1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25

QUYỂN 553

XXV. PHẨM TẤN TỐC 02

Thiện Hiện nên biết! Ví như mặt đất, ít chỗ sanh ra vàng bạc, châu báu; nhiều chỗ sanh ra đất mặn, nuôi các vật. Các loài hữu tình cũng như vậy, ít người học Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhiều người học pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Ví như loài người, phần ít có thể làm vua Chuyển luân, phần nhiều làm các vua nhỏ. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít có thể tu đạo trí nhất thiết trí, phần nhiều tu đạo Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Ví như trong trời Ðịa cư cõi Dục, phần ít có thể tạo nghiệp trời Ðế Thích, phần nhiều tạo nghiệp của các trời khác. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phần nhiều cầu quả Thanh văn, Độc giác thừa.

Thiện Hiện nên biết! Ví như trong tịnh lự thứ nhất, cõi Sắc phần ít có thể tu nghiệp đại Phạm Vương, phần nhiều tu nghiệp các chúng Phạm Thiên. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít đạt được không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phần nhiều vẫn còn thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các loài hữu tình phần ít có thể phát tâm đại Bồ-đề, trong số đó càng ít người có thể tu hạnh Đại Bồ-tát, trong đó càng ít người có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong đó càng ít người đạt được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong đó rất ít người có thể đạt được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đi vào số hữu tình rất ít ấy thì nên siêng năng tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho đạt được không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì không phát sanh tâm tương ưng với nhu nhược, không phát sanh tâm tương ưng với nghi ngờ, không phát sanh tâm tương ưng với tham lam, không phát sanh tâm tương ưng với phạm giới, không phát sanh tâm tương ưng với giận dữ, không phát sanh tâm tương ưng với lười nhác, không phát sanh tâm tương ưng với tán loạn, không phát sanh tâm tương ưng với hiểu biết sai lầm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì có thể bao gồm tất cả Ba-la-mật-đa, có thể tập họp tất cả Ba-la-mật-đa, có thể dẫn đường tất cả Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dung chứa tất cả Ba-la-mật-đa vậy.

Thiện Hiện nên biết! Như tà ngụy thân kiến bao gồm khắp tất cả sáu mươi hai kiến, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vậy, dung chứa tất cả Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát nào tu học đúng đắn phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì phát sanh tất cả Ba-la-mật-đa và làm cho dần dần tăng trưởng.

Thiện Hiện nên biết! Ví như mạng căn gìn giữ các căn, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, luôn gìn giữ tất cả pháp lành thù thắng. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát nào tu học đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể gìn giữ khắp tất cả pháp lành.

Thiện Hiện nên biết! Như mạng căn diệt, thì các căn diệt theo, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy. Nếu Đại Bồ-tát nào thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì chính là thối lui tất cả pháp lành. Nếu Đại Bồ-tát nào tu học đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể diệt trừ khắp tất cả pháp bất thiện.

Thế nên, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đạt đến rốt ráo bờ kia của tất cả Ba-la-mật-đa thì nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào thường siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì thành tối thượng, tối thắng đối với các hữu tình. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thường siêng năng tu học pháp Vô Thượng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý thầy thế nào? Các loài hữu tình ở trong thế giới tam thiên đại thiên này có nhiều không?

Thiện Hiện bạch:

– Bạch Thế Tôn! Các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ còn nhiều vô số, huống là các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên, số đó rất nhiều.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Thiện Hiện nên biết! Giả sử các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên, đồng một lúc đều được làm thân người. Được thân người rồi, đồng một lúc đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh của các Đại Bồ-tát. Tu hành viên mãn rồi, đồng một lúc đều đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lại có Đại Bồ-tát trọn đời thường đem y phục, thức ăn uống, phòng xá, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ vật dụng cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này. Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát này do nhân duyên này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

– Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện thệ!

