QUYỂN 2
Phẩm Thứ Tám: Cô Kim Cương
Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.
Khi đó phu nhân của Vua Ba Tư Nặc là Mạt Lợi, sinh được cô con gái đặt tên là Ba Xà La, (Tàu dịch là Kim Cương). Tướng người rất xấu! Da sần sù hình như da ngựa, tóc tựa long đuôi ngựa, hình vóc không giống người, chẳng khác gì quỷ Dạ Xoa, thực là trên đời chưa từng có một người thứ hai như cô.
Nhà vua thấy Công chúa như vậy, lấy làm buồn giận! Nhưng, không biết làm thế nào phải giao cho một người nuôi riêng nơi nhà kín ngoài ra không dám cho ai biết.
Khi lớn tuổi nhà vua lại càng thêm khó nghĩ, chẳng lẽ nuôi con mãi, không lập gia đình, nếu gả chồng, thì sánh vào hạng người nào? Nhà vua và Hoàng hậu bàn nhau như vầy:
Vua nói: – Bây giờ Kim Cương đã lớn tuổi, bà tính sao, có gả chồng cho nó không?
Hoàng hậu nói: – Tậu Bệ hạ! Tôi nghĩ rất khó! Trong triều văn võ bách quan, ai là người lấy nó, nếu họ nhìn thấy nó họ cũng phải chết khiếp.
Vua nói: – Tôi tính như vầy: Bây giờ sẽ tìm cho nó một người dân thường, nhưng phải dòng quý phái và có học thức, bà nghĩ có được không?
– Vâng! Bệ hạ! Tôi cũng đang nghĩ như vậy!
Ngày mai nhà vua gọi quan Lại thần vào nói rằng:
– Ta có một chút việc riêng. Khanh vào các thôn quê tìm cho ta một người học trò nhà nghèo, chừng hai mươi tuổi, nhưng phải dòng quý phái mới được!
Quan Lại thần đáp:
– Dạ! Hạ thần xin tuân mạng!
Cách ít bữa sau, ông tìm được một thanh niên khôi ngô tuấn tú, ra vẻ bút nghiên kinh sử, và cũng đúng như lời vua dặn. Cậu con nhà quý phái, nhưng chỉ một nỗi nghèo. Chàng được thấy vua triệu vào cung trong dạ mừng thầm và cũng lo thầm! Chưa biết cát hung thế nào? Rồi cùng ông quan này lên đường về kinh.
Tới kinh, Lại thần nói:
– Anh hãy đứng đây để tôi vào tâu vua trước.
– Dạ! Xin đứng đây chờ Ngài.
Lại thần vào trước sân rồng quỳ xuống tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ hạ! Theo thánh chỉ hạ thần đã đi tìm được một thanh niên hiện đương ở ngoài cổng thành!
Nhà vua nói: – Trẫm cho phép, khanh đưa nó vào đây!
Lại thần bái tạ, trở ra đưa chàng vào cung.
Vua hỏi chàng: – Anh năm nay bao nhiêu tuổi?
Đáp: – Kính tâu Hoàng thượng! Con năm nay hai mươi tuổi!
– Học hành thế nào?
– Dạ! Con đương theo học khoa tú tài!
– Cha mẹ còn sống hay chết?
– Dạ! Cha chết đã lâu, còn mẹ già hàng ngày làm mướn cho con đi học!
Vua nói: – Hôm nay kêu ngươi vào đây, vì trẫm có người con gái hình thù xấu xa, trong triều không thể sánh duyên cùng ai được, nghe biết ngươi tuy nghèo, nhưng dòng hào tộc, vậy ta gả con ta cho, ngươi có ưng thuận không?
– Dạ! Muôn tâu Thánh thượng, nhà con có đầy phúc đức nên nay mới được Hoàng thượng ngó tới, thực là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” con xin tuân theo lời ngọc chỉ, không dám trái mạng. Tâu Thánh thượng! Con gái của Thánh thượng tuy xấu, nhưng dầu sao cũng là con của Thánh thượng, là khí huyết của Thánh thượng sinh ra, thực là phước đức cho con vô cùng vô tận, hôm nay nếu Thánh thượng có gả con chó cho con, thì con cũng không dám từ chối, nữa là được diễm phúc sánh hàng Phò mã.
Nhà vua nghe anh nói mỉm cười, rồi định ngày làm lễ đính hôn cho con gái.
Ngày lễ này nhà vua cũng giấu, không cho bá quan và nhân dân biết, chỉ trong hoàng cung làm lễ sơ sơ. Sau cuộc này nhà vua cho hai vợ chồng chàng rể ở riêng một tư thất nơi hậu viên bảy lần cửa khóa cây cối âm u, có vẻ kín đáo. Vua dặn riêng chàng: Luôn luôn để vợ trong cung cấm, nếu có đi đâu phải khóa cửa, và một điều ngặt nhất chớ cho ai ngó thấy, vì lỡ để thiên hạ chê cười!
Từ đó anh học trò nghèo vinh hạnh được nhà vua thâu nạp làm Phò mã, vinh hoa nhất mực lộc nước phấn vua, thoát khỏi nỗi cơ hàn bần khổ nơi hương thôn hủ tục, được dự với những hàng quan liêu trong triều chính, chẳng khác gì đại long thoát khỏi chốn ao tù ra nơi biển cả, phượng hoàng sổ cánh bay bổng chốn mây xanh.
Gặp thời buổi thanh bình bốn phương an lạc, nơi kinh thành những thú vui dồn dập. Khi ấy các quan triều và các nhà quý phái, kết hội với nhau, hàng tháng có những ngày họp mặt, để thưởng thức những thú vui! Ông Phò mã này cũng vào một chân. Khi tới hội ai cũng đem theo vợ, nhưng riêng ông Phò mã chỉ đi có một mình, nên một số người tò mò thắc mắc, tự nói với nhau rằng:
– Ông Phò mã này kỳ nào cũng đi một mình, không thấy vợ đi! Một là vợ đẹp, hai là vợ ông xấu, hôm nay chúng ta tìm cách để xem vợ hắn vì lý do gì mà không tới hội.
Mọi người đều thuận lời bàn ấy, hôm đó họ mời ông Phò mã uống rượu rất say, xong cuộc ăn uống, Phò mã bị say ngủ bất tỉnh, họ cởi trộm lấy chìa khóa rồi sai năm người tới nhà xem cô vợ của ông ra sao?
Giữa lúc Phò mã đi dự hội, cô Kim Cương một mình ngồi trong nhà, thơ thẩn buồn bực tự than rằng:
– Không biết kiếp trước ta tạo tội gì, kiếp này bị thân hình xấu ác, suốt tháng quanh năm vua cha giam giữ trong nhà kín, không nhìn ngó thấy bóng mặt trời mặt trăng cho đến một ai, là thân người không khác gì loài chim lồng cá chậu, thực là khổ quá không biết bày tỏ cùng ai!
Cô lại nghĩ như vậy:
– Hiện nay đức Phật ra đời cứu giúp quần sinh muôn loại, rất nhiều người được hàm ân thoát khổ, ta cũng không được tới nơi Ngài mà chiêm ngưỡng, để cầu Ngài cứu khổ ban vui!
Nói rồi cô lấy hương đốt, hướng về núi Linh Sơn nơi đức Phật ngự, một mình chí thành đảnh lễ khấn rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Mở lượng từ bi thương xót đến con, tới đây để con được cúng dàng, và giáo hóa cho con.
Vì lòng thành kính thiết tha cầu nguyện của cô, nên đức Phật dùng thần túc hiện bay đến chỗ cô ở, đầu tiên Ngài cho cô nhìn thấy tóc của Ngài xanh, nhỏ mềm, có ánh quang minh.
Cô quỳ xuống lễ lạy vui mừng! Nên bộ tóc đuôi ngựa của cô tư nhiên biến thành tóc xanh nhỏ mướt. Lần thứ hai Ngài cho cô nhìn thấy dung nhan như vầng mặt trăng đêm rằm, tươi đẹp siêu phàm. Thấy thế, cô vui mừng! Một lòng tha thiết lễ kính. Vì thế bộ diện sù xì của cô đã biến thành cô gái tiên nga, mắt sáng tựa sao, mồm tươi hoa nở.
Lần thứ ba Ngài hiện toàn thân cho cô chiêm ngưỡng, thân tướng của Ngài như quả núi vàng, làm sáng rực cả căn nhà của cô. Cô sung sướng quá! Lễ kính dưới chân, ăn năn hối lỗi! Vì thế nên những tướng xấu da thô, được tiêu tan, thân cô tự nhiên đoan chính, tươi đẹp siêu nhân.
Tới đây đức Thế Tôn thuyết pháp cho cô nghe. Những diều kiêu mạn sân si nên bỏ, lòng từ bi khiêm nhượng nên tu.
Cô nghe lời giáo hóa, như người được uống nước cam lồ, vội vàng thụp lạy xin thọ giáo. Cũng do lòng thành phát khởi, nên những nghiệp ác của cô đã tạo từ đời quá khứ được tiêu tan, ngay giờ phút ấy tự nhiên trí óc sáng tỏ, chứng được quả Tu Đà Hoàn.
Đức Phật nhận thấy cô đã thoát nghiệp, và chứng quả nên Ngài ẩn hình biến về Linh Sơn.
Đoạn này nói đến năm người, vừa lúc đức Phật ra về thì họ mở cửa bước vào. Nhìn thấy cô họ thưa rằng:
– Thưa cô! Xin lỗi cô, có phải cô là vợ Phò Mã không?
– Thưa phải, các ông tới đây có việc gì?
– Thưa, chúng tôi tới đây có chút việc tư, muốn gặp Phò Mã!
– Hôm nay Phò Mã đi chơi!
Năm người xin cáo lui, ra đường, họ nói cùng nhau rằng:
– Quả nhiên vợ anh đẹp nên anh không mang đi đấy thôi.
Trở về họ trả lại chìa khóa cho Phò Mã. Sau đó Phò Mã tỉnh rượu về nhà nhìn không thấy vợ, chỉ thấy cô gái đẹp!
Ông hỏi:
– Xin lỗi cô tới đây có việc gì?
– Thưa ông tôi là bạn của Kim Cương đây!
– Thưa! Kim Cương đi đâu cô biết không à?
Cô phì cười thưa rằng:
– Đố anh tìm thấy Kim Cương đấy?
Phồ Mã còn đương hoang mang, cô nói tiếp:
– Em chính là Kim Cương, không phải ai đâu? Anh đừng có lạ! Hôm nay em buồn vì sự xấu xa của em nên em đốt hương cầu nguyện đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ tâm cứu tế, Ngài tới đây em được lễ kính nên những tội ác nhiều đời của em được tiêu tan, biến thân gái xấu, đổi thành đẹp, nên anh không nhận được, có phải ai đâu, cửa anh khóa còn ai vào được. Bây giờ anh đến tâu Phụ Vương và Mẫu Hậu để em lên yết kiến.
Phò Mã vui quá! Biết đích là vợ mình, vội lên vương cung tâu vua rằng:
– Tâu Phụ Vương, Kim Cương muốn lên để yết kiến Phụ Vương!
Đáp: – Thôi! Ta bận việc anh cẩn thận, chớ cho nó đi đâu để khi nào ta đến thăm!
Phò Mã tâu: – Tâu Phụ Vương! Kim Cương hôm nay được nhờ công đức Phật biến thân gái xấu đổi thành đoan chính tươi đẹp, giờ đây Phụ Vương có nhìn cũng không nhận được!
Vua nói: – Thế à! Quả như vậy thì anh về mau đem nó lại ta xem.
Phò Mã tất tưởi về đưa vợ lên yết kiến vua và Hoàng hậu, nhìn thấy Kim Cương tươi đẹp khác xưa trong tâm vui vẻ nói:
– Nam mô Phật! Đức Phật xuất thế làm lợi ích cho muôn loài chúnh sinh, con ta hôm nay được Ngài giải thoát tội lỗi, lại được đổi xấu thành đẹp, thực là phúc đức vô lượng! Biết lấy gì đền đáp được Ngài.
Sớm ngày mai nhà vua sửa soan lễ vật, rồi cùng đi yết kiến Phật, tới nơi mọi người đều lễ Phật rồi lui về một bên, vua Ba Tư Nặc bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Chẳng hay đứa con gái của con đời quá khứ làm phước gì, nay được sinh vào nhà tôn quý, và không rõ tạo tội gì, phải chịu thân gái xấu, da tóc thô kịch hình như súc sinh, kính xin Ngài chỉ bảo cho chúng con được biết nguyên do?
Phật nói: – Ông muốn biết tội căn và phước bào của Kim Cương tôi sẽ nói ông hay. Người ta ở trên đời đẹp tốt hay xấu xa cũng do nghiệp hành đời trước, tội hay phước cũng do báo ứng của trần thế.
Thuở đời quá khứ đã lâu lắm, bấy giờ có một nước lớn tên là Ba La Nại, nước ấy có ông Trưởng giả giàu có vô chừng, ông biết tôn kính ngôi Tam Bảo cúng dàng chư Tăng. Ông phát nguyện xin suốt đời cúng dàng một vị Bích Chi Phật, vị ấy thân thể thô kịch hình dáng nhem nhuốc xấu xa, ông có cô con gái còn nhỏ tuổi, khi thấy vị Bích Chi Phật lại nhà, thì sinh lòng khinh mạn rồi nói: Ông này thân thể thô kịch xấu xa, da dẻ sần sù, ghê tớm lắm như vậy. Song Ngài vẫn làm thinh, và thường thường đến nhận các món cúng dàng của ông trưởng giả.
Vị Bích Chi Phật khi sắp tịch diệt vào Niết Bàn, muốn để những người tin theo ngôi Tam Bảo phát khởi lòng tu cho bền chắc, cho tinh tiến; nên Ngài bay lên hư không để hiện các phép thần thông; trên mình Ngài phun ra lửa, dưới phun ra nước, đầy cả hư không rồi hiện bên Đông, lặn bên Tây, hiện bên Nam, lặn bên Bắc; hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đi, hoặc đứng, trên hư không. Khiến cho cả nhà ông Tưởng giả coi thấy phép thần biến, rồi từ trên hư không bước xuống đi vào nhà ông Trưởng giả. Ông rất vui mừng và thận trọng kính mến. Người con gái nhỏ lúc đó tự biết mình có tội nói xấu Ngài, kiếp sau quyết bị quả báo, sợ hãi ăn năn, tới trước chắp tay quỳ thẳng thưa với Ngài rằng: “Muôn xin Tôn giả tha thứ, trước đây con không biết Ngài là bậc Thánh, đem lòng khinh mạn, ác tâm nói xấu tội con quá nặng, kính xin Tôn giả xá tội và chớ để tâm”. Vị Bích Chi Phật cũng thể lòng từ bi cho cô sám hối.
Đại Vương nên biết, người con gái ấy nay là Kim Cương, con của ông, lúc đó ác tâm chê dèm bậc Thánh nhân, cho nên từ kiếp ấy đến nay, sinh vào thế giới nào cũng phải chịu thân hình xấu ác, vì biết hối lỗi, nên nay mới được đoan chính tốt tươi, anh tài vượt chúng, cũng do sự cúng dàng vị Bích Chi Phật nên đời đời thường được sinh vào nhà tôn quý hưởng sự giàu sang sung sướng, và cũng do nhân duyên này mà được giải thoát, như thế đó. Đại Vương! Tất cả chúng sinh phải nên gìn giữ thân, miệng, ý cho cẩn thận chớ nên càn dỡ khinh người chê bai mắng chửi, sau chịu quả báo đau khổ khó mà thoát khỏi.
