnh, cũng không có người bệnh, tất cả đều Không, chẳng nên sợ hãi. Ta sẽ siêng năng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta các loài hữu tình v.v… không có ba thứ bệnh, tinh tấn tu hành pháp lành thù thắng như Phật đã dạy, thường không lười biếng bỏ bê.
Các Bồ-tát này nếu nghĩ Bồ-đề, trải qua thời gian lâu mới đắc, cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì giới hạn kiếp số đời trước tuy có vô lượng, nhưng trong một niệm nhớ nghĩ phân biệt chứa nhóm là thành. Giới hạn kiếp số đời sau nên biết cũng như thế. Thế nên Bồ-tát chẳng nên ở trong đó khởi tưởng lâu xa mà sanh sợ hãi. Vì sao? Vì giới hạn trước, giới hạn sau của kiếp số dài, ngắn đều trong một sát-na tương ưng với tâm vậy. Bồ-tát đối với những việc đáng sợ như thế, luôn tư duy kỹ, chẳng sanh sợ hãi, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
XVIII. PHẨM TỶ MUỘI
Bấy giờ trong hội có một thiên nữ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Con ở trong đây cũng không sợ hãi, nguyện đời tương lai sẽ được thành Phật, cũng vì hữu tình thuyết pháp như thế.
Thưa như vậy xong, nàng lấy hoa vàng đẹp cung kính chí thành rải cúng Như Lai. Nhờ thần lực của Phật khiến hoa vàng ấy bay lên trụ rực rỡ trên hư không.
Đức Thế Tôn mỉm cười, từ miệng phát ra ánh sáng sắc vàng chiếu khắp mười phương, rồi trở lại nhập vào nơi đỉnh đầu.
Khi ấy, A-nan-đà thấy nghe việc như thế xong, cung kính chấp tay bạch:
– Kính bạch Thế Tôn! Do nhân gì mà Ngài mỉm cười như thế? Chư Phật mỉm cười chẳng phải là không có nhân duyên?
Thế Tôn bảo Khánh Hỷ:
– Thiên nữ này ở đời vị lai sẽ thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, kiếp tên Tinh Dụ, Phật hiệu Kim Hoa.
Khánh Hỷ nên biết! Thiên nữ này chính là thân nữ cuối cùng của nàng. Xả thân này xong, liền thọ thân nam, cùng tận đời vị lai không còn thọ lại thân nữ. Từ đây mạng chung, sanh đến quốc độ của Phật Bất Ðộng ở phương Đông, siêng tu phạm hạnh. Người nữ này ở cõi kia tên là Kim Hoa, từ thế giới Phật Bất Ðộng mạng chung, sanh ở thế giới của Phật phương khác. Bất cứ sanh chỗ nào cũng thường không xa lìa Phật. Như vua Chuyển luân, từ điện đài này đến điện đài khác, sung sướng hưởng lạc cho đến chết, chân không chạm đất… Người nữ này cũng thế, từ nước Phật này đến nước Phật khác, tùy theo sanh chỗ nào thường chẳng xa lìa chư Phật Thế Tôn, thường tu phạm hạnh cho đến giác ngộ.
Khi ấy, A-nan-đà thầm nghĩ: Nay tỷ muội này khi thành Phật, cũng sẽ giống như chúng hội Bồ-tát hôm nay. Phật biết ý nghĩ đó, bảo Khánh Hỷ:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Đúng như điều ông nghĩ. Bồ-tát Kim Hoa khi thành Phật cũng sẽ tuyên thuyết cho chúng hội Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Số Bồ-tát ở trong hội nhiều hay ít cũng như chúng hội Bồ-tát của Ta ngày nay. Số đệ tử Thanh văn khó biết, chỉ có thể nói tổng quát là vô lượng, vô số thế giới của đức Phật kia hoàn toàn không có thú dữ, giặc ác, đói khát, bệnh tật v.v… Cũng không có các sự phiền não sợ hãi khác.
Khánh Hỷ bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Người tỷ muội này trước đây ở chỗ Phật nào phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đầu tiên, trồng các căn lành, hồi hướng phát nguyện?
Phật bảo Khánh Hỷ:
– Người nữ này quá khứ ở chỗ Phật Nhiên Ðăng đầu tiên phát đại tâm, cũng dùng hoa vàng dâng lên đức Phật kia, hồi hướng phát nguyện nên nay được gặp Ta.