Phật bảo Thiện Hiện:

– Nếu Đại Bồ-tát nào thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì trải qua khoảng thời gian khảy móng tay, đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng vô số. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa đầy đủ lợi ích lớn, có thể làm cho chúng Đại Bồ-tát mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm thượng thủ của tất cả hữu tình, muốn lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, muốn làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có nơi quay về nương tựa, làm nơi hướng đến cho kẻ không có nơi hướng đến, làm mắt cho người không có mắt, làm ánh sáng cho người không có ánh sáng; kẻ lạc mất đường chánh, chỉ cho họ con đường chánh; người chưa Niết-bàn, làm cho đắc Niết-bàn… thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đi nơi cảnh giới của chư Phật đã đi, muốn ngự nơi địa vị tôn quí của chư Phật Đại tiên đã ngự, muốn an trụ chỗ Phật đã an trụ, muốn rống tiếng đại Sư tử của chư Phật, muốn trỗi trống pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn gióng chuông pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn thăng tòa pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn thổi ốc pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn giảng nghĩa pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn xé rách lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cõi pháp cam lồ của chư Phật, muốn lãnh thọ pháp lạc vi diệu của chư Phật, muốn chứng công đức viên tịnh của chư Phật, muốn dùng một âm thanh giảng thuyết chánh pháp cho tất cả hữu tình cõi tam thiên, làm cho tất cả đều được lợi ích lớn… thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì không có tất cả công đức lợi ích thù thắng ở thế gian hay xuất thế gian nào mà không đạt được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là chỗ nương tựa cho tất cả hạt giống căn lành công đức.

Thiện Hiện nên biết! Ta chưa từng thấy có Đại Bồ-tát nào siêng năng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà không đạt được công đức lợi ích thù thắng của thế gian và xuất thế gian.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy chẳng lẽ cũng đắc công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác sao?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác, các chúng Đại Bồ-tát này cũng đều chứng đắc nhưng không trụ, không đắm trước nơi đó. Bằng chánh kiến thắng trí, quán sát xong, vượt qua địa vị Thanh văn và Độc giác, vào thẳng Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, nên các Đại Bồ-tát này được tất cả công đức căn lành.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên tu học tất cả hạt giống công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác. Mặc dầu không cầu chứng đắc nơi đó nhưng muốn thông suốt đúng đắn tất cả để giảng thuyết, chỉ dạy cho các hữu tình kia.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là gần gũi trí nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường làm lợi ích an vui cho tất cả cùng tận đời vị lai.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu học như vậy thì chính là ruộng phước chơn tịnh cho tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v…, vượt lên trên các ruộng phước của Thanh văn, Độc giác, Sa-môn, Phạm chí ở thế gian, mau chứng được trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu học như vậy thì sanh ra ở chỗ nào cũng không xả bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì nên biết Bồ-tát đó đã được không thối lui trí nhất thiết trí, hiểu biết đúng đắn tất cả pháp, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v… và gần gũi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nghĩ thế này: Ðây là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là thời gian tu, đây là nơi chốn tu, ta là người tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này. Ta nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà vứt bỏ được pháp nên vứt bỏ, nên được phát sanh trí nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát này chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng thể hiểu rõ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là thời gian tu, đây là nơi chốn tu, đây là người tu, đây là pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa, đây là pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa chiếu soi, đây là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà Bát-nhã ba-la-mật-đa chứng đắc. Ai hiểu biết như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghĩ thế này: Ðây chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là thời gian tu, đây chẳng phải là nơi chốn tu, đây chẳng phải là người tu, chẳng phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà xa lìa tất cả pháp nên xa lìa, chẳng phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ chơn như không sai khác vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hoàn toàn không phân biệt, không hiểu rõ tất cả pháp thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

XXVI. PHẨM HUYỄN DỤ

Bấy giờ trời Ðế Thích nghĩ: Nếu Đại Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì còn hơn tất cả loài hữu tình, huống là đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các hữu tình nào nghe thuyết về danh tự của trí nhất thiết trí càng tin hiểu thì còn được lợi lành trong loài người và được đời sống tối thắng ở thế gian, huống là phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc thường lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình nào thường phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lắng nghe kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì các hữu tình khác nên nguyện ưa thích công đức đạt được. Thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… hoàn toàn không thể sánh kịp.

Khi ấy, Thế Tôn biết tâm niệm của trời Ðế Thích nên bảo trời Ðế Thích:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như điều ông nghĩ.