Bấy giờ vau Ba Tư Nặc và quần thần cùng tất cả đại chúng, nghe Phật nói căn do quả báo của Kim Cương như vậy, ai nấy đều sợ hãi, và phát tâm tin kính, tụ cảm thấy trước Phật, nhân sự tín tâm, nên có người chứng sơ quả cho đến tứ quả, cũng có người phát tâm bình đẳng vô thượng và cũng có người trụ ngôi bất thoái, ai nấy đều khát ngưỡng lời giáo hóa của Phật, vui vẻ tuân theo cúi đầu tạ lễ lui ra.
Phẩm Thứ Chín: Tỳ Khưu Kim Tài
Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng các vị tôn đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người ở đó.
Trong thành này có ông Đại Trưởng Giả, bà phu nhân của ông khi đó sinh được một cậu con trai hình dáng tốt đẹp, trên đời hiếm có, đặt tên là Kim Tài. Nhưng lạ thay, từ lúc cậu lọt lòng ra, đã thấy hai tay nắm chặt, tròn như quả thủ, bà mẹ mở tay cậu xem thấy mỗi tay nắm một đồng tiền vàng, bà liền nhặt lấy hai đồng này lại có hai đồng khác ở tay cậu, bà mẹ lượm mãi, đến nỗi đầy một kho tiền vàng mà tay cậu vẫn có không hết. Nhà ông Trưởng Giả đã giàu, sinh cậu ra lại giàu thêm, thực là một việc kỳ lạ nhất thời đó.
Sau khi lớn tuổi, cậu rất thông minh nghe thấy Phật xuất thế độ sinh, nhiều người theo Ngài tu đạo đều được đắc quả giải thoát, cậu vui mừng và để ý xuất gia theo Phật, nên không lập gia đình. Một hôm cậu lên thưa với cha mẹ rằng:
– Kính thưa song thân! Ở đời tuy giàu có sung sướng, gia đình hạnh phúc vui tươi, nhưng chỉ có tạm thời, không bao lâu đã thấy cảnh già chết đưa lại, nước mắt khóc lẫn nhau, kẻ tham tình ân ái ở thế gian khác chi đứa trẻ con tham mật trên lưỡi dao, đầu tiên liếm thấy ngon ngọt, nhưng đứt lưỡi lúc nào không biết, chỉ có xuất gia tu đạo tìm đường giải thoát là an vui hơn. Vậy cúi xin cho con theo Phật xuất gia tu hành.
Đáp: – Ừ, con nói có lý, việc đó cha mẹ không cấm đoán, cho con được tuỳ ý muốn, cha mẹ vui lòng.
Sau khi được sự đồng ý của ông bà. Kim Tài tìm đến chốn Phật, thấy Phật đoan nghiêm tướng hảo, sinh lòng tin kính vui mừng, sụp lễ trước Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn không biết phúc duyên gì, sinh thời gặp Phật, con tới đây cầu xin Ngài từ bi tế độ, cho con nương dưới bóng Ngài, được tu hành, tìm đường giải thoát!
Đức Phật nhìn thấy Kim Tài có đủ duyên lành, quả Bồ đề sắp được phát sinh, nên Ngài nhận cho nhập đạo rồi nói:
– Kim Tài! Ngươi có túc duyên nên nay được gặp ta, muốn theo giáo pháp của ta, cần phải chăm chỉ thuyền tụng mới chóng được khai ngộ.
Kim Tài thưa: – Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn, con xin thọ giáo.
Đức Phật sai ông Thượng Túc đệ tử cạo đầu may áo, và làm lễ truyền giới Sa di, từ đó Kim Tài được theo hầu Phật tu hành.
Trải qua thời gian lâu năm, Kim Tài đã hai mươi tuổi. Đức Phậ và các vị Đại Đức đăng đàn truyền giới Cụ Túc. Trước khi truyền giới, Kim Tài phải đi đỉnh lể các vị Hòa Thượng, A Xà Lê, mỗi khi lễ xuống đất hai tay rơi ra hai đồng tiền vàng, cứ thế, lễ vị nào cũng nẩy ra hai đồng tiền vàng, tùy theo lễ nhiều thì rơi nhiều, lễ í thì rơi ít. Sau khi được nhận lãnh giới Cụ Túc, Kim Tài chăm chỉ tu hành không bao lâu đã chứng quả A La Hán.
Thấy việc lạ! Nên tôi (A Nan) quỳ xuống bạch Phật rằng:
– Lạy đức Thế Tôn! Không hay Tỷ Khưu Kim Tài trước đây tạo phúc gì lúc mới sinh ra đã có tiền vàng nắm trong tay, kính xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được rõ.
Phật nói: – A Nan! Ông muốn biết nguyên do hãy bình tĩnh để ta kể chuyện cho ông và đại chúng hay!
– Dạ chúng con xin lắng nghe.
Phật nói: – A Nan, ông nên biết, đời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, Có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi, Phật lấy pháp giáo hóa thế gian, độ thoát chúng sinh nhiều không tính xuể. Lúc ấy Phật và Tăng chúng du hành trong nước, các nhà hào phú trưởng giả nhân dân sửa soạn cỗ bàn các món ăn, dùng thuốc thang, chăn áo, đệm gối, mùng màn, đem dâng cúng cầu phước, thuở ấy có một người nhà nghèo hàng ngày phải ra những nơi đồng hoan kiếm củi để độ nhật, vừa lúc anh bán củi được hai đồng tiền, thấy nhà vua thỉnh Phật và Tăng vào cung cúng dàng. Anh tự hận mình thuở tiền sinh không biết cúng dàng cầu phước, nay bị nghèo khổ; nhà vua phước đức lớn lao mà còn ham phước như vậy, huống ta làm kẻ bần tiện lại không biết cúng dàng hay sao? Nghĩ xong dốc lòng lễ kính dưới chân Phật dâng hai đồng tiền lên cúng đức Phật, thương anh Ngài nhận rồi làm phép chú nguyện cho.
A Nan ông nên biết người nghèo thuở đó do phát tâm cúng hai đồng tiền cho nên từ đó tới nay đã trải qua chín mươi mốt kiếp sinh vào thế giới nào cũng được hưởng giàu sang và có hai đồng tiền vàng nằm trong tay; người nghèo nay chính là Tỷ Khưu Kim Tài, ví nay chưa được đạo quả, thì đời vị lai còn được rất nhiều phước báu.
A Nan! Tất cả chúng sinh nên lấy sự cúng dàng bố thí làm sự nghiệp, kẻo kiếp sống dễ qua, khó lại, mà không có chút duyên lành gì làm tư lương cho hậu thế.
Khi bấy giờ tôi (A Nan) và tất cả mọi người trong đại hội nghe Phật nói xong, ai cũng tin kính và phát tâm cúng dàng bố thí, rồi đó, có người được quả Tu Đà Hoàn, người phát ý vô thượng cầu đạo chánh chân, lại cũng có người trụ ngôi bất thoái, mọi người đều tôn kính tuân theo phụng hành, cúi đầu lễ tạ lui ra.
Phẩm Thứ Mười: Hoa Thiên
Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại rừng cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng với những vị Tỷ Khưu lớn, cả thảy một ngàn hai trăm năm mươi vị tại đó.
Nước Xá Vệ khi ấy có một người Hào Trưởng, bà vợ của ông năm đó sinh được cậu con trai, đầu tròn, mặt vuông, khôi ngô tuấn tú tươi đẹp. Giữa lúc sinh cậu, trên trời tự nhiện hoa rơi xuống đầy sân, nhân điềm tướng này ông bà đặt tên cho cậu: Phất Ba Đề Bà. Tàu dịch “Hoa Thiên”.
Dân làng ai cũng khen ông bà nhiều phúc đức, sinh được người con quý. Hào Trưởng vui mừng! Nuôi cậu một cách sung sướng, hy vọng sau này làm nên danh giá cho gia đình chủng tộc, nên ông bà không lúc nào rời lòng yêu dấu cậu, luôn luôn làm những phúc lành để hướng cho cậu. Song tính nết cậu cũng ngoan ngoãn hiếu kính cha mẹ, lại có trí óc minh mẫn và hiền hậu. Đối với mọi người trong nhà như hàng xóm, không làm mất lòng ai bao giờ, lại hay có tâm giúp đỡ người, nên được nhiều người kính mến, xa gần đều cảm phục.
Sau khi lớn tuổi học hành tiến đạt, một hôm theo người thân tín đi cúng dàng Phật. Tới chốn Phật, nhìn thấy Ngài có oai đức phi thường đầy đủ tướng từ bi, quan minh chói sáng, tự phát lòng kính ngưỡng, vui mừng hớn hở rồi thầm nghĩ rằng:
– Người ta sinh trên đời, được gặp Phật là một sự khó, những người được hạnh ngộ, là túc duyên lắm.
Nghĩ xong cậu tới trước Phật, thụp lạy thưa rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con không biết có phước lành gì hôm nay được tới đây chiêm ngưỡng Ngài, cúi xin Ngài từ bi giáo hóa cho chúng con được biết lối tu hành thoát khổ, đời đời được an vui sung sướng.
Phật nói: – Hay lắm! Ngươi có duyên lành, muốn được an vui lâu kiếp, hãy ghi nhớ những lời ta nói:
– Con người phú quý hoặc bần tiện, cũng do tự mình tạo tác, gây nhân ngũ giới được sinh làm người, tạo mười điều lành được sinh thiên, tham xẻn đọa làm quỷ đói, sát hại sinh mạng sân si phải đọa địa ngục, tà kiến vô nhân đạo làm loài súc sinh v.v…
Cậu nghe xong như người đói được ăn, khát được uống, bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn, ngày mai chúng con thành kính sửa trai nghi, cúi xin Ngài và các vị Thánh Tăng dời gót ngọc tới nhà con dùng ngọ và thuyết pháp để cho cha mẹ con, họ hàng con, được ân triêm công đức.
Phật nói: – Con có lòng thành kính Ta và Tăng chúng sẽ chứng lòng cho.
Cậu ta lễ tạ lui ra, về nhà trình bày cùng cha mẹ công việc mời Phật ngày mai, thì hai ông bà rất vui vẻ! Đêm ấy cả nhà đều tấp nập bày tòa trải chiếu tới sáng mới xong, trong nhà chưa sửa soạn được các món ăn, ông bà liền hỏi cậu:
– Bây giờ phải làm những món gì con?
Cậu đáp: – Thưa mẹ! Việc ấy để con lo liệu, mẹ không phải lo!
Khi đức Phật tới, do phúc đức của Hoa Thiên hóa hiện ra những tòa ngồi, bằng thất bảo, nơi nằm, nơi nghỉ, trang nghiêm vô cùng tốt đẹp. Phật và Tăng chúng thăng tòa ngồi yên tĩnh, thì các món ăn ngon lành tự nhiên đầy đủ hiện ra.
Sau khi dùng cơm xong, đức Phật thuyết Pháp nói về “Tứ Diệu Đế”. Hoa Thiên và cả nhà được chứng quả Tu Đà Hoàn.
Sau khi đức Phật về Tịnh Xá. Hoa Thiên xin cha mẹ theo Phật xuất gia cầu đạo giải thoát, vì ông bà đã hiểu đạo, nên thuận lòng cho cậu đi theo Phật tu hành, cậu từ tạ cha mẹ đến Tinh Xá cúi đầu lễ Phật xong thưa rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài từ bi hoan hỷ cho con được xuất gia nhập đạo tu hành, vì đã được sự đồng ý của cha mẹ con.
Phật nói: – Thiện Lai Tỷ Khưu.
Ngài nói dứt lời, tóc trên đầu Hoa Thiên tự nhiên rụng hết, áo mặc tại mình biến thành áo cà sa, thành một hình tướng Sa Môn, tu hành gắng gỏi chẳng bao lâu đã chứng quả A La Hán.
Thấy việc của Hoa Thiên, tôi (A Nan) lấy làm lạ, nên tôi tới trước Phật làm lễ bạch rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Tỷ Khưu Hoa Thiên thuở quá khứ làm phước gì, lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống, khi cúng dàng Phật tự nhiên lại có giường tòa và các món ăn, cúi xin Ngài chỉ giáo để chúng con được rõ.
Phật nói: – A Nan ông muốn biết chuyện của Hoa Thiên hãy lắng nghe ta nói cho ông hay.
Dạ! Chúng con xin chú ý nghe!
Đời quá khứ cách đây đã quá xa xưa, thuở đó có đức Phật hiệu là Tỳ Bà Thi. Phật ứng thế độ sinh, thường thường cùng Tăng chúng vào các làng ấp để giáo hóa, những nhà tôn quý và nhân dân đem các món ăn và dụng cụ ra cúng dàng. Lúc ấy có một người nhà nghèo thấy họ sùng kính cúng dàng cầu phước trong lòng tuy hoan hỷ, nhưng hận mình nghèo, không có gì dâng cúng để làm duyên cho tương lai, anh liền hái hoa cỏ bên lề đường, một lòng thành kính lễ lạy tung lên trên chư Tăng rồi đi.
A Nan chính người nghèo cúng hoa thuở đó, nay là Tỷ Khưu Hoa Thiên, đấy cũng do đời quá khứ có lòng tin kính cúng hoa chí tâm cầu nguyện từ đó tới nay đã trải qua chín mươi mốt kiếp. Hoa Thiên được phước báu sinh vào thế giới nào thân thể cũng tốt đẹp, ý muốn dùng gì cũng được đầy đủ; thức ăn uống giường tòa các dụng cụ nghĩ đến thì tự nhiên có, và lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống, do phước duyên đó mà nay được đắc đạo.
A Nan! Tất cả chúng sinh chớ coi sự cúng dàng nhỏ mọn mà khinh thường, xem Hoa Thiên thì tự biết.
Bấy giờ tôi và tất cả đại chúng nghe Phật nói xong ai nấy đều vui mừng tạ lễ mà lui.
Phẩm Thứ Mười Một: Tỳ Khưu Bảo Thiên
Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà. Ở thành này có ông Trưởng giả, bà vợ sinh được cậu con trai mặt mũi đầy đặn xinh đẹp, giữa lúc sinh, trên trời tự nhiên châu bảo rơi xuống như mưa: Vàng, bạc, nhọc lưu ly, ngọc xa cừ, ngọc mã não, ngọc san hô, ngọc phách; nơi vườn, ngoài sân, đầy dẫy.
Dân làng hàng xóm xúm đến xem và lượm châu bảo giùm. Họ lại ca tụng ông bà có nhiều phúc đức, và người con quý, nên trời ban thưởng những châu bảo này ư.
Trưởng gia vui mừng vừa được quý tử, lại được châu bảo, tự nghĩ: “- Việc này từ cổ đến kim chưa từng thấy.” Hồ nghi không biết tốt hay xấu, nên sai người đi tìm thầy tướng đến xem hung cát thế nào.
Thầy tướng tới nhà, ông nói:
– Thưa ngài nhà tôi mới sinh được một mụn con trai, lại thấy có châu bảo rơi xuống nhiều, không biết hay dở thế nào, xin Ngài xem giùm và coi tướng cháu có thể nuôi được nên người không?
Thầy tướng nói: – Dạ! Ngài ẵm cháu ra đây!
Bà Trưởng giả nghe thầy nói vội bế con ra. Thầy ngắm nghía hồi lâu rồi nói:
– Thưa Trưởng giả cháu có nhiều tướng quý: Đầu tròn, mũi thẳng, tai dầy và trán vuông, mặt dầy, bàn chân bàn tay đầy, sau này có thể làm ích cho gia đình, xã hội. Nếu xuất gia sẽ được chứng quả giải thoát, ông bà cứ yên trí nuôi cháu cho cẩn thận, không còn nghi ngờ gì nữa.
Nghe tướng sư nói ông rất lấy làm hoan hỷ và nói :
– Xin phiền thầy đặt tên cho cháu.