Khánh Hỷ nên biết! Thời quá khứ, Ta ở chỗ Phật Nhiên Ðăng, dùng năm cành hoa dâng lên đức Phật kia, hồi hướng phát nguyện. Nhiên Ðăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết các căn của Ta đã thuần thục, thọ ký cho Ta: “Ông đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Năng Tịch, cõi tên Kham Nhẫn, kiếp hiệu là Hiền.”
Bấy giờ, Thiên nữ nghe Phật kia thọ ký cho Ta đại Bồ-đề, vui mừng hớn hở, liền dùng hoa trời dâng lên đức Phật kia, hồi hướng phát nguyện: “Mong sao đời sau của con, khi Bồ-tát này được thành Phật, cũng như hôm nay, Phật hiện tiền thọ ký Đại Bồ-đề, cũng thọ ký cho con như thế”. Nên nay Ta thọ ký cho nàng.
Khánh Hỷ nghe Phật dạy, vui mừng hớn hở, bạch:
– Kính bạch Thế Tôn! Người tỷ muội này từ lâu đã tu tập tâm đại Bồ-đề, hồi hướng phát nguyện, nay được thành thục.
Phật bảo Khánh Hỷ:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Đúng như lời ông nói.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm sao hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hiện nhập định Không?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức Không, khi quán như thế không làm cho tâm loạn. Nếu tâm không loạn thì như thật thấy pháp, tuy như thật thấy pháp nhưng không chứng đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm sao tuy thấy pháp là Không, mà không chứng đắc?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Các Bồ-tát này khi quán pháp Không, trước hết nghĩ: Ta nên quán tướng các pháp đều Không, mà ở trong đó chẳng nên chứng đắc. Ta vì học nên quán pháp Không, chẳng vì chứng mà quán pháp Không. Nay là thời gian học, chẳng phải thời gian chứng. Các Bồ-tát này chưa nhập vào ngôi vị định, nhiếp tâm ở cảnh chẳng phải cảnh khi nhập định. Bấy giờ, Bồ-tát chẳng thối thất pháp Bồ-đề phần, chẳng sạch các lậu. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thành tựu căn lành trí tuệ rộng lớn, có thể tự nghĩ kỹ: Ta đối với pháp Không, bây giờ là thời gian học, chẳng phải thời gian đắc. Ta nên giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán các pháp Không, viên mãn tất cả pháp Bồ-đề phần. Nay không nên chứng thật tế (Niết-bàn), rơi vào địa vị Nhị thừa, không đắc Bồ-đề.
Giống như có người lực lưỡng, dũng mãnh, đứng đi vững chắc, hình dáng đoan nghiêm, sáu mươi bốn tài năng đều đầy đủ. Đối với các kỹ thuật khác, học đến chỗ rốt ráo; đầy đủ nhiều công đức giới luật tối thắng, thông minh trí tuệ, nói năng khéo léo, thường giỏi đối đáp, đủ từ đủ nghĩa; có thế lực lớn, làm bất cứ điều gì đều có thể thành tựu sự nghiệp tốt đẹp, nên ít công lợi nhiều; do đó mọi người đều kính mến. Có nhân duyên nên người ấy đem cha mẹ, vợ con, quyến thuộc đi đến nơi khác. Giữa đường, ngang qua đồng hoang, hiểm nạn, trong đó có nhiều thú dữ, oán tặc; thân thuộc lớn bé đều rất kinh hoàng. Người đó nhờ vào nhiều kỹ thuật, sức mạnh, sự dõng mãnh nên thân ý thư thái, an ủi cha mẹ, vợ con, quyến thuộc: “Chớ có lo buồn, chắc chắn con sẽ giúp thoát khổ, mau vượt qua đồng hoang, đến chỗ an ổn.”
Bấy giờ, người kia hóa làm các thứ binh trượng bén nhọn, gặp các oán địch làm cho bọn họ trông thấy, tự nhiên giải tán. Nên tráng sĩ kia ở giữa đồng hoang, ác thú, oán tặc mà không bị tổn hại, phương tiện khéo léo đưa các quyến thuộc nhanh chóng vuợt qua đồng hoang, đến chỗ an vui.