Bấy giờ trời Ðế Thích vui mừng hớn hở, hóa làm hương hoa mầu nhiệm trên cõi trời, dâng lên đức Như Lai và các Bồ-tát. Dâng hoa xong, phát nguyện:

“Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… nào cầu đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì xin đem công đức căn lành đã phát của tôi làm cho tâm nguyện đạt công đức thù thắng của người kia mau được viên mãn, làm cho sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của người kia mau được viên mãn, làm cho sự cầu các pháp tương ưng với trí nhất thiết trí của người kia mau được viên mãn, làm cho sự cầu tự nhiên nhơn và pháp mau được viên mãn, làm cho sự cầu Thánh pháp vô lậu của người kia mau được viên mãn, làm cho tất cả sự muốn nghe pháp của người kia đều được như ý. Nếu người nào cầu Thanh văn, Độc giác thừa thì cũng làm cho sở nguyện của họ mau được đầy đủ.”

Phát nguyện như vậy xong, bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… nào đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì con hoàn toàn không sanh một niệm ý khác làm cho người kia thối lui tâm đại Bồ-đề. Con hoàn toàn không sanh một niệm ý khác làm cho các chúng Đại Bồ-tát nhàm chán, xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lui rớt nơi địa vị Thanh văn, Độc giác v.v… Con hoàn toàn không sanh một niệm tâm khác làm cho các chúng Đại Bồ-tát lui mất ý nghĩ tương ưng với Ðại Bi. Nếu Đại Bồ-tát nào đã hết lòng ưa muốn quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì con nguyện tâm của người ấy càng thêm tinh tấn để mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện các Đại Bồ-tát kia thấy các thứ khổ trong sanh tử, rồi vì muốn lợi ích an vui cho thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… cho nên phát khởi vô số nguyện lớn bền chắc: Con đã qua được biển lớn sanh tử, cũng phải siêng năng độ người chưa qua. Con đã tự mở trói sanh tử rồi, cũng phải siêng năng mở cho người chưa được mở. Con đã được an ổn đối với các thứ sợ hãi về sanh tử, cũng phải siêng năng đem an ổn cho người chưa được an ổn. Con đã chứng đắc Niết-bàn hoàn toàn rồi, cũng phải siêng năng làm cho người chưa chứng đồng chứng đắc.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu loài hữu tình nào hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát sơ phát tâm thì được bao nhiêu phước? Hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát đã từ lâu phát tâm tu các thắng hạnh thì được bao nhiêu phước? Hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì được bao nhiêu phước? Hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát chỉ còn ràng buộc một đời thì được bao nhiêu phước?

Khi ấy, Phật bảo trời Ðế Thích:

– Kiều-thi-ca! Có thể biết được số cân lượng của núi chúa Diệu Cao, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết được số cân lượng của cõi bốn đại châu, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết số cân lượng của thế giới Tiểu thiên, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết được số cân lượng của thế giới Trung thiên, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết số cân lượng của thế giới trong Tam thiên đại thiên này, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì chẳng thể biết được.

Kiều-thi-ca! Giả sử thế giới tam thiên đại thiên chung lại làm thành một cái biển, có người lấy một sợi lông chẻ làm một trăm phần, rồi cầm đầu của một sợi chấm vào trong nước biển đó cho đến khi cạn hết, có thể biết được số giọt nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Khi ấy, trời Ðế Thích bạch Phật:

– Nếu các hữu tình không tùy hỷ đối với vô lượng, vô biên công đức thù thắng của các Đại Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc do tâm tùy hỷ đối với phước đức đã phát sanh của Bồ-tát kia, hoặc không nghe, không biết, không nhớ nghĩ, không tùy hỷ, thì nên biết những người như vậy đều bị ma khống chế, bị ma nắm giữ, là bè đảng của ma, chết ở cõi Thiên ma và sanh đến nơi này. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát cầu thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh của các đại Bồ-tát, hoặc có người phát tâm hết lòng tùy hỷ đối với công đức của người kia, hoặc có người đối với công đức tùy hỷ của người kia, lòng càng nhớ nghĩ tùy hỷ thì đều có thể phá hoại hết tất cả quyến thuộc và cung điện của quân ma, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình cùng tận đời vị lai.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu hữu tình nào hết lòng kính mến Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, sanh ra ở chỗ nào cũng thường muốn được thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng thì đối với công đức căn lành của các chúng Đại Bồ-tát nên hết lòng tùy hỷ. Tùy hỷ xong rồi hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng không nên sanh ý tưởng có hai, không hai. Nếu người nào thường làm được như vậy thì sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phá dẹp các quân ma, lợi ích hữu tình.