Tướng sư nói: – Theo điềm có châu bảo rơi xuống, đặt tên cho cháu là Lặc Na Đề Bà (Tàu dịch là Bảo Thiên).
Nói rồi tướng sư đứng lên cáo lui ra về, ông Trưởng giả thận trọng cám ơn và tạ lễ.
Quả như lời tướng sư nói, Bảo Thiên khi lớn tuổi học hành, thông minh tài năng lỗi lạc, nhưng rất ham đạo đức và có trí suy tầm đạo giáo. Một hôm cậu sang chơi nhà thân quen tỉnh khác, họ đưa cậu đến yết kiến Phật, tới nơi mọi người đều nhiễu Phật ba vòng, cậu cũng theo như họ lễ và nhiễu, rồi lui ngồi một bên, nhìn thấy Phật oai đức phi thường khắp trời đất không ai sánh kịp, sinh lòng mến mộ, phát ý xả tục nhập đạo nối chí như Phật.
Tới đây đức Phật thăng tòa thuyết pháp cho đại chúng nghe nói về mười hai nhân duyên, chúng sinh bị luân chuyển trong sáu đạo, xong cuộc thuyết pháp mọi người tạ lễ lui ra.
Bảo Thiên được nghe lời vàng ngọc của Phật giáo hoá, lấy làm sung sướng định tâm lần này quyết xuất gia tu đạo.
Khi về tớí nhà cậu quỳ xuống thưa cha mẹ rằng:
– Kính lạy song thân! Được làm người là khó, được gặp Phật tại thế lại khó hơn, hôm qua con được yết kiến Thế Tôn, lại được nghe chánh pháp con nhận thấy ngoài đạo Phật ra không còn đạo nào có thể giải thoát cho con người, vậy kính xin song thân cho con xuất gia học đạo.
Ông bà thấy cậu hướng việc tu hành, vui vẻ nói:
– Cha mẹ sinh người chứ không sinh được tánh, ý con muốn xuất gia thì cha mẹ cũng vui lòng.
Được sự đồng ý của cha mẹ rồi lễ tạ ra đi, tới nơi cúi đầu lễ Phật thưa rẳng:
– Kính lạy đức Thế Tôn, chúng con từ vô thủy kiếp, bị nổi chìm trong biển sinh tử, không người cứu vớt, Ngài như một chiếc thuyền từ cứu người giải thoát, hôm nay chúng con tới đây một lòng thành kính cầu xuất gia học đạo, để lên nơi giác ngạn, cúi xin Ngài từ bi tiếp hóa.
Phật nói: – Thiện Lai Tỳ Khưu.
Nói dứt lời tóc trên đầu Hoa Thiên rụng hết, áo trên mình biến thành áo Cà Sa, từ đó theo Phật tu hành, vốn có trí óc thông minh sẵn, nên không bao lau đã chứng được quả A La Hán, cắt đứt đường sinh tử, không phải thụ sinh trong ba cõi.
Nhân buổi thư nhàn vấn đạo, tôi (A Nan) muốn biết rõ câu chuyện này nên bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay Tỳ Khưu Bảo Thiên đời trước làm phước gì lúc sơ sinh lại có châu bảo trên trời bay xuống. Và những món ăn dùng tự nhiên biến hiện tuỳ theo ý muốn, xin Ngài nói cho chúng con được rõ.
Phật dạy rằng: – A Nan! Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi tế độ cho quần sinh được giải thoát rất nhiều không tính xuể. Một hôm các vị Tăng đi vào các thôn xóm khất thực, người dân chen nhau mang các món ăn ra cúng dàng. Lúc ấy có một người nghèo, phát sinh lòng hoan hỷ! Muốn cầu phước cúng dàng, nhưng không có tiền của, cùng bất đắc dĩ, lấy một nắm đá tròn như hạt châu với một lòng thành kính thiết tha, tung nắm đá ấy lên các vi Tăng và khấn nguyện rằng: – Nguyện cho con đời đời phú quý trường thọ và được đạo giải thoát như các ngài.
A Nan ông nên biết! Người nghèo cúng đá thuở đó, chính nay là Tỷ Khưu Bảo Thiên, cũng do đời quá khứ có lòng kính tin ngôi Tam bảo, đem đá cúng chư Tăng cho nên từ đó tới nay trải qua chín mươi mốt kiếp, được hưởng vô lượng phước báu, sinh về xứ nào, cũng an hưởng tự nhiên, cũng bởi duyên ấy nay được gặp Ta và đắc đạo quả.
Bấy giờ tất cả mọi người trong đại hội, nghe Phật nói xong ai nấy đều phát tâm cung kính sự cúng dàng, rồi có người đắc sơ quả, cho đến tứ quả, cũng có người được ngôi bất thoái, vui mừng tạ lễ mà lui.
Phẩm Thứ Mười Hai: Sàn Đề Bà La
Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại rừng Trúc khi Ngài mới thành Phật bắt đầu độ nhóm ông Kiều Trần Như cả thảy năm người, sau độ cho anh em ông Uất Tỳ La Ca Diếp, ngàn người, độ người đã nhiều được thoát khổ cũng lắm.
Bấy giờ nhân dân nước La Duyệt Kỳ vui mừng được bậc đại Thánh Nhân xuất thế, ai ai cũng ca tụng khen ngợi đức Thế Tôn: Một đấng cứu thế, biết bao chúng sinh được hàm ân thoát khổ, hơn nữa Ngài còn hóa phục được những tà đạo trở lại theo Ngài, thực là một việc lại còn khó hơn. Họ lại khen nhóm ông Kiều Trần Như và anh em ông Uất Tỳ La Ca Diếp với các vị đại đức Tỷ Khưu khác, đối với đức Thế Tôn chẳng hay đời trước có duyên gì? Trống pháp mới đánh đã được nghe trước, nước cam lồ được uống trước.
Các Tỳ Khưu thấy họ ca tụng như vậy liền đem chuyện ấy lên thưa với Phật.
Phật nói: – Đó không chi lạ đâu! Ta với các ông ấy đã có lời thệ nguyện từ đời quá khứ: Nếu Ta được thành Phật, Ta sẽ độ cho các ông ấy trước.
Các Thầy thưa rằng: – Kính lạy Ngài! Thuở xưa Ngài thệ nguyện thế nào, cúi xin nói cho chúng con được rõ.
Phật dạy: – Muốn biết sự tích Ta với các ông ấy đời quá khứ, hãy để ý nghe cho kỹ Ta sẽ nói cho hay: Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm có đến vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể dùng tâm suy nghĩ và lời nói mà tính được. Cũng Châu Diêm Phù này, có một nước lớn gọi là Ba La Nại, ông vua nước ấy tên là Ca Lợi cũng thời đó có một vị đại tiên tên là Sàn Đề Bà La và cả thảy năm trăm đệ tử ở trên một quả núi tu theo phép nhẫn nhục.
Một hôm nhà vua nước ấy cùng với phu nhân, thể nữ, quần thần vào núi để du ngoạn: Săn bắn các thú vật, bày các cuộc vui, uống rượu, ăn thịt, các thể nữ múa hát, làm cho nhà vua vui tai, thích mắt, thỏa thích với dục lạc, rồi tiệc rượu, nhà vua nằm nghỉ nhọc dưới gốc cây, thừa cơ ấy các cô rủ nhau đi xem hoa trong rừng, tới một hang núi, thấy ông Sàn Đề Bà La đương ngồi yên tĩnh có vẻ trầm tư suy xét, các cô này thấy ông đạo mạo với nét mặt siêu phàm, ngoài cuộc trần tục, nên các cô sinh lòng kính trọng! Hái các thứ hoa tung lên cúng dàng rồi ngồi xúm lại xung quanh để nghe thuyết pháp.
Khi hết hơi men nhà vua thức dậy, nhìn xung quanh không thấy một người con gái nào hầu cạnh, ông nổi giận quá đứng phắt dậy, cùng với bốn ông quan đại thần đi tìm, một lát tới chỗ ông Tiên, thấy bọn các cô đang ngồi vây quanh trước sau, nhà vua cất tiếng la lớn, các cô này sợ hãi chạy dạt ra, nhà vua tới trước chỗ ông Tiên hỏi rằng:
– Nhà ngươi đã đắc định Tư Không chưa?
– Thưa chưa được.
– Nhà ngươi đã được Tứ Vô lượng Tâm chưa?
– Thưa chưa được.
Nhà vua lớn tiếng nạt rằng:
– Từng ấy công đức đều nói chưa được, như vậy, nhà ngươi có hơn gì kẻ phàm phu, thế mà dám ngồi chung với những đứa con gái này ở nơi vắng vẻ tin sao được?
Ông Tiên lặng yên không đáp lời nào hết, nhà vua lại hỏi:
– Ở đây người là người thế nào? Tu đạo gì?
– Thưa! Tôi tu theo hạnh nhẫn nhục!
Nhà vua có vẻ tức giận rút kiếm ở sau lưng ra nói:
– Nhà ngươi tu nhẫn nhục ư! Nhẫn nhục để ta thử xem ngươi có nhẫn nhục đựợc không?
Nói xong chém phắt hai cánh tay ông Tiên rơi xuống đất, rồi hỏi tiếp:
– Đã nhẩn nhục được chưa?
Tiên đáp: – Nhẫn nhục được!
Ông laị chém phát hai nhát vào hai vế đùi nhả ra, rồi hỏi tiếp:
– Đã nhẫn nhục được chưa?
– Nhẫn nhục được!
Nhà vua lại xẻo hai tai và mũi trông rất ghê sợ. Tất cả quan quân thể nữ, nhìn thấy nhà vua quá ư ác nghiệp với ông Tiên ai cũng sám đen mặt lại, nhưng không dám can ngăn, vì sợ cơn ghen của ông đương bộc phát, song họ nhìn thấy ông Tiên nét mặt bình tĩnh không chút biến đổi.
Nhà vua đứng ngước mắt nhìn xem ông Tiên này có phản kháng với mình gì không? Nhưng không.
Ngay giờ phút ấy quả đất tự nhiên rung động sáu lần, năm trăm vị tiên đệ tử theo Ngài tu học bay vót lên hư không ngó xuống hỏi rằng:
– Lạy thầy! Thầy bị đau khổ như vậy có khỏi mất tâm nhẫn không?
Đáp: – Tâm ta vẫn bình tĩnh và cũng là tăng thượng duyên cho tâm nhẫn của ta lại càng thêm vững chắc!
Tới đây ông vua đã từ từ hạ cơn ghen, nhìn thấy ông Tiên vẫn thản nhiên, sự nhẫn đã thế, lại còn sự đau cũng không thấy hoài tâm, dịu giọng hỏi:
– Nhà ngươi tự nói tu phép nhẫn nhục lấy gì làm bằng cớ, cho có sự thậ?
Đáp: – Ta không nói nhà vua cũng thấy được sự thật của ta, một là ta không khuất phục dưới thế lực áp bức bất minh thiếu nhận xét, hai là ta không quan tâm đến lưỡi kiếm của nhà vua chém ta, và ta cũng không có ác niệm gì đối với sự hung tàn của nhà vua, muốn biết rõ sự thật ta sẽ nguyện rằng: Nếu quả ta có thực hành đạo nhẫn nhục, huyết sẽ biến ra sữa, thân sẽ bình phục như cũ.
Đại Tiên nói xong, huyết tự nhiên biến ra sữa, thân thể lại hoàn toàn như xưa.
Nhà vua thấy sự nhẫn nhục của đại tiên hiển nhiên quá! Cảm động quá rùng mình, sởn gáy, sợ toát mồ hôi! Là mình đã quá ư 讦#243;ng giận với tâm mê chấp tham dục nếu ta không xin lỗi sẽ bị chiêu họa.
Nhà vua vội vất kiếm xuống đất, quỳ trước mặt đại tiên thưa rằng:
– Thưa đại Tiên, chúng tôi hiểu lầm, vì quá si mê nên hôm nay đối với Ngài một cách quá đáng, vô nhân đạo, cúi xin Ngài tha thứ nhận lòng thành sám hối của tôi.
Đại Tiên đáp: Hôm nay nhà vua cũng vì nữ sắc, quá giận dùng kiếm chém ta tâm nhẫn của ta như đại địa, ta thề rằng sau khi ta được thành Phật ta sẽ dùng tuệ đao, chém ba cái độc, tham, sân, si cho nhà vua trước.
Nhà vua thấy Đại Tiên đã hoan hỷ tha thứ, và nhận lời tạ lỗi của mình, vái chào ra về.
Lúc ấy trong núi có các bộ Long, Vương, bộ quỷ thần thấy vua Ca Lợi vô cớ làm huỷ nhục vị Đại Tiên, tức giận nổi cơn lôi đình làm cho mây khói u ám rợp trời, sấm sét vang dội, ý muốn hại vua và đánh chết họ hàng nhà vua cho bằng hết.
Đại Tiên thấy thế ngửa mặt lên trời nói rằng:
– Các ông nên buông lòng bao toả khắp muôn loài, nếu có thiện chí với tôi, bênh tôi, thì xin đừng làm hại nhà vua!
Từ đó vua Ca Lợi, tự hạ mình xuống như người đệ tử tôn kính Đại Tiên như thầy, luôn luôn đến thăm viếng cúng dàng, cũng có lúc mời về vương cung giảng dạy.
Thời ấy cũng có một bọn Phạm Chí chừng ngàn người tu theo tà đạo, thấy vua Ca Lợi kính trọng biệt đãi vị Đại Tiên, sinh lòng ghen ghét thuê người lấy phân trát lên toà ngồi của Đại Tiên, lúc vắng mặt, đã nhiều lần nhưng không biết rõ kẻ nào có tâm nham hiểm xấu xa, một thái độ đê hèn; sau cùng do sự điều tra chắc chắn của nhà vua, bắt được những kẻ gian ác đem ra tra hỏi, chúng tự xưng là bọn Phạm Chí mướn. Lập tức vua Ca Lợi hạ lệnh bắt hết nhóm Phạm Chí lại cung môn.
Đại Tiên vốn lòng từ bi và đương thực hành đạo nhẫn nhục, nên xin vua tha tội cho họ. Trước nhà vua và đại chúng, Đại Tiên phát thệ rằng :
– Tôi vì chúng sinh tu hạnh nhẫn nhục tích góp công phu không lười mỏi, để cầu thành Phật, sau khi được thành tựu, tôi sẽ lấy nước pháp trí tuệ tẩy trừ cho hết trần cấu uế dục lũ các người này được trong sạch trước.
Tới đây Phật nhắc lại cho tôi hay rằng:
– A Nan! Ông Sàn Đề Bà La thuở đó chính là tiền thân của ta, vua Ca Lợi nay là ông Kiều Trần Như, bốn quan đại thần thuở đó nay là bốn vị Tỷ Khưu cùng nhóm với ông năm người, còn ngoài đạo Phàm Chí lúc đó nay là ông Uất Tỳ La Ca Diếp và ngàn vị Tỷ khưu này.
Thuở đó ta thề nguyện độ cho các ông ấy trước, nay ta thành Phật nên các ông ấy được độ trước. Như vậy biết lời thề nguyện không sai.
Khi đại chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui mừng, tán thán hạnh nhẫn nhục của Ngài thực là hy hữu, rồi cùng nhau lễ tạ lui ra.