Các chúng Bồ-tát cũng như thế, thương xót các loài hữu tình bị khổ sanh tử, luôn luôn an trụ từ, bi, hỷ, xả, bảo vệ căn lành thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo như Phật đã hứa khả mà hành trì, đem các công đức, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tuy tu viên mãn pháp Không, nhưng chẳng chứng đắc, hết lòng thương xót, nghĩ đến tất cả hữu tình; đối với các hữu tình muốn ban cho họ sự an lạc.
Các Bồ-tát này vượt các loại phiền não, cũng vượt các loại ma và địa vị Nhị thừa. Tuy trụ định Không nhưng chẳng hết các lậu, tuy trụ học Không mà chẳng chứng đắc. Bấy giờ Bồ-tát trụ trong định Không, tuy chẳng chấp tướng mà chẳng chứng vô tướng. Như chim có cánh khỏe, bay lượn giữa hư không, nhào liệng tự tại, lâu mà không bị rơi xuống. Tuy nương hư không đùa giỡn mà chẳng trụ hư không, cũng chẳng bị hư không làm trở ngại. Các chúng Bồ-tát này cũng như thế, tuy học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng chẳng trụ không, vô tướng, vô nguyện. Cho đến khi Phật pháp chưa được viên mãn cùng cực thì hoàn toàn không nương nơi đó, dứt hẳn các lậu.
Như có người khỏe mạnh, thông thạo nghệ thuật bắn cung, muốn biểu diễn tài nghệ của mình, ngửa mặt bắn lên hư không, vì muốn mũi tên ở trên hư không không rơi xuống đất nên lại lấy mũi tên sau bắn đuôi mũi tên trước… Lần lượt như thế, trải qua nhiều giờ, mũi tên trước, mũi tên sau nương nhau không rơi xuống đất. Nếu muốn cho rơi xuống thì ngưng bắn mũi tên sau, thì các mũi tên mới rơi xuống.
Các Bồ-tát này cũng như thế, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, giữ gìn phương tiện thiện xảo thù thắng, cho đến khi căn lành chưa cùng cực thuần thục thì nửa đường hoàn toàn chẳng chứng thật tế. Nếu khi căn lành đã thuần thục, liền chứng thật tế, đắc đại Bồ-đề.
Thế nên Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo đều nên như thế, quán sát kỹ pháp tánh sâu xa. Nếu chưa cùng cực viên mãn pháp của chư Phật thì chẳng nên chứng đắc.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
– Thật kỳ lạ, kính bạch Thế Tôn! Thật hy hữu, kính bạch Thiện thệ! Các Bồ-tát này thường làm việc khó làm, tuy học pháp sâu xa nhưng không chứng đắc.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Các Bồ-tát này thề không xả bỏ tất cả hữu tình nên có thể làm xong việc như thế. Nghĩa là các Bồ-tát phát tâm rộng lớn, vì giải thoát khổ sanh tử cho hữu tình nên tuy luôn phát khởi ba môn giải thoát mà ở nửa đường chẳng chứng thật tế. Vì sao? Vì muốn độ thoát họ nên chẳng bỏ vậy. Được phương tiện thiện xảo hộ trì nên trong thời gian đó chẳng chứng thật tế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát đối với chỗ sâu xa, muốn dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa quán sát kỹ thì đó là cách thức tu hành ba pháp môn giải thoát Đẳng trì là: Không, vô tướng, vô nguyện. Các Bồ-tát này nên nghĩ: Hữu tình luôn luôn phát khởi tưởng hữu tình, chấp có sở đắc, đưa đến các nẻo tà kiến xấu, luân hồi sanh tử, chịu khổ không cùng. Ta vì dứt trừ nẻo tà kiến xấu kia nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên vì các hữu tình thuyết pháp sâu xa Không, làm cho dứt trừ chấp kia để ra khỏi khổ sanh tử. Thế nên tuy học pháp môn giải thoát Không, mà chẳng chứng thật tế trong khoảng thời gian đó.