Khi ấy, Phật bảo trời Ðế Thích:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Kiều-thi-ca! Nếu các hữu tình nào đối với công đức căn lành của các chúng đại Bồ-tát, hết lòng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì các hữu tình này mau được viên mãn các hạnh Bồ-tát, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nếu các hữu tình nào đối với công đức căn lành của các chúng Đại Bồ-tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các hữu tình này có đầy đủ oai lực, thường luôn phụng thờ tất cả các đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và thiện tri thức, hằng nghe kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và biết rõ nghĩa thú.

Các hữu tình này thành tựu công đức căn lành, tùy hỷ hồi hướng như vậy thì sanh ra ở chỗ nào cũng thường được tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Chẳng thấy sắc xấu, chẳng nghe tiếng xấu, chẳng ngửi mùi dở, chẳng nếm vị dở, chẳng xúc chạm xấu, chẳng nghĩ pháp ác, chẳng đọa nẻo ác, sanh trong trời người thường nhận lãnh vô số việc vui tốt đẹp, nhưng không đắm nhiễm, thường không xa lìa chư Phật Thế Tôn; từ nước Phật này đến nước Phật khác được gần gũi chư Phật, trồng các căn lành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các hữu tình này đối với vô lượng công đức căn lành của các chúng Bồ-tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nhờ nhân duyên này, căn lành tăng trưởng, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề xong, thường như thật lợi ích cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình cùng tận đời vị lai, làm cho trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn.

Vì thế nên, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử trụ Bồ-tát thừa v.v… đối với công đức căn lành của các Bồ-tát đều nên tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ngay khi tùy hỷ và hồi hướng không nên chấp trước. Ngay nơi tâm, lìa tâm, tùy hỷ hồi hướng, không nên chấp trước. Ngay nơi tâm tu hành, lìa tâm tu hành. Nếu người nào không chấp trước như vậy và tùy hỷ hồi hướng, tu hạnh của các Đại Bồ-tát thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, độ các hàng trời, người, A-tố-lạc v.v… thoát khỏi sanh tử, đắc Bát Niết-bàn. Nhờ nhân duyên này, các loài hữu tình đối với công đức căn lành của các Bồ-tát đều nên phát tâm tùy hỷ hồi hướng, có thể khiến cho vô lượng, vô biên hữu tình trồng các căn lành, đạt được lợi ích an vui lớn.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Tâm hoàn toàn như huyễn thì Đại Bồ-tát làm sao có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Ông thấy có tâm như huyễn phải không?

Thiện Hiện bạch:

– Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Ông thấy có huyễn phải không?

Thiện Hiện bạch:

– Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con không thấy huyễn, cũng không thấy có tâm như huyễn.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Nếu ông không thấy huyễn, không thấy tâm như huyễn, hoặc có chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, thì ông thấy có tâm như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đềphải không?

Thiện Hiện bạch:

– Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn chẳng thấy có chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, lại có tâm như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Hoặc chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn thì ông thấy có pháp như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

Thiện Hiện bạch:

– Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn không thấy có chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, lại có pháp như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn không thấy ngay nơi pháp lìa tâm có thể nói những pháp là có, là không, bởi tất cả pháp hoàn toàn lìa vậy. Nếu tất cả pháp hoàn toàn lìa thì không thể trình bày là có hay là không. Nếu pháp nào không thể trình bày là có, là không, thì không thể nói có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì chẳng phải pháp không sở hữu có thể đắc Bồ-đề được vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không sở hữu, tánh của nó bất khả đắc, không nhiễm, không tịnh, hoàn toàn lìa pháp, không sở hữu, nên không thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng hoàn toàn lìa. Nếu pháp hoàn toàn lìa thì pháp đó không nên tu tập, cũng không nên lìa bỏ, lại cũng không nên nêu lên.

Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã hoàn toàn lìa thì vì sao có thể nói các Đại Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Kính bạch Thế Tôn! quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng hoàn toàn lìa, thì vì sao pháp hoàn toàn lìa lại có thể đắc pháp hoàn toàn lìa? Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa đúng ra là không thể nói chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã hoàn toàn lìa; quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng hoàn toàn lìa.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn lìa, nên được lìa hoàn toàn quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải hoàn toàn lìa thì đúng ra chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn lìa nên mới được gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát chẳng phải không nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Tuy chẳng phải lìa pháp hay là được lìa pháp mà đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chẳng phải không y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên, các Đại Bồ-tát đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì phải nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sự thực hành nghĩa thú của các Đại Bồ-tát rất là sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy. Sự thực hành nghĩa thú của các Đại Bồ-tát rất là sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát thường làm việc khó làm. Tuy thực hành nghĩa thú sâu xa như vậy nhưng đối với pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác có thể không chứng đắc.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy, việc làm của các Đại Bồ-tát không khó, đúng ra không nên nói những vị đó thường làm được việc khó làm. Vì sao? Vì sự chứng nghĩa thú của các Đại Bồ-tát hoàn toàn bất khả đắc, sự chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc. Pháp chứng, người chứng, nơi chốn chứng, thời gian chứng cũng bất khả đắc.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe lời như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không lo buồn, ăn năn, không kinh, không sợ thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kính bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát này thực hành như thế, chẳng thấy các tướng, chẳng thấy ta hành, chẳng thấy chẳng hành, chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa là sự tu hành của ta, chẳng thấy quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề là sự chứng đắc của ta, cũng chẳng thấy nơi chốn chứng, thời gian chứng v.v…

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với việc như vậy cũng không thấy thì tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với việc như vậy cũng chẳng thấy thì tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với việc như vậy cũng không phân biệt. Tuy thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng không nghĩ: Ta hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, gần gũi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…

Kính bạch Thế Tôn! Ví như hư không không nghĩ: Ta cách việc kia hoặc xa hoặc gần. Vì sao? Vì hư không không di động, cũng không phân biệt. Vì không phân biệt nên các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác; ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không phân biệt vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như người được biến hóa chẳng nghĩ: chất biến hóa, thầy biến hóa cách ta gần; những người bàng quan v.v… cách ta xa. Vì sao? Vì người được biến hóa ra không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác; ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt đối với tất cả pháp vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như bóng hình không nghĩ: Ta với bóng hình kia đang cách ta gần; các pháp gương, nước v.v… cách xa ta. Vì sao? Vì bóng hình hiện ra không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ thế này: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác; ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không phân biệt vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp không ưa, không ghét. Vì sao? Vì Như Lai đã đoạn trừ tất cả sự ưa ghét, phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên đối với tất cả pháp không ưa, không ghét. Vì sao? Vì giống như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa, đoạn trừ hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt nên đối với các pháp không ưa, không ghét. Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa ngăn chặn hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt nên đối với các pháp không ưa, không ghét.

Kính bạch Thế Tôn! Như những người do các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa hiện ra, không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì những người được hóa hiện ra đó không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt đối với tất cả vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác muốn tạo ra hóa nhân và sai bảo những người được hóa hiện ra đó làm những việc kia. Nhưng những người được biến hóa không nghĩ: Ta thường làm ra sự nghiệp như vậy. Vì sao? Vì những người được biến hóa đó không phân biệt đối với sự nghiệp đã tạo vậy.

Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, vì có sự việc cần phải làm nên siêng năng tu học. Tu học xong, tuy thành tựu sự nghiệp đã tạo nhưng không có sự phân biệt đối với việc đã làm. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt đối với tất cả pháp vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như có người thợ khéo, hoặc học trò của ông ta, vì có việc cần làm nên tạo ra người hoặc nam, hoặc nữ, hoặc voi, ngựa v.v… bằng máy. Các máy móc này tuy có hành động nhưng đối với việc làm đó hoàn toàn không phân biệt. Vì sao? Vì pháp của máy móc là như vậy, không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, có việc cần làm nên phải làm. Làm xong, tuy thành tựu các sự nghiệp khác nhau nhưng đối với sự việc ấy hoàn toàn không phân biệt. Vì sao? Vì pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là như vậy, không phân biệt đối với các pháp vậy.