Phẩm Thứ Mười Ba: Vua Từ Lực Cho Huyết
Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Hoàn buổi sáng ấy, bầu trời êm ả, thả làn gió nhẹ qua những hàng cây vi vút; buổi trà nước dâng Phật vừa xong, tôi (A Nan) ra khoảng rừng vắng tọa thiền dưới gốc cây tự nghĩ như vầy: Đức Phật ra đời biết bao người được nhờ ơn tế độ, thế giới thanh bình, nhân dân an lạc, cây cỏ xinh tươi, muôn loài hớn hở, là do nhờ đức hóa của Ngài, lại nghĩ rằng: Nhóm ông Kiều Trần Như trồng nhân lành gì? Nương nhân duyên gì? Cửa từ bi thuyết pháp cứu sinh, bọn ông được vào trước? Trận mưa cam lồ bắt đầu bọn ông được tắm trước? Nghĩ xong tôi đứng dậy về Tịnh Xá đem ý nghĩ trên bạch Phật, Phật bảo tôi rằng:
– A Nan, nhóm ông Kiều Trần Như đã một lần bị chết đói, vì lòng từ bi nên ta trích huyết trong người ra cho các ông ấy uống, bởi thế nay được nghe pháp trước, giải thoát trước.
– Kính lạy đức Thế Tôn! Vì duyên gì mà các ông ấy bị đói? Tại sao không ăn các món khác lại phải uống huyết mới sống? Cúi xin Ngài nói lại cho con và đại chúng đây được rõ!
Phật dạy rằng: – A Nan! Ông muốn biết câu chuyện ấy hãy chú ý nghe: Thuở đó tới nay tính số kiếp A Tăng kỳ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua nước lớn, tên là Di Già La Bát La (Tàu dịch: Từ Lực) cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, hai vạn bà phu nhân, một vạn quan đại thần, nhà vua từ bi khoan hậu, đủ bốn tâm bình đẳng, thương dân giúp vật, thường đem mười điều lành giáo hóa, trong nước được thanh bình an lạc, muôn phương kính nể.
Thời ấy có các loài Dịch Quỷ, hay đi bắt người để uống máu ăn tiết, chứ không sống bằng cơm gạo, ngô, khoai.
Những người dân thuở đó theo lệnh của nhà vua bắt buộc ai cũng phải tu mười điều lành, giữ thân miệng, ý thanh tịnh. Vì thế bọn ác quỷ không dám đến gần, không thể bắt ai ăn được, nên chúng bị đói, chỉ còn da bọc xương, khí lực đã gần tuyệt. Bấy giờ có năm con quỷ đến tâu vua rằng:
– Tâu bệ hạ: Chúng tôi sống bằng sự ăn uống khí huyết của loài người. Nhà vua dạy dân tu theo mười điều lành; vì họ tu theo mười điều lành, nên có các thiên thần ủng hộ, chúng tôi không dám bắt ăn thịt, bị đói đã lâu, chỉ còn chờ chết. Vậy nhà vua làm hạnh từ bi há không thương lũ chúng tôi sao?
Nhà vua nghe quỷ nói, trong tâm rất cảm động, hỏi rằng:
– Ngoài máu thịt người các ngươi dùng gì?
– Tâu Đại Vương máu thịt người là món chính, ngoài ra không dùng món gì có thể bảo tồn được thể xác.
Vì quá thương họ đói, nên nhà vua lấy dao khoét mình ra năm lỗ rồi nói:
– Máu của ta đây các ngươi lấy bát lại hứng mà uống.
Bọn quỷ vui sướng quá! Đương đói, tranh nhau cầm bát lại vừa hứng vừa uống, uống xong lạy tạ xin về.
Nhà vua nói: – Hãy khoan! Ta bảo đã: Các người bị nghiệp báo làm thân quỷ là do đời trước ham uống máu ăn thịt chúng sinh, lại thêm lòng tham sẻn, nên rán tu theo mười điều lành, tương lai ta thành Phật ra sẽ lấy Pháp thân và huyết giới, định, huệ, để trừ tâm tham dục ba độc đói khát cho lũ ngươi, và sẽ đưa lũ ngươi tới chỗ an vui vĩnh viễn.
Tới đây đức Phật nhắc lại rằng:
– A Nan! Nên biết: Vua Từ Lực thuở đó chính là tiền thân của ta đây, năm quỷ dạ xoa, nay là nhóm ông Kiều Trần Như năm người. Thuở đó ta hứa độ cho bọn ông ấy trước, nên nay các ông ấy được nghe thuyết pháp trước, và được giải thoát trước.
Bây giờ, tôi và đại chúng được nghe câu chuyện đời quá khứ của Ngài và năm ông, ai ai cũng sợ toát mồ hôi, với lòng đại bi của Ngài, với chí sắt đá của Ngài ai mà bì kịp, rồi cùng nhau lễ tạ lui ra.
Phẩm Thứ Mười Bốn: Hàng Phục Lục Sư
Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở thành Vương Xá, tại vườn Trúc cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ Khưu ở đó.
Vua Bình Sa là người mến mộ Phật giáo, ông theo Phật nghe thuyết pháp đã lâu, và thực hành tu tiến, nên bấy giờ ông đã chứng được sơ quả, bởi vậy, lòng tin của ông lại càng kiên cố. Ông thường dâng thuốc thang, áo cà sa, giường đệm, món ăn quí lên cúng Phật và chư Tăng; ông rất tôn trọng, những người hay làm điều lành, và khi tới đâu, ông cũng khuyên người tu theo Phật giáo.
Trong nước ông có bọn Phú La Na Lục Sư, làm giáo chủ ngoại đạo, cũng thời đó, nhưng ra đời trước Phật ít năm, họ đem tà thuyết để dối bịp dân, những kẻ cuồng si không biết nhận xét chánh tà theo họ rất đông. Song em nhà vua cũng theo học bọn chúng, làm một con tin thuần cẩn, trí óc ngâm chìm dưới nguồn sau của bọn họ. Đem tiền của cung cấp đã lâu ngày, tài sản bị khuynh vong, gia đình bại hoại, cũng như kẻ bị bùa mê, bánh mến, không khác.
Đức Phật ra đời như vầng thái dương, xuất hiện luồng quang minh, soi khắp không gian muôn loài ấm áp, cây cỏ xinh tươi; ánh tuệ sáng đã tung tỏa khắp muôn phương, biết bao người đắc quả thành công trên đường giải thoát. Kẻ không biết theo một đạo giáo chân thật, khác gì loài rùa nằm dưới đầm sâu, cóng rét chịu quanh năm, mà không biết có ánh mặt trời trên đại địa, cũng như em vua Bình Sa, chịu buộc mình nơi tà giáo ngoại đạo, không biết nhận xét chánh tà.
Vua Bình Sa thương em mê muội, với tính cố chấp, hết sức thuyết đạo lý của Phật giáo cho nghe, và giục em mời Phật; phải tôn kính Phật, phải bỏ tà đạo, người em vẫn không chịu nhận lời và thưa rằng:
– Thưa anh! Muôn triệu người trên vũ trụ bao la, mỗi người một ý nghĩ khác nhau, không ai giống ai; mỗi người có sự nhận xét riêng, mỗi người có một sở thích riêng, anh theo giáo lý đạo Phật, anh khen Phật hay, tôi theo phái Lục Sư dĩ nhiên tôi hợp với lý trí của tôi là phải là đúng, là cao, tôi mới theo, nhưng anh đã nói tôi sẽ mời thầy tôi và Phật đàm luận về đạo lý hơn kém sẽ bày tỏ.
Nhà vua cười nói: – Hay lắm! Nay mai chú mời luôn đi, nhưng chú phải cam đoan với tôi. Nếu Phật hơn thì chú phải bỏ thầy chú theo Phật cùng tôi, nếu Phật kém tôi sẽ bỏ Phật để theo cùng chú!
– Vâng! Dĩ nhiên.
Ngày mai vua Bình Sa lên bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Muốn cho toàn quốc dân thoát khỏi vòng ác đạo, cùng được hưởng sự an vui từ đời này cho đến kiếp khác, con nhận thấy ngoài sự giáo hóa của Ngài ra thì không có đạo giáo nào hơn được, dân con có bọn Lục Sư, cũng đường một tôn giáo, đem những tà thuyết mị dân, đưa người vào hố sâu hang hiểm làm mồi cho hùm, beo, lang sói, chết đọa tam ác đạo. Con có người em cũng theo bọn chúng, hết sức răn bảo mà không chuyển lòng, con định bảy ngày nữa, mời Thế Tôn ra thí tràng, sau đó cho tìm bọn Lục Sư tới, để Ngài hóa phục dẹp bỏ đạo tà, hiển dương chánh đạo, một yếu điểm nhất là muốn cho quần chúng biết sức thần biến và đạo lý của Ngài để họ tự bỏ rơi bọn Lục Sư, cúi xin từ bi hoan hỷ cho chúng con được trượng thừa công đức!
Đừc Phật mỉm cười nói:
– Việc ấy cũng nên, làm Nhân Chúa có trách nhiệm mở mang trí óc khôn sáng cho dân, làm gấp ta vui lòng!
Nhà vua hoan hỷ lễ tạ lui ra, khi về hạ lệnh cho toàn quốc biết rằng:
– Quốc dân nên biết! Trong bảy ngày nữa, đức Thế Tôn và Lụ Sư dẽ đàm luận về đạo giáo, ai muốn biết, thì đến nơi thí tràng.
Em vua Bình Sa sửa soạn bàn, ghế, tòa ngồi rất trang nghiêm, tới ngày thứ bảy Lục Sư tới trước tiên, em vua trịnh trọng mời lên ngồi tòa cao đẹp, các nhà văn hào dân chúng đến đông như kiến cỏ, nhưng không thấy Phật đến, người em vua hỏi:
– Anh giục tôi mời ông Cù Đàm (Phật) các thầy tôi và dân chúng tới đông sao không thấy Ông ấy tới?
– Chú đã đi mời Ngài chưa.
– Chưa!
– Chú sai người đi mời Ngài hoặc chú đi, hôm trước tôi mời Ngài đã hứa.
Đương nói thì Phật đến, vua Bình Sa ra đón Phật, khi vào tới nơi, những tòa cao đẹp bọn Lục Sư đã ngồi hết cả, thấy thế nhà vua nóng lòng, nhưng không biết nói sao, chỉ riêng trách em mình. Đức Phật và chư Tăng phải ngồi tất cả những hàng ghế dưới.
Khi Phật ngồi yên tĩnh chừng được ba phút, bỗng nhiên thấy Ngài và chư Tăng ngồi trên ghế cao, bọn Lục Sư ngồi dưới chót, Lục Sư hổ thẹn đứng dậy, em nhà vua lại vác ghế lên cao mời Lục Sư ngồi, ngồi xong chừng một phút lại thấy ghế dưới chót, Phật ngồi trên cao, cứ như thế đến ba bốn lần, nhưng vẫn bị ngồi hàng ghế cuối, tới đây họ biết không có năng lực gì địch thủ, nên chịu ngồi ngượng ở đó.
Khi dâng nước, họ cứ theo thứ tự, tòa trên dâng trước, tòa dưới dâng sau. Đầu tiên dâng lên Phật.
Phật nói:
– Dâng Thầy của các ngươi trước, dâng ta sau cũng được!
Theo lời Phật phán bảo, họ đưa nước dâng Lục Sư, khi giơ bình rót, tắc không chảy, sau dâng Phật, rót chảy, Phật rửa tay xúc miệng xong, làm phép chú nguyện.
Xong việc trà nước bắt đầu dâng cơm, họ dâng Phật trước, Phật nói:
– Hôm nay các ngươi không phải vì ta mà thết bữa cơm nay, ta chỉ là khách, Thầy các ngươi là mục đích hơn, ngươi hãy dâng Thầy ngươi trước để Thầy ngươi chú nguyện cho.
Theo lời Phật dạy, bắt buộc họ mời Lục Sư chú nguyện, lúc chưa mời không sao, sau khi mời họ nhìn thấy Lục Sư hai hàm răng cắn chặt, không thấy nói năng cầu nguyện gì, chỉ biết giơ tay làm hiệu, xua những người ấy đến chỗ Phật, Phật làm phép chú nguyện xong.
Bắt đầu dâng món ăn, Phật nói:
– Hãy dâng Thầy các ngươi trước!
Họ phải theo lời Phật dạy, khi dâng lên Lục Sư, các món ăn bay bổng lên hư không lơ lửng trên đó và không rơi, làm cách nào cũng không thể lấy được, chờ khi dâng món ăn lên Phật và Tăng Chúng xong, thì các món ăn ấy rơi xuống trước mặt Lục Sư.
Khi dùng cơm xong, Phật gọi em vua bảo rằng:
– Khanh mời thầy khanh thuyết pháp trước đi.
Người em mời thuyết pháp, Lục Sư im thít không nói năng gì, té ra hi hàm răng cắn chặt lúc nào không biết, đồng thời bọn chúng giơ tay làm hiệu; ý nói đến mời Phật thuyết pháp còn ta bị câm họng ráo trọi.
Bọn đồ đệ của Lục Sư biết thầy mình thất thế và kém hẳn đã có ý chán nản phát ra tự đáy lòng, bấy giờ em vua và dân chúng lại lễ Phật và mời Ngài thuyết pháp.
Trước khi Phật thuyết pháp quả đất động chuyển sáu lần, hào quang năm sắc chiếu khắp đại thiên thế giới. Đức Phật như một đấng cha hiền thương đàn con dại, như một bực đại Giáo Sư đối với kẻ sơ tâm mới học, với đại chúng Ngài ra những lời hòa nhã dịu dàng, diễn thuyết các pháp, tính, tướng, phân biệt nghĩa lý sâu huyền, thế gian, và xuất thế gian.
Đại chúng nghe xong có rất nhiều người được giác ngộ, em vua Bình Sa chứng được Pháp Nhãn Tịnh, ngoài ra còn có người sơ quả cho đến tam quả, còn những vị xuất gia được lậu tận, có vị phát tâm vô thượng chứng quả bất thoái. Toàn thể đại chúng dự hội hôm ấy ai ai cũng phân biệt được chánh tà, họ phát tâm tin kính ngôi Tam Bảo, trở về quy y Phật, thờ Phật làm Thầy và bỏ rơi bọn Lục Sư, không cúng dàng thừa sự chúng nữa.
Tới đây mọi người đều đứng lên, ca tụng những công đức Ngài đã ban cho và phát nguyên xin theo làm đệ tử, đảnh lễ lui ra.
Lục Sư vừa bị nhục, vừa mất thể diện căm hờn tụ tập lại một nơi bàn kế để trả thù đức Phật, họ ra nơi rừng vắng học tập các phép lạ, và nghiên cứu các kỹ thuật.
Lúc ấy Thiên ma Ba Tuần thấy đồ chúng của mình thua Phật, dân chúng chán ghét, tất nhiên đạo của họ không truyền bá được, y liền bay xuống hóa làm hình Lục Sư tới để biểu diễn các phép lạ, và truyền phép cho Lục Sư, xong lại bay về Thiên Đàng.
Lục Sư sau khi được phép của Ba Tuần truyền thụ vui mừng quá! Tự đắc chí cho là cao diệu, là tối thắng, chúng tập hợp bàn nhau rằng: – Hôm trước bọn ta bị nhục, mọi người phải ly tán, giờ đây xem sự thần biến của Thầy chúng ta truyền thụ, có dư để hàng phục ông Cô Đàm Sa Môn, bây giờ yêu cầu vua lập một cuộc thi thần thông, để xem hơn thua thế nào, bàn nhau xong họ lên tâu rằng:
– Tâu Bệ Hạ, chúng tôi sẽ có đủ pháp lực tài năng thần biến, xin Bệ Hạ lập một cuộc đấu phép với Phật, để cho quốc dân biết tài năng của chúng tôi.
Nhavua cười nói: – Lũ bây thực là ngu si quá, Phật có đạo đức cao siêu phép thần túc vô ngại, các ngươi muốn thi với Phật, chẳng khác lửa đom đóm muốn tranh ánh mặt trời, nước vết chân trâu đem ví với biển cả, hoại Dã Can lại muốn thi hùng với muôn sư tử, đống đất tổ kiến đem ví với lực cao núi Tu Di, những hình lớn nhỏ coi thấy rõ ràng, thấp kém lại muốn nghển cao, các ngươi sao lại ngu lỗ quá như vậy?