Các Bồ-tát này do phát khởi niệm phương tiện thiện xảo này, tuy ở trong khoảng thời gian đó chẳng chứng thật tế, mà không thối thất bốn pháp Thắng định là: Từ, bi, hỷ, xả. Vì sao? Vì các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên càng tăng bạch pháp, các căn lanh lợi dần; lực giác đạo chi (thất giác chi và bát chánh đạo) càng tăng trưởng lợi ích.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát này nên nghĩ: Hữu tình từ lâu ở trong các tướng phát khởi các loại chấp trước, do đây luân hồi chịu khổ không cùng. Ta vì dứt các tướng chấp kia nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thuyết pháp vô tướng cho các hữu tình, khiến cho dứt tướng chấp để ra khỏi khổ sanh tử. Do đây thường nhập Đẳng trì vô tướng. Các Bồ-tát này do trước đây thành tựu phương tiện thiện xảo và đã phát sanh tác ý, nên tuy luôn hiện nhập Đẳng trì vô tướng mà trong khoảng thời gian đó chẳng chứng thật tế, chẳng thối thất bốn định vô lượng. Vì sao? Vì các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên càng tăng bạch pháp, các căn lanh lợi dần; lực giác đạo chi càng thêm tăng trưởng lợi ích.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này nghĩ: Hữu tình từ lâu tâm chúng thường phát khởi tưởng thường, tưởng lạc, tưởng ngã, tưởng tịnh, do đó phát sanh chấp trước điên đảo, luân hồi sanh tử chịu khổ không cùng. Ta vì dứt bốn điên đảo nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thuyết pháp không điên đảo cho các hữu tình. Nghĩa là nói sanh tử không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, duy chỉ có Niết-bàn tịch tĩnh vi diệu, đầy đủ các thứ công đức chơn thật. Do đó thường nhập Đẳng trì vô nguyện. Các Bồ-tát này do trước đây thành tựu phương tiện thiện xảo và phát khởi tác ý, nên tuy thường hiện nhập Đẳng trì vô nguyện, nhưng các Phật pháp chưa rốt ráo viên mãn, thì trong khoảng thời gian đó không chứng thật tế, chẳng thối thất bốn định vô lượng. Vì sao? Vì các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì nên càng tăng bạch pháp, các căn lanh lợi dần; lực giác đạo chi càng thêm tăng trưởng lợi ích.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này nghĩ: Hữu tình trước đây đã luôn luôn hành có sở đắc, nay cũng hành có sở đắc; trước đã hành có tướng, nay cũng hành có tướng; trước đã hành điên đảo, nay cũng hành điên đảo; trước đã hành tưởng hòa hiệp, nay cũng hành tưởng hòa hiệp; trước đã hành tưởng hư vọng, nay cũng hành tưởng hư vọng; trước đã hành tà kiến, nay cũng hành tà kiến. Do đây luân hồi chịu khổ không cùng. Ta vì dứt trừ tội lỗi như thế cho hữu tình nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thuyết pháp sâu xa cho họ, khiến lỗi lầm của họ đều dứt trừ hẳn, chẳng còn luân hồi chịu khổ sanh tử, mau chứng Niết-bàn thường lạc chơn tịnh.
Các Bồ-tát này nhờ rất thương xót nghĩ đến tất cả hữu tình nên mới thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, thường ưa quán sát pháp tánh sâu xa, đó là: Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô tánh, thật tế.
Các Bồ-tát này thành tựu tri kiến thù thắng như thế, nếu rơi vào pháp vô tướng, vô tác, hoặc trụ ba cõi thì hoàn toàn không có điều đó.
Các Bồ-tát này thành tựu công đức thù thắng như thế mà xả bỏ hữu tình để thẳng đến viên tịch, chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng lợi ích hữu tình, cũng không có diều đó.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì cần nên thưa hỏi các Bồ-tát khác: Bồ-tát làm sao tu tập tất cả pháp Bồ-đề phần? Phát khởi tâm nào để có thể làm cho Bồ-tát học không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô tánh, thật tế, mà không chứng đắc nhưng vẫn tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Nếu các Bồ-tát khác khi được hỏi như thế mà trả lời: Các chúng Bồ-tát chỉ nên tư duy về không, vô tướng v.v… chứ chẳng dạy: Cần phải ghi nhớ, không từ bỏ tất cả hữu tình và cứu độ bằng phương tiện thiện xảo thù thắng, thì nên biết Bồ-tát đó trước đây chưa từng được chư Phật thọ ký Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia chưa có thể chỉ dạy và phân biệt rõ ràng về địa vị Bất thối chuyển và pháp tướng Bất cộng của các chúng Bồ-tát; vì chẳng biết rõ ràng về điều người ta thưa hỏi về các tướng hành trạng của địa vị Bất thối chuyển và cũng chẳng thể trả lời được.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Có nhân duyên nào để biết được đó là các Bồ-tát Bất thối chuyển không?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Cũng có nhân duyên để biết các Bồ-tát đó là Bất thối chuyển. Nghĩa là có các Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoặc nghe, hoặc chẳng nghe, cũng có thể trả lời đúng những điều người ta thưa hỏi trước đây và có thể thực hành đúng các hạnh của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển. Do nhân duyên đó nên biết, Bồ-tát đó là Bất thối chuyển.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì có nhiều Bồ-tát hành hạnh Bồ-đề mà lại ít có vị có thể trả lời đúng được?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Mặc dù có nhiều Bồ-tát hành hạnh Bồ-đề nhưng có ít Bồ-tát được thọ ký đắc trí tuệ vi diệu ở địa vị Bất thối chuyển như thế. Nếu có vị nào được thọ ký như thế thì vị ấy có thể trả lời đúng.
Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này căn lành trong sáng, trí tuệ rộng sâu. Trời, người, A-tố-lạc v.v… trong thế gian không thể phá hoại tâm đại Bồ-đề.
XIX. PHẨM MỘNG HÀNH
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát cho đến trong giấc mộng chẳng đắm trước ba cõi và cũng chẳng ca ngợi địa vị Nhị thừa, tuy quán các pháp như những gì thấy trong giấc mộng, nhưng đối với Niết-bàn có thể chẳng thủ chứng, thì đó là tướng Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy Phật thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn Đại chúng vây quanh, hoặc thấy tự thân có việc như thế thì đó là tướng các Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy Phật đủ các tướng tốt, có hào quang chiếu sáng rực rỡ bao chung quanh một tầm, cùng vô lượng chúng phóng lên hư không, hiện các đại thần thông, giảng thuyết các điều cốt yếu của chánh pháp và hóa làm người biến hóa, bảo đi đến vô biên cõi Phật ở phương khác làm các Phật sự. Hoặc thấy tự thân có việc như thế thì đó là tướng các Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy kẻ giặc dữ phá hoại thành ấp, hoặc thấy lửa cháy bùng lên thiêu đốt xóm làng, hoặc thấy thú dữ muốn đến hại mình, hoặc thấy oan gia muốn chém đầu mình, hoặc thấy cha mẹ sắp chết, hoặc thấy mình bị các việc khổ đến bức bách…; tuy thấy các việc sợ hãi như thế nhưng chẳng kinh sợ, cũng chẳng lo buồn, khi thức dậy luôn tư duy đúng đắn: Ba cõi chẳng chơn thật, đều như chiêm bao. Khi ta đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sẽ thuyết pháp cho các hữu tình biết ba cõi đều là hư vọng, đều như cảnh chiêm bao, thì đó là tướng các Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát cho đến trong giấc mộng thấy có các loài hữu tình ở cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, liền nghĩ: Ta phải siêng năng tu hạnh Bồ-tát, mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ở trong cõi Phật của ta không có những cảnh giới và tên xấu ác như địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ… Khi thức dậy cũng nghĩ như thế. Thiện Hiện nên biết, các Bồ-tát ấy khi thành Phật, quốc độ thanh tịnh, không có nẻo ác và tên của cõi kia, thì đó là tướng các Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc các Bồ-tát trong giấc mộng thấy lửa thiêu đốt các loài hữu tình trong địa ngục v.v…, hoặc lại thấy thiêu đốt xóm làng, thành ấp, liền phát nguyện: “Nếu ta đã được thọ ký Bất thối chuyển thì nguyện lửa dữ này tắt ngay, biến thành mát mẻ.” Khi Bồ-tát này khi phát nguyện như thế, trong giấc mộng thấy lửa lập tức tắt ngay, thì nên biết đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu Bồ-tát này khi phát nguyện như thế mà trong giấc mộng thấy lửa chẳng tắt ngay, thì nên biết chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Khi thức dậy, thấy lửa thiêu đốt các thành ấp, theo nguyện, lửa tắt hay chẳng tắt cũng như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi thức dậy thấy lửa thiêu đốt các thành ấp, liền nghĩ: Nếu ta thật có tướng Bất thối chuyển thì nguyện lửa dữ này lập tức tắt ngay và biến thành mát mẻ. Nghĩ xong, nói ra nhưng lửa chẳng tắt ngay, lại còn thiêu đốt từ làng này lan qua làng khác, hoặc thiêu đốt từ nhà này lan qua nhà khác. Lần lượt như thế lửa đó mới tắt, thì nên biết các Bồ-tát này cũng đã được thọ ký Bất thối chuyển, nhưng bị thiêu đốt là do ương họa của hủy báng chánh pháp còn lại, hoặc biểu hiện tướng khổ của hủy báng chánh pháp ở tương lai.