XXVII. PHẨM KIÊN CỐ 01

Lúc ấy, ngài Xá-lợi Tử hỏi ngài Thiện Hiện:

– Khi các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành pháp bền chắc hay hành pháp không bền chắc?

Thiện Hiện thưa:

– Khi các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành pháp không bền chắc, không hành pháp bền chắc. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và tất cả pháp hoàn toàn không có tánh bền chắc. Vì sao? Vì khi các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì ngay nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và tất cả pháp còn chẳng thấy có pháp không bền chắc có thể đắc, huống là thấy có pháp bền chắc có thể đắc.

Bấy giờ có vô lượng Thiên tử cõi Dục, Thiên tử cõi Sắc đồng nghĩ: Nếu các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… có thể phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì tuy thực hành nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng thường không chứng đắc Niết-bàn, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác. Do nhân duyên này nên loài hữu tình này rất là hiếm có, thường làm được những việc khó làm, phải nên kính lễ. Vì sao? Vì các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này tuy hành tánh pháp nhưng ngay nơi đó không chứng đắc.

Khi ấy, Thiện Hiện biết tâm niệm các Thiên tử nên bảo với họ:

– Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này không chứng Niết-bàn, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, cũng chưa phải là rất hiếm có, cũng chưa phải là khó. Nếu Đại Bồ-tát nào biết tất cả pháp và các hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, mà vẫn phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mặc áo giáp tinh tấn, thề độ vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, giúp vào cảnh giới Vô dư bát Niết-bàn, thì các Đại Bồ-tát này mới thật là hiếm có, thường làm được việc khó làm.

Thiên tử nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào tuy biết hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc mà vẫn phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mặc giáp tinh tấn vì muốn điều phục các loài hữu tình thì giống như có người muốn điều phục hư không. Vì sao? Này Thiên tử! Vì hư không ly, nên biết tất cả hữu tình cũng ly. Hư không Không, nên biết tất cả hữu tình cũng Không. Hư không không chắc thật, nên biết tất cả hữu tình cũng không chắc thật. Hư không không sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng không sở hữu. Do nhân duyên này, Đại Bồ-tát đó mới thật là hiếm có, thường làm được những việc khó làm.

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát này mặc giáp thệ nguyện vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, thì giống như có kẻ mặc áo giáp chiến đấu cùng hư không

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát này mặc giáp thệ nguyện vì muốn lợi ích tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình và áo giáp đại nguyện hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng ly. Vì hữu tình Không, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng Không. Hữu tình không bền chắc, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng không bền chắc. Hữu tình không sở hữu, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng không sở hữu.

Thiên tử nên biết! Việc Đại Bồ-tát này điều phục lợi ích hữu tình cũng bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng ly. Hữu tình Không, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng Không. Hữu tình không bền chắc, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng không bền chắc. Hữu tình không sở hữu, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng không sở hữu.

Thiên tử nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng không sở hữu. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng ly. Hữu tình Không, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng Không. Hữu tình không chắc thật, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng không chắc thật. Hữu tình không sở hữu, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng không sở hữu.

Thiên tử nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe như vậy không chìm đắm, cũng không lo buồn, hối hận, chẳng kinh, chẳng sợ, thì nên biết Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Vì sao? Này Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên phải biết sắc uẩn cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết sắc xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết sắc giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn thức giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn xúc cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết địa giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhân duyên cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết vô minh cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Dự lưu quả cho đến Độc giác Bồ-đề cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết trí nhất thiết trí cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tất cả pháp cũng ly.