Lục Sư nói: – Tâu Bệ Hạ! Ngài chưa biết phép luật của chúng tôi, đó là Ngài thiên vị, tự cho ông Cô Đàm (Phật) là người tuyệt đối không còn ai hơn, chúng tôi quyết thử tài một phen hay dở Ngài sẽ rõ!
Vua nói: – Tại sao bữa trước các ngươi không đem tài ra đối phó, nay còn nói khéo nói khôn làm chi?
– Tâu Bệ Hạ! Hôm đó chúng tôi chưa đủ phép lực, bây giờ có đủ khả năng đối thủ!
– Không sao! Muốn thì ta sẽ lên thưa với Phật, nhưng chỉ sợ các ngươi tự để nhục cho hậu thế!
– Tâu Bệ Hạ! Chúng tôi xin hẹn bảy ngày nữa, Bệ Hạ hãy cho dân chúng sửa sang nơi thí tràng bằng phẳng.
Sau khi Lục Sư ra về, nhà vua lên xe đi đến chốn Phật, lễ xong quỳ gối chắp tay thưa rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư còn rắc rối quá; hôm qua chúng lên xin thi thần lực với Thế Tôn, con đã lấy lý luận phân trần và la mắng nhưng bọn chúng còn ra vẻ không chịu. Vậy kính xin Ngài ra sức thần biến để hóa phục bọn tà ác trở về chánh đạo, nhân đấy con và dân chúng được coi sự thần thông biến hóa của Ngài.
Phật nói: – Hãy biết thế, ta tự tri thời.
Vua Bình Sa lễ tạ lui ra, về vương cung sắc lệnh cho quân dân sửa sang nơi thí trường, đặt bàn ghế, kê tòa ngồi cao đẹp cúng Phật, chung quanh kết hoa, treo phan phướn, các ngả đường kéo biểu ngữ để cổ động cho dân chúng đến xem.
Tới ngày thứ bảy Đức Phật và các vị đệ tử, từ thành Vướng Xá đi sang nước Tỳ Xá Ly, nước ấy có bọn ông Luật Xương và nhân dân ra đón rước.
Buổi sáng ấy, dân chúng thành Vương Xá xôn xao, không biết Phật đi đâu, hỏi thăm mãi mới biết Ngài đi sang nước Tỳ Xa Ly.
Lục Sư hay tin Phật đi, không ở lại đấu phép đắc chí nói:
Ông Cô Đàm (Phật) trí tuệ và thần biến kém, biết sức không địch nổi nên tìm đường tẩu thoát, thế mà mọi người còn do dự không tin.
Tâm ngã mạn của Lục Sư lên cao quá, tự tuyên bố rằng:
– Chúng tôi sẽ đuổi cho tới cùng.
Được tin Phật sang nước Tỳ Xá Ly, vua Bình Sa lập tức sai sửa soạn lương thực năm trăm con ngựa, năm trăm xe, tổng số quan quân mười bốn ức người, sang nước Tỳ Xá Ly, Lục Sư cũng theo vua sang, chúng thưa với Luật Xương rằng:
– Thưa Ngài! Chúng tôi tới đây muốn để thi thần thông, và đàm luận về thực tính với ông Cô Đàm, xin Ngài cho ông ấy rõ, và hẹn bảy ngày nữa sẽ bắt đầu!
– Vâng! Quí Ngài muốn thế, tôi sẽ thưa với Phật giùm.
Luật Xương tới lễ Phật thưa rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư si mê quá! Tự nói có đạo lực nên xin lên thi thần biến. Vậy kính xin Thế Tôn hàng phục bọn gian ác ấy!
Phật nói: Hãy biết thế, ta tự tri thời!
Luật Xương lễ tạ lui ra, về sửa soạn nơi thí tràng, lương thực các đồ cúng dàng trọng hậu, dân chúng nôn nao, chờ ngày để xem cuộc đấu thần thông.
Sáng ngày hôm sau, Phật và Tăng chúng đi sang nước Châu Diệm Di, vua Ưu Điền đem quan quân ra đón tiếp. Cũng buổi sáng ấy nhân dân nước Tỳ Xá Ly xôn xao hỏi nhau rằng:
– Sáng nay Đức Phật đi đâu?
– Có người nói: Đức Phật và chúng Tăng sang nước Câu Diệm Di buổi sáng sớm.
Lục Sư thấy thế, tâm ngã mạn lại càng lên cao, và đắc chí lắm, bảo nhau phải theo đuổi cho bằng cùng.
Được tin Phật đi khỏi ông Luật Xương đem năm trăm cỗ xe chở lương lực và bảy ức người cùng với vua Bình Sa sang nước Câu Diệm Di.
Lục Sư vào yết kiến vua Ưu Điền rồi thưa rằng:
– Tâu Hoàng Đế! Sa Môn Cồ Đàm, tự biết lực không địch nổi, nên thầy trò phải trốn sang đây, xin Hoàng đế cho chúng tôi thi thần thông với ông ấy!
– Vâng! Quí Ngài muốn thế tôi sẽ thưa với Phật giùm!
Ngày mai vua Ưu Điền lên bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sư ngày qua lên yêu cầu để thi thần thông, kính lạy Ngài có nhận lời ấy không!
Phật nói: – Hãy biết thế, ta tự tri thời!
Vua Ưu Điền lễ tạ ra về, sửa soạn nơi thí tràng chờ Phật định ngày đối thí. Sáng hôm sau Phật và Tăng chúng đi sang nước Việt Kỳ, vua Chuân Chân Đà La cùng với nhân dân ra nghinh tiếp đức Thế Tôn.
Hôm sau người nước Câu Diệm Di không thấy Phật, xôn xao hỏi nhau thì có người nói:
– Phật và chư Tăng sang nước Việt Kỳ sáng qua.
Hay tin Phật đi khỏi, Lục Sư và vua Ưu Điền, vua Bình Sa và quan quân dân chúng, cũng đi sang nước Việt Kỳ. Lục Sư vào yết kiến Chuân Chân Đà La và trình bày ý kiến của mình, sau yêu cầu vua làm thế nào được đấu phép với ông Cô Đàm.
Đáp: – Vâng, quí Ngài muốn đấu tôi sẽ thưa với Phật.”
Vua Chuân Chân Đà La lễ lên Phật xong, rồi quỳ thưa những ý định của Lục Sư.
Phật nói: – Hãy biết thế, ta tự tri thời!
Nhà vua lễ tạ lui ra, về cung sắc lệnh cho quân sửa soạn và trưng bày nơi thí tràng, sắp tới ngày thi Phật và chư Tăng lại sang nước Đặc Xoa Thi Lợi, vua Nhân Đà Bà Di cùng với quan quân ra đón rước.
Hay tin Phật đi khỏi, vua Chuân Chân Đà La với năm ức người, cùng với Lục Sư vua Bình Sa và tất cả đều theo Phật sang nước Đặc Xoa Thi Lợi.
Lục Sư vào yết kiến vua Nhân Đà Bà Di và khoe khoang những lời cao đại rồi nhờ vua giới thiệu để thi thần thông với Phật. Nhà Vua nhận lời, lên bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn, hôm qua Vua các nước và quan quân đến đây đông lắm về việc thi thần thông với Lục Sư, cúi xin Ngài Từ Bi ra phép thần hàng phục kẻ tà đạo, để cho tất cả chúng sanh trong Châu Diêm Phù Đề theo về chánh giáo.
Phật nói: – Hãy biết thế, ta tự tri thời!
Ngày thi gần tới, đức Phật lại sang nước Ba La Nại, vua Phạm Ma Đạt hay tin Phật tới, đem quan quân ra biên giới đón Phật về thành.
Buổi sớm mai dân chúng nước Đặc Xoa Thi Lợi, mang các món ăn ra đường đón Phật và Chư Tăng không thấy, hay tin Phật sang nước Ba La Nại, khi đó vua Nhân Đà Bà Di, vua Bình Sa, Lục Sư và tất cả các ông vua đều theo Phật sang nước Ba La Nại.
Lục Sư vào yết kiến vua Phạm Ma Đạt và trình bày ý kiến của mình, lại yêu cầu vua làm cách nào được thi thần thông vời Phật, nhà vua nhận lời.
Sáng hôm sau vua Phạm Ma Đạt lên bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sư hôm qua lên xin thi thần thông với Ngài, cúi lạy Ngài ra phép thần biến tiêu diệt bọn ác quỉ hại dân vô ích.
Phật nói: – Hãy biết thế, ta tự tri thời!
Đêm ấy và Tăng chúng đi sang Ca Tỳ La Vệ.
Hay tin Phật tới, ông Thích Chủng Bối và đại chúng ra đón Phật về Kinh.
Sớm ngày mai, dân chúng nước Ba La Nại mới biết đức Phật đi du hóa nơi khác.
Hay tin Phật đi khỏi, vua Phạm Ma Đạt, vua Bình Sa, Lục Sư và tất cả quan quân các nước, đi theo Phật, sang nước Ca Tỳ La Vệ.
Lục Sư vào yết kiến ông Thích Chủng Bối và trình rằng: Đến đây mục đích để thi thần thông với Phật, nhà vua nhận lời, và hứa sẽ thưa với Phật giừm.
Ngày mai ông lên lễ Phật xong bạch rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sư cố tình theo Ngài đòi thi thần thông, cúi xin từ bi hoan hỷ dẹp bỏ lũ ngoan cố mị dân, cho toàn cõi theo về một mối!
Phật nói: – Hãy biết thế, ta tự tri thời!
Ông Thích Chủng Bối sắc lệnh sửa sang nơi thí tràng, và ấn định ngày thi, xong sắp tới ngày thi, đức Phật và Tăng chúng sang nước Xá Vệ, vua Ba Tư Nặc nghe tin Phật tới đem quan quân ra biên giới đón.
Ngày mai ông Thích Chủng Bối mới hay tin Phật đi khỏi. Ông Thích Chủng Bối đem chín ức người, vua Bình Xa, Lục Sư và Vua quan dân chúng các nước, đồng thời kéo sang nước Xá Vệ.
Lục Sư vào tâu vua Ba Tư Nặc rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Chúng tôi muốn thi thần thông với ông Sa Môn Cù Đàm đã qua bao nhiêu nước, sắp kỳ thi ông tự biết không có lực địch nổi nên cùng đại chúng lẩn trốn sang đây, mong Bệ Hạ cho chúng tôi được thi thần thông với ông ấy!
Vua Ba Tư Nặc mỉm cười nói: – Đức Phật có phép thần túc vô ngại, khi mới thành đạo, Thiên Ma Ba Tuần, thiên biến vạn hóa còn phải phục đầu xưng tội, quy y làm đệ tử, lũ ngươi đã ra gì, kẻ hèn mạt, thấp hèn, sao có thể đối với ngôi Đại Pháp Vương được.
Lục Sư nghe nói, nổi giận khí sắc biến đổi, tỏ vẻ bực tức vô cùng nói:
Chẳng qua Ngài quá ư thiên lệch nói thế, Ngài đã biết thần biến của chúng tôi chưa?
Nói xong ra về, tỏ vẻ bất mãn trước nhà vua.
Ngày mai vua Ba Tư Nặc đến chốn Phật đầu mặt lễ sát đất quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư ân cần xin thi thần thông, cúi xin ngài ra sức thần, tiêu diệt bọn con buôn không vốn, bịp bợm một cách giả đạo đức, nếu để chúng thì dân tộc trên thế giới này bị đau khổ về vật chất lẫn tinh thần, vì chúng đủ mưu mô mánh khóe lừa gạt lòng người. Xong những người trí thức mới hiểu biết tâm thâm đọc của bọn chúng.
Phật nói: – Hãy biết thế, ta tự tri thời!
Lần này vua Ba Tư Nặc quyết định mời Phật để đấu thần thông, ông sắc lệnh cho quan quân sửa sang nơi thí tràng bằng phẳng, bàn ghế tòa ngồi trang nghiêm, treo cờ phan phướn, lọng, kéo biểu ngữ, kết hoa treo đèn, mua rất nhiều hương hoa trình bày rất đẹp đẽ, ông lên điện nơi đức Thế Tôn ngự, ân cần tha thiết cầu thỉnh. Phật thấy ông nhiệt tâm thành khẩn, nên Ngài nhận lời. Giữa ngày mồng một tháng mười hai Phật ra thí tràng, Lục Sư với vua các nước, dân chúng đều đến đông đảo.
Ngày ấy vua Ba Tư Nặc sửa soạn các món ăn ngon lành, buổi tinh sương dâng Phật một cành dương. Phật dùng nạo răng, nạo xong Ngài vẩy bựa xuống đất, tự nhiên sinh ra những cây cối xanh om, um tùm râm mát, cao đến năm trăm do tuần, cành lá rườm rà, sinh ra những bông hoa to như vòng bánh xe, kết thành những quả to, bằng cái bình đựng năm đấu lớn, cành cây gốc rễ hoa quả thuần bằng thất bảo, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách v.v…, màu sắc tươi đẹp, phát sinh ra những ánh sáng lấn mặt trời, mặt trăng, người được nếm mùi vị quả ấy, thấy sung sướng ngon lành một cách siêu nhiên, nghĩa là trên thế gian chưa từng có, hương thơm tung tỏa, khắp không gian, qua mũi ai, họ thấy tính tình vui vẻ, gió hương ấy thổi tới đâu, làm cho muôn vật hớn hở xinh tươi, các cành lá đều phát ra những tiếng thuyết pháp, trong đại hội im phắc không một tiếng động để đón nghe những âm thanh dịu dàng hòa nhã, nghe vui không chán! Càng nghe càng cảm mến đạo mầu vô thượng, tất cả mọi người trong đại hội thấy sự biến hóa của cây này, tâm sinh tin kính ngôi Tam Bảo càng thêm khắng khít. Sau Phật giải đáp những nghĩa lý sâu huyền cho hợp với lý trí mọi người nên tất cả đều được hiểu ngộ, khi đó những người nhiệt tâm cầu Phật Pháp kết quả được sinh thiên, một số rất đông.
Ngày thứ hai, vua Ưu Điền thỉnh Phật cúng trai. Hôm ấy đức Phật hóa ra hai quả núi báu đứng hai bên, núi này toàn bằng vàng bạc trân bảo hợp lại thành năm sắc huy hoàng, coi rất đẹp đẽ, trên núi có những cây mọc thành từng hàng, hoa quả tốt tươi, trong núi phát ra những mùi thơm ngào ngạt, một trái núi trên đỉnh sinh ra thứ lúa tám cánh, lúa này là một thứ lúa quý nhất trong các lúa, nếu đem nấu cơm thì mềm dẻo hương vị thơm ngon; một trái, ở trên đỉnh có thứ cỏ mềm nhũn thơm tho, béo bổ, những loài súc sinh tới ăn, ăn rồi khí lực sung túc có ánh sánh, phát sinh trí tuệ, tâm tình hòa vui.
Tất cả mọi người thấy phát hiện hai trái núi lạ thường, và họ được ăn quả thấy an vui, thân thể cường tráng hết bệnh tật hết sầu não, nên họ một lòng tín ngưỡng ngôi Tam Bảo, đức Phật tùy theo căn cơ để diễn thuyết nghĩa lý cao diệu nhân quả luân hồi cho hợp với trình độ của họ, ai nấy trí óc khai sáng thấu rõ đạo mầu, phát tâm cầu đạo Bồ đề, kết quả sinh thiên một số rất đông.