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc các Bồ-tát thấy có nam tử hoặc nữ nhơn đang bị phi nhơn mê hoặc, chịu các khổ não, chẳng thể xa lìa, liền nghĩ: Nếu các đức Như Lai biết ta đã được ý muốn thanh tịnh, biết ta đã được thọ ký Bất thối chuyển, đã xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…, chắc chắn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nguyện các ngài rủ lòng thương xót, soi xét tâm niệm của ta đã nghĩ. Nếu ta thật có thể tu hạnh Bồ-tát, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp dứt khổ sanh tử cho hữu tình thì nguyện nam tử hoặc nữ nhơn này chẳng bị phi nhơn làm não loạn. Chúng theo lời ta nói sẽ lập tức bỏ đi. Các Bồ-tát này khi nói như thế, nếu phi nhơn kia chẳng chịu bỏ đi thì nên biết chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu phi nhơn kia lập tức bỏ đi, thì nên biết đã được thọ ký Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát thật chưa được thọ ký đắc Bất thối chuyển, thấy nam tử hoặc nữ nhơn đang bị phi nhơn mê hoặc, chịu các khổ não chẳng thể xa lìa, bỗng dưng liền phát lời chân thật, chí thành: “Nếu ta đã được thọ ký Bất thối chuyển thì khiến cho nam tử hoặc nữ nhơn này chẳng bị phi nhơn làm rối loạn. Phi nhơn vâng theo lời ta sẽ nhanh chóng bỏ đi.” Khi ấy, ác ma vì dối gạt người kia nên liền xua đuổi, hối thúc, làm cho phi nhơn lập tức bỏ đi. Vì sao? Vì oai lực của ác ma mạnh hơn phi nhơn, nên phi nhơn vâng lời ma lập tức bỏ đi. Khi ấy Bồ-tát kia nghĩ: Phi nhơn bỏ đi là nhờ oai lực của ta. Vì sao? Vì phi nhơn kia vâng theo lời thệ nguyện của ta, lập tức buông thả những nam tử, nữ nhơn này, chứ không do nguyên nhân nào khác. Các Bồ-tát này chẳng thể biết rõ được là việc làm của ma, mà bảo là do năng lực của mình, sanh tăng thượng mạn, khinh chê các Bồ-tát khác. Nên tuy siêng năng tinh tấn nhưng hoàn toàn chẳng thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, rơi vào hàng Nhị thừa, luôn bị ác ma mê hoặc. Do đó Bồ-tát nên hiểu biết rõ về việc tu các thiện nghiệp của các ác ma.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát thật chưa được thọ ký đắc Bất thối chuyển, xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa nên chưa khỏi bị ma dối gạt. Nghĩa là có các ác ma vì muốn lừa gạt nên phương tiện biến hóa ra các thứ hình tướng, đi đến chỗ Bồ-tát nói thế này: “Bạn có biết không? Chư Phật quá khứ đã từng thọ ký cho bạn đại Bồ-đề. Tên tuổi sai khác trong bảy đời của bạn cho đến quyến thuộc, ta đều biết hết. Bạn sanh ở phương đó, nước đó, thành đó, ấp đó, trong xóm làng đó. Bạn sanh năm đó, tháng đó, ngày đó, giờ đó, sanh vào ngôi sao của Thiên vương đó…”
Như thế, ác ma nếu thấy Bồ-tát bẩm tánh yếu đuối, các căn ám độn, liền dối trá thọ ký: “Bạn ở đời trước bẩm thọ căn tánh đã từng như thế.”
Nếu thấy Bồ-tát bẩm tánh kiên cường, các căn sáng suốt, lanh lợi, liền dối trá thọ ký: “Bạn ở đời trước cũng từng như thế.”
Nếu thấy Bồ-tát đầy đủ các công đức Ðầu-đà và hạnh thù thắng khác, liền dối trá thọ ký: “Bạn ở đời trước cũng từng như thế, đầy đủ các công đức, nên tự vui mừng, chớ nên tự khinh.”