Thiên tử nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng khiếp, chẳng chìm, chẳng đắm… thì nên biết Đại Bồ-tát đó là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

– Vì nhân duyên gì các Đại Bồ-tát khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, thì tâm vị đó không kinh, không sợ, không khiếp, không chìm, không đắm?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch:

– Kính bạch Thế Tôn! Do tất cả pháp đều xa lìa nên các Đại Bồ-tát khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó không kinh, không sợ, không khiếp, không chìm, không đắm. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp hoặc sự sợ, đối tượng để sợ, hoặc nơi chốn sợ, thời gian sợ, người sợ v.v… những sợ này hoàn toàn không sở đắc, vì tất cả pháp không thể đắc vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào nghe thuyết việc như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không kinh sợ, không lo buồn, không ăn năn, thì nên biết Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thấy tất cả pháp đều bất khả đắc, chẳng thể trình bày là đối tượng đắm chìm, sự chìm, nơi chốn đắm chìm, thời gian đắm chìm, người đắm chìm v.v… Do các sự đắm chìm v.v… này mà các Đại Bồ-tát nghe như vậy tâm không chìm đắm, cũng không sợ hãi, không lo buồn, không hối hận.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì chư Thiên, Ðế Thích, Ðại Phạm Thiên vương, Chủ thế giới v.v… cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Nếu Đại Bồ-tát nào thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì chẳng những thường được chư Thiên, Ðế Thích, Ðại Phạm thiên vương, Chủ thế giới v.v… cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, mà Đại Bồ-tát này cũng được trời Cực quang tịnh, hoặc trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Tịnh cư và trời, rồng, A-tố-lạc v.v… khác cũng đều kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Đại Bồ-tát này thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương thường hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy tức là làm cho tất cả công đức căn lành mau được viên mãn.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì thường được chư Phật và chư Bồ-tát cùng các trời, rồng, A-tố-lạc v.v… nhớ nghĩ, bảo vệ. Nên biết Đại Bồ-tát đó là người đi đúng chỗ chư Phật đã đi, cũng tu hành đúng hạnh Phật đã tu hành, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này đã được không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả quân ma và các ngoại đạo, bạn bè xấu ác v.v… chẳng thể làm chướng ngại được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này tâm của họ vững chắc hơn Kim cang. Giả sử các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên đều biến thành ma, mỗi một ma này lại hóa ra chừng ấy ác ma. Các ác ma đó đều có vô lượng, vô số thần lực, các ác ma đó dùng hết thần lực của mình cũng chẳng thể làm chướng ngại được Đại Bồ-tát này thực hành được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Để việc các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên đều biến thành ma qua một bên. Giả sử tất cả hữu tình ở thế giới chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương đều biến thành ma. Các chúng ma này lại hóa thành chừng ấy ác ma, các ác ma này đều có vô lượng, vô số thần lực. Các ác ma này dùng hết thần lực của mình cũng chẳng thể làm chướng ngại Đại Bồ-tát này thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được hai pháp thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến không thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Hai pháp đó là:

Một, chẳng bỏ tất cả hữu tình.

Hai, quán sát các pháp đều Không.

Lại nữa Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu hai pháp, thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến không thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Hai pháp đó là:

Một, làm đúng tất cả như những gì đã nói.

Hai, thường được chư Phật hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì các thiên thần v.v… thường đến lễ kính, gần gũi, cúng dường, thưa hỏi khuyến khích. Thưa thế này: “Lành thay Ðại sĩ! Ngài thường thực hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể làm nơi nương tựa cho tất cả hữu tình không có nơi nương tựa, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có chỗ quay về nương tựa, làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ, làm chỗ hướng đến cho kẻ không nơi hướng đến, làm nhà cửa cho kẻ không nhà cửa, làm hòn đảo cho kẻ không hòn đảo, làm ánh sáng cho kẻ mù tối, làm tai mắt cho kẻ điếc đui. Vì sao? Thiện nam tử! Vì nếu thường an trụ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại được.  

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 5 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 6 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 18 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 14 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 21 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 22 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 13 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 16 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 20 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 17 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 19 - Kinh Tạng
  • Kinh Bát Nhã Ba La Mật (Phẩm 46 đến 60) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 12 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 24 - Kinh Tạng
  • Kinh Bát Nhã Ba La Mật (Phẩm 61 đến 75) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 15 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 7 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 8 - Kinh Tạng