Đến ngày thứ ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh Phật cúng dàng, buổi sáng sớm ông dâng Phật chén tịnh thủy, Ngài súc miệng rồi nhổ xuống đất, chốn đó tự nhiên thành một cái ao mỗi bề dài hai mươi dặm, quanh bờ ao thuần bằng ngọc thất bảo trộn lẫn nhau, các sắc phát ra chiếu sáng tưng bừng, nước đủ tám công đức, dưới lòng ao thuần cát thất bảo, trong ao có tám thứ hoa sen lớn như vành bánh xe, xanh, đỏ, trắng, hồng, tía, biếc đủ các sắc, lan tràn bốn mặt, ánh sáng của hoa tùy theo các sắc phát sinh, làm sáng choang trời đất.
Thấy thế tất cả đại chúng đều vui mừng và ca ngợi Phật có đức vô lượng vô biên.
Phật quan sát tâm niệm của từng cá nhân xong, Ngài tùy theo lý tưởng của mỗi người, để thuyết pháp, sau cuộc thuyết pháp này được rất nhiều người phát tâm cao thượng tăng phần phúc nghiệp, sinh thiên rất đông.
Đến ngày thứ tư, vua Nhân Đà Bà Di thỉnh Phật cúng dàng, ngày hôm ấy đức Phật làm cho nơi bảo địa đó, bốn mặt tự nhiên có tám dòng nước, sức chảy mạnh và xoáy kêu thành tiếng, phát ra những âm thanh mầu nhiệm thuần nói các pháp: “Ngũ Căn” “Ngũ Lực” “Lục Độ” “Thất Giác” “Bát Đạo” “Tam Minh” “Lục Thông” “Tứ Đẳng” “Đại Từ, Đại Bi”, mọi người nghe rồi đều được giác ngộ và quán triệt đạo lý, tăng phần phúc tuệ, kết quả sinh Thiên rất đông.
Ngày thứ năm, vua Phạm Ma Đạt thỉnh Phật cúng dàng, hôm ấy nơi miệng đức Phật phóng ra hào quang sắc vàng bao trùm khắp cõi đại thiên; hào quang ấy soi phải chúng sinh nào, thì “ba độc”, “năm ấm” của chúng sinh ấy tiêu tan, thần tâm an lạc, cũng như các vị Tỷ Khưu nhập đệ tam thiền. Khi đó mọi người đều vui vẻ tán thán kính mến đức Phật rất tha thiết. Sau khi nghe thuyết pháp xong ai nấy đều khai tỏ lý trí, phát đạo tâm, tiến tu phúc tuệ, một số khá nhiều.
Đến ngày thứ sáu, ông Luật Xương thỉnh Phật, hôm đó đức Phật làm cho tất cả mọi người trong đại hội tâm hiểu biết lẫn nhau, mỗi người đều có thể hiểu ý nghĩ của từng người, họ đang nghĩ thiện hay nghĩ ác, chí hướng hay hành nghiệp thế nào. Thấy thế ai cũng kính sợ Phật! Những sự mến mộ và vui mừng lại càng nồng nhiệt. Sau khi được nghe lời giảng của đức Phật, ai nấy sung sướng tâm trí mở mang, kết quả sinh Thiên cũng nhiều.
Ngày thứ bảy, ông Thích Chủng Bối thỉnh Phật. Hôm đó Phật dùng sức thần tức vô ngại, khiến cho mọi người trong hội tự thấy mình làm vua Chuyển Luân, có đủ cung điện, quan quân, ngọc nữ, thất bảo, lại thêm một ngàn người con, vua các quan văn võ đều đến triều phục nơi mình. Thấy thế ai cũng kinh hoảng ngơ ngác, không biết tại sao? Sau đó tự thấy như một giấc chiêm bao, ai cũng chứng tỏ do sức thần của Đức Phật hóa hiện, nên lại càng tăng phần tín hướng và phát tâm vô thượng Bồ Đề, kết quả sinh Thiên rất đông.
Đến ngày thứ tám, vua Đế Thích thỉnh Phật, ngày đó vua Đế Thích bày tòa sư tử trang trí nơi Phật ngự, thuần bằng bảo vật trên thiên cung hương trời, nhạc trời, các món ngon quý dâng Phật, một bầu không khí khác hẳn với trần gian.
Đức Phật và Tăng Chúng bước ra, theo sau có vua Đế Thích, vua Phạm Vương, các ông Thiên Tử, tiếp đến quan quân, dân chúng. Tới nơi Phật thăng tòa ngồi yên tĩnh, vua Đế Thích đứng hầu bên tả, vua Phạm Vương đứng hầu bên hữu tất cả đại chúng yên lặng, chờ đón đức Thế Tôn thuyết pháp và hiện thần biến cho xem, muôn ngàn triệu con mắt đều chiếu hướng đức Thế Tôn.
Đức Phật dung nhan như vầng nhật nguyệt, hào quang sáng chói tựa núi vàng, miệng tươi như hoa nở, cất lời nói âm thanh vang xa khắp thế giới đại thiên, muôn loại chúng sinh đều hiểu thấu.
Khi đó Ngài cất cánh tay vàng, vịn xuống tòa ngồi, tự nhiên có tiếng gầm lớn, vang động như sét đánh, mọi người đều giật mình run sợ! Ở dưới tòa sư tử của Ngài nhảy ra năm vị Đại Thần Quỷ nhìn như mặt sắt da đồng gầm tiếng như muôn sư tử thét, chạy xông lại kéo bọn Lục Sư xuống đất đạp tòa ngồi gẫy tan nát, tiếp đến Kim Cương mật Tích, tay cầm chày Kim Cương, trên đầu đầy lửa bốc lên vùn vụt, xông lại đánh bổ vào đầu Lục Sư.
Lục Sư hoảng hồn chạy tán loạn, vừa thẹn vừa nhục, bị thần Kim Cương đuổi, cùng đường, nên chúng đâm đầu xuống sông chết cả. Còn chín ức đồ chúng trở lại theo Phật cầu xin làm đệ tử. Thể theo lòng từ bi, Phật cũng dung thứ và thâu nhận.
Phật nói: – Thiện Lai Tỷ Khưu.
Nói xong, những người ấy rụng hết tóc, áo trên mình biến thành áo Cà Sa, biến thành các vị Sa Môn theo Phật tu hành, không bao lâu hết lậu nghiệp thành La Hán.
Ngày thứ chín, vua Phạm Thiên thỉnh Phật. Ngài hóa thân cao lớn tới cõi trời Phạm Thiên uy nghiêm hiển hách phóng hào quang sáng lớn, tưng bừng khắp cõi Đại Thiên thế giới, khi đó đại chúng ai ai cũng nghe thấy tiếng nói:
Phật vì tất cả chúng sinh, diễn thuyết pháp yếu, khiến cho đại đa số người phát tâm cầu Phật, kết quả sinh Thiên nhiều không kể xiết.
Ngày thứ mười, Tứ Thiên Vương thỉnh Phật. Lúc ấy đức Phật dùng phép Tam Muội vô ngại, khiến cho mọi người thân ấy đều phóng quang minh, và đương thuyết pháp cho đại chúng nghe.
Trong đại hội hiển nhiên tai nghe, mắt thấy những thần thông biến hóa vô ngại của đức Thế Tôn, ai nấy đều tha thiết tôn kính Ngài như đấng Cha Lành. Sau được nghe Ngài giải thích sự diệu dụng của tâm Chân Như vô ngại thể tánh bất diệt vô sinh của mỗi chúng sinh đều có, nên nhiều người giác ngộ dự vào hàng “Bất Thoái” còn những người đắc quả sinh Thiên rất đông.
Ngày thứ mười một, ông Tu Đạt thỉnh Phật. Hôm đó đức Phật đương ngồi trên tòa cao tự ẩn hình đi phóng quang minh sáng lòa trời đất, phát ra những tiếng dịu dàng, diễn thuyết phân minh các pháp yếu. Đại chúng nhiều người thấu tỏ đạo mầu, phát tâm vô thượng chứng ngôi A Duy Việt Chí, đắc quả sinh Thiên khá đông.
Ngày thứ mười hai, ông Cư Sĩ Chất Đà La thỉnh Phật cúng dàng. Ngày đó Phật nhập phép từ bi tam muội phóng quang minh sắc vàng, so khắp cõi đại thiên, hào quang ấy soi vào chúng sinh nào, thì chúng sinh ấy hết tâm “Tam độc” nảy tâm Từ bi, lại có con mắt “Bình đẳng”coi chúng sinh như cha như mẹ, như anh, như em, lòng yêu không thêm bớt, sau khi thuyết pháp nhiều người lên ngôi “Bất Thoái” và đắc quả sinh Thiên khá nhiều.
Ngày thứ mười ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh Phật. Khi Phật thăng tòa ngồi yên tĩnh, nơi rốn Ngài phóng ra hai tia hào quang tỏa ra hai bên, cách thân bảy “nhận” (tức 56 thước) trên đầu hào quang đều có hoa sen, trên hoa có đức Phật hóa hiện, hình tướng cũng như đức Phật Thích Ca, các đức Phật ấy nơi rốn cũng phóng hào quang tẻ ra hai bên cách bảy nhật, trên những tia hào quang đều có hoa sen, trên hoa sen có đức Phật hóa hiện, cứ như thế chuyển biến lan tràn khắp cõi đại thiên, ai coi thấy cũng ngạc nhiên, vừa sợ vừa mừng, trộn lẫn!
Lúc ấy đức Phật theo trình độ của từng người mà thuyết pháp nên nhiều người đắc quả sinh Thiên không kể xiết.
Ngày thứ mười bốn, vua Ưu Điền thỉnh Phật. Hôm đó ông ra sắc lệnh cho các hàng hương hoa phải đem các thứ hương tốt, hoa tươi, quý đẹp vào dâng.
Buổi sáng sớm Hoàng Đế Ưu Điền, Hoàng hậu hoàng phi thể nữ quan quân, âm nhạc ra thí tràng, nhìn thấy Phật ngồi tòa sư tử nghiễm nhiên như quả núi, hai mắt chiếu tinh quang, trông rất tôn nghiêm, ông và toàn thể gia đình cúi đầu lễ Phật rồi dâng hoa lên cúng dàng.
Phật nhiếp phép thần túc biến những hoa ấy thành một ngàn hai trăm năm mươi bảy cỗ xe quý đẹp cao tới cõi trời Phạm thiên sáng như mặt trăng đêm rằm các bảo vật có ánh sáng phản chiếu nhau tưng bừng rực rỡ, như thần châu, tràng anh lạc, trang nghiêm nơi xe ấy, vô cùng tráng lệ.
Trong các xe đều có các đức Phật ngồi, phóng quang minh bao phủ ba ngàn cõi.
Đại chúng coi thấy sức thần biến như thế, trong tâm vừa kính mến, vừa vui mừng pha trộn lẫn nhau.
Đức Phật thuyết pháp cũng như ông thầy thuốc tùy theo bệnh cho thuốc. Vì thế sau cuộc thuyết pháp, có rất nhiều người phát tâm hướng đạo, cũng có người được ngôi “Bất Thoái” kết quả sinh Thiên cũng nhiều.
Ngày thứ mười lăm, vua Bình Sa thỉnh Phật cúng dàng. Hôm đó Phật phán cho ông sửa soạn các món ăn. Theo lời Phật dạy nhà vua sai người bày rất nhiều chén bát và các đồ để chứa món ăn trên bàn, khi bày xong tự nhiên các chén bát đầy các món ăn ngon quý trên thiên cung, mùi cơm thơm ngào ngạt. Tất cả những người trong đại hội ăn cơm xong thân tâm dũng mãnh an vui.
Sau bữa ăn, đức Thế Tôn chỉ ngón tay xuống đất, ai ai cũng được nhìn thấy mười tám Địa Ngục, và thầy rất nhiều tội nhân, những tội nhân ấy, tự nói những tội ác của mình đã tạo đời trước, nên nay họ phải chịu tội khổ.
Thấy thế ai cũng thương hại và sợ hãi cho mình, nên thân thể đều run rẩy không yên!
Để cho mọi người chứng tỏ của sự ác báo, có cụ thể, rồi Ngài phân tách những tội lỗi đó cũng do từ nơi thân miệng ý gây nên, và Ngài vạch vẽ những lối thoát khổ, nên nhiều người phát tâm đại đạo, kết quả sinh Thiên rất nhiều.
Những tội nhân được thấy Phật và nghe thuyết pháp, họ tự phát sinh lòng tôn kính quay đầu về nơi Phật, thì những tội nhân ấy được sinh Thiên hoặc sinh làm người tất cả.
Tới đây vua Bình Sa đến trước đức Thế Tôn, năm thể gieo xuống đất, lễ xuống ba lần, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn, Ngài có ba mươi hai tướng tốt đẹp, chúng con chỉ được coi thấy tướng ở thân Ngài, hoặc ở tay Ngài, nhưng chưa từng bao giờ được nhìn thấy luân tướng ở gan bàn chân, vậy kính xin cho con và đại chúng ở đây được chiêm ngưỡng.
Theo lời cầu thỉnh của nhà vua, nên Phật ngửa hai bàn chân lên. Đại chúng nhìn thấy trang nghiêm nước da sáng suốt, những đường chỉ thẳng thắn phân minh, rành rẽ, càng xem càng mến! Nhà vua mừng bạch rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Chẳng hay đời quá khứ Ngài làm phước gì, được tướng đẹp này, cúi xin chỉ giáo?
Phật dạy: – Đại Vương nên biết, đời quá khứ ta tu thập thiện và đem thập thiện dạy cho người ta cùng tu, cho nên được luân tướng như thế!
– Kính lạy Ngài! Khi tu và dạy người nghe hãy như thế nào, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được biết.
Phật dạy: – Đại Vương muốn nghe hãy chú ý nghe kỹ: Cách đây vô số kiếp A Tăng Kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua nước lớn tên là Đà La Ni Di, thống trị tám mươi tư ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ lạc, một vạn quan Đại thần, hai vạn bà Phu nhân, nhưng không ai có con. Nhà vua lo tuyệt tự không người kế vị, nên thường hay cầu đạo ở miền Thiên Vương, được ít lâu bà Tu Lê Bà La là đệ nhất Phu nhân có thai, lòng nhân từ bác ái lại hay khuyên người làm lành. Mãn tháng khai hoa, sinh được Thái Tử tướng mạo khôi ngô tuấn tú, một vẻ trượng phu đầu phúc đức, những lỗ chân lông đều có ánh sáng.
Khi bà sanh được Thái Tử nhà vua vui vẻ khôn cùng! Triệu các thầy tướng đến coi. Các thầy tướng đều khen ngợi và nói:
– Tâu Bệ Hạ! Hoàng tử có đầy đủ phước đức oai nghi, sau này có thể trị an bốn bể, thiên hạ phải tùng phục, muôn phương kính nể.
Nghe tướng Sư nói, nhà vua rất hài lòng và nhờ đặt tên cho Thái tử.
Tướng Sư nói: – Tâu Bệ Hạ, trong khi hoài thai có điềm tướng gì lạ không?
Đáp: – Khi đó Hoàng hậu có trí tuệ thông sáng và nhân từ, lại hay khuyên người tu thiện, còn các điềm lành cũng rất nhiều, nhưng có hai điềm ấy lạ hơn.
Tướng sư nói: – Tâu Bệ Hạ! Cứ theo Hoàng hậu có trí tuệ, và Hoàng tử có ánh sáng nơi thân thể thì xin đặt Na Bà La Mãn (Tàu dịch: “Tuệ Quang”)
Quả nhiên Thái tử lớn lên có trí tuệ siêu nhân, tất cả các môn học thuyết đều thông hiểu, các danh nhân hiền triết trên thế giới đều bái phục, lực thông minh của Thái tử. Năm ấy Thái tử chưa đến tuổi trưởng thành, thì vua cha băng hà (chết).