Bấy giờ, các Bồ-tát kia nghe ác ma nói về các công đức quá khứ, hiện tại của mình, vui mừng hớn hở, sanh tăng thượng mạn, chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác. Ác ma biết xong, lại bảo: “Bạn nhất định thành tựu công đức thù thắng, chư Phật đã thọ ký cho bạn đại Bồ-đề nên đã có tướng điềm lành thù thắng hiện tại hiện ra như thế.”
Ác ma vì làm rối loạn nên lại dối hiện làm các thứ hình tướng, đi đến chỗ Bồ-tát tỏ vẻ thân ái, nói: “Bạn nay đã đủ đức Bất thối chuyển, nên tự kính trọng, chớ nên tôn kính người.” Khi Bồ-tát này nghe những lời của ác ma xong, lòng tăng thượng mạn lại càng vững chắc thêm, khiến cho vốn đã xa trí nhất thiết trí lại càng xa hơn. Cho nên, Bồ-tát muốn đắc Bồ-đề phải biết rõ về các việc làm của ác ma.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát chẳng thể biết rõ danh tự thật tướng, chỉ nghe danh tự hư dối, sanh chấp trước. Có ác ma phương tiện biến hóa các thứ hình tướng, đến bảo Bồ-tát: “Sự tu hành của bạn, hạnh nguyện đã viên mãn, không lâu sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Khi bạn thành Phật sẽ được danh hiệu tôn quí và công đức thù thắng như thế.” Nghĩa là ác ma kia biết Bồ-tát này luôn luôn ước nguyện: Khi ta thành Phật sẽ được danh hiệu tôn quí như thế, nên ác ma theo ước nguyện đó mà thọ ký cho. Khi ấy, Bồ-tát này vì xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghe ma thọ ký nên suy nghĩ: Lạ thay! Người này thọ ký cho ta sẽ thành Phật với danh hiệu tôn quý, tương ưng với ước nguyện từ lâu của ta. Vậy chắc chắn ta sẽ thành Phật với danh hiệu tôn quý hơn người khác. Ác ma thọ ký danh hiệu cho người kia như thế, như thế… Vì vậy mà kiêu mạn tăng mãi, khinh miệt các Bồ-tát có thật đức khác. Do đó càng xa lìa Vô thượng Bồ-đề, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác.
Các Bồ-tát này hoặc có thân như thế, gần gũi bạn lành, chí thành sám hối, tuy trôi lăn trải qua nhiều đời sanh tử, nhưng cuối cùng sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Hoặc có thân này, chẳng gặp bạn lành chí thành sám hối thì người kia nhất định trôi lăn sanh tử, nhiều đời ngu si điên đảo. Về sau mặc dù có tinh tấn tu các nghiệp lành nhưng vẫn rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, kiêu mạn khinh chê các Bồ-tát khác, như thế tội nặng hơn tứ trọng và ngũ vô gián gấp vô lượng lần. Thế nên Bồ-tát phải hiểu rõ về sự thọ ký với danh hiệu hư dối v.v… là việc làm vi tế của ma, không nên kiêu mạn khinh chê Bồ-tát khác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát ở núi rừng, đồng hoang, tu hạnh viễn ly. Bấy giờ có ác ma đi đến chỗ Bồ-tát đó, cung kính khen ngợi, nói thế này: “Ðại sĩ thường tu hạnh chơn thật viễn ly, hạnh viễn ly này Hiền Thánh khen ngợi, chư Thiên, long thần đều bảo vệ.”
Thiện Hiện nên biết! Ta chẳng khen ngợi hạnh viễn ly này cho là chơn thật.
Thiện Hiện bạch:
– Bạch Thế Tôn! Hạnh viễn ly này nếu chẳng phải chơn thật thì còn có hạnh nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Nếu các Bồ-tát ở thành ấp, hoặc ở núi rừng, đồng hoang, chỉ xa lìa phiền não, tác ý Nhị thừa, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì gọi là hạnh chơn viễn ly của Bồ-tát. Hạnh viễn ly này chư Phật Thế Tôn chấp nhận, khen ngợi. Bồ-tát nên học, làm cho các Bồ-tát mau chứng Bồ-đề.
Thiện Hiện nên biết! Ma khen ngợi người thường ở núi rừng, đồng hoang, ngồi yên tịnh tư duy, nhưng còn xen tạp phiền não, tác ý Nhị thừa, xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng thể viên mãn trí nhất thiết trí.
Có các Bồ-tát tuy ưa tu hành pháp hạnh viễn ly, được ma khen ngợi mà sanh lòng khinh miệt các Bồ-tát khác thường ở xóm làng thành ấp tu hạnh chơn viễn ly, thì Thiện Hiện nên biết, các Bồ-tát này xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, tuy trải qua thời gian lâu ở núi sâu, đồng hoang, tu hạnh viễn ly, nhưng chẳng biết rõ pháp chơn viễn ly, tăng thêm kiêu mạn, càng sanh ưa đắm địa vị Nhị thừa, hoàn toàn chẳng thể đắc Vô thượng Bồ-đề, chẳng phải là điều Phật Thế Tôn khen ngợi, chấp nhận; cũng chẳng phải chỗ nên tu hành của Bồ-tát.
Thiện Hiện nên biết! Ta khen ngợi pháp chơn tịnh viễn ly của các chúng Bồ-tát. Các Bồ-tát này hoàn toàn chẳng thành tựu hạnh ấy. Ở trong hạnh chơn tịnh viễn ly cũng chẳng thấy có hành tướng tương tợ, nhưng các ác ma vì lừa gạt Bồ-tát kia, làm cho sanh kiêu mạn, khinh Bồ-tát khác, nên đi đến trong không trung ân cần khen ngợi: Đây là pháp hạnh chơn tịnh viễn ly.
Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này ở núi rừng, đồng hoang nhưng tâm náo loạn, chẳng thể tu học hạnh chơn viễn ly. Có các Bồ-tát tuy ở xóm làng, thành ấp nhưng tâm tịch tĩnh, thường hay tu học hạnh chơn viễn ly.
Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối với các chúng Bồ-tát thường tu học hạnh chơn viễn ly, khinh chê hủy báng như kẻ hàng thịt; còn đối với các chúng Bồ-tát chẳng thể tu học hạnh chơn viễn ly thì cung kính, cúng dường, tôn trọng như Phật Thế Tôn.
Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát sanh các thứ phân biệt chấp trước, nghĩ: Sự tu học của ta là chơn viễn ly, nên được phi nhơn đi đến chỗ ta khen ngợi, hộ niệm. Người ở thành ấp thân tâm rối loạn, ai mà hộ niệm, khen ngợi, kính trọng! Các Bồ-tát này tâm nhiều kiêu mạn, ác nghiệp phiền não ngày đêm tăng trưởng.
Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối với chúng Bồ-tát là kẻ hàng thịt, làm nhơ nhớp chúng Đại Bồ-tát, cũng là kẻ giặc lớn trên cõi trời, trong loài người; dối gạt trời, người, A-tố-lạc v.v… Thân tuy mặc pháp y của Sa-môn nhưng tâm thường ưa ôm ấp ý như kẻ giặc. Những bậc phát tâm hướng đến Bồ-tát thừa thì chẳng nên gần gũi, cung kính, cúng dường họ. Vì sao? Vì những hạng người này ôm lòng tăng thượng mạn, bề ngoài thì giống như Bồ-tát nhưng bên trong lại nhiều phiền não, ác nghiệp dẫy đầy.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát chân thật chẳng bỏ trí nhất thiết trí, cầu chứng Vô thượng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho khắp tất cả loài hữu tình thì không nên gẫn gũi hạng người ác như thế.
Thiện Hiện nên biết! Các chúng Đại Bồ-tát phải thường tinh tấn tu sự nghiệp chơn tịnh, nhàm lìa sanh tử, chẳng đắm trước ba cõi, đối với hạng người hàng thịt và ác tặc kia luôn phát tâm từ bi hỷ xả, nghĩ: Ta chẳng nên phát khởi tội lỗi như kẻ ác kia. Giả sử lúc bị thất niệm, thoáng khởi lên như họ, liền tỉnh giác trừ diệt.
Thế nên Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phải tỉnh giác biết rõ việc của các ác ma, siêng năng tinh tấn xa lìa, trừ diệt tội lỗi như Bồ-tát kia đã tạo, siêng năng cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Nếu các Bồ-tát học như thế thì chính là khéo tỉnh giác về việc làm của ma.