Trong triều các quan và nội cung hoàng tộc làm lễ an táng vua xong. Giữa lúc ấy có đông đủ tám vạn bốn ngàn vua nước nhỏ và triều thần văn võ bản quốc hội họp, bầu Thái tử lên kế vị đại Quốc vương. Thái tử nói:
– Kính thưa các Quốc vương quý quốc và văn võ bá quan, bản triều tôi thực không có năng lực đảm đương đại sự, xin suy tôn các vị có tài đức trị dân!
Các quan đều thưa:
– Thưa Thái tử, đại vương đã qua đời, chỉ sinh được mình Thái tử anh em không có một ai, nếu Thái tử không chịu ra chấp chính bây giờ nhường ai? Ai là người đương nổi?
Thái tử đáp: – Tôi nhận thấy trên đời lắm kẻ tàn ác, nếu ra lệnh hành phạt họ, thì tội ấy không phải nhỏ, nếu các Ngài trị dân chúng dùng chánh pháp và bắt dân tu theo pháp thập thiện thì tôi sẽ nhận chức bảo lãnh việc nước!
Các quan nói:
– Thưa Thái Tử! Xin Thái tử thăng điện nhậm chức!
Theo lời nói, Thái tử thăng điện nhậm chức.
Sau ngày Thái Tử lên làm vua, sửa sang việc nước rất có chánh thể ích quốc lợi dân, bãi bỏ hủ tục mê tín cờ bạc, mãi dâm, hút xách, rượu chè, và bắt dân phải thực hành tu theo thập thiện. Thái tử có đức lớn, lòng từ bi cứu thế cảm động trời đất nên muôn dân vui vẻ tuân theo tu thập thiện, cải tà quy chính, đổi ác làm lành.
Khi đó Ma Vương thấy nhà vua bắt dân tu thiện, lòng đố kỵ nổi giận dùng mưu phá chánh sách tu thiện của muôn dân, chúng muốn cho dân làm nô lệ chết sa vào tam ác đạo, thực là đại ác nham hiểm vô cùng. Chúng mật làm một phong thơ báo cáo cho vua các nước để phá hoại sự giáo hóa tu thập thiện của nhà vua. Thư nói:
“Trước đây tôi có sắc lệnh cho nhân dân tu theo pháp thập thiện nhưng xét ra không được lợi ích gì! Chỉ luống công đau khổ thôi! Thực là một việc không có kết quả cho nhân sinh. Vậy từ nay trở đi cho muôn dân làm mười điều ác, các ông không được cử phạt”
Vua các nước tiếp được lá thơ ấy, lấy làm kỳ dị quá nói:
– Tờ chiếu chỉ của đại quốc vương không biết tại duyên gì bắt dân bỏ điều lành làm điều ác.
Sau các ông vua đều cho sứ thần đến hỏi nguyên ủy của bức thơ.
Khi nhà vua nghe thấy nói có tờ chiếu chỉ do chính mình hạ lệnh bắt dân bỏ thiện làm ác, ngạc nhiên nói:
– Ta tuyệt nhiên không có sắc lệnh như thế, tại sao có tờ chiếu chỉ này.
Lập tức nhà vua và các quan đại thần bản triều lên xe đi các nước, quả nhiên đã thấy nhân dân làm ác, đổi lệnh cũ, theo lệnh mới.
Ma Vương thấy nhà vua đi trên đường lớn tự hóa làm người, đứng giữa đống lửa cháy ở bên lề, kêu khóc thảm thiết, nhà vua đến tận nơi hỏi:
– Tại sao ngươi khóc?
– Tâu Bệ Hạ! Tôi lúc tiền sinh hay khuyên người tu thập thiện nên ngày nay bị quả báo thống khổ như vậy!
Nhà vua nói: – Sao lại có chuyện người tu thiện, mình phải chịu đau khổ?
Nhà vua hỏi tiếp:
– Thế! Anh khuyên người tu thập thiện; mà anh phải đau khổ, thì những người được anh khuyên tu kia có được phước lành gì không?
Đáp: – Tâu Bệ Hạ, những người đó được phước nhiều lắm! Chỉ vì dạy người tu thập thiện nên riêng mình phải chịu quả báo đau khổ, lửa đốt suốt ngày đêm như vầy.
Đây là Ma Vương muốn làm thoái tâm khuyến tu thập thiện của nhà vua, trái lại nhà vua nghe xong rất vui vẻ đáp rằng:
Vâng! Phải lắm tốt lắm! Cốt sao cho chúng sinh hết đau khổ tội lỗi, được phước báu nhiều, còn mình chịu khổ có hận chi!
Ma Vương thấy nhà vua không thoái tâm, liền ẩn hình biến mất rồi đi khắp các nước để tuyên truyền cho dân tu thập thiện. Từ đó nhân dân đều tu theo pháp thập thiện giữ gìn thân, khẩu, ý, ba nghiệp hoàn toàn, chánh pháp lan tràn khắp thiên hạ, tất cả nhân dân tòng phúc, nên đức của nhà vua mỗi ngày một lớn, vì phúc lành ấy xe kim luân và thất bảo tự nhiên hiển xuất, nhà vua bay đi giáo hóa khắp thiên hạ; Nhưng bao giờ nhà vua cũng lấy pháp thập thiện làm đích để chỉ đạo.
Tôi đây Phật nhắc lại cho vua biết rằng:
– Đai Vương! Vua Thi Đà Ni Di thuở đó tức là Phụ vương của ta bây giờ (vua Tịnh Phạn), bà Phu nhân sanh Thái tử lúc đó chính là thân mẫu của ta ngày nay, vua Tuệ Quang dạy dân tu thập thiện là tiền thân của ta. Cũng do đời ấy ta tự tu thập thiện và khuyên dân tu thiện nên nay được phước báu nơi gan bàn chân có ánh quang minh, và ngàn hoa tươi thắm như vậy.
Khi đó vua Bình Sa tới trước lễ Phật quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư mê muội quá! Không biết lượng sức mình, vì lòng tham danh trục lợi, đem tâm ghen ghét, đòi thi thần thông với Ngài, chúng tự nói: Phật làm được một phần, chúng sẽ làm được hai. Sau khi bị sức thần thông của Thế Tôn làm trấn át, chúng hết thế lực tẩu thoát, cùng đường đâm đầu xuống sông tự tử, còn đồ đệ chạy tán loạn tự chúng gây nên tai nạn muôn đời, con nghĩ lũ mê cuồng ấy không biết căn duyên tại sao, xin Thế Tôn chỉ giáo?
Phật đáp: – Đại Vương! Nên biết bọn Lục Sư chẳng những ngày nay tranh lợi tranh danh với ta, mất thân mạng thế đâu! Đời quá khứ chúng đã tranh với Ta một lần, nhưng đều bị thất bại. Ta lại đoạt được cả đồ đảng của chúng nữa.
Vua Bình Sa lại bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Việc đó thế nào cúi xin chỉ giáo?
Phật dạy: – Đại vương hãy để ý nghe, trước đây đời quá khứ vô lượng vô số kiếp A Tăng Kỳ cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua tên là Ma Ha Xa Cừu Lợi, thống trị năm trăm nước nhỏ, vua có năm trăm phu nhân nhưng chưa bà nào có con trai. Vua tự nghĩ rằng: “Tuổi ta đã cao lại không có con để nối quốc vị, một sớm băng hà lấy ai để bảo tồn chính thể của quốc gia biết giao phó cho ai? Tất nhiên trong nước có sự tranh giành tàn sát lẫn nhau nhân dân sẽ bị nguy ngập.
Nghĩ thế rồi chưa biết giải quyết ra sao? Nên lúc nào ông cũng buồn!
Vua Đế Thích trên thiên cung biết ý nghĩ của nhà vua như thế, liền từ trên trời bay xuống hóa làm một ông thầy thuốc đến vương cung xin vào yết kiến vua, và hỏi ngay ý nghĩ lo buồn của nhà vua. Nhà vua cũng đem ý nghĩ của mình như trên nói cho ông rõ.
Ông trả lời rằng:
– Xin Bệ Hạ chớ lo! Để tôi đi vào núi tuyết lấy các vị thuốc cho các phu nhân của Bệ Hạ uống thì sẽ có thai.
Nhà vua nghe nói tâm buồn đã nguôi nguôi, và bảo thầy thuốc rằng:
– Thưa Ngài nếu được như thế thì còn gì hay hơn nữa.
Thầy thuốc từ biệt lên đường vào núi, cách ít ngày lấy được rất nhiều dược thảo đem về dâng vua, bạch rằng:
Nói rồi vái chào ra về, vua hỏi:
– Thưa Ngài, thuốc này sẽ lấy bao nhiêu tiền?
Đáp: – Tâu Bệ Hạ, đây tôi xin giúp Bệ Hạ chứ không lấy tiền.
Nói xong ẩn hình biến mất, nhà vua thầm nghĩ: “Người này là thần nhân ủng hộ có lẽ hay lắm, rất có kết qủa cho ta”.
Sau khi Đế Thích về, nhà vua sai người lấy sữa nấu lẫn với thuốc, dâng bà Đệ nhất Phu nhân uống. Song bà chê bẩn và không tin, nên không chịu uống thuốc đó, các bà Tiểu Phu nhân chia nhau uống hết quả nhiên được ít lâu các bà ấy đều có thai, và đem sự kết quả uống thuốc nói cho bà lớn biết. Bà lớn có ý hối hận hỏi:
– Thuộc ấy có còn thừa chút nào không?
Các bà đáp: – Thưa bà! Hết cả!
– Vậy các được thảo có còn không?
Các bà đáp: – Thưa bà hãy còn một ít!
Bà Đại Phu nhân sai người lấy sữa nấu thuốc dùng được ít lâu thấy có thai, bà vui mừng thầm trong dạ và cũng không nói cho các bà biết.
Các bà Tiểu Phu nhân đầy tháng đều sinh con trai, nhân tướng khôi ngô tuấn tú, nhà rất sung sướng, vì các bà đã sinh được nhiều quý tử. Nhưng vua vẫn áy náy trong lòng, là vì Đại Phu nhân chưa có con!
Một thời gian sau trăng tròn nguyệt mãn, bà Đại Phu nhân sinh được cậu con trai, nhưng rất buồn thay cho bà, cậu con trai của bà xấu quá, mặt mũi xù xì hình như quỷ sứ. Buồn quá! Đặt lên là Đa La Hầu Đà (Tàu dịch “Chu Ngột”), Hoàng hậu giao cho người vú nuôi nấng ở một nơi và không cho ai biết.
Từ đấy trở đi trong nước vẫn được thanh bình, nhân dân an lạc, sau khi các Thái Tử nhà vua đều cưới vợ cho cả, duy Chu Ngột xấu quá nên nhà vua không để ý tới.
Bấy giờ nước bên cạnh có sự bất bình với vua Ma Ha Xa Cừu Lợi, mang binh tiến sang để khởi chiến, năm trăm Vương Tử mang quân ra chống cự, song bị thất bại chạy về.
Chu Ngột thấy thế hỏi:
– Hôm nay các anh ra chiến đấu thắng hay bại, coi có vẻ sợ hãi thế?
Đáp: – Hôm nay chiến đấu bất lợi, bị giặc đuổi lui!
Chu Ngột nói: – Các anh chớ lo, tôi sẽ đánh đuổi cho bằng hết, tổ tiên chúng ta trước làm Chuyển Luân Thánh Vương còn để lại trong Thiên Tự một cái cung lớn và một cái bối, tôi sẽ dùng hai bảo vật ấy đuổi giặc thành công. Chu Ngột vào Thiên Tự lấy cung và bối đem ra giương thử, tiếng kêu như sấm, vang xa bốn mươi dặm. Rồi một mình ra đi, khi tới chỗ giặc đóng quân, Chu Ngột cầm bối thổi tiếng kêu như sét đánh, giặc nghe sợ kinh hồn chạy tán loạn; như vậy không cần phải đánh cũng tan. Khi dẹp yên được địch quân xong, trở về nhà, vua và quần thần văn võ bá quan ra đón chào về cung, từ đó mới được sự yêu đãi của Vương phụ.
Sau cuộc ăn mừng đuổi giặc nhà vua nghĩ đến sự kết hôn cho Thái Tử, nhưng cũng khó, là vì Thái tử xấu quá.
Thời đó có ông vua nước láng giềng tên là Luật Sư Bạt Ta, có người Công Chúa xinh đẹp nhưng chưa lấy chồng.
Một hôm nhà vua gọi quan đại thần vào nói rằng:
– Vua Luật Sư Bạt Ta có một Công Chúa nghe biết chưa lấy chồng, ta muốn nhờ ngươi sang xin đẹp duyên cùng Thái Tử Chu Ngột, nhà vua có hỏi đến tướng mạo của Thái Tử thì người coi tướng anh của Thái Tử mà diễn tả bộ dạng cho biết.
Đại thần vâng lệnh ra đi, sang tới nơi lên tâu vua rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Tôi là sứ thần của vua Ma Ha Xa Cừu Lợi vâng lệnh sang đây, xin Bệ Hạ cho Thái Tử Chu Ngột được làm Phò Mã của ngài.
Nhà vua hỏi: – Thái tử bao nhiêu tuổi? Hình dáng ra sao? Học vấn thế nào?
Đáp: – Thái tử năm nay tuổi vừa đôi tám, tướng người đẹp đẽ, sức lực hùng mạnh, trí óc thông minh.
Nhà vua gật đầu nói: – Nhà ngươi về tâu vua: Ta đồng ý gả Công Chúa cho Thái Tử. Đại thần về tâu vua sự thỏa thuận của Quốc Vương láng giềng hứa gả Công Chúa cho Thái Tử, vua rất hoan hỷ! Sai người sửa soạn lễ vật đính lễ nghinh hôn, cuộc lễ này cũng rất buồn cười: Là vì chú rể mượn!
Khi về đến hoàng cung yến tiệc rất linh đình, mọi người vui vẻ ca hát mừng đôi loan phượng. Nhưng có một điểm là Công Chúa khi về tới hoàng cung không nhìn thấy mặt chồng.
Nhà vua dặn Chu Ngột ban ngày chớ để vợ nhìn thấy mặt.
Theo lời Vương Phụ dặn, cứ tối khuya im lặng. Chu Ngột mới đến để vui thú cùng vợ…
Chu Ngột đến, Công Chúa hỏi:
– Lúc ban ngày anh đi đâu không thấy?
Đáp: – Ban ngày anh phải đem quân ra trấn các cửa ải, hồi này nước ngoài luôn luôn đem binh sang xâm lược nước nhà, anh đều đẩy lui được bọn chúng, nên mới có trọng thưởng của nhà vua.
Công Chúa hỏi: – Anh được trọng thưởng những bảo vật gì?
– Trộng thưởng thứ nhất là được em, ngoài ra thì không đáng kể.
Công Chúa nghe nói rất hân hạnh vui dạ!
Một buổi nọ vợ các vương tử hội họp với nhau, cô nào cũng khoe tài đức của chồng mình có lực hùng mạnh, tươi đẹp, có công đuổi giặc dẹp nước yên dân, có thiếu phụ khác lắc đầu lè lưỡi nói:
Thôi cô đừng nên nói nữa, chồng cô xấu lắm, người chẳng khác, phải quỷ thì không, ban ngày nếu cô nhìn thấy, cô sẽ thất kinh hoảng hồn.
Vợ Chu Ngột nghe nói khí sắc biến đổi, vừa nhục vừa thẹn. Nhưng cố nhẫn lẳng lặng ghi lại tâm. Trở về tư thất giấu đi một cái nến để nơi kín, chờ tối chồng đến an nghỉ xong, cô đưa nến soi xem mặt, quả nhiên thấy hình tướng đáng sợ hãi thật, xấu thật, thực là trên đời chưa có một ai xấu đến như vậy! Cô chờ chồng ngủ mệt, giữa đêm khuya thanh vắng ra xe trở về nước nhà.
Trời vừa tảng sáng, Chu Ngột thức giấc không thấy vợ; chạy trước nhìn sau tuyệt nhiên không thấy ảnh bóng một ai, biết đích vợ mình đã bỏ đi; trong lòng buồn tức, giận đâu nổi lên, ầm ầm vác cung cầm bối lên ngựa đuổi theo không kịp. Khi tới nước kia nghi trọ tại một nhà ông quan bên đó.
Thời ấy có sáu ông vua nước bên cạnh, biết vua Luật Sư Bạt Ta có người con gái đẹp, hay tin cô đã trở về nước, nên sáu ông đồng thời tiến quân sang biên thùy, đưa thư cho vua xin cầu hôn.
Vua Luật Sư Bạt Ta rất phiền não, trong lòng bối rối, vì không biết giải quyết thế nào? Nên nhà vua cho triệu tập tất cả các triều thần văn võ bá quan lại thảo luận.
Luật Sư Bạt Ta nói:
– Công Chúa hiện đã về tới bản quốc, tôi vừa mới tiếp được sáu phong thư của sáu quý quốc, xin đính hôn cùng Công Chúa, nếu cho một ông thì đối năm ông kia làm thế nào cho khỏi gây lòng oán hận, giờ đây bá quan giải quyết thế nào cho đẹp lòng cả thì hơn?
Có một ông quan đứng lên thưa rằng:
– Tâu Bệ Hạ đem phanh công chúa ra làm sáu phần, chia cho mỗi người một phần thì việc đó sẽ yên.
Lại có một ông đứng lên thưa rằng:
– Tâu Bệ Hạ bây giờ hãy ra một tờ cáo thị như sau: Nếu ai có tài đánh đuổi được quân giặc thì sẽ gả Công Chúavà chia nước cho một nữa, ngoài ra còn ân thưởng rất nhiều.
Vua đồng ý viết bảng cáo thị.
Đa La Hầu Đà (Chu Ngột) nghe biết giật bảng cáo thị, mang cung cầm bối xuất trận, thổi còi giương cung bắn, các quan quân của sáu ông vua đều kinh khủng chạy tán loạn mất cả. Chu Ngột tiến vào hạ thủ sáu ông vua, thu bắt rất nhiều binh nhung sĩ chúng.
Vua Luật Sư Bạt Ta hay tin Chu Ngột đã chiến thắng, thân ngự ra ngoài thành đón tiếp, và biết rằng: Chính Chu Ngột con vua Ma Ha Xa Cừu Lợi, anh hùng đã nổi tiếng, hơn nữa lại là con rể của ngài, nhà vua rất hoan hỷ.
Sau khi về hoàng thành xong cuộc yến tiệc ăn mừng thắng trận, nhà vua và bá quan suy tôn Chu Ngột làm Đại Vương thống trị bảy nước.
Chu Ngột thăng điện nhậm chức bảo lãnh chánh quyền, đặt lại các việc triều chính, sửa đổi chính sách, mở mang văn hóa, đặt các lễ nghi theo chánh giáo, dạy dân có đạo đức, phế bỏ hủ tục, và những tà thuyết mị dân, xếp đặt các công việc xong xuôi rồi cùng vợ kép quân về nước.
Hay tin Thái Tử Chu Ngột về nước, nhà vua và các quan quân thân ra ngoài biên cương đón. Khi về tới hoàng cung, nhà vua biết Chu Ngột có đủ tài đức, nên cất làm Đại Vương. Chu Ngột không chịu tâu rằng:
– Muôn tâu Vương Phụ! Xin ở tại ngôi, việc ấy sẽ chưa nên.
Nhà vua cũng phải chiều theo ý định của Thái Tử, xong cuộc vui mừng này, quan quân đều giải tán đâu về đấy.
Chu Ngột Thái Tử đưa vợ về cung an nghỉ, lúc đó trách vợ ăn ở bạc tình, có ý phàn nàn không thật làm giao kết lương duyên, trăm năm trọn đạo!
Công Chúa thưa rằng:
– Thưa Thái Tử! Vì Thá Tử xấu quá, coi dữ dằn quá em rất kinh và hình như không giống người nên em mạn phép ra đi.
Chu Ngột lấy gương soi thấy mình quả nhiên xấu thật, sự thật không khác gì quỷ, tự nghĩ rằng:
– Mình vị thân hình xấu ác, không sống với vợ, để vợ sợ hãi cũng không nên.
Tự phát tâm chán ghét không muốn có thân ấy nữa, ra nơi rừng xanh để tự sát, khi sắp buộc dây treo lên cành cây, vua Đế Thích ở xa ngó thấy liền bay đến tận nơi hỏi.
Chu Ngột đáp: – Tôi bị thân hình xấu quá nên muốn tự sát ở nơi đây.
Vua Đế Thích khuyên can đem cho hạt ngọc minh châu dặn rằng:
– Xin dâng tặng Ngài hạt ngọc minh châu này để trên đầu, sẽ được thân hình đoan chính tươi đẹp như tôi.
Chu Ngột cảm tạ nhận lấy bạt châu để trên đỉnh đầu, quả nhiên thân thể đổi xấu thành đẹp.
Khi trở về nhà, không bảo cho vợ hay, đi luôn vào bảo tàng lấy cung và bối. Công Chúa thấy chàng thanh niên tươi trẻ tự do vào lấy cung và bối, ngạc nhiên hỏi:
– Anh là người nào dám tự tiện vào lấy cung của chồng tôi?
Chu Ngột mỉm cười đáp: – Anh là chồng của em đây!
Công Chúa nói: – Anh này điên dở, chồng ta lẽ ta không biết sao? Anh là kẻ nào dám vô lễ tự xưng là chồng ta?
Chu Ngột cười nấc cười nở đưa tay lên đầu lấy hạt minh châu xuống, hiện lại nguyên hình xấu, thấy sự biến chuyển lạ, Công Chúa nửa mừng nửa lo hỏi tiếp:
– Tại sao có sự lạ như vậy, xin nói cho tôi rõ?
Chu Ngột nói rõ câu chuyện được hạt minh châu cho Công Chúa xem, Công Chúa vui mừng tin thực.
Từ đó vợ chồng yêu nhau không có sự ngang trái nữa, và bỏ tên Chu Ngột đổi là Tu Đà La Phiến.
Sau một thời gian Tu Đà La Phiến muốn xây cất một thành trì lớn, tìm nơi đất bằng phẳng cao mát rộng rãi, sắc lệnh cho nhân dân kiến lập tại đó.
Khi đó bốn ông Long Vương hóa hình làm người, lại tâu vua rằng:
– Tâu Bệ Hạ, nghe biết Bệ Hạ muốn xây thành, vậy dùng vật gì để làm?
Nhà vua đáp:
– Tôi làm bằng đất!
Long Vương thưa: – Sao ngài không dùng thất bảo mà kiến thiết?
Đáp: – Thất bảo là thứ quý giá nhất, và ít ỏi nhất, thành lớn, quý ngài tính lấy đâu mà được?
Long Vương thưa: – Tâu Bệ Hạ! Để chúng tôi xin cung cấp đủ cho ngài làm!
Long Vương nói xong, ngay bốn bên khu vực đất ấy, biến thành bốn cái suối lớn. Long Vương chỉ vào bốn cái suối ấy thưa rằng:
– Bệ Hạ dùng nước suối phương Đông xây cất, thì thành này hóa ra ngọc lưu ly; dùng nước suối phương Nam xây cất, thì thành này hóa ra vàng; dùng nước suối phương Tây xây cất, thì thành này hóa ra bạc; dùng nước suối phương Bắc xây cất, thì thành này hóa ra pha lê.
Nhà vua nghe nói, cảm tạ Long Vương. Bắt đầu xây cất, quả nhiên lời nói của Long Vương là đúng.
Thành ấy quy vuông bốn trăm dặm, trong thành làm các cung điện lầu các; mỗi cung quy vuông bốn mươi dặm: Cung điện, đường đi, nhà lớn, nhà nhỏ, rừng cây, ao tắm, trường thành, thuần bằng ngọc lưu ly, pha lê, vàng, bạc, cực kỳ trang nghiêm đẹp đẽ, chẳng khác Thiên Cung. Ngày hoàn thành này được bãy thứ báu ngọc tự nhiên đầy kho đụn. Tu Đà La Phiến ngự trị thành này, từ đó bắt đầu dạy dân tu theo mười điều lành (Thập Thiện).
Nói tới đây, Phật nhắc cho vua Bình Sa biết rằng:
Bình Sa! Ông nên biết vua Ma Ha Xa Cừu Lợi thuở đó hiện nay là Vương Phụ của ta (Tịnh Phạn Vương), bà mẹ sinh Chu Ngột thuở đó nay là Thân Mẫu của ta (Ma Da Phu nhân). Vương Tử xấu (Chu Ngột) thuở đó chính là tiền thân ta, vợ Vương Tử xấu lúc đó chính là Cù Di ngày nay; ông thân của vợ Vương Tử lúc đó ngày nay là ông Ma Ha Ca Diếp. Sáu ông vua lúc ấy dùng binh sĩ áp bức để lấy Công Chúa của vua Luật Sư Bạt Ta, chính là Lục Sư bây giờ.
Thời ấy bọn ông ấy đã tranh sắc thanh tài với ta, bị thất bại; ngày nay cũng do lòng tham danh trục lợi, đòi đấu sức thần thông, không đủ lực chống đỡ, cùng đường đâm đầu xuống sông tự sát, còn chín ức đồ chúng quay về theo ta làm đệ tử.
Vua Bình Sa lại bạch Phật:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Thái Tử Chu Ngột đời trước trồng nhân lành gì được sinh làm con vua, có sức lực hùng mạnh và tại sao bị thân thể xấu, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được rõ.
Phật nói:
– Đó là một nhân duyên từ đơi蠱uá khứ, tới nay đã vô lượng kiếp không thể tính được, cũng Châu Diêm Phù Đề có một nước lớn tên Ba La Nại, nước ấy có một ông tiên, tu trong núi tên là Luật Sư. Trong núi ông tiên ấy có một vị Bích Chi Phật, người bị chứng bệnh phong, một hôm ngài đến nhà hàng dầu, xin dầu muốn để trị bịnh. Người chủ nhà hàng dầu phát lòng nóng giận lớn tiếng la mắng nói:
– Đầu anh như Chu Ngột (gốc cây cụt), như cục gỗ, tay chân phê tởm, khờ khờ khoạng khoạng chỉ rình ròm xin người không đem tiền mua chỉ muốn lấy không?
Tuy nói thế nhưng anh hàng dầu cũng cho một chút dầu cặn, song Ngài cũng không buồn giận gì lời nói lỗ mãng ấy, vẫn thản nhiên lấy dầu. Khi ra khỏi nhà gặp vợ ông hàng dầu về, bà ta bả lả hỏi han, một vẻ kính trọng nói:
– Khoái Sĩ từ đâu tới đây, dùng dầu cặn làm gì?
Đáp: – Tôi dùng để chữa bịnh phong.
– Thưa Ngài xin trở lại để con xin dâng cúng thứ dầu tốt!
Ngài cũng hoan hỷ đi. Tớn nhà, bà dâng một chén dầu trong trẻo, dâng rồi la chồng rằng:
– Anh thật không hiểu biết chi cả, tại sao anh lại cúng Ngài dầu cặn, anh phải sám hối Ngài cho khỏi cái tội của miệng anh.
Ông hàng dầu này cũng có thiện tâm, hối hận trong lòng ra xin lỗi, Ngài cũng hoan hỷ. Khi đó hai vợ chồng đều thưa với Ngài rằng:
– Thưa Ngài: Vợ chồng con xin nguyện chung thân cúng dàng, ngài muốn dùng gì xin cứ lại đây chúng con dâng.
Từ đó vị Bích Chi Phật hằng ngày lại lấy các món ăn dùng và dầu.
Trước khi vào Niết Bàn, nhân cảm cái ơn ấy vị Bích Chi Phật hiện ra mười tám phép thần túc cho vợ chồng hàng dầu biết.
Bay trên hư không, trong mình phun ra nước, dưới mình hóa ra lửa, thân thể khi phân khi hợp, hiện biến rất nhiều phép lạ.
Vợ chồng hàng dầu thấy thế, biết rằng Ngài đã đắc đạo vui mừng khôn xiết, tự hận mình có lỗi nên bảo vợ rằng:
– Em hoan hỷ cúng dàng Ngài, tương lai sẽ được nhờ phúc báo thì cho tôi chung hưởng và cùng làm vợ chồng như nay nhé!
Đáp: – Anh đối với Ngài tệ ác và cúng dầu cặn, sau này có sinh nơi nào, dĩ nhiên phải chịu quả báo xấu, thì làm sao kết duyên cùng anh được?
Chồng nói: – Tôi cũng chịu sự cực khổ làm ăn, của là của chung, đâu có phải một mình em làm ra được, mà nói: không cho chung và không cho làm vợ chồng. Nghĩa là phúc là phúc chung, đâu phải một mình em hưởng được.
– Vâng! Nếu kiếp sau tôi có phải làm vợ anh đi chăng nữa, nếu anh xấu đêm tôi sẽ bỏ anh tôi đi!
– Nếu em đi anh sẽ đuổi cho bằng được!
Hai vợ chồng nói xong, rồi hứơng lên vị Bích Chi Phật thành tâm sám hối.
Khi đó Ngài bảo rằng:
– Do sự cúng dàng dầu của vợ chồn anh, nên ta được khỏi bịnh, muốn cầu nguyện gì ta cho tùy ý.
Hai vợ chồng hoan hỷ quỳ thẳng chắp tay phát nguyện rằng:
– Kính xin Tôn giả, nguyện cho vợ chồng con trên trời hoặc nhân gian, sinh chốn nào cũng được tôn sang phúc tuệ đầy đủ, muốn gì cũng được toại ý.
Tới đây, Phật nhắc lại cho vua Bình Sa biết rằng:
Nhà vua nên biết: Người hàng dầu thuở đó chính là Chu Ngột, vợ của hàng dầu chính là vợ của Chu Ngột thời ấy, thuở đó ông hàng dầu mắng vị Bích Chi Phật thân người xấu như Chu Ngột (gốc cây tre cụt) và tay như cái trục, lúc cho dầu có sắc giận tức. Vì thế nên bị quả báo xấu, cũng theo đúng như khi phát lời nói mắng vị Bích Chi Phật không khác, sau biết ăn năn sám hối vui vẻ cúng dầu tốt, cho nên sinh xứ nào cũng được tốt đẹp; cũng do sự cúng dầu nên được nhiều sức khỏe, ngàn muôn người không địch nổi, hơn nữa lại còn được làm Chuyển Luân Vương, hưởng phúc bốn cõi, năm món dục đầy đủ thụ dụng. Thiện nghiệp hay ác nghiệp, báo ứng không sai thù, vì thế tất cả chúng sinh phải nên giữ đạo làm thiết yếu, cẩn thận nơi thân miệng, ý chớ nên dùng nó mà tạo những điều xấu ác!
Phật nói xong vua Bình Sa và tất cả vua, quan dân chúng các nước với bốn bộ đệ tử, trời rồng, quỷ thần có người chứng quỉ thần, có người chứng quả Tu Đa Hoàn, người được quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm; cho đến quả A La Hán, cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm Bồ Đề cho đến ngôi Bất Thoái, tất cả đều hoan hỷ lễ kính dưới chân Phật mà lui.